Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Sự lãnh đạo của các huyện uỷ trong tỉnh bắc ninh đối với hội chữ thập đỏ cấp huyện tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.15 KB, 50 trang )

MỤC LỤC


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân đạo - hoà bình - hữu nghị là khát vọng chung của nhân loại, là
chuẩn giá trị của sự tiến bộ và văn minh mà mọi dân tộc, mỗi quốc gia hằng
mong muốn để hướng tới. Hội Chữ thập đỏ Việt Nam là một trong 187 thành
viên của phong trào Chữ thập đỏ, trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế do Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng tạo và là chủ tịch danh dự đầu tiên. Hội là tổ chức xã hội nhân đạo của quần chúng, tập hợp mọi người Việt Nam, không phân biệt
thành phần dân tộc, tôn giáo, nam nữ… để làm công tác nhân đạo.
Hội vận động các cá nhân tổ chức cùng tham gia các phong trào tương
thân, tương ái, hoạt động nhân đạo phát triển, nâng cao tình nhân ái, phục vụ
đời sống sức khoẻ nhân dân trong đó ưu tiên những người có những hoàn
cảnh khó khăn nhất.
Mục đích cao cả của Hội là nhân đạo, hoà bình hữu nghị góp phần thực
hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Công cuộc đổi mới do Đảng là khởi xướng và lãnh đạo đã và đang đạt
được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Đó là sự khẳng định phát triển
kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hoá là nền tảng tinh thần
của xã hội. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nhà nước pháp quyền và đề cao vai trò dân chủ xã hội, xã hội dân sự.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức Hội nói chung, Hội chữ thập
đỏ nói riêng là một tất yếu khách quan xuất phát từ vai trò, vị trí, nhiệm vụ
của Hội chữ thập đỏ và bản chất của Đảng ta:
"Đảng ta là đạo đức là văn minh
Là độc lập thống nhất
Là hoà bình ấm no




2
Công ơn Đảng thật là to
Ba mươi năm ấy là một pho sử vàng"
(Tố Hữu - Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Hội chữ thập đỏ chi có thể phát huy, phát triển đúng chức năng, nhiệm
vụ khi được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. Đồng thời nếu thiếu sự
quan tâm hoặc coi nhẹ sự lãnh đạo của Đảng đối với hội thì hoạt động của hội
sẽ yếu và hoặc chệch hướng, nhất là trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới
toàn diện hiện nay.
Sự kiện ra đời của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam vào ngày 23-11-1946 là
quyết định đúng đắn của Bác Hồ và Đảng Cộng sản Việt Nam. Hơn 60 năm
qua, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam luôn luôn đồng hành cùng với dân tộc qua
mỗi một giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam. Qua các cuộc kháng
chiến bảo vệ tổ quốc, qua quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc
đổi mới hiện nay thì vấn đề giải quyết những khó khăn từ nền kinh tế lạc hậu,
từ vị trí là một đất nước luôn phải hứng chịu hậu quả nặng nề của thiên tai,
của chiến tranh, hàng triệu gia đình Việt Nam cần được đón nhận sự chia sẻ
của cộng đồng và nhân loại để ổn định và hội nhập phát triển.
Song tổ chức hoạt động Hội chữ thập đỏ còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất
cập, chưa theo kịp với yêu cầu phát triển của đất nước và nhiệm vụ của Hội.
Vì thế, đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức Hội
để Hội đảm nhận được sứ mệnh cao cả của Đảng và dân tộc giao phó nhằm
đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay.
Nhằm góp phần cùng các cơ quan tham mưu, các huyện uỷ trong tỉnh
tháo gỡ những vướng mắc, khắc phục đổi mới nội dung lãnh đạo đối với Hội
chữ thập đỏ cấp huyện thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ
Bắc Ninh lần thứ 1 8. Em đã chọn đề tài: "Sự lãnh đạo của các huyện uỷ



3
trong tỉnh Bắc Ninh đối với Hội chữ thập đỏ cấp huyện” làm đề tài tiểu luận
kết thúc môn học Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của tiểu luận
* Mục đích
- Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và khảo sát, nghiên cứu
thực trạng sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội chữ thập đỏ và thực tiễn Huyện
uỷ các huyện ở tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo Hội chữ thập đỏ, tiểu luận đề xuất
phương hướng và những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của các
huyện uỷ trong tỉnh Bắc Ninh đối với Hội chữ thập đỏ cấp huyện.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ quan niệm về sự lãnh đạo của các Huyện uỷ trong tỉnh Bắc
Ninh đối với Hội chữ thập đỏ cấp huyện.
- Đề xuất mục tiêu phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm
tăng cường sự lãnh đạo của các Huyện uỷ ở tỉnh Bắc Ninh đối với Hội chữ
thập đỏ cấp huyện.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của tiểu luận
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tiểu luận tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Huyện uỷ đối với Hội
chữ thập đỏ cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của các huyện uỷ trong tỉnh
Bắc Ninh đối với Hội chữ thập đỏ cấp huyện từ năm 2010 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của tiểu luận
4.1. Cơ sở lý luận
Tiểu luận sử dụng và thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng đối với tổ chức


4

và hoạt động của Hội chữ thập đỏ. Tiểu luận có tham khảo một số các tài liệu,
các bài viết của các tác giả về vấn đề có liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ yếu sử dụng tiểu luận này là phương pháp lịch sử,
logíc, phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát tổng kết thực tiễn, phương pháp
thống kê, tập hợp các tài liệu…
5. Những đóng góp về mặt khoa học của tiểu luận
- Đánh giá đúng thực trạng sự lãnh đạo của các cấp uỷ huyện trong
tỉnh Bắc Ninh đối với Hội chữ thập đỏ huyện.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của các
huyện uỷ trong tỉnh Bắc Ninh đối với Hội chữ thập đỏ huyện.
6. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn có 3 chương.


5
Chương 1
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA HUYỆN UỶ ĐỐI VỚI HỘI CHỮ THẬP ĐỎ CẤP
HUYỆN Ở TỈNH BẮC NINH- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
1.1. HỘI CHỮ THẬP ĐỎ CẤP HUYỆN Ở TỈNH BẮC NINH

1.1.1. Quan niệm về Hội chữ thập đỏ
Khái lược về phong trào chữ thập đỏ - trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế
* Lịch sử của phong trào CTĐ-TLLĐQT:
Ngày 24 tháng 6 năm 1859 ở Solferino, một thành phố miền Bắc nước
Ý, một cuộc chiến khốc liệt diễn trong vài giờ đồng hồ giữa lực lượng quân
đội liên minh của Pháp và Ý chống lại quân chiếm đóng Áo đã để lại 40.000
người chết và bị thương. Quân y của các bên tham chiến không đủ lực lượng
để giải quyết tình trạng quá nhiều người bị thương.

Cảnh tượng trên đã khiến một thương gia Thuỵ Sĩ tên là Jean Henry
Dunant kinh hoàng khi vô tình được chứng kiến. Ông đã kêu gọi dân chúng
địa phương giúp đỡ người bị thương bất kể họ là người của bên nào.
Khi trở về Thuỵ Sĩ, Henry Dunant không thể nào quên những điều rùng
rợn mà ông đã được chứng kiến. Ông đã viết lại những điều này trong một
cuốn sách có tên gọi Ký ức về Solferino. Cuốn sách được hoàn thành vào năm
1862. Trong nội dung cuốn sách, Dunant đưa ra 2 ý tưởng:
Một là, thành lập tại mỗi quốc gia một Hội Cứu trợ bao gồm những
người tình nguyện, những người danh tiếng, những chính khách có tên tuổi để
chăm sóc những người bị thương khi có chiến tranh.
Hai là, vận động một thoả thuận quốc tế bảo vệ những binh lính bị
thương trên chiến trường và những người chăm sóc họ.
Henry Dunant đã in cuốn sách bằng tiền riêng của mình và gửi tới các
vị quốc vương ở châu Âu, tới các nhà chính trị, sĩ quan quân đội, những nhà


6
hảo tâm và bạn bè. Điều này đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt của nhân
dân châu Âu, những người không có chút khái niệm nào về thực tế khốc liệt
của chiến tranh đã bị kinh hoàng khi đọc những trang viết về Solferino.
Ông Gustave Moynier, một luật sư và vào thời gian đó là Chủ tịch
của Hội Cứu trợ Cộng đồng Geneva đã cảm động sâu sắc khi đọc cuốn " Ký
ức về Solfferino". Ngay sau đó ông đã đề nghị Dunant nên nhóm họp các
thành viên của Hội để bàn bạc về đề xuất của mình. Tại cuộc họp, một Uỷ
ban Năm Người được thành lập, gồm Dunant và Moynier, Tướng
Guillaume Henri Dufour, Tiến sĩ Louis Appia và Tiến sĩ Theodore Maunoir,
tất cả đều là công dân Thuỵ Sĩ. Kỳ họp lần thứ nhất của Uỷ ban này vào
ngày 17 tháng 2 năm 1863 đã thông qua tên gọi " Uỷ ban quốc tế cứu trợ
những người bị thương".
Trong thời gian sau đó, "Uỷ ban năm người" này đã xúc tiến tổ chức

một Hội nghị quốc tế vào tháng 10 năm 1863 tại Geneva, tập hợp đại diện của
16 quốc gia. Hội nghị đã thông qua dấu hiệu phân biệt - một chữ thập đỏ trên
nền trắng - để nhận biết và bảo vệ những người giúp đỡ những binh sĩ bị
thương trên chiến trường.
Năm 1875, " Uỷ ban quốc tế cứu trợ những người bị thương" đổi tên
thành Uỷ ban Chữ thập đỏ Quốc tế - là tổ chức khởi xướng Phong trào Chữ
thập đỏ Quốc tế. Để ghi nhớ công lao của người sáng lập Phong trào, ngày
sinh của Henry Dunant 8/5 đã được lấy làm Ngày Quốc tế Chữ thập đỏ.
Nhận được 4 giải thưởng Nobel vì hoà bình Dành cho sự nghiệp nhân đạo.
- Nhà tư bản công nghiệp Thuỵ Điển Alfred Nobel mất năm 1896.
Trước khi vĩnh biệt thế giới này, ông có một nguyện vọng dành một phần
ngân quỹ của mình để tặng thưởng cho những người có nhiều cống hiến trong
hoạt động nhận đạo.


7
- Năm 1901, Giải thưởng Nobel Vì hoà bình đầu tiên được trao cho
Henry Dunant người sáng lập CTĐ, người đã hiến cả đời mình cho sự nghiệp
nhân đạo. Mặc dù sống trong cảnh nghèo nàn của một nhà tế bần ở Heiden
(bang Appenzell, Thuỵ Sĩ), nhưng H.Dunant đã dành số tiền thưởng đó đóng
góp cho sự nghiệp nhân đạo.
- Năm 1917 và năm 1944, Uỷ ban Chữ thập đỏ quốc tế được nhận 2
giải thưởng Nobel và số tiền này cũng được sử dụng cho các hoạt động nhân
đạo trong suốt 2 cuộc chiến tranh thế giới.
- Giải Nobel thứ 4 được trao cho Uỷ ban Chữ thập đỏ quốc tế và Hiệp
Hội chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế vào năm 1963 nhân dịp kỷ
niệm 100 năm ngày ra đời phong trào Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ.
* Thành phần:
+ Uỷ ban Chữ thập đỏ quốc tế: Được thành lập năm 1863, là thành
viên sáng lập Phong trào Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế.

Ngoài các hoạt động bảo vệ và giúp đỡ nạn nhân chiến tranh, Uỷ ban còn
là cơ quan vận động và giám hộ việc phổ biến Luật Nhân đạo Quốc tế và theo
dõi việc thực hiện những nguyên tắc cơ bản. Uỷ ban cùng hợp tác với Hiệp
Hội chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế tổ chức các hội nghị theo điều
lệ của Phong trào.
+ Hiệp Hội chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế: Được thành
lập năm 1919, hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Phong trào, tạo
điều kiện và động viên các Hội quốc gia cải thiện tình trạng cho những người
có khó khăn nhất. Hiệp Hội chỉ đạo và phối hợp việc cứu trợ quốc tế cho các
nạn nhân do thiên tai và thảm hoạ công nghiệp, cho người tị nạn và cấp cứu y
tế. Hiệp Hội là đại diện cho các Hội quốc gia trên trường quốc tế, huy động sự
hợp tác giữa các Hội quốc gia, tăng cường năng lực cho các Hội quốc gia và


8
thực hiện các chương trình phòng chống thiên tai, chăm sóc sức khoẻ và cứu
trợ xã hội.
Hội Chữ thập đỏ Việt Nam
Hội được thành lập ngày 23/11/1946, được Uỷ ban quốc tế Chữ thập đỏ
chính thức công nhân ngày 01/11/1957 và được Hiệp Hội chữ thập đỏ, Trăng
lưỡi liềm đỏ quốc tế chính thức công nhận ngày 04/11/1957. Hội do Chủ tịch
Hồ Chí Minh sang lập và làm chủ tịch danh dự đầu tiên của hội. Người dạy
cán bộ hội viên: "Phải xuất phát từ tình thương yêu nhân dân tha thiết mà
góp phần bảo vệ sức khoẻ nhân dân và làm mọi việc có thể làm được để giảm
bớt đau thương cho họ”.
Từ khi thành lập Hội đến nay, Hội đã có những đóng góp to lớn trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hoạt động tích cực vì mục đích nhân
đạo, hoà bình, hữu nghị trong phong trào Chữ thập đỏ - Trăng lưỡi liềm đỏ
quốc tế với tôn chỉ mục đích của Hội là:
Hội Chữ thập đỏ Việt Nam là tổ chức xã hội nhân đạo của quần chúng,

hội tập hợp mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nam
nữ… để làm công tác nhân đạo; Hội vận động các các cá nhân, tổ chức cùng
tham gia các phong trào tương thân tương ái, hoạt động nhân đạo phát triển
nâng cao tình nhân ái, phục vụ đời sống, sức khoẻ nhân dân trong đó ưu tiên
những người khó khăn nhất; Mục đích cao cả của Hội là nhân đạo, hoà bình,
hữu nghị, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
thành viên của phong trào chữ thập đỏ - trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế. Là một tổ
chức Hội thống nhất 4 cấp: Trung ương hội, Tỉnh hội, Huyện hội, Hội cơ sở.
Đến nay, Hội có gần 20 triệu hội viên thanh thiếu niên tình nguyện hoạt động
theo Luật hoạt động chữ thập đỏ Việt Nam.
* Vai trò của Hội chữ thập đỏ cấp Huyện ở tỉnh Bắc Ninh


9
Theo tinh thần Chỉ thị 14 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc
củng cố phát huy tác dụng tích cực của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, hầu hết
các huyện thị, thành phố đều được củng cố tổ chức hội, huyện Hội chính thức
trở thành một cấp hội và có các chi hội cơ sở trực thuộc. Huyện hội đã có ban
chấp hành, có thường trực Hội từ 1 đến 2 người.
Các huyện Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc huyện, chịu sự lãnh
đạo trực tiếp của cấp uỷ huyện thông qua Ban Tuyên giáo, Ban Dân vận
Huyện uỷ, góp phần tham gia tích cực các hoạt động kinh tế xã hội trực tiếp là
vấn đề an sinh xã hội.
Đồng thời Hội luôn đi đầu trong các phong trào, các hoạt động nhân
đạo từ thiện, phát huy tinh thần tương thân tương ái trong cộng đồng dân cư,
tuyên truyền giá trị nhân đạo đối với thanh thiếu niên chữ thập đỏ. Là cầu nối
của quan hệ hữu nghị quốc tế.
1.2. QUAN NIỆM, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA
HUYỆN UỶ ĐỐI VỚI HỘI CHỮ THẬP ĐỎ CẤP HUYỆN


1.2.1. Quan niệm về sự lãnh đạo của Đảng và sự lãnh đạo của
huyện uỷ đối với Hội chữ thập đỏ cấp huyện
1.2.1.1. Quan niệm về sự lãnh đạo của Đảng
Lãnh đạo là một khái niệm rộng được hiểu theo các cách tiếp cận khác
nhau. Theo từ điển tiếng Việt, lãnh đạo là đề ra chủ trương đường lối, tổ chức
động viên thực hiện. Hoặc nghĩa Hán việt thì lãnh đạo là đưa đường chỉ lối.
Với quan niệm này thì khái niệm lãnh đạo được hiểu bao gồm hai nội dung:
một là định ra chủ trương đường lối chính sách; hai là tổ chức thực hiện
đường lối chính sách đó.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh,bằng nhãn quan chính trị của mình, Người
nhìn nhận sự lãnh đạo phải là một quy trình thống nhất trong quá trình tổ chức
thực hiện. Bác chỉ ra: lãnh đạo bao gồm ba khâu chủ yếu: ra quyết định; tổ


10
chức thực hiện quyết định và kiểm tra, kiểm soát. Theo Người: “Lãnh đạo
đúng nghĩa là:
1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng…
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng…
3. Phải tổ chức kiểm soát…’’
Song, Bác còn nhấn mạnh hoạt động lãnh đạo là phải bám sát thực
tiễn: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” (Khi Người sang Pháp giao quyền Chủ
tịch nước cho cụ Huỳnh Thúc Kháng). Ở một thời điểm cách mạng Việt
Nam ngàn cân treo sợi tóc thời kỳ 1945-1946. Quan điểm này vừa thể hiện
sự nhạy cảm về chính trị, đồng thời cũng thể hiện nguyên tắc ứng xử và
bản lĩnh chính trị.Đây chính là nét tiêu biểu của nghệ thuật lãnh đạo cách
mạng mà Bác Hồ đã nhìn thấy linh hồn của phép biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác - Lênin.
Như vậy, quan niệm về lãnh đạo của Đảng phải được hiểu là một quá

trình thống nhất giữa việc vạch ra đường lối, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra,
kiểm soát. Các khâu của quá trình phải liên hệ biện chứng lẫn nhau và sự
phân định các khâu chỉ là tương đối. Ngay trong khâu ra quyết định đã phải
kiểm tra, kiểm soát, chỉ đạo thực hiện cũng không thể tách rời kiểm tra kiểm
soát và quyết định những vấn đề mới có liên quan để hoàn thiện quyết định.
Như Đảng ta từng bước đã và đang từng bước hoàn thiện về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam. Nếu quan niệm lãnh đạo chỉ là các
nội dung độc lập trong một quá trình sẽ dẫn đến giáo điều như chúng ta đã
từng quan niệm về sự xơ cứng của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên xô cũ, quan
niệm về chủ nghĩa tư bản như trước quá trình đổi mói từng quan niệm đều là
sai lầm. Lãnh đạo nói riêng và Đảng lãnh đạo nói riêng phải được hiểu là sự
dẫn dắt chỉ đường tìm đường để cho một dân tộc cũng như một tập thể, một
con người đạt được sự đúng đắn.


11
1.2.1.2. Quan niệm về sự lãnh đạo của Huyện uỷ đối với Hội chữ
thập đỏ cấp huyện
Bằng nhãn quan chính trị tinh tế của Đảng ta và Bác Hồ nên trong hoàn
cảnh đất nước muôn vàn khó khăn thù trong giặc ngoài sau cách mạng tháng
tám 1945, thì mùa thu năm 1946 tổ chức chữ thập đỏ ra đời và Người trực tiếp
làm chủ tịch danh dự của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam. Qua mỗi chặng đường
cách mạng Việt Nam thì hội luôn đồng hành với dân tộc. Khi đất nước chưa
thống nhất thì có Hội chữ thập đỏ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và
Hội chữ thập đỏ của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt
Nam đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đất nước thống nhất, tổ chức hội
cũng được thống nhất. Để phù hợp với công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo, Đảng có Chỉ thị 14 nhằm xây dựng củng cố phát huy tác
dụng tích cực của tổ chức hội.
Để phù hợp với xu hướng hội nhập, Đảng ta đã không ngừng tăng

cường củng cố và kiện toàn tổ chức hội, cả về nội dung và phương thức hoạt
động, cả về tổ chức lẫn điều kiện hoạt động: Ban hành Luật hoạt động, Trung
ương Đảng tổng kết 22 năm thực hiện Chỉ thị 14 làm cơ sở để ban hành
những chủ trương, chính sách mới trong hoạt động, phù hợp với hoạt động và
xu thế thời đại.
Từ thực tiễn nghiên cứu và tìm hiểu của bản thân và sự tranh thủ tham
khảo ý kiến các nhà khoa học, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của cấp huyện,
cấp tỉnh có thể quan niệm như sau: Sự lãnh đạo của huyện uỷ đối với Hội chữ
thập đỏ cấp huyện như sau: Sự lãnh đạo của huyện uỷ đối với Hội chữ thập
đỏ cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh là việc Huyện uỷ tác động đến huyện Hội chữ
thập đỏ về chính trị, tư tưởng tổ chức để định hướng, đồng thời thông qua
nhà nước, các ngành, các đoàn thể, các cấp uỷ phát huy truyền thống nhân ái
của đơn vị địa phương để tạo điều kiện để hội thực hiện mục tiêu nhiệm vụ và


12
phát huy vai trò nòng cốt trong hoạt động nhân đạo, góp phần thực hiện
thắng lợi mục tiêu kinh tế xã hội của Huyện.
Chủ thể lãnh đạo là Huyện uỷ, thường xuyên trực tiếp là tập thể ban
thường vụ Huyện uỷ, Ban Tuyên giáo, Ban Dân vận. Đồng thời thông qua Uỷ
ban nhân dân huyện, các phòng ban, các ngành, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị, các tổ chức xã hội, các xã thị trấn để lãnh đạo.
Đối tượng lãnh đạo là Hội chữ thập đỏ cấp huyện.
1.2.2. Nội dung và phương thức lãnh đạo của huyện uỷ đối với Hội
chữ thập đỏ cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh
1.2.2.1. Nội dung lãnh đạo
Nội dung lãnh đạo của Huyện uỷ đối với Hội chữ thập đỏ cấp huyện ở
tỉnh Bắc Ninh phong phú và đa dạng, được biểu hiện cụ thể như sau:
- Định hướng về chính trị cho huyện Hội. Đây chính là vấn đề cốt lõi,
nhằm đảm bảo sự lãnh đạo của huyện uỷ đối với hoạt động của Huyện hội. Sự

định hướng lãnh đạo được thể hiện xuyên suốt thông qua mục tiêu, phương
hướng nhiệm vụ của huyện hội phù hợp với điều kiện thực tiễn qua từng thời
kỳ với thực tế của các vùng miền.
- Lãnh đạo xây dựng tổ chức huyện hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
Cách mạng là sự nghiệp lãnh đạo của quần chúng chứ không phải là sự
nghiệp của cá nhân, anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng ta
đã tổ chức và phát huy lực lượng vô tận của nhân dân, đã lãnh đạo nhân dân
phấn đấu dưới lá cờ tất thắng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Lãnh đạo hoạt động của huyện hội. Huyện uỷ thường xuyên quan tâm
lãnh đạo các mặt hoạt động của Hội, nhiệm vụ của Hội một cách toàn diện
như: hoạt động công tác xã hội và tham gia phòng ngừa ứng phó thảm hoạ
thiên tai, hoạt động chăm sóc sức khoẻ ban đầu, hiến máu nhân đạo, hoạt


13
động đoàn kết hữu nghị quốc tế, tuyên truyền các giá trị nhân đạo…để giúp
hội thực hiện đúng chủ trương, nghị quyết của huyện uỷ.
- Lãnh đạo chính quyền và các tổ chức đoàn thể khác trong hệ thống
chính trị phối hợp tạo điều kiện cho huyện hội hoạt động. Quyền lực của
Đảng được thông qua chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội khác nhằm
khẳng định vai trò lãnh đạo của mình đối với tổ chức hội, Đảng hoá thân vào
nhà nước thông qua vai trò Đảng là hạt nhân chính trị. Trọng tâm sự lãnh đạo
của huyện uỷ đối với chính quyền là sự thể chế hoá quan điểm đường lối của
Đảng thành các chủ trương, quyết sách của chính quyền và các tổ chức đoàn
thể liên quan đến hoạt động nhân đạo do Hội chữ thập đỏ chủ trì hoặc làm
nòng cốt.
1.2.2.2. Phương thức lãnh đạo của huyện uỷ đối với Hội chữ thập đỏ
cấp huyện
Có đường lối đúng có tổ chức hợp lý mà không có phương thức lãnh
đạo phù hợp thì hiệu quả lãnh đạo thấp, thậm chí vô hiệu hoá cả đường lối,

chủ trương. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của Đảng
ta, cũng là người đầu tiên nêu ra tư tưởng về phương thức lãnh đạo của Đảng
trong các khái niệm “cách tổ chức”, “sách lược của Đảng”, “cách lãnh đạo’’,
“lề lối làm việc”…điều đó có nghĩa là nói “ cách lãnh đạo” là đề cập đến
phương thức lãnh đạo. Vì thế các huyện uỷ phải thực hiện phương thức lãnh
đạo đúng đắn với các cách thức phương pháp lãnh đạo chủ yếu sau:
- Lãnh đạo huyện Hội chữ thập đỏ bằng chủ trương, nghị quyết, Chỉ thị.
Đây là phương thức lãnh đạo cơ bản, phổ biến nhất, xuất phát từ bản chất sự lãnh
đạo của Đảng đối với tổ chức hội nói riêng, hệ thống chính trị nói chung.
- Lãnh đạo huyện hội thông qua công tác tổ chức cán bộ đối với huyện
hội. Đây là cách thức lãnh đạo có tính chất then chốt và hiệu quả bảo đảm tính
nguyên tắc và cũng phù hợp với đặc trưng của tổ chức hội. Bởi vì, nhân đạo là


14
một tiêu chuẩn của văn minh, mà Đảng ta luôn phấn đấu để hướng tới sự dân
chủ và văn minh nên tính nhân đạo phải gắn liền với tính giai cấp.
- Lãnh đạo huyện hội bằng công tác tư tưởng, tổ chức của Đảng. Đây là
phương thức lãnh đạo có tính chất đặc thù, vừa thể hiện tính dân tộc và quốc
tế, thể hiện sự đảm bảo hoạt động của hội phù hợp với 7 nguyên tắc của
phong trào và luật hoạt động chữ thập đỏ Việt Nam.
- Lãnh đạo huyện hội bằng công tác kiểm tra. Đây là phương thức hoạt
động mang tính chất nguyên tắc nhằm kịp thời phát hiện sự sai sót, sai lệch để
hoàn chỉnh các quyết định phát huy những nhân tố mới, mặt tích cực, hạn chế
đến mức thấp nhất những thiếu sót, khuyết điểm.
- Lãnh đạo huyện Hội chữ thập đỏ bằng nhà nước và các cơ quan chức
năng. Đây là sự tác động lãnh đạo của Đảng thông qua chức năng thể chế hoá
chủ trương, nghị quyết của huyện uỷ đối với chính quyền và các tổ chức đoàn
thể xã hội nhằm tạo điều kiện để hội hoàn thành tốt nhiệm vụ.



15
Chương 2
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA HUYỆN UỶ ĐỐI VỚI HỘI CHỮ THẬP ĐỎ
CẤP HUYỆN Ở TỈNH BẮC NINH - THỰC TRẠNG VÀ
NGUYÊN NHÂN
2.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI CHỮ THẬP ĐỎ CẤP HUYỆN
Ở TỈNH BẮC NINH

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Bắc Ninh
2.2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng Sông Hồng, nằm trong tam
giác kinh tế trọng điểm Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh và là cửa ngõ phía
Đông Bắc của thủ đô Hà Nội. Tỉnh có địa giới hành chính tiếp giáp với các
tỉnh: Bắc Giang ở phía Bắc, Hải Dương ở phía Đông Nam, Hưng Yên ở phía
Nam và thủ đô Hà Nội ở phía Tây. Theo số liệu thống kê năm 2010 tỉnh Bắc
Ninh có diện tích tự nhiên 823km2 với tổng dân số 1.038.229 người.
Vùng đất trù phú nơi đây khi xưa vốn là “xứ Kinh Bắc”, nổi tiếng với
nhiều làng nghề và các lễ hội dân gian phong phú diễn ra hàng năm. Vào năm
1822, xứ Kinh Bắc được Nhà Nguyễn đổi tên thành tỉnh Bắc Ninh. Đến tháng
10.1962, theo Nghị quyết của Quốc hội Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
tỉnh Bắc Ninh sáp nhập với tỉnh Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc. Từ đó “Bắc
Ninh” chỉ còn là tên của một đơn vị hành chính trong tỉnh Hà Bắc và có tên
gọi là Thị xã Bắc Ninh. Sau đó, đến ngày 6.11.1996, Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa 9 kỳ họp thứ 10 đã ra Nghị quyết tái lập tỉnh
Bắc Ninh.
Nhìn từ vệ tinh, tỉnh Bắc Ninh nằm ở phía Bắc của đồng bằng châu thổ
Sông Hồng, địa hình tương đối bằng phẳng, được ngăn cách với vùng trung
du và miền núi phía Bắc bởi hệ thống sông Cầu. Ngoài ra, Bắc Ninh còn có



16
hai hệ thống sông lớn là sông Thái Bình và sông Đuống. Hệ thống sông ngòi
đã tạo nên một mạng lưới vận tải đường thủy quan trọng, kết nối các địa
phương trong tỉnh và nối liền tỉnh Bắc Ninh với các tỉnh khác trong vùng
đồng bằng sông Hồng. Ngoài ra, chúng còn tạo điều kiện thuận lợi cho các
hoạt động nông nghiệp và sinh hoạt của dân cư trong tỉnh.
Bắc Ninh ở vị tri thuận lợi về giao thông đường bộ và đường không.
Các tuyến đường huyết mạch: Quốc lộ 1A, 1B, quốc lộ 18, quốc lộ 38, đường
sắt Hà Nội- Lạng Sơn, Hà Nội- Quảng Ninh nối liền Bắc Ninh với các trung
tâm kinh tế, văn hóa và thương mại của khu vực phía Bắc Việt Nam, với cảng
hàng không quốc tế Nội Bài và liên thông với hệ thống các trục đường quốc
lộ đến với mọi miền trong cả nước.
Bắc Ninh không giàu về tài nguyên khoáng sản và cũng ít tài nguyên
rừng, nhưng vô cùng phong phú về tài nguyên nhân văn. Đây là một trong
những miền quê “địa linh nhân kiệt”, một trong những nơi hội tụ nhiều nhất
các di tích lịch sử, văn hóa. Tiêu biểu là chùa, đền, đình, miếu, các loại hình
nghệ thuật dân gian gắn liền với các lễ hội, các làng nghề truyền thống. Đặc
biệt, các làn điệu dân ca quan họ không những đã trở thành di sản văn hóa của
cả nước mà còn vượt qua mọi không gian, thời gian đến với bạn bè quốc tế.
2.1.2. Thực trạng công tác Hội chữ thập đỏ cấp huyện
ở tỉnh Bắc Ninh
2.1.2.1. Những ưu điểm trong hoạt động của các huyện hội
Cùng với sự phát triển và trưởng thành của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam,
Hội chữ thập đỏ Bắc Ninh ra đời. Tiếp tục phát huy truyền thống nhân ái trên
quê hương xứ Kinh Bắc. Hội đã tích cực tham gia giúp đỡ, cấp cứu và chăm
sóc thương bệnh binh trong chiến tranh. Nhiều cán bộ, hội viên, người tình
nguyện đã hy sinh xương máu vì nền độc lập của đất nước. Hoà bình lập lại
Hội lại tiếp tục sứ mệnh của mình: chăm sóc, giúp đỡ những đối tượng chính



17
sách xã hội, nạn nhân chiến tranh, nạn nhân chất độc da cam, những người có
hoàn cảnh khó khăn, nạn nhân thiên tai… nhằm cải thiện đời sống của nhân
dân giúp họ hoà nhập.
Với mục đích và tôn chỉ của mình Hội chữ thập đỏ Bắc Ninh luôn đi đầu
trong mọi hoạt động nhân đạo, được cấp uỷ, chính quyền địa phương, các tầng
lớp nhân dân trong tỉnh quan tâm giúp đỡ, ủng hộ, được Trung ương Hội Chữ thập
đỏ Việt Nam đánh giá cao và ghi nhận những thành tích của cán bộ, hội viên,
thanh thiếu niên, tình nguyện viên chữ thập đỏ đã đạt được, góp phần xây dựng
quê hương Bắc Ninh anh hùng.
Cùng với công cuộc đổi mới của đất nước các huyện hội trong tỉnh đã
quan tâm đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của mình cho phù hợp
với điều kiện cụ thể của địa phương trong từng giai đoạn cách mạng nhằm
nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động. Kiên trì bám sát quan điểm đường
lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, các nguyên tắc hoạt động
của phong trào chữ thập đỏ quốc tế, xuất phát từ nhu cầu của các đối tượng
dễ bị tổn thương nên hoạt động của hội ngày càng thiết thực đạt hiệu quả
cao cả về mặt giá trị trợ giúp đối tượng và giá trị nhân đạo. Phương châm
xã hội hoá hoạt động nhân đạo thông qua việc phối hợp chặt chẽ với các
ngành các cấp cùng làm nhân đạo từ thiện đồng thời chuyển hướng từ cứu
trợ nhân đạo khẩn cấp nặng tính từ thiện, sang cứu trợ nhân đạo phát triển
bền vững, coi đó là định hướng để thúc đẩy hoạt động mà các huyện hội
đang hướng tới.
* Thực trạng về mặt tổ chức
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội mạng lưới tổ chức Hội chữ
thập đỏ cấp huyện đã không ngừng củng cố và phát triển cả về số lượng và
chất lượng, cả về quy mô và nội dung, phương thức hoạt động.



18
Hầu hết các ban chấp hành huyện hội, hội cơ sở đã ban hành quy chế tổ
chức và hoạt động Hội chữ thập đỏ, hướng dẫn tiêu chuẩn thang điểm thi đua
hàng năm, xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá các chi hội, hội cơ sở về các mặt
hoạt động chủ yếu của hội phù hợp với điều kiện hoạt động của các loại hình:
chi Hội chữ thập đỏ xã phường thị trấn, chi Hội chữ thập đỏ trường học, chi
Hội chữ thập đỏ của các cơ quan. Vì vậy, mọi chế độ làm việc, sinh hoạt và
báo cáo cơ bản được thực hiện đầy đủ và nghiêm túc hệ thống tổ chức hội
không ngừng được củng cố và phát triển, cân đối giữa các vùng miền, không
còn địa bàn trắng tổ chức Hội chữ thập đỏ ngay cả những huyện khó khăn như
Yên Phong, Quế Võ, Lương Tài...
* Thực trạng về các mặt hoạt động của công tác hội
Công tác tuyên truyền và huấn luyện thường xuyên được các huyện
hội xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong phong trào và hoạt
động của các cấp hội. Nhằm nâng cao nhận thức đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động từng bước đáp ứng với yêu cầu cao trong công tác công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước trong cơ chế thị trường và xu thế hội nhập
hiện nay. Vì vậy, các ban chấp hành huyện hội đã xây dựng kế hoạch tuyên
truyền, huấn luyện theo từng hoạt động cũng như công việc của cả năm, cả
nhiệm kỳ. Nội dung tuyên truyền nhằm nâng cao hiểu biết và thực hiện đường
lối chủ trương của Đảng và Nhà nước; tuyên truyền các ngày kỷ niệm lễ lớn
hàng năm của đất nước quê hương và của tổ chức Hội chữ thập đỏ; về lịch sử
phong trào Chữ thập đỏ - Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế và Chữ thập đỏ Việt
Nam; tuyên truyền các phong trào thi đua yêu nước, nhân đạo, từ thiện, kiến
thức y học thường thức, phòng chống dịch bệnh, cách phòng ngừa thảm hoạ
thiên tai và các tệ nạn xã hội; tuyên dương các điển hình tiên tiến phổ biến các
mô hình hoạt động nhân đạo có hiệu quả …


19

Tổ chức tập huấn nâng cao kiến thức về phòng ngừa thảm hoạ cho
2.816 giáo viên và 164.500 học sinh tại các trường tiểu học cho các huyện
trọng điểm thiên tai, lũ lụt. Tập huấn kỹ năng cứu hộ cứu nạn cho 2.700
cán bộ hội viên thanh thiếu niên chữ thập đỏ xung kích, lồng ghép nội dung
tập huấn cho 44.500 lượt người có hiểu biết kiến thức về chăm sóc sức
khoẻ ban đầu.
Thông qua hoạt động tuyên truyền huấn luyện đã động viên khích lệ
các phong trào thi đua, phát hiện và xây dựng các mô hình điển hình tiên tiến, biểu
dương kịp thời gương người tốt việc tốt, từng bước nâng cao nhận thức, hiểu biết
của nhân dân về hoạt động nhân đạo. Đặc biệt là nâng cao năng lực chuyên môn
nghiệp vụ công tác hội cho cán bộ, hội viên thanh thiếu niên và người tình nguyện
để họ thực sự là nòng cốt trong hoạt động nhân đạo, từng bước xã hội hoá hoạt
động công tác chữ thập đỏ trên địa bàn huyện thị thành phố.
* Công tác xã hội và cứu trợ nhân đạo
Các cấp hội xác định công tác cứu trợ xã hội là trọng tâm hàng đầu
trong đó ưu tiên hoạt động cứu trợ nhân đạo và tham gia phòng ngừa thảm
hoạ, giảm nhẹ thiên tai. Hoạt động nhân đạo của hội đã góp phần thực hiện
các chính sách xã hội của Đảng, nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương.
Nhiều đơn vị đã duy trì tốt phong trào tương thân tương ái và cứu trợ
xã hội trong những năm qua điển hình là: Thành phố Bắc Ninh, huyện Tiên
Du, Từ Sơn...
* Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân
Nội dung cơ bản là chăm sóc sức khoẻ ban đầu, tuyên truyền giáo dục
kiến thức y học thường thức cho hội viên và nhân dân, rèn luyện 10 điều y
đức của cán bộ hội viên là thầy thuốc trong khám chữa bệnh là trọng tâm. Các
huyện hội đã xây dựng kế hoạch phối hợp với phòng y tế, các bệnh viện chỉ


20

đạo nội dung hoạt động chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh, sơ cấp cứu ban
đầu tại các trung tâm phòng chống giảm nhẹ thiên tai trạm cấp cứu biển, các
trạm y tế chữ thập đỏ, phòng khám nhân đạo, tổ ứng phó nhanh trong thảm
hoạ, các đội thanh thiếu niên chữ thập đỏ xung kích đã kịp thời sơ cấp cứu tai
nạn thương tích, tai nạn giao thông cho các nạn nhân.
Tham gia tuyên truyền phòng chống dịch cúm gia cầm, dịch lợn tai
xanh, dịch tiêu chảy cấp, cúm AH1N1 với hàng nghìn đợt tuyên truyền và
hàng trăm nghìn tờ rơi…
* Công tác xây dựng quỹ.
Hầu hết các huyện hội đều tổ chức có hiệu quả hoạt động xây dựng quỹ
hội để đảm bảo chủ động nguồn lực cho hoạt động cứu trợ nhân đạo với
phương châm khai thác và phát huy nguồn lực tại chỗ là chủ yếu để cộng
đồng tự chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau đồng thời không ngừng mở rộng quan hệ để
tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài. Từ nguồn lực cộng đồng với nguồn lực mà
các huyện hội đã tham mưu cho cấp uỷ chính quyền hỗ trợ ngân sách của nhà
nước, hỗ trợ bằng chủ trương đóng góp để có được nguồn lực ổn định cho
hoạt động của hội.
Nhờ nguồn quỹ này, các cấp hội đã chủ động hơn trong việc cứu trợ tại
chỗ, cứu trợ khẩn cấp trước những thảm hoạ, thiên tai, hỗ trợ cho đấp uỷ
Đảng và chính quyền địa phương trong việc ổn định an sinh xã hội. Từ đó, uy
tín của hội được nâng lên tạo điều kiện cho các cấp hội củng cố phát triển tổ
chức và hoạt động đạt kết quả cao hơn.
* Công tác hoạt động phối hợp.
Các cấp hội xác định sự nghiệp nhân đạo là của toàn xã hội. Trong
những năm qua, các huyện hội đã thấu suốt nhận thức đó để làm tốt quan hệ
phối kết hợp giữa Hội chữ thập đỏ với các ban ngành đoàn thể nhất là Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên, Y tế, Giáo dục, Lao động thương


21

binh và xã hội, Bảo hiểm xã hội, lực lượng vũ trang là yếu tố quan trọng
quyết định thành công của phong trào. Hàng năm các huyện hội đã trực tiếp
đấu mối chương trình hành động với các tổ chức và đoàn thể theo sự cam kết
trách nhiệm giữa Hội chữ thập đỏ tỉnh với các ban ngành đoàn thể cấp tỉnh để
xây dựng cơ chế phối hợp, nội dung phối hợp, hình thức phối hợp… nhằm tuyên
truyền và nâng cao hiệu quả hoạt động nhân đạo ở các địa phương đơn vị.
* Đánh giá chung.
Hơn 60 năm xây dựng và phát triển của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, 22
năm Chỉ thị 14 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI ra đời, hoạt
động nhân đạo từ thiện dưới lá cờ chữ thập đỏ đã vươn cao và vươn xa trên
mọi miền Tổ quốc góp phần cùng dân tộc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi
mới. Nhận thức rõ sứ mệnh cao cả: “Nhân đạo - hoà bình - hữu nghị” các tổ
chức hội, các huyện hội ở tỉnh Bắc Ninh thường xuyên bám sát tôn chỉ mục
đích của phong trào gắn với nhiệm vụ chính trị của địa phương luôn luôn đổi
mới cả về nội dung và phương thức hoạt động. Phát huy truyền thống nhân ái,
tình thương yêu con người của người dân xứ Kinh Bắc: “Thương người như
thể thương thân”, Hội đã không ngừng củng cố tổ chức, tập hợp lực lượng,
nâng cao chất lượng hoạt động, mở rộng địa bàn, thường xuyên trau dồi kỹ
năng hoạt động từng bước chuyên nghiệp hoá hoạt động nhân đạo từ thiện.
Trong mỗi hoạt động nhân đạo, cùng với sự hỗ trợ vật chất cho các đối tượng
dễ bị tổn thương, sự hỗ trợ, chia sẻ về tinh thần cùng với nêu cao tinh thần
đoàn kết hữu nghị cộng đồng để quảng bá và tuyên truyền những giá trị nhân
đạo của dân tộc và nhân loại.
2.1.2.2. Hạn chế
Đất nước trong giai đoạn đổi mới, những vấn đề về chính sách xã hội,
an sinh xã hội đang phải đối mặt với một thực tiễn của sự phân hoá giàu
nghèo, sự phân tầng xã hội, các chuẩn giá trị đạo đức xã hội cũng cần có một


22

quan niệm mới phù hợp với điều kiện cụ thể. Công tác nhân đạo từ thiện cần
phải phù hợp với nhu cầu mới và hoàn cảnh mới. Tuy các huyện hội đã cố
gắng tuyên truyền, để xã hội cùng nhận thức chung chia sẻ với những mảnh
đời éo le, bất hạnh, song, so với hoàn cảnh và yêu cầu còn bộc lộ không ít
những hạn chế và tồn tại. Cụ thể như sau:
Việc xây dựng mô hình, nhân các điển hình tiên tiến, tuy có được đặt ra
và tập trung chỉ đạo nhưng không đồng bộ về quy trình xây dựng, phần lớn là
tự phát, do lòng hảo tâm, hướng thiện, do nhiệt tình của một bộ phận lãnh
đạo hoặc một số cá nhân mà có được phong trào nên mô hình không mang
tính thuyết phục cao hoặc mô hình mới xuất hiện chưa tự khẳng định được vị
thế của nó thì đã bộc lộ những thiếu sót, hạn chế.
* Hoạt động vận động chính sách là giải pháp quan trọng để giúp các tổ
chức hội tháo gỡ khó khăn, mở rộng môi trường và điều kiện hoạt động, hiện
nay, các huyện hội ở tỉnh Bắc Ninh đang từng bước tập trung làm chuyển biến
nhận thức và đạt được nhiều kết quả song so với yêu cầu và xu thế phát triển
còn bộc lộ khá nhiều tồn tại, hạn chế ở các cấp hội nhất là hội cơ sở. Từ chế
độ đãi ngộ cho cán bộ hội theo Nghị định 121/NĐ-CP năm 2004 còn nhiều
bất cập chưa được thực hiện đồng bộ ở tất cả các hội cơ sở nên một bộ phận
cán bộ chuyên trách công tác hội còn dao động, thiếu nhiệt tình, chưa tạo
được động lực để động viên tinh thần, vật chất, thu hút gắn bó cán bộ hội viên
với tổ chức hội.
* Công tác tuyên truyền của các cấp hội để làm chuyển biến nhận thức
trách nhiệm của toàn xã hội với công tác chữ thập đỏ nói riêng hoạt động chữ
thập đỏ nói chung chưa ngang tầm với những yêu cầu nhiệm vụ trong hoàn
cảnh mới mà Đảng ta đã đề ra: tăng trưởng kinh tề gắn liền với tiến bộ và
công bằng xã hội. Tuyên truyền giá trị nhân đạo trong điều kiện mới gắn với
lợi ích của các cá nhân và tập thể phải là một việc làm công phu, phải nhạy


23

cảm nhưng nhiều tổ chức hội còn xơ cứng, khuôn mẫu nên chưa động viên
kịp thời hoạt động nhân đạo - từ thiện sẵn có ở các cá nhân tập thể
2.1.2.3. Nguyên nhân của thực trạng
* Nguyên nhân của ưu điểm
- Huyện hội và các hội cơ sở đã bám sát mục tiêu nghị quyết của đại
Hội chữ thập đỏ các cấp gắn với mục tiêu kinh tế - xã hội ở địa phương để thể
chế hoá thành nội dung và phương thức hoạt động phù hợp với điều kiện thực
tiễn của từng vùng miền, từng loại mô hình tổ chức hội. Đồng thời đã phát
huy tinh thần đoàn kết nỗ lực vươn lên của đội ngũ hội viên, thanh thiếu niên
tình nguyện cùng với sự nhiệt tình, năng động sáng tạo của những người cán
bộ hội đã cổ cũ động viên lòng nhân ái, thương yêu con người sẵn có ở vùng
quê xứ Kinh Bắc - cái nôi văn hoá đã góp phần làm nên những kết quả đáng
khích lệ trên.
- Trung ương Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Hiệp hội quốc tế và các tổ
chức chữ thập đỏ quốc gia, các tổ chức phi chính phủ đã góp phần tích cực,
ủng hộ cả về tinh thần và vật chất, hợp tác có hiệu quả, để các huyện hội có
điều kiện hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.
* Nguyên nhân của hạn chế.
- Một số huyện hội ở một số hoạt động của các cấp hội còn thiếu tập
trung, chưa có tính chủ động trong việc xây dựng kế hoạch, nhất là kế hoạch
củng cố và phát triển tổ chức hội nội dung và phương thức hoạt động chưa kịp
đổi mới phù hợp với xu thế hội nhập trong điều kiện tình hình mới (đánh giá
nhu cầu chưa chính xác, chưa kịp thời thậm chí còn chưa có sự chuẩn bị về
khảo sát nhu cầu, chuẩn bị nguồn lực). Trong điều kiện đội ngũ cán bộ hội
năng lực trình độ chưa đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp nhân
đạo mà Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới nên hoạt động hội số đơn vị hội
yếu kém và trung bình còn cao.


24

- Công tác phối kết hợp giữa huyện hội với các ban ngành đoàn thể, các
tổ chức liên quan để tham gia hoạt động nhân đạo từ thiện nhất là hoạt động
công tác xã hội và cứu trợ nhân đạo, tuyên truyền các giá trị nhân đạo còn hạn
chế về biện pháp và hiệu quả chưa cao.
2.2. THỰC TRẠNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA HUYỆN UỶ ĐỐI VỚI HỘI CHỮ
THẬP ĐỎ CẤP HUYỆN Ở TỈNH BẮC NINH.

2.2.1. Những ưu điểm về sự lãnh đạo của huyện uỷ đối với Hội chữ
thập đỏ cấp huyện
a. Về thực hiện nội dung lãnh đạo
* Các cấp uỷ đảng đã kịp thời ban hành các chỉ thị, nghị quyết về công
tác nhân đạo, từ thiện làm cơ sở định hướng hướng cho các hoạt động chữ
thập đỏ.
Nắm vững quan điểm chủ trương của Đảng về công tác vận động quần
chúng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8B khoá VI về đổi mới công tác
quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ của Đảng với nhân dân; Chỉ
thị 14-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VI) về “củng cố tổ
chức, phát huy tác dụng tích cực của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam”. Các huyện
uỷ đã thường xuyên quan tâm đến việc định hướng về chính trị về phương
hướng hoạt động của Hội chữ thập đỏ trong cá nghị quyết đại hội nhiệm kỳ và
các chương trình công tác hàng năm gắn với hoạt động công tác vận động
quần chúng, công tác vận động các tổ chức hội. Nhạy bén trước tình hình và
yêu cầu của quá trình đổi mới của Đảng từ năm 1998 hầu hết các huyện uỷ đã
ra nghị quyết tăng cường củng cố tổ chức bộ máy huyện hội. Các nghị quyết
đã khẳng định sự cần thiết phải củng cố và phát huy tác dụng tích cực của Hội
chữ thập đỏ đồng thời nêu rõ tầm quan trọng của hoạt động nhân đạo từ thiện
nói chung và công tác chữ thập đỏ ở cấp huyện nói riêng.



×