Tải bản đầy đủ (.doc) (218 trang)

Tài liệu bồi dưỡng chức danh công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (850.95 KB, 218 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIÊN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

TÀI LIỆU
BỒI DƯỠNG CHỨC DANH
CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT
VÀ KỶ LUẬT ĐẢNG

HÀ NỘI, THÁNG 6 NĂM 2017


MỤC LỤC
Trang
Bài 1: Một số vấn đề về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
3
Bài 2: Kỷ luật Đảng và việc thi hành kỷ luật trong Đảng
21
Bài 3: Tổ chức bộ máy UBKT và xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra
47
Bài 4: Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi
73
phạm
Bài 5: Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,

86

giám sát và việc thi hành kỷ luật Đảng
Bài 6: Ủy ban kiểm tra giám sát cấp ủy viên cùng cấp và cán bộ diện

100


cấp ủy cúng cấp quản lý và tổ chức đảng cấp dưới
Bài 7: Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết

108

khiếu nại kỷ luật Đảng.
Bài 8: Kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và cơ quan tài chính cấp

126

ủy cùng cấp
Bài 9: Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật

147

Đảng
Bài 10: Những yếu tố tâm lý trong công tác kiểm tra, giám sát của

164

Đảng
Bài 11: Soạn thảo văn bản, lập và lưu trữ hồ sở của UBKT các cấp

180

2


MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ
CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG

I. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG, NGUYÊN TẮC, HÌNH THỨC KIỂM TRA, GIÁM
SÁT CỦA ĐẢNG

1. Khái niệm, đặc trưng công tác kiểm tra và giám sát của Đảng
a. Khái niệm
Công tác kiểm tra của Đảng là việc các tổ chức đảng xem xét, đánh giá,
kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của cấp ủy, tổ chức đảng cấp
dưới và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ
trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Công tác giám sát của Đảng là việc tổ chức đảng theo dõi, xem xét,
đánh giá hoạt động nhằm kịp thời tác động để cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và
đảng viên được giám sát chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, qui định của Đảng.
Từ các khái niệm trên cho thấy:
* Chủ thể kiểm tra, giám sát của Đảng là:
- Chi bộ (chi bộ cơ sở, chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở, chi bộ trực thuộc
đảng ủy bộ phận), đảng ủy bộ phận, đảng ủy cơ sở.
- Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên;
- Ủy ban kiểm tra các cấp;
- Cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy (các ban đảng, văn phòng cấp ủy,
cơ quan ủy ban kiểm tra).
- Ban cán sự đảng, đảng đoàn (lãnh đạo công tác kiểm tra).
* Đối tượng kiểm tra, giám sát của Đảng là:
- Chi bộ, đảng ủy bộ phận, đảng ủy cơ sở;
- Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên;
- Ủy ban kiểm tra các cấp;
- Các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy;
3



- Ban cán sự đảng, đảng đoàn;
- Đảng viên.
* Nội dung kiểm tra là: Việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
* Nội dung giám sát là: Việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, qui định của Đảng.
b. Đặc trưng
* Đặc trưng công tác kiểm tra:
- Công tác kiểm tra của Đảng là hoạt động trong nội bộ đảng, vì vậy
phải thực hiện theo qui định của Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, các qui định,
hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương, của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về
công tác kiểm tra.
- Kiểm tra của Đảng là xem xét, đánh giá, kết luận những ưu, khuyết
điểm của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong việc chấp hành
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các qui
định của Trung ương, pháp luật của Nhà nước đối với tổ chức đảng và đảng
viên; vì vậy, phải được thực hiện đúng nguyên tắc, phương pháp công tác đảng,
theo qui trình, thủ tục do Trung ương qui định.
- Mục đích của kiểm tra là để giáo dục, rèn luyện, làm cho tổ chức đảng,
đảng viên thực sự trong sạch, vững mạnh. Khi tiến hành công tác kiểm tra phải
chỉ rõ được những ưu điểm để phát huy, phát hiện các nhân tố mới, điển hình,
tiên tiến để phổ biến, nhân rộng; chỉ ra được khuyết điểm, yếu kém để khắc
phục, sửa chữa. Vì vậy, công tác kiểm tra phải được tiến hành thường xuyên,
không để đến khi có vi phạm mới kiểm tra; khi phát hiện có vi phạm phải xử lý
kịp thời, đến mức phải kỷ luật thì phải kỷ luật nghiêm minh, kể cả những sai
phạm trước đây nay mới phát hiện vẫn phải kiểm tra để kết luận, xử lý.
* Đặc trưng công tác giám sát:
- Giám sát là sự theo dõi, quan sát, nắm tình hình hoạt động mang tính
chủ động, trực tiếp, thường xuyên của chủ thể giám sát đối với đối tượng giám
4



sát. Vì vậy, khi tiến hành giám sát phải xác định rõ phạm vi, nội dung, đối
tượng, hình thức, phương pháp giám sát một cách cụ thể, trong từng thời điểm,
thời gian cụ thể, không có hoạt động giám sát chung chung.
- Giám sát là để bảo đảm cho chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị,
qui định của Đảng được chấp hành nghiêm chỉnh, đúng quỹ đạo, đúng mục tiêu,
yêu cầu đã được xác định từ trước. Mục đích chủ yếu của giám sát là uốn nắn
những lệch lạc, sai sót trong trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện, phòng ngừa,
ngăn chặn những khuyết điểm, sai phạm của tổ chức đảng và đảng viên ngay từ
lúc mới manh nha.
- Qua giám sát, chủ thể giám sát xem xét, nhận xét, đánh giá về đối
tượng, nội dung giám sát nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục thiếu sót, khuyết
điểm trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện; phát hiện những nhân tố mới, những
vấn đề cần nghiên cứu, đề xuất để hoàn chỉnh các chủ trương, chính sách, nghị
quyết, quyết định của chủ thể quản lý. Nếu thấy đối tượng giám sát có những
hoạt động chưa đúng với các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, qui định của Đảng
hoặc có thiếu sót, khuyết điểm thì chủ thể giám sát kịp thời nhắc nhở, cảnh báo,
yêu cầu, đề nghị thực hiện đúng qui định. Nếu thấy đối tượng giám sát có những
việc làm có biểu hiện sai trái thì kiến nghị với tổ chức có thẩm quyền biết để chỉ
đạo giải quyết hoặc kiểm tra, xem xét, quyết định.
2. Nguyên tắc, hình thức kiểm tra, giám sát của Đảng
a. Nguyên tắc
- Nguyên tắc tính đảng: Nguyên tắc tính đảng đòi hỏi khi tiến hành công
tác kiểm tra, giám sát phải lấy nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng làm
mục tiêu, phương hướng, nội dung. Trong kiểm tra, giám sát, cả chủ thể và đối
tượng đều phải thực hiện theo công tác đảng, luôn nêu cao ý thức trách nhiệm,
tự phê bình và phê bình, dám nhìn thẳng vào sự thật, bảo vệ cái đúng, dũng cảm
đấu tranh với cái sai trái, có thái độ nghiêm túc, đúng mức với các sai phạm.
- Nguyên tắc tính quần chúng: Tổ chức đảng và đảng viên không những

phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng mà còn phải chịu kiểm tra, giám sát
5


của nhân dân. Vì vậy, khi tiến hành công tác kiểm tra, giám sát phải biết dựa vào
quần chúng, động viên quần chúng tham gia kiểm tra, giám sát tổ chức đảng,
đảng viên; phải mở rộng và phát huy dân chủ; tạo cơ chế, môi trường thuận lợi
để quần chúng nhân dân tham gia vào công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
- Nguyên tắc tính công khai: Nguyên tắc tính công khai yêu cầu khi tiến
hành kiểm tra, giám sát phải công khai, dân chủ, không gò ép. Công khai cả về
chủ trương, kế hoạch, cả về qui trình tổ chức thực hiện. Khi có kết luận thì phải
thông báo công khai trong phạm vi tổ chức. Nếu công bố rộng hơn phải do cấp
có thẩm quyền quyết định, trên cơ sở bảo đảm đúng nguyên tắc công tác đảng.
b. Hình thức
* Hình thức kiểm tra
Công tác kiểm tra của Đảng có ba hình thức cơ bản:
- Kiểm tra thường xuyên: Là việc cấp ủy, tổ chức đảng các cấp thường
xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên để phát huy ưu điểm, kịp thời phát
hiện, ngăn chặn và khắc phục thiếu sót, khuyết điểm. Nội dung kiểm tra thường
xuyên là tất cả những vấn đề liên quan đến hoạt động của tổ chức đảng và đảng
viên. Hình thức kiểm tra thường xuyên rất phong phú, đa dạng, tùy theo tình
hình, đặc điểm, nội dung và thời gian mà tổ chức thực hiện phù hợp.
- Kiểm tra định kỳ: Là tùy theo yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị và
công tác xây dựng đảng trong từng thời gian cụ thể mà xác định nội dung và thời
gian định kỳ kiểm tra cho phù hợp. Nội dung kiểm tra định kỳ có thể kiểm tra
toàn diện đối với tổ chức đảng và đảng viên, cũng có thể chỉ kiểm tra chuyên sâu
một số nội dung cần thiết.
- Kiểm tra bất thường: Là hình thức áp dụng khi có sự việc đột xuất xảy
ra cần phải tiến hành kiểm tra hoặc khi có yêu cầu của một tổ chức đảng cấp
trên. Đối tượng kiểm tra bất thường ít, nội dung tập trung vào một số vấn đề

nhất định; yêu cầu kiểm tra để kịp thời ngăn chặn, đòi hỏi phải xem xét, kết luận
nhanh chóng. Do đó, tùy đối tượng, nội dung, yêu cầu cần kiểm tra mà có kế
hoạch tiến hành cho phù hợp.
6


* Hình thức giám sát:
Công tác giám sát của Đảng có hai hình thức cơ bản:
- Giám sát thường xuyên: Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ chính trị và công tác
xây dựng đảng trong từng thời kỳ, chủ thể giám sát thường xuyên theo dõi, nắm
bắt, xem xét, đánh giá tình hình hoạt động của đối tượng giám sát; qua đó mà
phát hiện những ưu điểm, những điển hình tiến tiến, nhân tố mới để phát huy,
nhân rộng; kịp thời uốn nắn những lệch lạc, sai sót, khuyết điểm không để trở
thành những sai phạm, những khuyết điểm lớn. Trong giám sát thường xuyên có
giám sát trực tiếp và giám sát gián tiếp.
Giám sát trực tiếp là chủ thể giám sát trực tiếp tiếp cận đối tượng để
nghe báo cáo, trình bày hoặc theo dõi, xem xét hoạt động của đối tượng được
giám sát.
Giám sát gián tiếp là chủ thể giám sát bằng việc nghiên cứu các biên
bản, nghị quyết, văn bản báo cáo của tổ chức đảng, hoặc thông qua ý kiến phản
ánh của tổ chức đảng, đảng viên, các đoàn thể và nhân dân về tình hình và hoạt
động của tổ chức đảng, đảng viên thuộc phạm vi quản lý của mình
- Giám sát chuyên đề: Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị và công tác xây
dựng đảng trong từng thời gian, địa bàn cụ thể, chủ thể giám sát lựa chọn những
vấn đề trọng tâm, trọng điểm hoặc những vấn đề nổi cộm mới nảy sinh trong
thực tiễn để tổ chức thực hiện giám sát. Giám sát chuyên đề tuy không giống
một cuộc kiểm tra, nhưng trong quá trình thực hiện phải được tiến hành theo
đúng qui trình, thủ tục, qui định của Trung ương.
* Một số vấn đề cần chú ý trong công tác giám sát:
- Tổ chức đảng cấp trên được quyền giám sát tổ chức đảng cấp dưới và

đảng viên. Đảng viên không được tự ý giám sát, chỉ được tham gia giám sát theo
sự phân công của tổ chức đảng có thẩm quyền.
- Quá trình tiến hành giám sát phải công khai, dân chủ, khách quan, thận
trọng và chặt chẽ; không sử dụng hình thức giám sát bí mật của các cơ quan bảo
vệ pháp luật vào giám sát trong Đảng.
7


- Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự giám sát của Đảng và sự giám sát
của nhân dân.
3. Những điểm giống nhau và khác nhau giữa kiểm tra và giám sát
a. Những điểm giống nhau
- Kiểm tra và giám sát đều là các hoạt động trong nội bộ Đảng, được
thực hiện theo qui định của Điều lệ Đảng, do cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban
kiểm tra các cấp thực hiện; đều thực hiện theo nguyên tắc, phương pháp công
tác đảng.
- Nội dung kiểm tra và giám sát đều là việc chấp hành Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Đều đạt tới mục đích là phục vụ việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
- Chủ thể, đối tượng kiểm tra và giám sát đều giống nhau.
- Định kỳ đều có báo cáo với cấp ủy theo qui định về tình hình thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát.
b. Những điểm khác nhau
Kiểm tra là để làm rõ đúng, sai. Sau kiểm tra phải có kết luận và xử lý.
Có thể vi phạm rồi mới kiểm tra, có vụ việc vi phạm đã qua nhiều năm mới
kiểm tra để làm rõ nội dung, tính chất, mức độ, tác hại và nguyên nhân của vi
phạm để xử lý (nếu có).
Giám sát thực hiện đối với sự việc đang xảy ra, không giám sát đối với
sự việc đã qua. Giám sát là việc làm thường xuyên, liên tục của chủ thể giám sát

với đối tượng chịu sự giám sát để phát hiện, góp ý, phản ánh, đề xuất là chính
nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn sai phạm từ lúc mới manh nha, không để
xảy ra vi phạm lớn. Qua giám sát, nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm thì báo cáo
cấp có thẩm quyền để tiến hành kiểm tra.
Kiểm tra được tiến hành theo qui trình chặt chẽ; phải thành lập đoàn
kiểm tra; phải thẩm tra, xác minh. Sau kiểm tra phải có kết luận rõ ràng, nếu có
vi phạm thì phải xử lý. Còn giám sát có bốn hình thức là giám sát thường xuyên,
8


trực tiếp, gián tiếp và giám sát chuyên đề. Trong giám sát thường xuyên, giám sát
trực tiếp và gián tiếp không cần tổ chức thành cuộc, không cần thành lập đoàn giám
sát. Giám sát chuyên đề thì thành lập đoàn, có nghiên cứu tài liệu nhưng không thẩm
tra, xác minh, không kết luận và thi hành kỷ luật như một cuộc kiểm tra. Giám sát
chủ yếu là để phát hiện vấn đề, nhắc nhở, cảnh báo, đưa ra yêu cầu, khuyến nghị các
biện pháp cần thiết để đối tượng khắc phục hạn chế, khuyết điểm (nếu có).
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN ĐỐI VỚI CÔNG
TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG HIỆN NAY

1. Quan điểm chỉ đạo
Một là, kiểm tra, giám sát là nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh
đạo của Đảng, là chức năng lãnh đạo, nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng,
trước hết là nhiệm vụ của cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, do cấp ủy trực tiếp
tiến hành. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải được tiến hành công khai,
dân chủ, khách quan và thận trọng, theo đúng nguyên tắc, phương pháp công tác
đảng. Tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng và
chịu sự giám sát của nhân dân.
Hai là, kết hợp chặt chẽ công tác kiểm tra, giám sát với công tác tư
tưởng, công tác tổ chức và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; phải thực
hiện toàn diện, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả, góp phần xây dựng Đảng vững

mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.
Kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa kiểm tra và giám sát. Giám sát phải được mở
rộng, kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm để chủ động phòng ngừa vi phạm,
kịp thời khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm khi mới manh nha.
Ba là, công tác kiểm tra, giám sát phải kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và
“chống”, lấy “xây” là chính. Khi các vụ việc vi phạm được phát hiện phải kiên
quyết xử lý nghiêm minh để giáo dục, răn đe.
Bốn là, tăng cường chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy
công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm
tra, cải thiện điều kiện, phương tiện làm việc của ủy ban kiểm tra các cấp. Hoàn

9


thiện qui chế phối hợp giữa ủy ban kiểm tra đảng với các tổ chức đảng và các cơ
quan bảo vệ pháp luật.
Năm là, đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình, mở rộng và phát
huy dân chủ, thực hiện công khai, minh bạch trong công tác kiểm tra., giám sát.
Thực hiện cơ chế đảng viên và nhân dân tham gia giám sát cán bộ và công tác
cán bộ. Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ, đề cao
trách nhiệm quản lý, kiểm tra, giám sát đảng viên của chi bộ, của tổ chức cơ sở
đảng, nhất là việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống,
đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong Đảng.
Sáu là, đề cao trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên; phát huy vai
trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân trong
công tác kiểm tra, giám sát.
2. Những yêu cầu cơ bản
- Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải xuất phát từ nhiệm vụ chính
trị và công tác xây dựng đảng, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của tổ chức
hoặc cá nhân.

- Kiểm tra, giám sát phải nhằm phát hiện những ưu điểm để phát huy,
những nhân tố mới, điển hình tiên tiến để nhân rộng; những khuyết điểm, thiếu
sót để uốn nắn, sửa chữa, khắc phục, kịp thời xử lý những sai phạm (nếu có).
- Tiến hành kiểm tra, giám sát phải bảo đảm tư tưởng chỉ đạo là: chủ
động, chiến đấu, giáo dục, hiệu quả; thực hiện đúng nguyên tắc, nhất là nguyên
tắc tập trung dân chủ, đúng qui trình, thủ tục và phương pháp công tác đảng.
III. CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA TỔ CHỨC ĐẢNG

1. Công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy đảng
a. Cấp ủy lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát
- Triển khai, quán triệt Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, của
cấp ủy cấp trên và cấp mình về công tác kiểm tra, giám sát.
- Xây dựng và chỉ đạo các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy cùng
cấp và cấp ủy thuộc phạm vi quản lý xây dựng phương hướng, nhiệm vụ; phân
10


công cấp ủy viên, các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy cùng cấp thực
hiện công tác kiểm tra, giám sát. Chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc cấp ủy cấp dưới
thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát.
- Ban hành các văn bản theo thẩm quyền để các tổ chức đảng thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và để các đoàn thể chính trị - xã hội,
nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát.
- Ban hành và chỉ đạo thực hiện các qui định phối hợp giữa ủy ban kiểm
tra với các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy, giữa các cơ quan tham
mưu, giúp việc của cấp ủy với ban cán sự đảng, đảng đoàn hoặc phối hợp với
các cơ quan liên quan.
- Nghe báo cáo và chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát;
giải quyết kiến nghị của các tổ chức đảng cấp dưới và định kỳ sơ kết, tổng kết về
công tác kiểm tra, giám sát.

- Lãnh đạo, chỉ đạo về tổ chức, hoạt động của ủy ban kiểm tra, cơ quan
ủy ban kiểm tra, về xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra.
- Đề xuất với cấp có thẩm quyền về những vấn đề cần bổ sung, sửa đổi
hoặc ban hành các văn bản về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
b. Cấp ủy tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát
* Tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra
Đối tượng kiểm tra của cấp ủy là:
- Tất cả các tổ chức đảng thuộc phạm vi quản lý, trước hết là tổ chức
đảng cấp dưới trực tiếp. Tập trung kiểm tra các tổ chức đảng ở những lĩnh vực,
địa bàn trọng điểm, dễ phát sinh sai phạm.
- Tất cả đảng viên thuộc phạm vi quản lý, trước hết là cán bộ diện cấp ủy
quản lý và cán bộ giữ cương vị chủ chốt hoặc được giao các nhiệm vụ quan trọng.
Nội dung kiểm tra của cấp ủy bao gồm:
- Chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết,
chỉ thị của Đảng, của cấp ủy cấp trên và cấp mình; pháp luật của Nhà nước.

11


- Chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, qui chế làm việc, chế độ công
tác, thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ.
- Lãnh đạo, chỉ đạo thực hành tiết kiệm; phòng, chống tham những, lãng
phí; rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
- Lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
- Lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án.
- Tuyển dụng, qui hoạch, luân chuyển, đào tạo, đề bạt, bố trí, sử dụng
cán bộ.
- Lãnh đạo, chỉ đạo và giải quyết khiếu nại, tố cáo của đảng viên và
nhân dân.

- Việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao của người đứng đầu tổ
chức đảng, nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân các cấp.
Căn cứ tình hình hoạt động của tổ chức đảng cấp dưới; căn cứ yêu cầu
công tác xây dựng đảng, nhiệm vụ chính trị và tình hình thực tế trong từng thời
gian, cấp ủy lựa chọn nội dung, đối tượng, thời điểm kiểm tra phù hợp.
* Tổ chức thực hiện nhiệm vụ giám sát
Đối tượng giám sát của cấp ủy: Tất cả các tổ chức đảng và đảng viên
thuộc phạm vi quản lý.
Nội dung giám sát:
Đối với các tổ chức đảng:
- Việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị
quyết, chỉ thị, qui định của Đảng, của cấp ủy cấp trên và cấp mình; pháp luật của
Nhà nước;
- Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, qui chế
làm việc, chế độ công tác và việc bảo đảm quyền của đảng viên;
- Việc giữ gìn đoàn kết nội bộ, quản lý đảng viên, chỉ đạo thực hiện qui
định về những điều cán bộ, đảng viên không được làm và giữ mối liên hệ với
quần chúng.
12


Đối với đảng viên: Việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
Cách thức giám sát: giám sát thông qua các kênh sau:
- Xem xét báo cáo hoạt động của ban thường vụ cấp ủy giữa hai kỳ họp
của cấp ủy.
- Dự các cuộc họp định kỳ, đột xuất của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy
cấp dưới.
- Nắm tình hình hoạt động của đảng bộ, chi bộ, việc tự phê bình và phê
bình về thực hiện chức trách, nhiệm vụ, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
- Phản ánh, trao đổi của các cơ quan pháp luật, các đoàn thể chính trị - xã

hội, của quần chúng, của các phương tiện thông tin đại chúng, đơn thư tố cáo,
khiếu nại của cán bộ, đảng viên và nhân dân về những vấn đề liên quan đến hoạt
động của tổ chức đảng, đảng viên trong đảng bộ.
- Các báo cáo của cấp ủy, của tổ chức đảng cấp dưới gửi lên, những
thông báo từ cấp trên gửi về v.v..
Thẩm quyền và trách nhiệm:
- Phân công cấp ủy viên dự các cuộc họp, hội nghị của cấp ủy, tổ chức
đảng cấp dưới thuộc phạm vi phụ trách. Cấp ủy viên khi thực hiện giám sát được
yêu cầu tổ chức đảng cấp dưới, các tổ chức có liên quan và đảng viên cung cấp
thông tin, tài liệu, hoặc báo cáo theo yêu cầu giám sát.
Cấp ủy viên có trách nhiệm báo cáo kết quả giám sát bằng văn bản cho
ban thường vụ hoặc cấp ủy biết để có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo; chịu trách
nhiệm về việc giám sát theo thẩm quyền của mình trước cấp ủy; giữ bí mật về
nội dung thông tin, văn bản, tài liệu cung cấp cho việc giám sát
- Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy cử cấp ủy viên trực tiếp chỉ đạo, giám
sát tổ chức đảng cấp dưới sửa chữa, khắc phục yếu kém, khuyết điểm, vi phạm.
- Qua giám sát, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy nhận xét, đánh giá về ưu
điểm, khuyết điểm và nguyên nhân; rút kinh nghiệm về lãnh đạo, chỉ đạo, về tổ
chức thực hiện; bổ sung, sửa đổi những vấn đề cần thiết. Nếu phát hiện đối tượng
giám sát không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc ban hành quyết định, qui
13


định trái với nghị quyết, chỉ thị, qui định của Đảng, của cấp ủy cấp trên và cấp
mình, trái với pháp luật của Nhà nước thì có quyền yêu cầu khắc phục, sửa chữa
hoặc xử lý theo thẩm quyền; nếu cần thiết thì yêu cầu hủy bỏ các quyết định, qui
định sai trái đó. Nếu phát hiện tổ chức đảng hoặc đảng viên có dấu hiệu vi phạm
thì giao cho ủy ban kiểm tra tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm.
c. Công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức cơ sở đảng
* Đảng ủy cơ sở:

Đối với công tác kiểm tra, đảng ủy cơ sở xây dựng chương trình, kế
hoạch và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên theo
chức năng, nhiệm vụ thuộc phạm vi quản lý. Nội dung, đối tượng kiểm tra như
của đảng ủy cấp trên cơ sở và những nội dung do cấp ủy cấp trên giao.
Đối với công tác giám sát, đảng ủy cơ sở tổ chức thực hiện công tác
giám sát tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi quản lý như công tác giám sát
của đảng ủy cấp trên cơ sở theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
* Đảng ủy bộ phận:
Trong công tác kiểm tra, đảng ủy bộ phận xây dựng và thực hiện chương
trình, kế hoạch kiểm tra theo chức năng, nhiệm vụ và những nội dung do đảng
ủy cơ sở giao.
Trong công tác giám sát, đảng ủy bộ phận giám sát theo chức năng,
nhiệm vụ và do đảng ủy cơ sở giao. Nội dung, đối tượng giám sát như của đảng
ủy cơ sở.
* Chi bộ:
Trong kiểm tra, chi bộ xây dựng kế hoạch và tiến hành kiểm tra đảng
viên trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên. Tập trung kiểm tra việc thực hiện
nghị quyết của chi bộ, nhiệm vụ do chi bộ phân công và qui định về những điều
đảng viên không được làm.
Trong giám sát, chi bộ giám sát đảng viên trong việc thực hiện nhiệm vụ
đảng viên.
2. Công tác kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp
14


Ủy ban kiểm tra các cấp có 3 chức năng chính: thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra, giám sát do Điều lệ Đảng qui định, tham mưu giúp cấp ủy trong công tác
kiểm tra, giám sát và thực hiện nhiệm vụ do cấp ủy giao.
a. Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra do Điều lệ Đảng qui định
Điều lệ Đảng qui định ủy ban kiểm tra các cấp có sáu nhiệm vụ trong

kiểm tra, giám sát của Đảng (sẽ có các bài riêng); đó là:
- Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp uỷ viên cùng cấp, khi có dấu hiệu vi
phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện
nhiệm vụ đảng viên.
- Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc
chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các
nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát và thi hành kỷ luật trong Đảng.
- Giám sát cấp uỷ viên cùng cấp, cán bộ diện cấp uỷ cùng cấp quản lý
và tổ chức đảng cấp dưới về việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, nghị quyết của cấp uỷ và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban
Chấp hành Trung ương.
- Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc
đề nghị cấp ủy thi hành kỷ luật.
- Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu
nại về kỷ luật đảng.
- Kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp ủy
cùng cấp.
b. Tham mưu cho cấp ủy về công tác kiểm tra, giám sát
- Giúp cấp ủy đề ra phương hướng, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của cấp
ủy; định kỳ nghe các tổ chức đảng báo cáo tình hình và giải quyết các yêu cầu
của tổ chức đảng về công tác kiểm tra, giám sát và việc thi hành kỷ luật đảng;
xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra hàng năm, quí, tháng cho cấp ủy; lập

15


kế hoạch tiến hành từng cuộc kiểm tra của cấp ủy; chủ trì hoặc tham gia các
cuộc kiểm tra do cấp ủy giao.
- Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng và đảng viên thực hiện

công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng. Qua đó rút ra những vấn đề
cần thiết về xây dựng đảng trên các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.
c. Thực hiện nhiệm vụ do cấp ủy giao
Trong lãnh đạo cũng như trong công tác xây dựng đảng, tùy tình hình và
yêu cầu cụ thể của từng công việc, từng thời gian, cấp ủy giao nhiệm vụ cho các
ban của của cấp ủy và ủy ban kiểm tra. Những nhiệm vụ này thường có liên quan
trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ của từng ban. Cho nên, ngoài việc thực hiện
nhiệm vụ theo qui định, ủy ban kiểm tra còn phải thực hiện nhiệm vụ do cấp ủy
giao. Thường là các nhiệm vụ liên quan đến công tác kiểm tra như: giúp cấp ủy
xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra; tổ chức các cuộc kiểm tra của cấp ủy;
giúp cấp ủy kết luận các cuộc kiểm tra, giám sát; kiện toàn tổ chức bộ máy, xây
dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra v.v..
3. Công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham mưu, giúp việc
của cấp ủy
a. Công tác kiểm tra
* Nhiệm vụ:
- Phối hợp với ủy ban kiểm tra cùng cấp tham mưu, giúp cấp ủy xây
dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra hàng năm thuộc lĩnh vực phụ trách.
- Tham gia các cuộc kiểm tra của cấp ủy hoặc chủ trì kiểm tra khi được
cấp ủy giao.
- Xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch và chủ động sử dụng bộ
máy của mình tiến hành kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên hoặc phối
hợp với ủy ban kiểm tra và các cơ quan tham mưu, giúp việc khác của cấp ủy để
tiến hành công tác kiểm tra;

16


- Giúp cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy theo dõi, đôn đốc tổ chức đảng cấp
dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra. Tham gia ý kiến và giúp cấp ủy, ban thường

vụ cấp ủy kết luận các nội dung kiểm tra thuộc lĩnh vực được giao.
* Đối tượng kiểm tra:
- Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy, trước hết là cấp ủy,
ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy, các cơ quan tham mưu, giúp việc của
cấp ủy cấp dưới trực tiếp;
- Đảng viên thuộc lĩnh vực phụ trách;
- Các đối tượng khác do cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy cùng cấp giao.
* Nội dung kiểm tra:
- Việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, của cấp ủy cấp trên và cấp mình; pháp luật của Nhà nước.
- Việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, qui chế làm việc, chế độ
công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ.
- Việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hành tiết kiệm; phòng, chống tham những,
lãng phí; rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
- Việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện cải cách hành chính, cải
cách tư pháp.
- Việc lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
- Việc tuyển dụng, qui hoạch, luân chuyển, đào tạo, đề bạt, bố trí, sử
dụng cán bộ.
- Việc lãnh đạo, chỉ đạo và giải quyết khiếu nại, tố cáo của đảng viên và
nhân dân.
- Việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao của người đứng đầu tổ
chức đảng, nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân các cấp.
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình để lựa chọn nội dung, đối
tượng kiểm tra cho phù hợp.
* Cách thức tiến hành:
17



- Sử dụng cán bộ của ban để kiểm tra hoặc phối hợp với các ban và ủy
ban kiểm tra để tiến hành kiểm tra.
- Kết luận và báo cáo với cấp ủy kết quả kiểm tra.
- Nếu phát hiện sai phạm thì báo cáo với cấp ủy và thông báo cho ủy ban
kiểm tra để xem xét, giải quyết theo thẩm quyền.
b. Công tác giám sát
* Nhiệm vụ:
- Phối hợp với ủy ban kiểm tra cùng cấp tham mưu, giúp cấp ủy xây
dựng chương trình, kế hoạch giám sát hàng năm thuộc lĩnh vực phụ trách; xây
dựng chương trình, kế hoạch và sử dụng bộ máy của mình tiến hành giám sát tổ
chức đảng cấp dưới và đảng viên hoặc phối hợp với ủy ban kiểm tra và các cơ
quan tham mưu, giúp việc khác của cấp ủy để tiến hành giám sát.
* Đối tượng giám sát: Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy,
các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy cấp dưới và đảng viên thuộc lĩnh vực
mình phụ trách.
* Nội dung giám sát:
- Đối với tổ chức đảng: Việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thuộc lĩnh vực phụ trách và những nội dung do cấp
ủy giao.
- Đối với đảng viên: Việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
* Cách thức tiến hành:
- Giám sát các thành viên tổ chức mình thông qua sinh hoạt thường kỳ,
phân tích chất lượng đảng viên hàng năm, thông qua phản ánh của các đoàn thể
và quần chúng nhân dân.
- Trực tiếp nghe các thành viên trong tổ chức mình báo cáo tình hình
hoạt động của tổ chức đảng cấp dưới, của đảng viên.
- Nghe cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới, các cơ quan tham mưu phản ánh,
báo cáo.
18



- Cử cán bộ theo dõi, trực tiếp làm việc, dự họp với cấp ủy, tổ chức đảng
cấp dưới, với ban cấp dưới.
*Thẩm quyền và trách nhiệm:
- Được yêu cầu tổ chức đảng, đảng viên thuộc phạm vi phụ trách báo
cáo, cung cấp tài liệu liên quan đến việc giám sát và phải giữ bí mật nội dung tài
liệu đó.
- Qua giám sát, kịp thời nhắc nhở đối tượng được giám sát phát huy ưu
điểm, khắc phục, sửa chữa thiếu sót, khuyết điểm; nếu phát hiện tổ chức đảng
hoặc đảng viên có dấu hiệu vi phạm thì báo cáo hoặc đề nghị tổ chức đảng có
thẩm quyền kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm.
- Nếu phát hiện tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên không thực hiện,
thực hiện không đúng hoặc ban hành quyết định, chỉ thị, qui định trái với nghị
quyết, chỉ thị, qui định của Đảng, của cấp ủy cấp trên, trái với pháp luật của Nhà
nước thì báo cáo cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy cùng cấp xem xét, xử lý.
4. Công tác kiểm tra của ban cán sự đảng, đảng đoàn
Điều lệ Đảng khoá XI quy định: Ban cán sự đảng, đảng đoàn có nhiệm vụ
lãnh đạo công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng,
không qui định việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát.
a. Đối tượng lãnh đạo
- Thành viên của ban cán sự đảng, đảng đoàn.
- Những tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền kiến nghị, đề xuất của ban
cán sự đảng, đảng đoàn.
b. Nội dung lãnh đạo
- Chấp hành Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, qui định, hướng dẫn
của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
- Lãnh đạo các thành viên của ban cán sự đảng, đảng đoàn gương mẫu
thực hiện công tác kiểm tra và chấp hành nghiêm chỉnh khi được kiểm tra.


19


- Nghe báo cáo để lãnh đạo giải quyết các đề xuất, kiến nghị về công tác
kiểm tra có lien quan đến trách nhiệm, thẩm quyền của ban cán sự đảng, đảng
đoàn; lãnh đạo khắc phục hậu quả, sửa chữa khuyết điểm sau kiểm tra.
- Kiến nghị, đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các qui định của
Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
c. Phương pháp lãnh đạo
- Ban hành văn bản chỉ đạo về công tác kiểm tra thuộc chức năng, nhiệm
vụ được giao.
- Phân công các thành viên ban cán sự đảng, đảng đoàn lãnh đạo công tác
kiểm tra thuộc phạm vi phụ trách.
- Trực tiếp làm việc hoặc thông qua văn bản chỉ đạo của ban cán sự đảng,
đảng đoàn đối với đối tượng lãnh đạo.
- Phối hợp với cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước có lien quan để
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kiểm tra.
Nội dung thảo luận
1. Làm rõ những vấn đề lý luận về công tác kiểm tra và công tác giám
sát của Đảng ?
2. Từ nhận thức về mặt lý luận về công tác giám sát của Đảng, đồng chí
thấy có vấn đề gì chưa hợp lý cần phải sửa đổi, bổ sung trong các hướng dẫn của
Trung ương cho phù hợp với lý luận và thực tiễn ?

20


KỶ LUẬT CỦA ĐẢNG VÀ VIỆC
THI HÀNH KỶ LUẬT TRONG ĐẢNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KỶ LUẬT CỦA ĐẢNG


1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của kỷ luật đảng
a. Khái niệm
Kỷ luật đảng là tổng thể những điều đã được quy định tại Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng; những quy định cụ thể trong
Đảng có tính chất bắt buộc đối với hoạt động của mọi tổ chức đảng và đảng viên,
nhằm bảo đảm sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong toàn Đảng.
b. Mục đích, ý nghĩa
Kỷ luật đảng và thi hành kỷ luật trong Đảng bảo đảm sự thống nhất về
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Kỷ luật chặt chẽ thì Đảng vững mạnh; kỷ luật lỏng
lẻo thì Đảng suy yếu.
Lịch sử và thực tiễn đã chứng minh Đảng ta không thể nào tồn tại, lãnh
đạo nhân dân giành lấy chính quyền và giữ vững chính quyền nếu không có kỷ
luật nghiêm minh. Vì vậy, từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng
vấn đề kỷ luật đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng ta tuy nhiều
người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người. Đó là nhờ có kỷ luật”1. Chính
nhờ có kỷ luật nghiêm minh mà Đảng ta đã đứng vững trước mọi thử thách hiểm
nghèo và lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi vẻ vang. Ngày nay, cách mạng
nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới, vừa có nhiều thời cơ, thuận lợi,
vừa có những thách thức, nguy cơ lớn. Sự nghiệp cách mạng của Đảng trong
giai đoạn mới, vai trò kỷ luật của Đảng càng cực kỳ quan trọng, vừa cấp bách,
vừa có ý nghĩa cơ bản, lâu dài. Kỷ luật nghiêm minh mới bảo đảm cho đường
lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị, các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt và hoạt
động của Đảng được chấp hành triệt để, không bị chệch hướng, năng lực lãnh

1

Hồ Chí Minh:Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tập 5, tr 553.

21



đạo và sức chiến đấu của Đảng mới được tăng cường, bảo đảm cho sự tồn tại,
phát triển, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng.
2. Tính chất, nội dung kỷ luật của Đảng
a. Tính chất kỷ luật của Đảng
"Kỷ luật của Đảng ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác”1.
Nghiêm túc là tất cả tổ chức đảng và đảng viên đều phải phục tùng kỷ
luật của Đảng, phải chấp hành các nguyên tắc tổ chức của Đảng, đặc biệt là
nguyên tắc tập trung dân chủ. Toàn Đảng phải triệu người như một, tuyệt đối
không ai được bất cứ bằng cách nào, dưới bất cứ hình thức gì truyền bá những
quan điểm trái với quan điểm, đường lối của Đảng. Đảng tôn trọng quyền bảo lưu ý
kiến của thiểu số, song mọi đảng viên đều phải nói và làm theo nghị quyết của
Đảng. Mọi tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành kỷ luật đảng vô điều kiện,
không giảm bớt yêu cầu đối với ai, không ai được coi là ngoại lệ. “Đảng viên, cán
bộ phải rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật, tự giác đặt mình trong sự quản lý của
chi bộ, tham gia đầy đủ sinh hoạt chi bộ, tuân thủ kỷ luật của Đảng. Không để một
đảng viên nào đứng ngoài sự quản lý của tổ chức”2.
Tự giác là đặc trưng cơ bản của kỷ luật đảng. Vì Đảng ta bao gồm
những người thừa nhận và tự nguyện phấn đấu thực hiện Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, lấy việc phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, lợi ích của
Tổ quốc, của nhân dân làm lẽ sống của mình. Mọi đảng viên đều ý thức sâu sắc
rằng, giữ gìn kỷ luật của Đảng, giữ gìn sự thống nhất ý chí và hành động của
Đảng như "giữ gìn con ngươi của mắt mình", nên dù trong lĩnh vực hoạt động
nào, trong điều kiện, hoàn cảnh nào, càng khó khăn, phức tạp, càng phải đề cao
tinh thần tự giác chấp hành kỷ luật của Đảng, dù có sự giám sát hay không có sự
giám sát của tổ chức thì các tổ chức đảng và đảng viên vẫn nghiêm chỉnh chấp
hành kỷ luật của Đảng.

1

2

Hồ Chí Minh:Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tập 5, tr 553
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996, tr 143.

22


Song, chỉ có tự giác thì chưa đủ mà còn phải có bắt buộc. Bắt buộc là nhân
tố tất yếu phải có đối với bất kỳ kỷ luật của tổ chức nào. Nhưng bắt buộc trong kỷ
luật của Đảng được xây dựng trên cơ sở giác ngộ chính trị, giác ngộ giai cấp của tất
cả đảng viên; giác ngộ càng cao, nhân tố bắt buộc càng trở thành tự giác.
Tính nghiêm túc và tự giác của kỷ luật đảng là sự thống nhất biện chứng
giữa hai mặt tập trung và dân chủ, bắt buộc và tự giác. Nghiêm túc phải trên cơ sở tự
giác, tự giác càng cao thì kỷ luật càng nghiêm túc. Sự thống nhất và kết hợp giữa
nghiêm túc và tự giác là điều kiện bảo đảm cho kỷ luật đảng thực sự là kỷ luật sắt.
b. Nội dung kỷ luật đảng
- Kỷ luật nội bộ Đảng (thường gọi là kỷ luật trong Đảng hay kỷ luật đảng):
Mọi tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh Cương
lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quyết định của
Đảng. Nếu không chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm túc là vi phạm kỷ
luật đảng và phải được xử lý nghiêm minh.
- Kỷ luật về Nhà nước:
Ở nước ta, Cương lĩnh chính trị, chính sách, nghị quyết, chỉ thị,… của
Đảng được thể chế hoá thành Hiến pháp, pháp luật, pháp lệnh, nghị định, quyết
định... của Nhà nước. Đảng “hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật”1. Mọi tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Hiến pháp và pháp luật cũng là vi
phạm kỷ luật của Đảng và phải được xem xét kỷ luật về đảng và chính quyền.
- Kỷ luật của đoàn thể chính trị - xã hội:
Mỗi đoàn thể chính trị - xã hội đều có điều lệ, quy định riêng. Đảng viên

sinh hoạt và hoạt động trong các đoàn thể chính trị - xã hội phải chấp hành nghiêm
chỉnh kỷ luật của đoàn thể chính trị - xã hội mà mình tham gia. Vi phạm kỷ luật
đoàn thể chính trị - xã hội mà mình tham gia cũng là vi phạm kỷ luật của Đảng.
II. VIỆC THI HÀNH KỶ LUẬT TRONG ĐẢNG

1.Khái niệm thi hành kỷ luật:
-Theo Từ điển tiếng Việt, “Thi hành là làm cho thành có hiệu lực điều đã
được chính thức quyết định”2. Theo Từ điển tiếng Việt tường giải và liên tưởng
1

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr 5.
Viện ngôn ngữ học: Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm từ điển học, 2005, tr 936.

2

23


thì khái niệm thi hành kỷ luật là: “Chuyển hành động cụ thể cái mà cấp trên giao
cho mình qua văn bản hay lời nói. Thi hành một nghị quyết. Thi hành một mệnh
lệnh”1.
-Khái niệm thi hành kỷ luật của Đảng:
Theo các khái niệm trên về thi hành kỷ luật thì thi hành kỷ luật của
Đảng có hai nghĩa:
+Theo nghĩa thứ nhất, có thể hiểu thi hành kỷ luật của Đảng là việc tổ
chức đảng có thẩm quyền ra quyết định áp dụng một hình thức kỷ luật đối với tổ
chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên có vi phạm khi không chấp hành hoặc chấp
hành không đúng Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị,
quy định của Đảng đến mức phải thi hành kỷ luật bằng một trong những hình
thức kỷ luật được quy định trong Điều lệ Đảng.

+Theo nghĩa thứ hai, thi hành kỷ luật của Đảng là việc tổ chức đảng
hoặc đảng viên bị thi hành kỷ luật và tổ chức đảng có liên quan đến tổ chức
đảng hoặc đảng viên bị thi hành kỷ luật tổ chức thực hiện (chấp hành) quyết
định thi hành kỷ luật của tổ chức đảng có thẩm quyền.
Theo quy định của Điều lệ Đảng, các tổ chức đảng có thẩm quyền thi
hành kỷ luật đảng là cấp ủy từ đảng ủy cơ sở trở lên, ban thường vụ cấp ủy từ
cấp huyện, quận và tương đương trở lên; chi bộ; ủy ban kiểm tra từ cấp quận,
huyện và tương đương trở lên.
2. Phương hướng, phương châm và hình thức kỷ luật trong Đảng
a. Phương hướng, phương châm
Thứ nhất, mọi tổ chức đảng và đảng viên vi phạm kỷ luật đều phải xử lý
công minh, chính xác, kịp thời.
Tất cả đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng, nếu vi phạm
đến mức phải kỷ luật đều phải xử lý kỷ luật nghiêm minh, không có ngoại lệ.
Đảng viên vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình
sự thì chuyển cơ quan pháp luật giải quyết, không được xử lý nội bộ. Nếu làm
1

Từ điển tiếng Việt tường giải và liên tưởng, Nxb Văn hóa – Thông tin, 1993, tr 775.

24


thất thoát tài chính, tài sản của Đảng, Nhà nước, của tổ chức, cá nhân thì phải
xem xét trách nhiệm và bồi hoàn.
Đảng viên sau khi chuyển sinh hoạt đảng sang tổ chức đảng mới bị phát
hiện hoặc tố cáo có vi phạm kỷ luật ở nơi sinh hoạt đảng trước đây mà chưa
được xem xét, xử lý thì do tổ chức đảng cấp trên của các tổ chức đó xem xét, xử
lý. Việc xem xét, xử lý kỷ luật đối với đảng viên vi phạm được tiến hành ở các
tổ chức đảng nơi đảng viên đó hiện đang sinh hoạt.

Thứ hai, việc thi hành kỷ luật phải căn cứ nội dung, mức độ, tính chất,
tác hại và nguyên nhân vi phạm và các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ để xem
xét, quyết định hình thức kỷ luật cho phù hợp theo thẩm quyền và phải chịu
trách nhiệm trước quyết định đó.
Trong xử lý, phải kết hợp xem xét kết quả tự phê bình và phê bình với
kết quả thẩm tra, xác minh của tổ chức đảng để đảm bảo kết luận khách quan,
đầy đủ, chính xác. Cần làm rõ nguyên nhân, phân biệt sai lầm, khuyết điểm của
đảng viên do trình độ, năng lực hoặc động cơ vì lợi ích chung hay vì lợi ích cá
nhân, cục bộ mà cố ý làm trái; vi phạm nhất thời hay có hệ thống; đã qua giáo
dục, ngăn chặn vẫn làm trái; không tự giác nhận lỗi, không bồi hoàn vật chất
hoặc có hành vi đối phó với việc kiểm tra; phân biệt đảng viên khởi xướng, tổ
chức, quyết định với đảng viên bị lôi kéo, đồng tình làm sai.
Đảng viên là người dân tộc thiểu số công tác, sinh hoạt ở vùng cao,
vùng sâu, vùng xa (theo quy định của Nhà nước), đảng viên theo tôn giáo vi
phạm đến mức phải thi hành kỷ luật thì căn cứ tình hình thực tế vận dụng xử lý
cho phù hợp.
Thứ ba, kỷ luật đảng không thay thế kỷ luật hành chính, kỷ luật đoàn
thể hoặc việc xử lý bằng pháp luật và ngược lại. Cấp ủy quản lý đảng viên sau
khi xem xét, xử lý hoặc chỉ đạo việc xem xét, xử lý về kỷ luật đảng phải chỉ đạo
các tổ chức có trách nhiệm xem xét, xử lý kỷ luật về hành chính hoặc đoàn thể
được kịp thời.
Trường hợp không thuộc thẩm quyền phải kiến nghị với tổ chức đảng
có thẩm quyền xem xét, xử lý.

25


×