Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO KINH tế CHÍNH TRỊ đề CƯƠNG ôn THI môn địa lý KINH tế SAU đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.71 KB, 28 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI MÔN ĐỊA LÝ KINH TẾ - SAU ĐẠI HỌC
Câu 1. đặc điểm giới hạn lãnh thổ, VTĐL, ý nghĩa
1. Đặc điểm phạm vi lãnh thổ
- Toạ độ địa lý trên đất liền: Điểm cực Bắc 23023'B (xã Lũng Cú, Đồng Văn, Hà
Giang). Điểm cực Nam 8034'B (Xóm Mũi, xã Đất Mũi, Ngọc Hiển, Cà Mau). Điểm cực
Tây 102010'Đ (dãy Khoan La San, xã Sìn Thầu, Mường Nhé, Điện Biên). Điểm cực
Đông 109024'Đ (trên bán đảo Hòn Gốm thuộc xã Vạn Thạnh, Vạn Ninh - Khánh Hòa).
Lãnh thổ nước ta hẹp ngang, trải dài trên nhiều vĩ độ
Diện tích tự nhiên 331.212,1 km2
+Đất liền: Biên giới Việt-Trung dài > 1.400km, phần lớn dựa theo núi, sông tự nhiên
và những hẻm núi hiểm trở. Tất cả đã cắm mốc, phân định và đi vào lịch sử (hoàn thiện
mốc biên giới 02/2009).
Biên giới với CHDCND Lào > 2.067km, phần lớn dọc theo đỉnh của các dãy núi, đã
được cắm mốc biên giới (cùng các Văn bản, Nghị định kèm theo). Dãy Trường Sơn
(Phuluông-theo tiếng Lào), biên giới giữa 2 nước như là một xương sống chung, được
chia ra nhiều đoạn với những đèo thấp như Nabẹ (có QL8), Lao Bảo (có QL9) cắt
ngang,.v.v. Tất cả đều không gây trở ngại cho sự giao lưu giữa 2 nước, mà trái lại còn
mở ra những tuyến giao thông quan trọng nối liền thung lũng sông Mê Công ở phía
trong với biển Đông ở phía ngoài.
Biên giới với Cămpuchia dài > 1.080km, phần lớn xuyên qua các vùng đồi thoải, đổ từ
cao sơn nguyên Tây Nguyên Việt Nam xuống miền Đông Cămpuchia, từ phía Tây Nam
thị xã Tây Ninh trở đi nó chạy qua vùng đồng bằng hạ lưu sông Mê Công.
+ Trên biển.
Việt Nam có vùng thềm lục địa rộng khoảng 1,0 triệu km 2 cùng hệ thống các đảo quần đảo. Các đảo ven bờ (cách bờ ~100 km) có 2.773 đảo, diện tích 1720 km 2. Các đảo
xa bờ gồm 2 quần đảo Hoàng Sa (Đà Nẵng) và Trường Sa (Khánh Hòa). Vùng biển nước
ta bao gồm vùng nội thủy, lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và vùng
thềm lục địa.
Căn cứ vào Công ước Quốc tế về luật biển và Tuyên bố của Chính phủ nước
CHXHCNVN ngày 12/11/1982, có thể khẳng định một số điểm sau:
- Đường cơ sở (để xác định vùng nội thủy; lãnh hải; tiếp giáp lãnh hải). Được xác
định dựa trên cơ sở các điểm chuẩn của các mũi đất và các đảo ven bờ. Bên trong đường


cơ sở là vùng nội thủy, mặc dù ở trên biển nhưng vẫn được coi là lãnh thổ đất liền; Như
vậy, diện tích lãnh thổ nước ta (nếu tính từ đường cơ sở) rộng trên 560.000km2.
- Lãnh hải. Được xác định là 12 hải lý (1 hải lý = 1.858m) chạy song song cách đều
đường cơ sở về phía biển và đường phân định trên các vịnh với các nước hữu quan.
Ranh giới này được coi là biên giới quốc gia trên biển.
- Vùng tiếp giáp lãnh hải. Được tính 12 hải lý (tính từ mép ngoài đường lãnh hải).
Vùng này hợp với lãnh hải thành vùng biển rộng 24 hải lý. Việt Nam có quyền bảo vệ an
ninh; kiểm soát thuế quan; qui định về y tế, môi trường, di cư, nhập cư.
- Vùng đặc quyền kinh tế. Được xác định rộng 200 hải lý (tính từ mép ngoài đường cơ
sở). Việt Nam có quyền lợi hoàn toàn, riêng biệt về kinh tế như thăm dò, khai thác, bảo
vệ, sử dụng và quản lý tất cả các nguồn tài nguyên thiên nhiên; Quyền thiết lập các công
trình đảo nhân tạo; quyền riêng biệt về nghiên cứu khoa học, bảo vệ, chống ô nhiễm môi
trường biển...
- Vùng thềm lục địa. Bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài
tự nhiên của lục địa Việt Nam mở rộng ra ngoài lãnh hải cho đến rìa ngoài của lục địa


(nơi nào chưa đến 200 hải lý được tính đến 200 hải lý). Việt Nam có quyền hoàn toàn về
thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các nguồn tài nguyên ở thềm lục địa.
+ Vùng trời. Là khoảng không gian (không giới hạn độ cao) trên đất liền, vùng nội
thuỷ, lãnh hải và các hải đảo thuộc chủ quyền hoàn toàn của Việt Nam.
2. đặc điểm vị trí địa lý Việt Nam
- Vị trí: Nước ta nằm ở rìa Đông của bán đảo Đông Dương;
+ Nội chí tuyến BBC
+ Phía đông bán đảo DD, trung tâm KV ĐNA, cầu nối ĐNA đất liền với hải đảo
+ Đất liền tiếp giáp Trung quốc, Lào, Campuchia
+Nằm trong vị trí chung chuyển giao thông của khu vực và trên thế giới
+ Nằm trong khu vực châu Á, TBD, là khu vực có nền kinh tế năng động
+ Có vị trí, thế mạnh về quốc phòng
3. Ý nghĩa của vị trí địa lí và phạm vi lãnh thổ Việt Nam

a. Đối với việc hình thành lãnh thổ tự nhiên. Vị trí địa lí đã qui định đặc điểm cơ
bản của thiên nhiên nước ta mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa:
Do nằm hoàn toàn trong vùng nội chí tuyến Bắc Bán Cầu nóng ẩm, ở giữa vùng gió
mùa châu Á (khu vực gió điển hình nhất trên thế giới) khí hậu nước ta có 2 mùa rõ rệt:
mùa Đông bớt nóng và khô và mùa Hạ nóng và mưa nhiều.
Do ở vị trí tiếp giáp với Biển Đông, đây là nguồn dự trữ rất dồi dào về nhiệt và ẩm,
đồng thời cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển, vì thế thảm thực vật ở nước ta quanh
năm xanh tốt, giàu sức sống khác hẳn với các nước có cùng vĩ độ (Tây Nam Á và châu
Phi)
Do nằm ở vị trí tiếp giáp giữa lục địa và đại dương trên vành đai sinh khoáng châu Á –
Thái Bình Dương cùng các hoạt động mác ma ứng cho nên tài nguyên khoáng sản của
Việt Nam khá đa dạng.
Do nằm ở nơi giao thoa của các luồng thực-động vật thuộc các khu hệ Hymalaya,
Malaixia-Inđônêxia và Ấn Độ-Mianma, các luồng di cư này diễn ra chủ yếu vào thời kỳ
Tân kiến tạo làm cho khu hệ thực-động vật của nước ta càng thêm phong phú.
Do vị trí và hình dáng lãnh thổ cũng đã tạo nên sự phân hóa đa dạng của tự nhiên ,
hình thành các vùng tự nhiên khác nhau, bổ sung cho nhau trong sự phát triển kinh tế xã hội (giữa M.Bắc -Nam; giữa miền núi-đồng bằng, ven biển, hải đảo)
Hạn chế: Nước ta nằm trong vùng có nhiều thiên tai trên thế giới (bão, lũ lụt, hạn hán)
thường xuyên xảy ra, vì vậy cần phải có biện pháp phòng chống tích cực và chủ động.
b. Đối với phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội
- Do nằm trên đường vành đai sinh khoáng đo đó, có các nguồn tài nguyên phong phú
đa dạng, tạo điều kiện để phát triển các ngành công nghiệp, nông nghiệp và các ngành
kinh tế biên
- Việt Nam nằm ở ngã tư đường hàng hải và hàng không quốc tế quan trọng cùng với
các cảng biển (Cái Lân, Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn); Các sân bay quốc tế (Nội Bài,
Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng); Các tuyến đường bộ, đường sắt Xuyên Á... đã tạo điều kiện
thuận lợi để trao đổi, giao lưu với các nước xung quanh. Việt Nam còn là cửa ngõ thông
ra biển của Lào, Thái Lan, Đông Bắc CPC và khu vực Tây Nam Trung Quốc.
- Vị trí địa lí và hình dáng lãnh thổ nước ta đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành
các đặc điểm của tự nhiên; Từ đó ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương thức khai thác tài

nguyên; Tới sự tổ chức lãnh thổ kinh tế quốc dân (đặc biệt là việc tổ chức các trung tâm,
hạt nhân phát triển của vùng); Đồng thời cũng ảnh hưởng tới các mối liên hệ nội-ngoại
vùng cũng như mối liên hệ kinh tế quốc tế.


- Về văn hóa – xã hội, do ở vị trí liền kề cùng với nhiều nét tương đồng về tự nhiên,
kinh tế, văn hóa, lịch sử và mối giao lưu lâu đời với các nước trong khu vực đã tạo điều
kiện thuận lợi cho việc chung sống hòa bình, hợp tác hữu nghị và cùng phát triển với các
nước (nhất là các nước láng giềng). Hơn nữa, vị trí địa lí cũng ảnh hưởng lớn đến sự
hình thành cộng đồng các dân tộc Việt Nam, một quốc gia đa dân tộc và có nền văn hóa
đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hóa văn hóa thế giới.
c. Đối với an ninh - quốc phòng (AN - QP).
- Theo quan điểm địa lý chính trị và địa lý quân sự, nước ta có vị trí đặc biệt quan
trọng ở khu vực Đông Nam Á: Do nằm ở nơi tiếp giáp giữa Đông Nam Á (lục địa) và
Đông Nam Á (hải đảo), một khu vực giàu tài nguyên, một thị trường có sức mua đang
tăng, một vùng kinh tế rất năng động. Như vậy, đây là nơi rất hấp dẫn với các thế lực đế
quốc thù địch, mặt khác đây cũng là khu vực rất nhạy cảm trước những biến chuyển
trong đời sống chính trị thế giới.
- Vấn đề an ninh – quốc phòng còn đặt ra trên đất liền Việt Nam có đường biên giới rất
dài với các nước láng giềng (4500km): Dọc biên biên giới với Trung Quốc và Lào núi
liền núi, sông liền sông, không có những trở ngại lớn về tự nhiên, (ngược lại) có các
thung lũng, đèo thấp thông với các nước láng giềng; Với Cămpuchia, không có biên giới
tự nhiên, mà là châu thổ mênh mông trải dài từ Cà Mau đến tận Biển Hồ (việc xác định
mốc biên giới giữa hai nước còn là vấn đề cần đàm phán để thống nhất).
- Vấn đề an ninh – quốc phòng còn đặt ra với đường biên giới trên biển: Bờ biển nước
ta dài (3260km), giáp với rất nhiều nước như Trung Quốc, Đài Loan, Inđônêxia,
Malaixia, Philipin, Brunây, Xingapo, Thái Lan, Cămpuchia. Biển Đông rất giàu tài
nguyên tôm, cá,... Thềm lục địa rất giàu tài nguyên khoáng sản (dầu khí...), lại án ngữ
đường biển quốc tế nối hai đại dương lớn Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương. Vì vậy,
biển Đông có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nước ta về mặt chiến lược đối với kinh

tế, an ninh – quốc phòng.
Vấn đề tranh chấp trên biển đông hiện nay….
Như vậy, nét khá độc đáo của vị trí địa lý nước ta là: Nằm ở nơi gặp gỡ, giao thoa
của nhiều hệ thống tự nhiên, của nhiều nền văn hoá lớn trên thế giới và các luồng di cư
trong lịch sử; Ở vị trí cầu nối giữa Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo. Cũng
chính vì thế, đã làm cho thiên nhiên nước ta trở nên đa dạng và phong phú mà nhiều nơi
trên thế giới không có được; Cũng tại khu vực này trong chiến tranh (nóng - lạnh) còn là
nơi tập trung nhiều mâu thuẫn lớn, trong xây dựng lại là nơi hội tụ nhiều cơ hội phát
triển.
Câu 2: Chứng minh việt nam có nguồn tài nguyên nước phong phú. Ý nghĩa của
nguồn tài nguyên nước mặt. Vấn đề sử dụng tài nguyên nước hiện nay?
1. việt nam có nguồn tài nguyên nước phong phú
Theo Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020, Việt Nam có khoảng
2.372 con sông lớn nhỏ có chiều dài từ 10km trở lên, trong đó ở miền bắc có Hệ thống
sông Hồng và hệ thống sông TháI Bình. Sông ngòi miền Trung gồm những sông chính
sau: sông Mã; sông Cả, sông Gianh, sông Bến HảI, sông Cam Lộ, sông Hương, sôngThu
Bồn, sông Trà Khúc, sông Đà Rằng...; ở Nam Bộ cũng gồm 2 hệ thống sông chính là:
sông Đồng Nai, sông CửuLong.


Tổng lượng dòng chảy sông ngòi trung bình hàng năm của nước ta bằng khoảng 847
km3, trong đó tổng lượng ngoài vùng chảy vào là 507 km3 chiếm 60% và dòng chảy nội
địa là 340 km3, chiếm 40%.
Nếu xét chung cho cả nước, thì tài nguyên nước mặt của nước ta tương đối phong phú,
chiếm khoảng 2% tổng lượng dòng chảy của các sông trên thế giới, trong khi đó diện
tích đất liền nước ta chỉ chiếm khoảng 1,35% của thế giới. Tuy nhiên, một đặc điểm
quan trọng của tài nguyên nước mặt là những biến đổi mạnh mẽ theo thời gian và còn
phân bố rất không đều giữa các hệ thống sông và các vùng.
Tổng lượng dòng chảy năm của sông Mê Kông bằng khoảng 500 km3, chiếm tới 59%
tổng lượng dòng chảy năm của các sông trong cả nước, sau đó đến hệ thống sông Hồng

126,5 km3 (14,9%), hệ thống sông Đồng Nai 36,3 km3 (4,3%), sông Mã, Cả, Thu Bồn
có tổng lượng dòng chảy xấp xỉ nhau, khoảng trên dưới 20 km3 (2,3 - 2,6%), các hệ
thống sông Kỳ Cùng, Thái Bình và sông Ba cũng xấp xỉ nhau, khoảng 9 km3 (1%), các
sông còn lại là 94,5 km3 (11,1%).
Bên cạnh đó, Việt Nam có rất nhiều các loại hồ tự nhiên, hồ đập, đầm phá, vực nước
có kích thước khác nhau tùy thuộc vào mùa. Một số hồ lớn được biết đến như hồ Lắk
rộng 10km2 tại tỉnh Đắk Lắk, Biển Hồ rộng 2,2km2 ở Gia Lai, hồ Ba Bể rộng 5km2 tại
Bắc Kạn và hồ Tây rộng 4,5km2 tại Hà Nội. Các đầm phá lớn thường gặp ở cửa sông
vùng duyên hải miền Trung như Tam Giang, Cầu Hai và Thị Nại.
Việt Nam còn có hàng ngàn hồ đập nhân tạo với tổng sức chứa lên đến 26 tỷ m3 nước.
Sáu hồ lớn nhất có sức chứa trên 1 tỷ m3 đang được sử dụng để khai thác thủy điện là hồ
Hòa Bình, Thác Bà, Trị An, Dầu Tiếng, Thác Mơ và Ya Ly. Nhiều hồ và đập nhỏ hơn
trên khắp toàn quốc phục vụ tưới tiêu như Cấm Sơn-Bắc Giang, Kể Gỗ-Hà Tĩnh và Phú
Ninh-Quảng Nam. Theo số liệu thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, cả nước
hiện có hơn 3.500 hồ chứa lớn nhỏ và khoảng 650 hồ chứa cỡ lớn và trung bình dùng để
sản xuất thủy điện, kiểm soát lũ lụt, giao thông thủy, thủy lợi và nuôi trồng thủy sản.
Nước ngầm là nguồn nước có tiềm năng trữ lượng lớn, đặc biệt là ở Đồng bằng Bắc
Bộ và Nam Bộ. Tài nguyên nước ven biển và các vùng đất ngập nước nội địa có tầm
quan trọng cao cho việc bảo tồn, duy trì chức năng sinh thái và đa dạng sinh học đất
ngập nước. Tiêu biểu như hồ Ba Bể, Cần Giờ và Chàm Chim.
2. Ý nghĩa tài nguyên nước mặt
Tài nguyên nước sông là thành phần chủ yếu và quan trọng nhất, được sử dụng rộng
rãi trong đời sống và sản xuất. Do đó, tài nguyên nước nói chung và tài nguyên nước mặt
nói riêng là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của một vùng
lãnh thổ hay một quốc gia
- Giá trị với N2:
sông ngòi nước ta có trữ lượng nước lớn 853 tỉ m3 đã cung cấp nguồn nước tưới rất
cần thiết với pháttriển N2, đặc biệt nền N2 nước ta là nền N2 lúa nước: 1 ha lúa nước
cần từ 15000 - 60000 m3/năm.
Sông ngòi nước ta có hàm lượng phù sa lớn chính đó là nguồn phân bón tựnhiên rất tốt

bồi đắp cho đồng bằng càng thêmmàu mỡ. Đồng thời phù sa sông ngòi còn có giá trị bồi
đắp cho đồng bằng làm cho đồng bằng ngày càng mở rộng thêm về phía biển. Nhờvậy
mà nhân dân ta có thể tiến hành quai đê lấn biển mở rộng thêm S trồng trọt.


Sông ngòi còn là địa bàn rất tốt với nuôI trồng thuỷ sản nước ngọt, lợ: tôm,cá và trồng
rong câu. Đồng thời cũng là nơI để vớt cá giống phục vụ cho mục đích nuôI thuỷ sản
trong các hộ kinh tế gia đình.
Đối với phát triển N2 thì sông ngòi cũng gây không ít khó khăn khi gây lụt, phá hoạI
mùa màng.
- Giá trị với phát triển công nghiệp:
vì chảy qua những vùng có độ dốc lớn nên hệ thống sông ngòi tạo ra trữlượng thuỷ
điện rất lớn với tổng công suất thuỷđIện của cả nước từ 20 - 30 triệukW tương đương
260 – 270 tỉ kWh. Trong đó nguyên hệ thống sông Hồng đãchiếm 11 tr kW,sông Đà 6 tr
kW (sông Hồng chiếm 37% tổng trữ năng thuỷ đIện của cả nước sông Đồng Nai chiếm
19%). Nhờ vậy mà sông ngòinước ta cho phép xây dựng được nhiều nhà máy thuỷ đIện
cỡ lớn như đã nêu ở trên mà lớn nhất là thuỷ điện Hoà Bình.
Nước sông ngòi còn là 1 loạI nguyên liệu đặc biệt để phát triển công nghiệp cho nên
các nhà máy xínghiệp đều phảI được xây dựng ở gần sông.
Sông ngòi hiện nay còn là địa bàn duy nhất để chứa chất thảI công nghiệp.Do đó, Cần
phảI xử lý chất thảI công nghiệp trước khithảI vào sông.
Đối với phát triển công nghiệp sông ngòi cũng gây không ít khó khăn là:chuyển động
nước diễn biến thất thường theomùa trong đó mùa cạn thường thiếu nước chạy máy thuỷ
điện. Đồng thời cấu trúc địa chất dưới lòng sông phần lớn là bởi các đá bazơ (đá vôi...)
rất dễ bị phong hoá đồng thời lạIcó nhiều hang động ngầm... nên khi xây dựng các nhà
máy thuỷ điện, cầu cống thì phải đầu tư lớn để xử lý nền móng để chống lún, sụt, rò rỉ.
- Đối với phát triển giao thông:
Trước hết sông ngòi nước ta không đóng băng nên ta có thể phát triển giao thông
đường thuỷ quanh năm.
Vì hầu hết các sông lớn của ta đều chảy qua miền núi, trung du, đồng bằngvà đổ ra

biển nên tàu thuyền từ biển có thể vàosâu trong đất liền tạo ra mối lưu thông rất thuận
lợi giữa đồng bằng ven biển với miền núi trung du
Nước ta lạI có nhiều sông vừa lớn vừa dài lại bắt nguồn từ nước ngoàI hoặc chảy qua
nhiều nước rồi mới về ta như sôngHồng, sông Cửu Long... Vì vậy bằng đường sông ta
có thể phát triển giao thông quốc tế rất thuậnlợi.
Hầu hết các sông của ta đều đổ ra biển Đông tạo thành nhiều cửa sông lớn,có độ sâu
lớn điển hình: cửa sông SàI Gòn sâutừ 8 -13 m. Nhờ vậy mà cho phép xây dựng được
nhiều cảng sông, biển có công suất lớn điển hình: cảng Sài Gòn, cảng Cần Thơ...
Đối với phát triển giao thông sông ngòi cũng gây nhiều khó khăn và điển hình là
chuyển động nước diễn biến theo mùanên mùa cạn thiếu nước không thuận lợi với phát
triển giao thông bằng tàu thuyền lớn, sông ngòi lạI phân hoá mạnh theo lòng sôngtrong
đó sông miền núi thường chảy thẳng, lòng hẹp, bờ cao, nhiều thác ghềnh hạn chế giao
thông.Còn sông đồng bằng lạI chảy uốn khúc quanh co nên sẽ kéo dàI đường vận
chuyển, tốn nhiều thời gian, nhiều nguyên liệu.
Do sông ngòi chảy trên địa hình dốc nên tạo ra hiện tượng đào lòng mạnhmẽ gây ra
nhiều thác ghềnh ở miền núi, trung dunhưng lạI gây ra hiện tượng bồi tích lắng đọng ở
các vùng cửa sông bến cảng làm nông các cảng sông buộc ta phảI đầu ta nạo vét.
- Giá trị của sông ngòi với sinh hoạt của con người và môI trường:
Với sinh hoạt của con người nước sông ngòi rất cần đến đời sống con ngườitrung bình
1 người/ngày cần khoảng 10 lítnước cho nên hầu hết các khu dân cư đông đúc, các thành
phố đô thị đều phảI được xây dựng ở gần sông.


sông ngòi được coi là một hợp phần quan trọng của môI trường tự nhiên có chức năng
điều tiết, đồng hoá môI trường tạo ra cảnh quan thiên nhiên trong sáng có lợi cho đời
sống con người.
3. Vấn đề sử dụng tài nguyên nước mặt ở việt nam hiện nay
Cũng như nhiều nước trên thế giới và trong khu vực, Việt Nam đang phải đối mặt với
nhiều thách thức liên quan đến nguồn nước.
- Thứ nhất, tài nguyên nước Việt Nam phụ thuộc mạnh mẽ vào các nguồn nước quốc

tế và đang đứng trước thách thức về an ninh nguồn nước do các quốc gia thượng nguồn
tăng cường khai thác nguồn nước. Phần lớn các hệ thống sông lớn của Việt Nam đều là
các sông có liên quan đến nước ngoài. Phần diện tích nằm ngoài lãnh thổ của các lưu
vực sông quốc tế chiếm hơn 70% tổng diện tích của toàn bộ các lưu vực sông.
- Hai là, tài nguyên nước phân bố không đều theo cả không gian và thời gian đã dẫn
đến xuất hiện các vấn đề khan hiếm và thiếu nước nước trong mùa khô.Theo không gian,
khoảng 60% nước mặt Việt Nam thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, hơn 20% thuộc sông
Hồng và Đồng Nai và lượng nước tập trung chủ yếu vào mùa mưa.
- Ba là, việc khai thác sử dụng tài nguyên nước chưa hợp lý và thiếu bền vững dẫn đến
tình trạng suy giảm tài nguyên nước trong khi hiệu quả sử dụng nước còn thấp. Việc
khai thác các hồ chứa thủy lợi cho tưới nông nghiệp, thủy điện cho năng lượng đang gây
ra nhiều vấn đề về chia sẻ nước trên lưu vực, cấp nước và duy trì dòng chảy môi trường
hạ du. Việc khai thác nước dưới đất thiếu quy hoạch, khai thác quá mức là một trong
những nguyên nhân gây ra hiện tượng sụt lún nền đất cục bộ ở một số đô thị như Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số khu vực vùng đồng bằng sông Cửu Long.
- Bốn là, nhu cầu sử dụng nước gia tăng trong khi nguồn nước có nguy cơ bị ô nhiễm,
suy thoái, khan hiếm, cạn kiệt. Nguồn nước mặt ở nhiều khu vực đô thị, khu công
nghiệp, làng nghề đều đã có dấu hiệu ô nhiễm cục bộ, nhiều nơi ô nhiễm nghiêm trọng,
như lưu vực sông Nhuệ Đáy, sông Cầu và sông Đồng Nai - Sài Gòn. Nhiễm bẩn, ô
nhiễm nguồn nước dưới đất từ ô nhiễm nước mặt, ô nhiễm đất; nhiễm mặn, cạn kiệt
nguồn nước dưới đất do khai thác nước có xu hướng gia tăng nhất là tại các khu vực đô
thị, khu dân cư, làng nghề, ven biển của đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ, ven biển miền
Trung.
- Năm là, biến đổi khí hậu gia tăng đang gây ra những tác động sâu sắc đến tài
nguyên nước. Việt Nam là một trong năm quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của
biến đổi khí hậu, có khả năng tác động mạnh lên tài nguyên nước và làm cho những vấn
đề vốn rất nghiêm trọng nêu trên đây càng nghiêm trọng hơn, nhiều vấn đề về tài nguyên
nước hiện chỉ tiềm ẩn ở dạng các nguy cơ thì có thể trở thành hiện thực nay mai.
Câu 3: Đặc điểm tài nguyên khoáng sản ảnh hưởng đến cơ cấu ngành ks ở nước
ta.

1. Khoáng sản nước ta khá phong phú về thể loại: các khoáng sản nhiên liệu - năng
lượng, khoáng sản kim loại, khoáng sản phi kim loại, nước khoáng. Đến nay đã phát
hiện được hơn 3.500 mỏ và điểm quặng của hơn 80 loại khoáng sản, nhưng mới có 300
mỏ của 30 loại khoáng sản được đưa vào thiết kế, khai thác.
- Khoáng sản nhiên liệu - năng lượng


+ Dầu, khí thiên nhiên: Kết quả nghiên cứu thăm dò dầu khí ở nước ta đã được xác định
8 bể trầm tích có triển vọng dầu khí với tổng diện tích gần 1 triệu km. Mặc dù chưa có
các con số chính xác về trữ lượng dầu khí, dự báo trữ lượng địa chất là khoảng 10 tỉ tấn
dầu, trữ lượng khai thác khoảng 4-5 tỉ tấn dầu quy đổi.
+ Than: Tài nguyên than của nước ta chủ yếu là than năng lượng. Trữ lượng than mỡ để
luyện cốc cho công nghiệp luyện kim. Các mỏ than nâu có trữ lượng công nghiệp là Na
Dương (Lạng Sơn), trữ lượng khoảng 100 triệu tấn, đã từ lâu được khai thác cho công
nghiệp sản xuất xi măng.
- Khoảng sản kim loại
+ Kim loại đen: có sắt, mangan, crôm, titan.
Sắt: tổng trữ lượng dự báo khoảng 1800 tỉ tấn, trữ lượng đã thăm dò khoảng 1 tỉ tấn.
Có một số mỏ sắt lớn: Tòng Bá (Hà Giang), Trại Cau (Thái Nguyên), Hà Quảng (Cao
Bằng), Quý Xa (Yên Bái), Thạch Khê (Hà Tĩnh)
+ Mangan: chỉ có một số mỏ nhỏ, trữ lượng dự báo tới 3,2 triệu tấn, hàm lượng mangan
trong quặng 35 - 50%.
+ Crôm: mỏ crômit cổ Định (Thanh Hoá) trữ lượng đã thăm dò là 3,2 triệu tấn, trữ
lượng dự báo 22,8 triệu tấn. Hàm lượng crôm trong quặng trên 46%.
- Kim loại màu, kim loại nhẹ, kim loại quý và hiếm
+ Đồng: Mỏ Tạ Khoa (Sơn La) chủ yếu là đồng - niken. Mỏ Sinh Quyền (Lào Cai) là
đồng - vàng. Trữ lượng đã xác định khoảng 600 nghìn tấn đồng, 120 nghìn tấn niken, 29
tấn vàng, 25 tấn bạc...
+ Chì - kẽm: Vùng mỏ Chợ Điền “ Chợ Đồn
tập trung 80% trữ lượng chì- Kẽm cả nước.

+ Thiếc - von/ram: Vùng Cao Bằng có mỏ Pia oắc là kiểu mỏ gốc và mỏ Tĩnh Túc là mỏ
sa khoáng. Vùng Tam Đảo — Tuyên Quang cũng có các mỏ gốc và mỏ sa khoáng. Ở
Tây Nghệ An có vùng mỏ Quỳ Hợp - Anh Sơn.
+ Bôxit: Tổng trữ lượng dự báo khoảng 6,6 tỉ tấn, trữ lượng đã thăm dò chắc chấn là 4 tỉ
tấn. Mỏ bôxit nội sinh có ở vùng Đông Bắc và Tây Nghệ An, Quảng Bình. Mỏ ngoại
sinh tập trung ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
+ Ti tan: Có cả mỏ gốc và mỏ sa khoáng. Mỏ gốc ở khu vực Núi Chúa (Thái Nguyên),
trữ lượng đã thăm dò đạt 180 triệu tấn.
+ Vàng: Đến nay đã phát hiện được 284 điểm quặng và mò quặng vàng, trong đó đã
thăm dò khảo sát, đánh được 45 điểm và mỏ quặng, đã khai thác khoảng 30 điêm mỏ
nhỏ. Nói chung, các mò vàng ở nước ta đều nhỏ.
Trữ lượng vàng dự báo là 280 tấn vàng, ở cấp tin cậy là 49 tấn, ở cấp chắc chắn là gần
18 tấn.
- Khoáng sản không kim loại: Khoáng sản không kim loại được phân thành một số
nhóm: nguyên liệu cho công nghiệp hoá chất và phân bón, nguyên liệu kĩ thuật và mĩ
nghệ, nguyên liệu sản xuất gạch chịu lửa - gốm sứ - thuỷ tinh, vật liệu xây dựng.
+Apatit: Mỏ ngoại sinh, phân bố tập trung ờ vùng Cam Đường (Lào Cai), trữ lượng dự
báo là 2 tỉ tấn, trữ lượng đã thăm dò đánh giá là 908 triệu tấn. Đây là nguồn nguyên liệu
để sản xuất phân lân.
+Photpho rít: Ít, chỉ có mỏ Hữu Lũng (Lạng Sơn) là có giá trị công nghiệp.
+Pyrit: Là nguyên liệu để sản xuất axit sunfuric, tổng trữ lượng cả nước khoảng 10 triệu
tấn, có rải rác ờ nhiêu nơi. Hiện nay mới khai thác mỏ Thanh Sơn (Phú Thọ) để cung cấp
nguyên liệu cho nhà máy hoá chất Lâm Thao.


+Đá quý: Tập trung ở đới Sông Hồng, hiện đã khai thác mỏ Tần Hương, Lục Yên (Yên
Bái). Vùng mỏ Quỳ Hợp (Nghệ An) chủ yếu có rubi, saphia.
+Cát thủy tinh; Chủ yếu ở duyên hải miền Trung (khoảng 1,1 tỉ tấn). Ở đây có 6 mỏ lớn
là Cửa Tùng (Quảng Trị), Quảng Ngãi, Tuy Hoà, Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết. Cát
ở Cam Ranh nổi tiếng có chất lượng tốt để sản xuất phalê.

+Sét xi măng: Tổng trữ lượng khoảng 300 triệu tấn, tập trung chủ yếu ở Lạng Sơn,
Quảng Ninh, Thái Nguyên, Hải Dương.
+Cao lanh: có ờ nhiều nơi, tổng trữ lượng khoảng 50 triệu tấn dùng Để sản xuất đồ sứ
cao cấp và sứ mĩ nghệ,.
+Đá vôi: Rất phong phú, tập trung ở khu vực từ Thừa Thiên - Huế ra Bắc. Ngoài ra còn
có ờ vùng Quảng Nam, Đà Nẵng, Kiên Giang. Đây là nguyên liệu để làm chất trợ dung
cho luyện gang, nguyên liệu sản xuất xi măng, làm đá ốp lát... Cảnh quan vùng đá vôi rất
có giá trị vé du lịch.
+ Nước khoáng - nước nóng: Nguồn nước khoáng - nước nóng của lòng đất nước ta khá
phong phú. Cả nước có khoảng 400 nguồn nước khoáng - nước nóng, là nguồn tài
nguyên quý giá cho du lịch nghỉ dưỡng. Nhiều nguồn nước khoáng —. nước nóng có giá
trị chữa bênh tốt.
2 Ảnh hưởng
- Thuận lợi:
+ Đa dạng -> Phát triển cơ cấu ngành Công nghiệp đa dạng: Năng lượng, khai khoáng,
luyện kim, hóa chất…
+ Trữ lượng: Nước ta có một số loại khoáng sản có trữ lượng lớn, chất lượng tốt, là điều
kiện vật chất cho việc xây dựng một số ngành công nghiệp trọng điểm, đồng thời tạo ra
nguồn hàng xuất khẩu khoáng sản chủ lực của đất nước. Ví dụ
+ Phân bố ở nhiều nơi, khai khoáng tập trung ở trung du Bắc bộ,Dầu khí tập trung ở
phía Nam
+ Một số tài nguyên khai thác lộ thiên
Tuy nhiên cần phải thấy rằng: đặc điểm khoáng sản này cũng gây ra không ít khó khăn
cho quá trình phát triển.
- Việt Nam không có tiềm năng lớn về các khoáng sản năng lượng. Dầu khí chỉ đảm bảo
khai thác được khoảng 30 năm nữa, do vậy cần tăng cường tìm kiếm thăm dò để tăng trữ
lượng phục vụ lâu dài. Than biến chất cao (Anthracit) với trữ lượng đã được đánh giá đạt
nhiều tỷ tấn cần phải khai thác sâu hàng trăm mét và hơn nữa mới bảo đảm cho nhu cầu
phát triển kinh tế của đất nước. Than biến chất thấp ở dưới sâu đồng bằng sông Hồng tuy
dự báo có tài nguyên lớn đến vài trăm tỷ tấn nhưng ở độ sâu hàng ngàn mét dưới lòng

đất, điều kiện khai thác cực kỳ khó khăn và phức tạp cả về công nghệ, cả về an sinh xã
hội và môi trường. Tiềm năng urani và địa nhiệt không đáng kể và chưa được thăm dò
đánh giá trữ lượng.
- Việt Nam có nhiều khoáng sản kim loại nhưng trữ lượng không nhiều. Rất nhiều
khoáng sản kim loại (vàng, bạc, đồng, chì , kẽm, thiếc v.v..) thế giới rất cần trong khi trữ
lượng không có nhiều, chỉ khai thác mấy chục năm nữa sẽ cạn kiệt. thì Việt Nam cũng
có ít, không đảm bảo tiêu dùng trong nước. Một số ít khoáng sản kim loại như bauxit,
đất hiếm, ilmenit ta có nhiều, thế giới cũng có nhiều, song nhu cầu hàng năm không lớn,
hàng trăm năm nữa mới cạn kiệt, nên chúng không là những khoáng sản "nóng", khoáng
sản cạnh tranh để phát triển, lại càng không thể xem là cứu cánh của nền kinh tế Việt
Nam.


- Việt Nam có nhiều loại khoáng chất công nghiệp và vật liệu xây dựng phục vụ tốt cho
phát triển kinh tế của đất nước và có thể xuất khẩu. Tuy nhiên chúng không phải là
khoáng sản có giá trị kinh tế cao và trên thế giới cũng có nhiều đủ dùng trong nhiều năm
nữa.
- Việt Nam chưa phát hiện được kim cương - loại khoáng sản quý có giá trị kinh tế kỹ
thuật cao. Các nhà địa chất đã phát hiện ở Việt Nam có Ruby chất lượng cao, nhưng trữ
lượng chưa rõ, các loại đá qúy khác cũng chưa được phát hiện nhiều. Thực tế nhóm đá
quý được phát hiện ở Việt Nam chưa đóng góp gì đáng kể cho phát triển kinh tế đất
nước.
- Đặc điểm chung của các mỏ kim loại màu là mỏ đa kim, phần lớn là các mỏ nhỏ, phân
bố phân tán, lại ở vùng núi, điều kiện khai thác khó khăn (về cơ sở hạ tầng, trình độ lao
động kém; địa hình khó khai thác (dầu khí)).
+ Chủ quan: Trình độ quản lý, công nghệ khai thác kém dẫn đến tình trạng khai thác bừa
bãi, thiếu quy hoach gây lãng phí tài nguyên và pha huỷ các khu rừng chắn cát ven biển
gây hậu quả to lớn…ví dụ
Phân tích sâu về đặc điểm tiềm năng tài nguyên khoáng sản của Việt Nam trong bối
cảnh chung về tài nguyên khoáng sản của khu vực và thế giới cho ta thấy rõ tuy Việt

Nam là nước có nhiều loại khoáng sản nhưng trữ lượng hầu hết các loại không nhiều.
Một số loại khoáng sản như bauxit, đất hiếm, ilmenit ta có tài nguyên trữ lượng tầm cỡ
thế giới thì thế giới cũng có nhiều và không có nhu cầu tiêu thụ lớn. Đây là điều cần
phải được quan tâm nghiên cứu đánh giá khách quan giữa cung và cầu để có chiến lược
sử dụng tài nguyên khoáng sản đúng đắn, hợp lý, phục vụ cho phát triển kinh tế của đất
nước.
Vấn đề 4: số lượng, chất lượng dân số? kết cấu dân số vàng?
Hiện nay, việc giải quyết tốt vấn đề quy mô dân số, chúng ta sẽ giải được bài toán về
nguồn nhân lực, đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trong giai đoạn
cơ cấu "dân số vàng"; bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
1. Về quy mô dân số
Việt nam là một quốc gia có quy mô dân số lớn, tốc độ phát triển dân số ngày càng
nhanh. Theo Tổng cục thống kê, dân số Việt Nam đến 11/2013 đạt 90 triệu người, là nước
đông dân thứ 3 ở ASEAN (sau Inđônêxia và Philippin) và thứ 8 trong khu vực châu Á và 13
trên thế giới. mật độ dân ở Việt Nam gấp 5 đến 6 lần “Mật độ chuẩn” và gần gấp 2 lần mật
độ dân số của Trung Quốc - nước đông dân nhất nhất thế giới. Đây là tiềm năng to lớn về
nguồn lực con người để phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Dân số thành thị của Việt Nam
là 28,9 triệu người, chiếm 32,3%; dân số nông thôn là 60,6 triệu người, chiếm 67,7%. Với
20,4 triệu người, Đồng bằng sông Hồng là vùng có quy mô dân số lớn nhất, chiếm 22,8%,
tiếp đến là Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (19,3 triệu người) chiếm 21,5%, Tây
Nguyên là vùng có số dân ít nhất (5,5 triệu người) chỉ chiếm 6,1% dân số cả nước.
Cùng với điều đó tốc độ tăng dân số ngày càng nhanh. Thời kỳ 2011-2013, tốc độ gia
tăng dân số bình quân năm tuy đã giảm nhưng vẫn ở mức cao là 1,05%. Với quy mô dân số
lớn, đà tăng dân số cao, dân số nước ta sẽ còn tiếp tục tăng đến giữa thế kỷ XXI với hơn 100
triệu người và sẽ vào nhóm 10 nước có dân số lớn thứ nhất thế giới.
2. Chất lượng dân số
Nhìn một cách tổng quát chất lượng dân số Việt Nam còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu
xây dựng nguồn nhân lưc chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Chỉ số HDI của Việt Nam đang giảm chậm từ khoảng 1,7% trước năm 2000



xuống còn khoảng 0,96% trong những năm gần đây (UNDP, 2013). Năm 2013 Việt Nam
xếp hạng thứ 121 trong 187 quốc gia và lãnh thổ về sự phát triển con người - thứ hạng
này được đánh giá ở mức trung bình trên thế giới.. Tỷ lệ này thấp so với nhiều nước khu
vực và thế giới. Đây là một thách thức to lớn đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện
nay.
Theo báo cáo của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGÐ), chất
lượng dân số về thể chất của người Việt Nam đã được cải thiện song vẫn còn rất thấp.
Kết quả Tổng điều tra Dân số và nhà ở năm 2009 cho thấy, có 1,5% dân số Việt Nam bị
thiểu năng về thể lực và trí tuệ. Trong đó, số trẻ mới sinh bị dị tật bẩm sinh do di truyền
chiếm khoảng từ 1,5 đến 3% và có xu hướng tiếp tục gia tăng do điều kiện sống, môi
trường độc hại, chưa được phát hiện và điều trị sớm. Bên cạnh đó, số lượng người bị tàn
tật, khuyết tật trong cả nước rất lớn, khoảng 5,3 triệu người (chiếm 6,3% số dân)... Tầm
vóc, thể lực cân nặng, sức bền của người Việt Nam so với nhiều nước trong khu vực vẫn
còn hạn chế.
Chiều cao trung bình của ngườiViệt Nam là 164,4 cm (đối với nam) và 153 cm (nữ),
tăng trung bình 4 cm sau 35 năm. Nghĩa là cứ khoảng 10 năm, người Việt Nam mới tăng
1 cm chiều cao. Trong cùng khoảng thời gian đó, chiều cao của người dân Thái-lan và
Trung Quốc đã tăng được 2 cm. Với chiều cao hiện tại, nam thanh niên Việt Nam vẫn
thấp hơn chuẩn quốc tế 13,1 cm và nữ thấp hơn 10,7 cm. Không chỉ thua kém về chiều
cao, thanh niên Việt Nam còn thua kém cả về sức bền, sức mạnh (cơ bắp), cân nặng so
với chuẩn quốc tế khá nhiều.
Tuổi thọ bình quân của người dân Việt Nam đạt mức khá cao là 73 tuổi, tuy nhiên, tuổi
thọ bình quân khỏe mạnh lại chỉ đạt 66 tuổi và xếp thứ 116/182 nước trên thế giới. Trong
khi đó, với tốc độ già hóa dân số đang tăng khá nhanh, Việt Nam vẫn chưa kịp chuẩn bị
cho việc thích ứng với việc chăm sóc người cao tuổi, nhất là chế độ an sinh xã hội.
, chất lượng nguồn nhân lực lại rất thấp. Tỷ lệ nguồn nhân lực, người lao động qua đào
tạo mới đạt gần 30%, tỷ lệ có bằng cấp chỉ chiếm khoảng 8%. Trong nền kinh tế thị
trường toàn cầu hóa, với chất lượng nguồn nhân lực thấp, chúng ta sẽ rất khó cạnh tranh
với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nếu giải quyết tốt vấn đề việc làm, nâng cao

số lượng và chất lượng đào tạo thì đây là thời cơ có một không hai để chúng ta "cất
cánh" như các "con rồng" châu Á. Ngược lại, sẽ tạo ra gánh nặng xã hội bởi đây cũng là
những đối tượng dễ bị vấp váp, sa ngã, mắc vào các tệ nạn xã hội như nghiện hút, trộm
cắp, cờ bạc, các tệ nạn xã hội khác, kèm theo nó là dịch bệnh HIV/AIDS..
Nâng cao chất lượng dân số được coi là mục tiêu số một của ngành dân số thời gian
tới. Theo đó, với mục tiêu cải thiện giống nòi, cần phấn đấu giảm tỷ lệ trẻ em mới sinh
bị dị tật bẩm sinh xuống còn dưới 1,5% vào năm 2020; giảm tỷ lệ số người mới bị tàn
tật, tai nạn hằng ngày... Phấn đấu tăng tuổi thọ bình quân lên 75 tuổi vào năm 2020;
giảm tỷ lệ chết ở trẻ em dưới một tuổi xuống mức 0,1%o; giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng
dưới năm tuổi xuống mức 10% vào năm 2020...
3. Cơ cấu dân số vàng
Hiện nay, Cùng với xu hướng giảm sinh và nâng cao tuổi thọ, tỷ lệ dân số trong độ tuổi
lao động (15-64) tăng lên. Năm 1979, gần một nửa (42,6%) dân số Việt Nam dưới 15
tuổi. Năm 2012, con số này chỉ còn 23,9%. Nhóm dân số có độ tuổi từ 15-64 hiện chiếm
69% tổng số dân.


Bắt đầu từ năm 2007, với tỷ số phụ thuộc chung (nhóm dân số 0-14 tuổi và nhóm dân số
trên 65 tuổi tính trên nhóm dân số 15-64) dưới 50%, Việt Nam chính thức bước vào thời
kỳ cơ cấu “dân số vàng”. Theo Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, giai đoạn này
chỉ xuất hiện một lần và thời gian kéo dài hay ngắn phụ thuộc vào việc điều chỉnh mức
sinh. Hiện nay, mức sinh ở Việt Nam đã giảm nhanh. Năm 2006, Việt Nam đã đạt và duy
trì mức sinh thay thế (tổng tỷ suất sinh 2,1 con) và từ đó đến nay, mức sinh luôn dưới
mức sinh thay thế.
Do đó, nếu không tận dụng được cơ cấu “dân số vàng”, Việt Nam sẽ gặp nhiều khó
khăn khi tỷ số phụ thuộc chung lại có xu hướng tăng với tác động chủ yếu từ sự gia tăng
tỷ số phụ thuộc người già.
Thế mạnh của cơ cấu “dân số vàng”
cơ cấu “dân số vàng” thực sự là cơ hội để cải thiện sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe sinh
sản cho thanh niên, vị thành niên, sử dụng nguồn lao động dồi dào cho tăng trưởng và

phát triển kinh tế; tạo cơ hội cho tích lũy nguồn lực để tăng đầu tư cho an sinh xã hội, y
tế, giáo dục, việc làm trong tương lai.
Mặt khác, dân số dưới 15 tuổi giảm mạnh góp phần nâng cao chất lượng giáo dục thông
qua việc giảm tỷ số giữa học sinh và giáo viên, qua đó nâng cao chất lượng chăm sóc y
tế cho trẻ em, cải thiện chất lượng sức khỏe dân số tương lai.
Đồng thời, dân số trong độ tuổi lao động lớn, cùng với sự phát triển của khu vực công
nghiệp và dịch vụ tạo nhu cầu lớn về đào tạo nghề. Chi tiêu y tế trong độ tuổi lao động
giảm sẽ tiết kiệm được y tế. Lực lượng lao động trẻ, dồi dào và tiếp tục tăng sẽ là nguồn
lực quan trọng cho việc phát triển kinh tế trong điều kiện đảm bảo việc làm và cải thiện
được năng suất lao động.
Cơ cấu “dân số vàng” cũng là cơ hội dịch chuyển lao động thông qua di cư, tạo động
lực phát triển kinh tế xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững.
Nhiều thách thức phải đối mặt
song bên cạnh đó, Cơ cấu “dân số vàng” cũng đặt ra không ít những khó khăn thách
thức cần phải giải quyết.
Tốc độ tăng nhanh của dân số trong độ tuổi lao động sẽ là nguồn lực quan trọng cho
phát triển kinh tế nhưng sẽ trở thành gánh nặng nếu quốc gia đó có tỷ lệ thất nghiệp cao
và năng suất lao động thấp.
Thực trạng ở Việt Nam cho thấy, số người lực lượng lao động đông về số lượng nhưng
chất lượng chưa cao do thiếu lao động có tay nghề cao, sức bền còn hạn chế, kỹ năng
quản lý còn nhiều bất cập. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê năm 2009, chỉ
có 13,4% dân số 15 tuổi trở lên được đào tạo chuyên môn kỹ thuật (con số này ở thành
thị là 25,4% và nông thôn là 8%). Trong nhóm dân số từ 25 tuổi trở lên thì chỉ 18,9% đạt
được trình độ học vấn bậc trung và chưa đầy 5,5% dân số trong độ tuổi trên đạt trình độ
học vấn bậc cao.
Hơn nữa, chất lượng giáo dục, đào tạo nghề chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu thị
trường lao động. Tỷ lệ lao động nông nghiệp cao trong khi diện tích đất nông nghiệp
ngày càng thu hẹp do quá trình đô thị hóa và chuyển đổi mục đích sử dụng. Từ đó, dẫn
đến tình trạng thiếu việc làm của thanh niên gia tăng trong điều kiện thị tường lao động



ngày càng cạnh tranh. Mặt khác, lao động di cư thanh niên tăng nhanh song các chính
sách lao động, việc làm và các dịch vụ xã hội liên quan còn nhiều bất cập.
4. Giải pháp dân số
- Chúng ta cần có chiến lược đầu tư, sử dụng và phát huy nguồn nhân lực to lớn này để
thu hút các nhà đầu tư nước ngoài; thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước; biến thị trường 90 triệu dân thành một thị trường tiềm năng và hấp dẫn các nhà
đầu tư nước ngoài.
- Việt Nam cũng phải nhanh chóng thích ứng với quá trình chuyển đổi sang cơ cấu dân
số đang “già hóa". Hiện nay, số người 60 tuổi trở lên ở nước ta chiếm 10,5%. Theo các
nhà nghiên cứu, quá trình từ cơ cấu dân số "vàng" sang cơ cấu dân số "già hóa" ở nước
ta nhanh hơn gấp nhiều lần so với các nước phát triển. Vì thế, cần có các giải pháp đón
đầu để kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh về an sinh, xã hội khi số lượng những
người cao tuổi ngày càng tăng.
- chú trọng nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi gia đình, nâng cao chất lượng dân số;
tạo ra nhiều cơ hội về giáo dục đào tạo, lao động việc làm, thu nhập, góp phần xóa đói
giảm nghèo, nâng cao vị thế người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Việc lồng ghép công
tác dân số với xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các địa
phương, các cấp, các ngành cần chặt chẽ hơn.
Vấn đề 5a: Trong những năm gần đây, những nhân tố nào có vai trò đáng kế cho
phát triển. Nhận định chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp, những nhân tố ảnh
hưởng, phát triển nông nghiệp.
Việt Nam có một nền nông nghiệp nhiệt đới dựa trên nền tảng của khí hậu nhiệt đới
gió mùa ẩm, phân hóa đa dạng theo không gian và theo mùa, điều này cho phép phát
triển một nền nông nghiệp đa dạng sản phẩm, nhất là trong xu thế hội nhập mở cửa
hiện nay. Hiện nay Việt Nam có các nguồn lực thuận lợi cho phát triển nông nghiệp nhất
là nông nghiệp hàng hóa đó là nguồn lực tự nhiên và nguồn lực kinh tế xã hội, tuy nhiên
trong những năm gần đây những nhân tố đóng vai trò đáng kể cho phát triển nông
nghiệp là các nhân tố thuộc nguồn lực xã hội.
2. Các nhân tố ảnh hưởng

a. Vị trí địa lý
Do nằm trên đường vành đai sinh khoáng đo đó, có các nguồn tài nguyên phong phú
đa dạng, tạo điều kiện để phát triển các ngành công nghiệp, nông nghiệp và các ngành
kinh tế biên
b. Các nguồn lực phát triển nông nghiệp
Nguồn lực tự nhiên
- Vốn đất: với trên 9 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó có hai vùng đồng bằng phì
nhiêu là vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, là những vùng trồng
lúa được xếp vào loại tốt nhất của thế giới; có vùng đất đồi núi bao la có thể phát triển
cây công nghiệp và rừng; có bờ biển dài tới 3.200 km, cùng với diện tích mặt nước lớn
khác có thể phát triển thuỷ sản.
+ Nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, chính đặc điểm này tạo nền tảng
quy định nền nông nghiệp nước ta là một nền nông nghiệp nhiệt đới. Sự dồi dào tài
nguyên nhiệt cho phép trông nghiều vụ trong năm, xen canh gối vụ ở hầu hết các vùng
trong cả nước.


+ Trở ngại lớn nhất của khí hậu nước ta là thiên tai thường xuyên đe dọa, khi hạn hán,
khi lũ lụt, trong khi vùng khác thiếu nước nghiêm trọng…
- Tài nguyên nước: Nước ta có mạng lưới sông ngòi dày đặc, có 16 lưu vực sông rộng
hơn 2000km2 trong đó có 10 lưu vực có diện tích rộng hơn 10000km2 các lưu vực lớn nhất
là sông Hồng, Sông thái bình, châu thổ sông Mê Kông. Chỉ tính riêng chiều dài trên 10km
thì hiện có 2360 con sông chảy thường xuyên.Tài nguyên nước ngầm cũng góp phần quan
trọng cho nông nghiệp..
Các nguồn lực kinh tế xã hội
* Dân cư nông thôn và lao động nông thôn
- Kinh tế nông nghiệp nước ta vẫn là ngành kinh tế chủ đạo vì vậy vẫn còn khoảng
70% dân cư sống ở nông thôn và 44,3% lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp
(Văn kiện 12 của Đảng), tỷ lệ này vẫn tiếp tục giảm trong quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế

- Người nông dân VN gắn bó với đất đai, có kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp,
có tính cần cù, chịu khó, sáng tạo
- Trong điều kiện hiện nay, Đảng, Nhà nước đang tích cực hỗ trợ cho hoạt động
khuyến nông, khuyên ngư bằng các chương trình khác nhau, tạo điều kiện cho nông dân
yên tâm sản xuất và phát huy trong kinh tế thị trường.
* Chính sách phát triển nông nghiệp
- Từ năm 1986 đến nay Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách khuyến
khích phát triển nông nghiệp. Đường lối đổi mới trong nông nghiệp là nguyên nhân
quan trọng nhất của những thành tựu to lớn mà nông nghiệp đã được trong những năm
qua. Đại hội VI của Đảng 1986 đã vạch ra đường lối đổi mới ,xác định hộ gia đình là
đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp, các hộ gia đình có quyền tự quyết trong hoạt
động sản xuất của họ. Nhờ vậy nông dân phấn khởi đầu tư nâng cao năng xuất của họ.
- Từ năm 2000 chính phủ có nghị quyết về trang trại tạo ra giai đoạn mới trong phát
triển kinh tế trang trại ở nước ta, chính sách nông nghiệp gồm các chính sách giá, chính
sách đất đai, chính sách tín dụng nông thôn, chính sách đầu tư.
* Sự tăng trưởng thị trường trong nước và mở rộng thị trường nước ngoài
- Dân số tăng nhanh, nền kinh tế tăng trưởng nhanh, tốc độ đô thị hóa và các ngành phi
nông nghiệp tănh nhanh tạo điều kiện thị trường trong nước phát triển, thúc đẩy nông
nghiệp phát triển.
- Nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế hướng ra xuất khẩu, hàng nông sản có vị trí quan
trọng trong danh mục các mặt hàng XK chủ yếu, một số mặt hàng đã vào được những thị
trường khó tính (EU, Nhật bản, Hoa kỳ), nhất là khi ta tham gia vào các tổ chức kinh tế
thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành nông nghiệp phát triển.
* Công nghiệp chế biến và cơ sở hạ tầng nông thôn
- Công nghiệp chế biến có vị trí quan trọng trong việc tăng thêm giá trị và bảo đảm
đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp hàng hóa. Phát triển công nghiệp chế biến còn góp
phần thu hẹp tình trạng xuất khẩu sản phẩm thô và tạo ổn định cho phát triển nông
nghiệp.
- CSHT nông thôn tuy còn thiếu và chất lượng hạn chế nhưng đã tạo được những điều
kiện cần thiết cho phát triển kinh tế nông thôn

- Hệ thống đường giao thông nông thôn ngày càng được cải thiện, bê tông hóa
- Những tiến bộ trong điện khí hóa nông thôn và thành thị, đưa công nghệ mới vào
nông nghiệp, giải phóng sức lao động của người nông dâ và công nghiệp hóa nông thôn.


Việc áp dụng cơ giới hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa, sinh học hóa đã mạng
lại hiệu quả rất lưosn cho quá trình sản xuất nông nghiệp của đất nước.
- Tính đến năm 2001 cả nước đã có 22548 công trình thủy lợi lớn, nhỏ trong đó có
22.469 công trình thủy nông, các công trình đảm bảo tưới tiêu 3,9 triệu ha đất canh tác
(chiếm 53 tổng số), tiêu trên 2,9 triệu ha, ngăn mặn 0,7 triệu ha và chống lũ cho 2,9
triệu ha.
* Trình độ lao động từng bước được nâng cao, người nông dân từ sãn xuất nhỏ đã tiến
lên sản xuất hàng hóa, sản xuất các sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, sạch…
3. Liên hệ thực tiễn
Để nông nghiệp tiếp tục phát huy thế mạnh trong điều kiện hiện nay cần phải thực
hiện tốt các vấn đề sau:
Một là, công tác quy hoạch, định hướng phát triển. Đây là giải pháp quan trọng hàng
đầu. Quy hoạch tổng thể, liên vùng, liên tỉnh phải đúng tầm, bảo đảm sự tương tác, hỗ
trợ, khai thác và phát huy cao độ nguồn lực của đất nước để đẩy mạnh phát triển các
vùng kinh tế trọng điểm tạo động lực cho nền kinh tế, đồng thời hỗ trợ phát triển các
vùng còn nhiều khó khăn.
Cần có chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo nhằm mục tiêu nâng cao năng suất, chất
lượng lao động nông nghiệp để đạt con số bình quân mỗi lao động nông nghiệp làm ra
lương thực, thực phẩm nuôi vài ba chục người như ở những nước phát triển và chuyển
dịch lao động ở nông thôn (đã được đào tạo, có tay nghề) sang các ngành công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, nhất là các ngành dịch vụ cao cấp. Đồng thời, khuyến
khích phát triển công nghiệp, dịch vụ sử dụng nhiều lao động và nguyên vật liệu tại chỗ
ở nông thôn.
Hai là, đổi mới tổ chức sản xuất và lưu thông hàng hóa. Nông nghiệp phải được tổ chức
sản xuất hiện đại, tiên tiến, khoa học, liên kết, hợp tác nhằm nâng cao hiệu quả, khả năng

cạnh tranh, tăng sản lượng và giá trị hàng hóa tiêu thụ trong nước và xuất khẩu để thu
nhập và đời sống nông dân ngày một cao hơn.
Ba là, đẩy nhanh ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại trong
sản xuất, chế biến, bảo quản, tiêu thụ hàng hóa; ưu tiên ứng dụng công nghệ sinh học để
tạo ra và chủ động được nhiều giống cây trồng, vật nuôi và quy trình sản xuất đạt năng
suất, chất lượng, hiệu quả cao, tăng nhanh giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị diện tích canh
tác.
Bốn là, phát huy vai trò của Nhà nước trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nông
thôn... Cần khẳng định tư tưởng chủ đạo về chính sách nông nghiệp, nông dân, nông
thôn là hỗ trợ, thông qua hoạt động bảo hiểm và tài trợ. Có chính sách đặc thù khuyến
khích cho vùng trồng lúa và người trồng lúa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia...


5b. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
1.chuyển dịch cơ cấu ngành
- Xu hướng chuyển dịch chung
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông – lâm – thủy sản theo xu hướng giảm dần tỷ trọng nông
nghiệp, tăng dần tỷ trọng lâm nghiệp và ngư nghiệp nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng
đất đai trung du, miền núi, diện tích mặt nước, ao hồ, sông, suối, biển. Đồng thời kết hợp
chặt chẽ với nông – lâm – thủy sản để hỗ trợ nhau cùng phát triển và bảo vệ môi trường
sinh thái.Trong nông nghiệp xu hướng phát triển làm giảm dần độc canh lúa, tăng dần tỷ


trọng cây công nghiệp, rau, quả, cây đặc sản, chăn nuôi để sản xuất ra nhiều nông sản
hàng hóa và xuất khẩu có giá trị cao.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt và chăn nuôi
Trồng trọt và chăn nuôi là hai ngành chủ yếu của nông nghiệp. Trồng trọt cung cấp
lương thực, thực phẩm cho xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp, thức ăn cho chăn nuôi,
sản phẩm cho xuất khẩu. Chăn nuôi cung cấp những sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao
như trứng, thịt, sữa… Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, cung cấp nguyên, vật

liệu quan trọng cho công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm và một số ngành công
nghiệp khác (hóa chất, dược liệu…). Nó cũng cung cấp nguồn hàng xuất khẩu quan
trọng ở nhiều nước đang phát triển, cũng như ở Việt Nam hiện nay chăn nuôi còn cung
cấp sức kéo cho trồng trọt. Trong nền kinh tế nông nghiệp truyền thống, trồng trọt chiếm
tỷ trọng lớn trong sản xuất nông nghiệp, bởi vì sản phẩm của nó đáp ứng nhu cầu thiết
yếu nhất cho đời sống nhân dân. Nhưng khi nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân
được nâng cao, nhu cầu sản phẩm chăn nuôi ngày càng gia tăng làm cho tỷ trọng ngành
chăn nuôi có xu hướng tăng lên. Ở Việt Nam, ngành trồng trọt vẫn giữ vai trò chủ đạo, tỷ
trọng ngành chăn nuôi có tăng, nhưng còn chậm.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành trồng trọt
Trong nội bộ ngành trồng trọt, cơ cấu chủ yếu là giữa cây lương thực với cây công
nghiệp rau, quả. Lương thực là bộ phận cấu thành chủ yếu trong cơ cấu bữa ăn hàng
ngày của con người. Lương thực đã và sẽ còn giữ vai trò chủ yếu, lâu dài trong nguồn
thực phẩm mà không thể thay thế được. Tuy nhiên, xu hướng chung, cơ cấu bữa ăn sẽ
dần thay đổi theo hướng giảm bớt lương thực. Cây công nghiệp cung cấp nguyên liệu
cho công nghiệp nhẹ (công nghiệp dệt, thực phẩm, dược liệu, hóa chất, …). Những
ngành công nghiệp này lại là những ngành thu hút nhiều lao động, do đó phát triển
những ngành này sẽ tạo thêm việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, để phát triển cây
công nghiệp cần chú ý: Yêu cầu về quy trình kỹ thuật, vốn đầu tư ban đầu và thâm canh
nhiều hơn so với cây lương thực. Rau, hoa quả, rất cần thiết cho đời sống con người, nó
cung cấp đường, a xit, muối khoáng, sinh tố, chất kích thích khẩu vị và các chất bổ khác
cho nhu cầu cơ thể. Có thể sử dụng ở dạng tươi hoặc làm nguyên liệu cho công nghiệp
chế biến thực phẩm để sản xuất đồ hộp, rượu, nước ngọt, bánh mứt, kẹo với nhiều chủng
loại phong phú. Cây ăn quả có tác dụng làm rừng phòng hộ và phát triển nuôi ong… nhu
cầu về rau, hoa quả, cây cảnh ngày càng có xu hướng tăng lên cả trong nhu cầu bữa ăn
cũng như đời sống xã hội. Sản xuất những sản phẩm này chú ý áp dụng công nghệ tiên
tiến và bố trí gần nơi thuận lợi cho vận chuyển cũng như nơi tiêu thụ.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành chăn nuôi
Chăn nuôi gia súc, gia cầm là một hoạt động sản xuất quan trọng trong nông nghiệp, ở
Việt Nam, trâu, bò, lợn, gà, vịt thường được nuôi phổ biến. Ngoài ra các vật nuôi khác

như ngựa, dê, ngan, ngỗng… tuy còn nhỏ bé nhưng cũng góp phần đa dạng hóa sản
phẩm. Đặc điểm của việc phát triển chăn nuôi phản ánh điều kiện và thế mạnh của từng
vùng. Ở Việt Nam, vùng đồng hằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng, đàn lợn
chiếm tỷ trọng cao nhất trong đàn gia súc (trên 85%). Tây Nguyên và Duyên Hải Trung
bộ có tỷ trọng đàn bò cao (30%), vùng Trung du, miền núi có tỷ trọng đàn trâu cao nhất
so với các vùng trên (26%). Đối với chăn nuôi gia cầm ở tất cả các vùng, nuôi gà vẫn là
chủ yếu, riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long đàn vịt chiếm tỷ trọng lớn (trên 43%).


Cơ cấu các loại gia súc , gia cầm có sự chuyển dịch theo hướng tăng các loại vật nuôi có
giá trị phục vụ tiêu dùng với chất lượng cao và xuất khẩu. Cụ thể thời gian qua ở Việt
Nam là giảm tỷ trọng đàn lợn, tăng tỷ trọng đàn bò và gia cầm, nhưng sự dịch chuyển
này rất chậm. Xu hướng tới đưa chăn nuôi lên ngành sản xuất chính.
* Xu hướng chuyển dịch ngành thủy sản:
- Ngành khai thác trước đây có xu hướng tăng, sau có giai đoạn có xu hướng giảm, trong
giai đoạn hiện nay lại có xu hướng tăng lên: vì chính sách phát triển ngành thủy sản của
Đảng và Nhà nước, chính sách phát triển kinh tế biển, tăng cường đầu tư cho khai thác
đánh bắt xa bờ, chính sách bảo vệ vùng biển đảo...
- Ngành nuôi trồng thủy sản vẫn có xu hướng tăng trong giai đoạn hiện nay, do điều kiện
nuôi trồng thủy sản thuận lợi, nguồn lợi đem lại cao.
2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế thường kéo theo chuyển dịch cơ cấu lao động trong
khu vực nông thôn, nhưng trên thực tế cơ cấu lao động chuyển dịch không đáng kể. Lao
động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lao động xã
hội (năm 2000 chiếm 68,2%, năm 2005 chiếm 62,5%). Tỷ lệ thời gian có việc làm của
lao động trong độ tuổi ở khu vực nông thôn còn thấp. Theo số liệu thống kê, năm 2000
là 74,16%, năm 2005 tăng lên 80,65% (1). Việc di chuyển lao động giữa các vùng và việc
di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị mang tính tự phát, thời vụ đã có xu hướng
gia tăng, góp phần giải quyết một phần lao động thiếu việc làm và thu nhập thấp. Lực
lượng lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn tăng nhanh, dẫn đến tình trạng dư
thừa lao động, thiếu việc làm nghiêm trọng. Trong khi đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nông nghiệp còn chậm, thị trường lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ kém
phát triển nên chưa thu hút được nhiều lao động. Bên cạnh đó, trình độ kỹ thuật của lực
lượng lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn còn thấp. Cùng với dư thừa lao
động đã xuất hiện tình trạng thiếu lao động trẻ ở một số địa phương do sự di chuyển lao
động tự do ra thành thị.
3. Chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế đã có bước điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế
so sánh của từng vùng, hình thành một số vùng trọng điểm, vùng động lực và vùng
chuyên canh sản xuất nông phẩm hàng hóa (chuyên môn hóa cây trồng, vật nuôi...),
đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên, sự kết hợp, bổ sung
cho nhau giữa các vùng còn yếu, nên chênh lệch về tốc độ phát triển giữa các vùng, nhất
là giữa đô thị và nông thôn có xu hướng gia tăng.
4. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch
Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành này chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố nội tại như:
đất đai, tài nguyên, lao động, nguồn lực khác và các nhân bên ngoài như: chính sách
nhà nước, thị trường các vật tư đầu vào và thị trường sản phẩm đầu ra. Các nhân tố này
cùng tác động vào ngành nông nghiệp và thúc đẩy chuyển dịch các bộ phận cấu thành
(các chuyên ngành, tiểu ngành và hoạt động kinh tế trong từng tiểu ngành…) tạo ra một
cơ cấu ngành nông nghiệp mới với tỷ trọng các chuyên ngành, tiểu ngành và các hoạt
động kinh tế trong có hiệu quả cao và bền vững. Thực tế trong những năm vừa qua ảnh
hưởng của các nhân tố này như sau:
* Nhân tố nguồn lực tự nhiên


- Các nguồn lực tự nhiên như nguồn nước, khí hậu, đất đai.., có ảnh hưởng mạnh tới
hướng phát triển ngành nông lâm thủy sản ở từng vùng, tiểu vùng địa lý. Điều kiện tự
nhiên khác nhau giữa các vùng, tiểu vùng đã tạo ra lợi thế so sánh và sức cạnh tranh
riêng của ngành nông nghiệp ở từng vùng, tiểu vùng và là căn cứ quan trọng để xây
dựng quy hoạch phát triển kinh tế vùng về ngành nông nghiệp.
* Ảnh hưởng của nhân tố chính sách
- Chính sách đất đai:

- Chính sách đầu tư cho nông nghiệp
* Nhân tố phát triển doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh trong ngành nông nghiệp
- Phát triển doanh nghiệp trong ngành nông nghiệp.
- Về đổi mới, sắp xếp lại các DN Nhà nước trong ngành nông nghiệp
* Nhân tố lao động nông nghiệp
* Tín dụng nông nghiệp
* Nhân tố hợp tác công-tư (PPP) trong nông nghiệp
* Nhân tố năng lực cạnh tranh sản phẩm nông sản
Câu đa
6a:dạng.
Chứng minh nước ta có đủ điều kiện phát triển cơ cấu ngành công
nghiệp
Trên
thức
tế,lượng,
Hiệnnay
chúng
có hóa
một chất,
cơ cấu
ngành
côngkhai
nhiệp
rất đacông
dạngnghiệp
với công
nghiệp
năng
công
nghiệp

công
nghiệp
khoáng,
vật
liệu
xây
dựng,
công
nghiệp
da
dày,
công
nghiệp
chế
biến
lương
thực
thực
phẩm….
Sỡ

việt
nam

thẻ
phát
triển
một
nganh
công

nghiệp
đa
dạng
như
vậy



đây
hội
đủ
những
điều
kiện
vềphát
mặt triển
vj trícác
dịangành
lý, tàicông
nguyên
thiên nhiên lẫn những điều kiện về
mặt kinh
tế xã
hộicảcho
nghiệp
a) Vị trí địa lý
Nằm
trên vành
đaigió
sinh khoáng,

chokiện
nên cho
khoáng sản
phú,vật
đa nuôi
dạng.phát
Nằmtriển
ở khu
vực
loại phong
cây trồng
đa
dạng.nhiệt
Cungđới
cấpẩm
nguyênmùa
liệu tạo
chođiều
sản xuất
công các
nghiệp.
b) Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
*lượng,
Khoáng
sảnsản
nước
taloại,
khá khoáng
phong phú
về

thể
các
khoáng
sản nhiên
liệuđã
- năng
khoáng
kim
sảncủa
phihơn
kimloại:
loại,
nước
khoáng.
Đến nay
phát
hiện
được
hơn
3.500
mỏ

điểm
quặng
80
loại
khoáng
sản,
nhưng
mới


300
mỏ
của
30
loại
khoáng
sản
được
đưa
vào
thiết
kế,
khai
thác.
-+Khoáng
nhiên
liệu Kết
- năng
lượng
Dầu,
khísản
thiên
nhiên:
quả
nghiên
cứu
thăm
dòtích
dầugần

khí1ởtriệu
nướckm.
ta đã
được
định
8các
bể
trầm
tích

triển
vọng
dầu
khí
với
tổng
diện
Mặc
dù xác
chưa

con
số
chính
xác
về
trữ
lượng
dầu
khí,

dự
báo
trữ
lượng
địa
chất

khoảng
10
tỉ
tấn
dầu,
trữ lượng
khai thác
4-5tatỉ chủ
tấn dầu
quy
đổi.năng lượng. Trữ lượng than mỡ để
+
Than:
Tài
nguyên
thankhoảng
của
nước
yếu
làthan
than
luyện
cốc

cho
công
nghiệp
luyện
kim.
Các
mỏ
nâu
có lâu
trữ được
lượngkhai
côngthác
nghiệp
làcông
Na
Dương
(Lạng
Sơn),
trữ
lượng
khoảng
100
triệu
tấn,
đã
từ
cho
sản
măng.
- nghiệp

Khoảng
sảnxuất
kimxi
loại
+ Kim
loại
đen:

sắt,dựmangan,
crôm,1800
titan.tỉ tấn, trữ lượng đã thăm dò khoảng 1 tỉ tấn.
Sắt:
tổng
trữ
lượng
báo
khoảng
+
Mangan:
chỉ
một số mỏ nhỏ, trữ lượng dự báo tới 3,2 triệu tấn, hàm lượng mangan
trong
quặng
35crômit
-có50%.
+
Crôm:
mỏ
cổtấn.
Định

(Thanh
Hoá)
trữ
lượng
đã trên
thăm46%.
dò là 3,2 triệu tấn, trữ
lượng
dự
báo
22,8
triệu
Hàm
lượng
crôm
trong
quặng
-+Kim
loạiTrữ
màu,
kim đã
loạixác
nhẹ,
kimkhoảng
loại quý
vànghìn
hiếm tấn đồng, 120 nghìn tấn niken, 29 tấn
Đồng:
lượng
định

600
vàng,
25
tấn
bạc...
+
Chì
- kẽm:
Vùng
mỏ Chợ
Điền
“cả
Chợ
Đồn
tập
trung
80%
trữ
lượng
chìKẽm
nước.
+
Thiếc
- von/ram:
Vùng
Cao
cóQuang
mỏ Piacũng
oắc làcókiểu
Túc là mỏ

sa
khoáng.
Vùng
Tam
Đảo
—Bằng
Tuyên
cácmỏ
mỏgốc
gốcvàvàmỏ
mỏTĩnh
sa khoáng.

Tây
Nghệ
An

vùng
mỏ
Quỳ
Hợp
Anh
Sơn.
+
Bôxit:
Tổng nội
trữ lượng
dựởbáo
khoảng
6,6

tỉ tấn,
trữ lượng
đã thăm
dò chắc
4 tỉ
tấn.
Mỏ
bôxit
sinh

vùng
Đông
Bắc
và Tây
Nghệ An,
Quảng
Bình.chấn
Mỏ là
ngoại
sinh
tập
trung

Tây
Nguyên

Đông
Nam
Bộ.
+

Tilượng
tan: Có
cả mỏdògốc

mỏ
sa khoáng.
Mỏ gốc ở khu vực Núi Chúa (Thái Nguyên),
trữ
đã
thăm
đạt
180
triệu
tấn.
+
Vàng:
Đến nay
đã
phát
hiện45được
284
điểmquặng,
quặngđãvàkhai
mò thác
quặng
vàng, 30
trong
đómỏ
đã
thăm

dò khảo
sát,
đánh
được
điểm
và mỏ
khoảng
điêm
nhỏ.
Nói
chung,
các

vàng

nước
ta
đều
nhỏ.
Trữ
lượng vàng dự báo là 280 tấn vàng, ở cấp tin cậy là 49 tấn, ở cấp chắc chắn là gần
18
tấn.
-nhóm:
Khoáng
sản không
kim
loại:
Khoáng
sản

không
kimbón,
loạinguyên
được phân
thành
một
số
nguyên
liệu
cho
công
nghiệp
hoá
chất

phân
liệu

thuật


nghệ,
liệu sản xuất
gạch chịu
lửa Cát
- gốm
sứ tinh;
- thuỷSét
tinh,
vật liệu xâylanh;Đá

dựng. vôi
Như
: nguyên
Apatit,
Photpho
rít, Pyrit,
Đá
quý,
thủy
xi măng;Cao
->
tạo
điều
kiện
cho
phat
triển
ngành
công
nghiệp
khoáng
sản,
năng
lượng
như công
nghiệp
dầu
khí,
công
nghiệp

xây
dựng,
công
nghiệp
hóa
chất…
* Tài nguyên nước(nước mặt, nước ngầm)
Tài nguyên
nước
ở Việtngầm
Namởđược
đánhvực
giá tự
là nhiên
rất đavà
dạng
vàtạo
phong
phú,
bao
gồm
cả
nguồn
nước
mặt

nước
các
thủy
nhân

như
sông,
suối,
hồ
tự
nhiên, hồ nhân tạo, giếng khơi, hồ đập, ao, đầm phá và các túi nước ngầm.


Việtbắc
Nam

khoảng
2.372Hồng
con sông
lớnthống
nhỏ có
chiều
dàiBình.
từ 10km
trở
lên,miền
trongTrung
đó ở
miền

Hệ
thống
sông

hệ

sông
TháI
Sông
ngòi
gồm
những
sông sôngThu
chính sau:
sông
Mã;Trà
sông
Cả,sông
sôngĐà
Gianh,
sông
Bến HảI,
sônggồm
Cam
Lộ,
sông
Hương,
Bồn,
sông
Khúc,
Rằng...;
ở Nam
Bộ cũng
2
hệ
thống

sông
chính
là:
sông
Đồng
Nai,
sông
CửuLong.
Tổng
lượng
dòng
chảy
sông
ngòi
trung
bình
hàng
năm
của
nước
ta
bằng
khoảng
847
km3,
trong
đó
tổng
lượng
ngoài

vùng
chảycóvào
là 507
chiếm
60%
dòng
34026
km3,
chiếm
40%.Việt
Nam còn
hàng
ngànkm3
hồ đập
nhân
tạovàvới
tổngchảy
sức nội
chứađịa
lênlàđến
tỷ m3
nước
Giá
trị với
phát
triểnvùng
công có
nghiệp:
vì rất
chảy

qua
những
độ
dốc lớncủa
nêncảhệnước
thống
tạo ra trữlượng
thuỷ
điện
lớn
với
tổng
công
suất
thuỷđIện
từsông
20 - ngòi
30 triệukW
tương Đà
đương
260

270
tỉ
kWh.
Trong
đó
nguyên
hệ
thống

sông
Hồng
đãchiếm
11
tr
kW,sông
6 tr
kW
(sông
Hồng
chiếm
37%
tổng
trữ
năng
thuỷ
đIện
của
cả
nước
sông
Đồng
Nai
chiếm
19%).
vậynhất
mà là
sông
ngòinước
taBình.

cho phép xây dựng được nhiều nhà máy thuỷ đIện
cỡNước
lớn Nhờ

lớn
thuỷ
điện
Hoà
sông
ngòi
còn

1
loạI
nguyên
liệu
đặc
biệt sông.
để phát triển công nghiệp cho nên
cácc.nhà
máy
xínghiệp
đều
phảI
được
xây
dựng

gần
Các điều kiện tự nhiên khác:

- khí
sôi
nảyhậu
nở.,mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa tạo điều kiện cho các loài sinh vật sinh
-vật
sinh
vất:triển
ViệtvàNam

gia nằm
ở của
vùngnhiều
nhiệtloài
đới, động
có nhiều
điều
kiện
cho các
sinh
phát
tạo thống
ra quốc
sự kê
phong
phú
thực
vật
và vật
nhiều
hệ

sinh
thái
khác
nhau.
Theo
hiện
tại
Việt
Nam
có:Gần
12.000
loài
thực
bậc
cao

mạch
thuộc
hơn
2.256
chi,
305
họ
;
69
loài
thực
vật
hạt
trần;

12.000
loài
thực
vật
hạt
kín;
loàikhác.
nấm; Động
2.176 vật:
loài 300
tảo; loài
481 thú;
loài 830
rêu; loài
368 chim;
loài vi260
khuẩn
691158
loàiloài
dương
xỉ
và2.200
100
loài
loàilam;

sát;
ếch
nhái;
5.300

loài
côn
trùng;
547
loài

nước
ngọt;
2.038
loài

biển;
9.300
loài
động
vật
không xương sống.
- đất đai,
đấtkhoản
tự nhiên
ở Việttriệu
Namha.cóHiện
diệnnay
tíchmơi
đất sử
liềndụng
gầnkhoảng
330.000km2.
đâtsốnông
nghiệp

chiếm
từ
10-11
gần
70%
đất
nông
nghiệp
hiện
có,
số
còn
lại
hầu

đất
xấu
,
đất
Việt
nam
phân
13
nhóm:
Cồn
cát

cát biển : 502.045 ; Ðất mặn :991.202 ; Ðất phèn:2.140.306 ;Ðất phù sa : 2.936.413 ; Ðất
lầy


than
bùn:71.796
;
Ðất
xám
bạc
màu
:
2.481.987
;
Ðất
đỏ

xám
nâu
vùng
bán
khô
hạn:34.234;
Ðất trên
đen:237.602
; Ðất đỏ; vàng:15.815.790
; Ðất
mùn
vàng
đỏ
trên núi ;:
2.976.313
;Ðất
mùn

núi
cao:280.714
Ðất
thung
lũng
do
sản
phẩm
dốc
tụ:330.814
Ðất xói mòn trơ sỏi đá:5505.298; Các loại đất khác và đất chưa điều tra:3.651.586 .
Điều
kiệnnguyên
về khí hậu,
đai,
sinh
vật…
thuậnđặc
lợibiêtj
để phát
triểnnghiệp
nông- lâmthủybiến
sản
cung
liệu đất
cho
sảntiêu
xuất
công tạo
nghiệp,

là công
nhẹ, chế
lươngcấp
thực- thực phẩm,
hàng
dùng
d. ĐK KTXH
*tuổi
Cólao
nguồn
lao
độngtrên
dồi60%
dào:dân
dânsố(
số lực
của lượng
VN khoảng
92 năm
Số người
trong
độ
động
chiếm

khoảng
gần2015.
55
triệu),
thuận

lợi dày,
cho
các
ngành
sử
dụng
nhiều
lao
động
(LTTP,HTD,
hàng
xuất
khẩu
như
may
mặc,
da
công nghiệp chế biến)
-kiện
Chấtđểlượng:
Tỷ lệphát
lao triển
động các
đã qua
đàocó
tạohàm
ngày
càngkhoa
tăng(học
21,9%

năm
2015)
tạo
điều
phát
triển
ngành
lượng
cao:
điện
tử,

khí,
tự
động
hóa;
lao
động
việt
nam

đặc
điểm
thông
minh,
sáng
tạo

cần
mẫn…rất

thuận
lợi cho phát triển các ngành kinh tế, nhất là công nghiệp.
*công
Chính
sách:phát
Nước
ta đang
đẩy
mạnh
conhân
nhiều
sách
nhăm
thúc
nghiệp
triển:
Chính
sách
phátCNH,HĐH
triển
nguồn
lực,chính
Chính
sách
phát
triểnđẩy

sở
hạ
tầng,

Chính
sách
phát
triển
vùng,

Các
ưu
đãi
về
tài
chính
cho
đầu
tư,
Chương
trình
đầu

công
cộng;
chính
sách
khuyến
khích
ưu
đãi
các
doanh
nghiệp

quy

vừa

nhỏlýnhư
điều kiện cho tiếp cận vốn vay, đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong
quản
nhà tạo
nước
*cho
Hệviệc
thống
pháp
không
ngừng
được
bổ hành
sung,rahoàn
tạo điều
rấtvàthuận
lợi
phát
triểnluật
ngành
công
nghiệp.
Tiến
soát,thiện,
điều chỉnh,
bổkiện

sung
đưa
vào
vận
hành
các
luật
doanh
nghiệp,
luật
chống
phá
giá,
luật
chống
độc
quyền.
luật
sở
hữu
trí
tuệ…cũng như các văn bản dưới luật
*đẩy
Thịcác
trường:
thịcông
trường
trongphát
nước
rộngĐồng

lớn với
hơn
92nay
triệuchúng
dân tạo
sứcquan
mua hệ
lớnngoại
thúc
ngành
nghiệp
triển.
thời
hiện
ta

giao
với thế
hơngiới.
185 quốc
gia,tham
có quan
thương
vớikinh
hơntế200
gia và
lãnh
thổ
trên
Vớ

việc
gia hệ
vàocác
cáchiệp
tổ mại
chức
có quốc
tầm
vóc
khuvùng
vực
như
ASEAN,
APEC

thế
giới
như
WTO
định
thương
mại
tự
do
quóc
tế

khu
vực
như

TPP,
AFTA...
chúng
ta
đã
tạo
điều
kiện
để
mở
rộng
thị
trường,
tăng
sức
mua,
tạo
điềukhó
kiện
để Các
xuấtmặt
khẩu
cácđó
mặt
hàng công
nghiệp
ra may
thị trường
thế gia,
giưới,

kể sản…
cả thị
trường
tính.
hàng
là những
thế mạnh
như
mặc, giày
nông
*tinCơ
hạphát
tầng:triển…
ngày càng hiện đại và hoàn thiện: bến cảng, sân bay, đường xá, thông
liensởlạc
*nước
Khoa
họcphục
kỹ thuật:
ngày
ở trong nước, tiếp thu công nghệ tiên tiến ở
ngoài
vụ cho
phátcàng
triểnphát
côngtriển
nghiệp.
*từĐầu
tư nước
ngoài:

vào các
khu
công
nghiệp,
nhàlực
máy,
xí1988,
nghiệp
ngày
càng
khilực

Luật đầu
tưtrong
trực
tiếp
nước
ngoài
có hiệu
năm
dòng
vốn
FDItăng.
luônKể

động
quan
trọng
quá
trình

phát
triển
kinh
tế

hội
của
nước
ta
trong
suốt
26
năm
qua.
Khu
vực
kinh
tế

vốn
đầu

nước
ngoài
(FDI)
luôn
phát
triển
năng
động.

Trong
25 năm
từthực
1988-2013,
vốn
FDI đăng

vào
Việtnghiệp
Nam đạt
khoảng
218,8
tỷ
USD,
tổng
vốn
hiện
đạttưtổng
106,3
tỷ
USD,
lĩnh
vực
công
chiếm
tới
gần
60%.
Theo
thống


của
Cục
Đầu
Nước
ngoài
(Bộ
Kế
hoạch

Đầu
tư),
trong
10
tháng
đầu
năm
2014,
các
nhà cùng
đầu tư
nước
ngoài
đã đăng

đầu

vàongoài
Việt vào
NamViệt

13,7Nam
tỷ USD,
bằng
71,2%
so
với
kỳ
2013.
Như
vậy,
tỷ
lệ
đầu

nước
đang

chiều
hướng
so với thời điểm Việt Nam đạt kỷ lục về thu hút đầu tư nước
ngoài
(vượt
mốcgiảm
20 tỷ nhẹ
USD).
Vấn đề 7: Phát triển vùng chuyên canh cây công nghiệp ở Tây nguyên
1. Đặt vấn đề


Tây nguyên gồm 5 tỉnh Kom Tum, Gia lai, Đắc Lắc, Đắc Nông và Lâm Đồng. đây

là vùng duy nhất không giáp biển. Tây Nguyên là vùng có vị trí đặc biệt quan trọng
trong chiến lược quốc phòng đồng thời cũng là vùng có nhiều tiền năng phát triển kinh
tế như tiềm năng khoáng sản, tiềm năng thủy điện, tiềm năng phát triển vùng chuyên
canh cây công nghiệp.
2. Các nguồn lực phát triển vùng chuyên canh cây công nghiệp ở TN
2.1. Nguồn lực tự nhiên
* Địa hình
Nét nổi bật của địa hình Tây Nguyên là tính phân bậc rõ ràng, các bậc nằm cao về phía
đông, bậc thấp nhất về phía tây. Mạng lưới sông suối tương đối phát triển.
Tây Nguyên có hàng loạt cao nguyên ở ác độ cao khác nhau, nhưng phần lớn được
phủ bazan trên móng đá gốc. Lớp phủ bazan cũng dày mỏng khác nhau đi từ bắc xuống
nam, trong đó có một số cao nguyên có diện tích bằng phẳng lớn như: Cao nguyên
Plâycu (một trong hai cao nguyên rộng nhất ở Tây Nguyên) cao750-800m ở phía bắc và
đông bắc, thấp xuống còn 400m ở phía nam. Bề mặt cao nguyên bazan khá bằng phẳng,
còn có miệng núi lửa Chư Hơ đrông (hàm rồng)(1025m) khá rõ nét, thuận lợi cho phát
triên cây công nghiệp.
Cao nguyên Đắc Lắc nằm ở phía nam cao nguyên Playcu cũng là một cao nguyên
bazan rộng lớn, bề mặt khá bằng phẳng, cao gần 500m ở phía đông bắc, 400m về phía
nam và chỉ 300m về phía tây. Ngoài ra còn một số cao nguyên khác như: cao nguyên
MaĐrak, cao nguyên Di Linh, cao nguyên Đắc Nông, Bình sơn Đà Lạt… thuận lợi cho
phát triển các cây công nghiệp.
Xen kẽ giữa các dãy núi và các cao nguyên là các miền trũng và đồng bằng có
nguồn gốc bóc mòn hoặc bóc mòn- tích tụ. như : Có các cánh đồng rộng lớn như cánh
đồng An Khê ở phía nam cao nguyên Easup; miền trũng giữa núi Kom Tum chạy dọc
sông Pô Cô; … Các cánh đồng này là những thung lũng bóc mòn theo cơ thức xâm thực
“giật lùi sườn” mà được mở rộng ra nên tít có các bãi bồi quan trọng, có các thềm đá gốc
và thềm xâm thực, các núi sót trên còn lớp phủ bazan.
* Tài nguyên đất
Với đặc điểm thổ nhưỡng chủ yếu là đất feralit và đất phù sa ca cổ, đặc biệt là đất
bazan có diện tích lớn, có tầng phân hóa sâu, tơi xốp, giàu chất dinh dưỡng. Phân bố tập

trung thành những mặt bằng rộng lớn thuận lợi cho việc thành lập các nông trường và
vùng chuyên canh có quy mô lớn. cụ thể:
Đất feralit đỏ vàng phân bố ở độ cao dưới 1000m gồm nhiều loại đất dỏ vàng trên
đá sét và đá biến chất, đất vàng đỏ trên đá macma axit, đất vàng nhạt trên đá cát, đất
vàng nâu trên phù sa cổ… Riêng đất vàng đỏ trên các đá macma axit phân bố rất rộng ở
Tây Nguyên (38% diện tích tự nhiên), đất này có tầng mùn dày, chua, dễ bị rửa trôi và
xói mòn trong mùa mưa, nên cần được bảo vệ.
Đất feralit nâu đỏ, hình thành trên các đá măcma, bazơ, trung tính (đất bazan) có
diện tích khoảng 1,4 triệu ha (gần 23% diện tích đất Tây Nguyên), đất nâu đỏ phân bố
rộng, tập trung tầng đất dày, phì nhiêu, tỷ lệ mùn cao, ít chua thích hợp trồng các cây
công nghiệp lâu năm có rễ ăn sâu như cao su, cafê, chè.
Đất feralit nâu vàng trên đá macma bazơ và trung tính phân bố khá tập trung ở cao
nguyên bảo lộc, ở độ cao 900m và lượng mưa tới 280mm/năm. Đất có độ phì khá cao,
độ ẩm điều hòa, thích hợp trồng các loại cây chè, dâu tằm, cây ăn quả, cà phê và các cây
lương thực khác.


Đất mùn vàng đỏ trên núi và đất mùn trên núi cao phân bố ở các khối núi cao
thượng Kom Tum và rìa đông nam của Trường Sơn Nam. Đất mùn vàng đỏ trên núi
phân bố ở độ cao 1000-2000m. Đất này khá phì nhiêu, có thể dùng để phát triển các loại
cây rau giống và cây ăn quả ôn đới, một số cây thuốc quý như sâm Ngọc Linh…
Đất đen (khoảng 115.000ha) phát triển trên đá bọt, tro núi lửa và sản phẩm bồi tụ
của bazan, phân bố ở rìa phía nam, đông nam cao nguyên Plây cu và rìa phía tây cao
nguyên Đắc Lắc. Tầng lớp đất mỏng, lẫn nhiều mảnh đá bột chưa phong hóa thích hợp
với trồng họ đậu, Ngô…
* Khí hậu
Tây Nguyên có khí hậu cận xích đạo nóng ẩm quanh năm, có 1 mùa khô kéo dài
tạo điều kiện để phơi sấy và bảo quản sản phẩm. Khí hậu có sự phân hóa theo độ cao
400-500m, khí hậu khô nóng thích hợp cho việc trồng các loại cây công nghiệp nhiệt đới
như cà phê, các cao nguyên có độ cao trên 1000 m thích hợp phát triển cây công nghiệp

cận nhiệt và ôn đới.
Nằm trong vùng nhiệt đới xavan, khí hậu ở Tây Nguyên được chia làm hai mùa:
mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4, trong đó
tháng 3 và tháng 4 là hai tháng nóng và khô nhất. Nhiệt độ trung bình hàng năm 240C;
lượng ánh sáng dồi dào, cường độ ổn định. Tổng lượng bức xạ mặt trời trung bình hàng
năm 240-250 kcal/cm2. Số giờ nắng trung bình 2.200-2.700 giờ/năm. Biên độ dao động
nhiệt giữa ngày và đêm khá lớn (mùa khô biên độ từ 15-200C, mùa mưa biên độ từ 10150C). Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.900-2.000mm, tập trung chủ yếu
trong mùa mưa.
Với khí hậu thuận lợi như vậy, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đa dạng các
loại cây công nghiệp lâu năm đặc biệt là cây cà phê, cao su, ca cao, hồ tiêu..
* Tài nguyên nước
Tây Nguyên có 4 lưu vực sông chính là lưu vực sông Xê Xan, sông XrePôk, sông Ba
và phần thượng nguồn của hệ thống sông Đông Nai. Các sông suối vùng cao nguyên, sơn
nguyên, nhất là trên các cao nguyên bazan, chảy trên các địa hình dạng đồi lượn sóng, đá
thấm nước vừa hoặc thấm nước nhiều là chủ yếu nên có khả năng điều tiết dòng chảy khá
lớn.
Tài nguyên nước ngần ở Tây Nguyên có trữ lượng khá và trung bình, nhất là các
trong các lớp phủ bazan có độ sâu 10-150m, nơi khai thác tốt nhất là 40-70m, lưu lượng
giếng cỡ hàng năm trăm đến hàng nghìn lít/phút, chất lượng nước tốt. Đây là điều kiện
quan trọng cung cấp nguồn nước tưới cho vùng chuyên canh cây công nghiệp của vùng
vào mùa khô.
3. Nguồn lực kinh tế - xã hội
* Dân cư và lao động
Dân cư ở Tây Nguyên thưa thớt, theo số liệu Tổng điều tra dân số 2009, Tây
Nguyên có dân số ít nhất với dân số 5.107.437 người. Tây Nguyên chỉ chiếm gần 19%
dân số của cả nước, Tây nguyên có mật độ thấp nhất (93 người/km2), hiện nay Tây
Nguyên có tốc độ nhập cư cao nhất cả nước. Dân số hoạt động kinh tế từ 15 tuổi trở lên
ở Tây Nguyên khoảng 3 triệu người chiếm 5,3% dân số hoạt động kinh tế của cả nước,
chất lượng lao động nói chung còn thấp, thể hiện cả trình độ văn hóa và trình độ kỹ
thuật. Tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông lâm nghiệp khoảng 76%. Tuy nhiên nguồn

nhân lực ở đây lại có sức khỏe tốt, có nhiều kinh nghiệm trong trồng các loại cây công
nghiệp nhất là cà phê. Hiện nay, tỉ lệ lao động qua đào tạo ở Tây Nguyên cũng đang


được cải thiện dần dần. Cùng với chính sách thu hút lao động từ các vùng khác, nguồn
lao động ở Tây Nguyên đang đân được cải thiện.
* Cơ sở vật chất kỹ thuật.
- Về hệ thống công nghiệp năng lượng: Với hệ thống sông ngòi có tiềm năng thủy
điện lớn, hiện tại có các công trình thủy điện như Yali (720MW), thủy điện Xê Xan 3
(273MW), Xê Xan 4 (330MW); trên hệ thống Xrêpôk, nhà máy thủy điện Đrây Hling
(12MW), Buôn Kuôp (280MW)… Trên hệ thống sông Đông Nai có thủy điện Đa Nhim
(160), Đa Ninh (300MW), Đồng Nai 3 (180MW), Đồng Nai 4 (340 MW) … cơ sở năng
lượng được đảm bảo tốt hơn cho phát triển kinh tế của vùng nói chung và cho phát triển
các ngành công nghiệp chế biến cây công nghiệp, phục vụ tưới tiêu cho vùng trông cây
công nghiệp của vùng
- Về hệ thống công nghiệp chế biến nông, lâm sản: Đây là ngành công nghiệp
đóng vai trò quan trọng và được ưu tiên phát triển. Hệ thống công nghiệp chế biến cà
phê tập trung ở Buôn Ma Thuột, Kom Tum, Plây cu, Bảo lộc… công nghiệp chế biến
cao su ở Gia Lai, Công nghiệp chế biến chè ở Bảo Lộc. Các cơ sở xay sát gạo, Ngô, sắn
có ở các địa phương. Nhà máy đường quy mô nhỏ, chế biến điều, dầu thực vật, sản xuất
bánh kẹo được xây dựng và từng bước đổi mới công nghệ. Hệ thống công nghệ máy
móc kỹ thuật hiện đại ngày càng được đầu tư thích đáng, tạo điều kiện nâng cao năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của vùng đối với sản phẩm của
vùng khác và đối với thế giới.
- Hệ thống giao thông vận tải, ở Tây Nguyên có hai hệ thống giao thông vận tải
chính là hệ thống đường bộ và hệ thống đường hàng không. Mạng lưới giao thông có ý
nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của vùng. Tây Nguyên có hệ thống giao
thông như: Quốc lộ 14 xuyên Tây Nguyên, nhiều đoạn được nâng cấp cải tạo, quốc lộ 14
B, 14C , quốc lộ 24 từ thạch trụ đến thị xã Kom Tum dài 168 km, quốc lộ 19 từ cảng
Quy Nhơn qua thị xã an Khê, đến thành phố Plâycu đến cửa khẩu Lệ Thanh, tỉnh Gia Lai

dài 247km; Quốc lộ 25, 26,27,28…
Với hệ thống các quốc lộ dày đặc nối giữa các tỉnh của vùng Tây Nguyên, đã tạo điều
kiện thuận lợi cho giao thương trong vùng và với các vùng khác, là điều kiện quan trọng
cho cây công nghiệp của vùng phát triển.
- Hiện nay hệ thống giao thông liên lạc của vùng đã phát triển mạnh, hệ thống
thương mại, dịch vụ cũng ngày càng phát triển mạnh, đặc biệt là thị trường phục vụ cho
phát triển cây công nghiệp cũng như thị trường cây công nghiệp của vùng.
- Đặc biệt, hiện nay thị trường tiêu thụ cà phê, ca cao, hồ tiêu, … trên thế giới cao
và ổn định, sản xuất cà phê đem lại hiệu quả kinh tế cao, xu hướng tiếp tục phát triển,
tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế của vùng phát triển nhất là các vùng chuyên canh cây công
nghiệp.
2.3. Hệ thống chính sách.
- Là vùng trọng điểm của cả nước về an ninh quốc phòng cùng như phát triển cây
công nghiệp, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước, các cấp, các ngành trong cả
nước cũng như các tỉnh trong vùng đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh
tế vùng thông qua các chính sách phát triển kinh tế của vùng…
* Hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh những nguồn lực thuận lợi trong phát triển cây công nghiệp ở
Tây Nguyên thì trong vùng cũng còn không ít khó khăn như: Mùa khô kéo dài, mực
nước ngầm hạ thấp, nên việc làm thủy lợi gập khó khăn và tốn kém. Đất đai bị xói mòn
vào mùa mưa. Trình độ dân trí của đồng bào dân tộc còn thấp, thiếu lao động lành nghề,


cán bộ khoa học - kĩ thuật. Cơ sở hạ tầng kém phát triển đặc biệt là giao thông vận tải,
công nghiệp chế biến còn yếu… vì vậy cũng gây cản trở cho sự phát triển vùng chuyên
canh cây công nghiệp của vùng.
3. Một số giải pháp phát triển vùng chuyên canh cây công nghiệp ở Tây
Nguyên
Một là, Nhà nước, cùng như các tỉnh Tây Nguyên cần xây dựng kế hoạch, quy hoạch
phát triển vùng một cách cụ thể, đối với từng loại cây công nghiệp tương ứng với từng vùng.

Trong đó quy hoạch một cách cụ thể tránh hiện tượng phát triển một cách tràn nan, được mùa
rớt giá, được giá mất mùa, làm ảnh hưởng đến các nguồn tài nguyên khác của vùng.
Hai là, cần đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, đẩy mạnh ứng dụng
khoa học kỹ thuật nâng cao chất lượng cây trồng, nâng cao hiệu quả sử dụng hệ thống
tưới tiêu vào mùa khô, đảm bảo nguồn nước ngầm cho tưới tiêu. Tích cực đấu tranh với
nạn phá rừng, khai thác các nguồn tài nguyên một cách tùy tiện. Thực hiện chuyển giao
công nghệ cho đồng bào các dân tộc ít người về trồng và chế biến các loại cây công
nghiệp nhất là về cà phê. Phát triển rộng rãi mô hình kinh tế vườn, nâng cao hiệu quả
sản xuất. Nâng cấp và phát triển mạng lưới giao thông đường bộ. Tăng cường cơ sở vật
chất kĩ thuật cho các vùng chuyên canh, xây dựng cơ sở chế biến gần các vùng chuyên
canh cây công nghiệp trong vùng. Đảm bảo cung cấp đầy đủ lương thực - thực phẩm cho
các vùng chuyên canh để ổn định diện tích các cây công nghiệp đã quy hoạch.
Ba là, xây dựng chính sách đãi đối với vùng sản xuất cây công nghiệp của vùng
nhất là các cây chủ lực như cà phê, cao su, hồ tiêu.. đồng thời mở rộng thị trường xuất
khẩu ra bên ngoài, xây dựng tốt thương hiệu.
Bốn là, cần thực hiện tốt chính sách di cư, tránh di cư dồn dập, tràn nan không có
kiểm soát, ổn định định canh, định cư cho đồng bào. Không ngừng nâng cao chất lượng
giao dục đào tạo tại vùng.

Câu 8: Vì sao vấn đề dân số được quan tâm gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
vùng ĐBSH
* Vấn đề dân số ở đồng bằng Sông Hồng:
- Vùng đồng bằng sông Hồng bao gồm 10 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh
Phúc, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình) với
diện tích gần 15 nghìn km2 (chiếm 4,5% diện tích tự nhiên toàn quốc) và số dân 18,2
triệu người (chiếm 21,6% số dân cả nước, năm 2006), là vùng có số dân đông nhất. Dân
số đông, cơ cấu dân số trẻ, nên vùng có nguồn lao động dồi dào.
- Đồng bằng sông Hồng là vùng có mật độ dân số đông đúc nhất cả nước, với mật độ là
1.225 nguời/ km2, gấp khoảng 4,8 lần mật độ trung bình của cả nước (năm 2006). Những
nơi dân cư đông nhất là Hà Nội (2883 người/km 2), Thái Bình (1183 người/km2), Hải

Phòng (1113 người/km2), Hưng Yên (1204 người/km2). Ở các nơi khác, chủ yếu thuộc
khu vực rìa phía Bắc và Đông Bắc của châu thổ, dân cư thưa hơn.
- Tỉ lệ dân số sống ở nông thôn cao, năm 2003 là 79,1%, dẫn đến việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế từ nông nghiệp sang các ngành khác chậm.
* Trong khi đó, các nguồn lực của vùng còn hạn chế, đặc biệt cho phát triển nông
nghiệp:
+ Địa hình: bằng phẳng thuận lợi cho canh tác nông nghiệp quy mô lớn, phân bố dân cư,
nhà máy sản xuất thuận lợi.


+ Khí hậu: ĐBSH có khí hậu mang tính chất nhiệt đới gió mùa ẩm (Có một mùa đông
lạnh), tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, có cơ cấu nông nghiệp đa dạng,
vùng có thể trồng các lại rau, đậu, hoa ôn đới; nhưng khí hậu cũng để gây ẩm mốc, các
loại sâu bệnh dễ phát triển và lâu lan
+ Thổ nhưỡng: Thổ nhưỡng của vùng ĐBSH cũng đa dạng, bao gồm các loại đất phù sa,
đất xám bạc màu trên các thềm phù sa cổ, đất Feralit trên các đồi và núi sót, tạo điều
kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp với đa dạng cây trồng, vật nuôi... Đất nông
nghiệp của vùng: diện tích khoảng 760.000 ha (chiếm 51,2%), trong đó 70% có độ phì
cao và trung bình, có giá trị lớn về sản xuất nông nghiệp. Tỉ lệ đất nông nghiệp đã được
sử dụng rất cao tới gần 82,5%.
+ Tài nguyên nước: phong phú, có giá trị lớn về kinh tế: nước sông (hệ thống sông Hồng
và sông Thái Bình), nước ngầm, nước nóng, nước khoáng có chất lượng. Đảm bảo cho
sản xuất và sinh hoạt. Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản khoảng 90,3 nghìn ha năm
(2005).
+ Tài nguyên biển: bờ biển dài 400 km, vùng biển có tiềm năng lớn để phát triển nhiều
ngành kinh tế (đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản, giao thông, du lịch), có ngư trường trọng
điểm Hải Phòng - Quảng Ninh, cảng Hải Phòng…
+ Khoáng sản : không nhiều, có giá trị là đá vôi (Hải Phòng, Hà Nam, Ninh Bình), sét
cao lanh, than nâu, khí tự nhiên. Khí đốt đã được khai thác ở Tiền Hải (Thái Bình).
* Vấn đề dân số của ĐBSH dẫn đến sức ép tới

- Phát triển kinh tế - xã hội:
+ Do dân số đông, mật độ cao, tăng nhanh đã kìm hãm tốc độ tăng trưởng KT, kìm hãm
sự chuyển dịch cơ cấu KT của vùng., tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng còn
chậm.Cụ thể, từ năm 1986 đến năm 2005:
Khu vực: nông, lâm, ngư nghiệp : 49,5% - 25,1%;
Khu vực: công nghiệp – xây dựng : 21,5% - 29,9%;
Khu vực: dịch vụ : 29,0% - 45,0%.
Cơ cấu kinh tế năm 2008, nông nghiệp (chiếm 12,67%) – So với Đông Nam Bộ tỷ lệ cao
hơn nhiều.
+ Việc đáp ứng, giải quyết các nhu cầu xã hội gặp nhiều khó khăn; dân số đông, lực
lượng lao đông lớn, đặc biệt là lao động ở nông thôn, chính vì vậy dẫn đến tình trạng dư
thừa lao động ở nông thôn, tình trạng di dân ra các thành phố lớn tìm việc làm theo mùa
vụ…
+ Hàng loạt vấn đề xã hội như nhà ở, y tế, văn hóa, giáo dục vẫn còn là bức xúc.
+ Tiềm năng nhân văn chưa được khai thác: như việc khai thác tiềm năng du lịch tâm linh
ở nhiều địa phương; nguồn lao động chất lượng cao của vùng cũng đang bị “chảy máu
chất xám” sang các vùng khác (Đông Nam Bộ), ra nước ngoài…
- Sức ép đối với vấn đề tài nguyên, môi trường:
+ Tài nguyên : ĐBSH là vùng có bình quân đất nông nghiệp trên đầu người thấp nhất cả
nước (bình quân đất nông nghiệp trên đầu người thấp chỉ có 0,04 ha/người). Tài nguyên
sinh vật tự nhiên trên cạn hầu như không còn. Tài nguyên sinh vật dưới nước bị suy
giảm nghiêm trọng do tình trạng đánh bắt bừa bãi, ô nhiễm môi trường nước…
+ Môi trường: Do quá trình tăng dân số và sự phát triển kinh tế lâu đời, quá trình quy
hoạch hạn chế dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng; ô nhiễm
không khí, ô nhiễm nước ở các đô thị, ô nhiễm, suy thoái một số loại đất ở các vùng
nông thôn…


+ Không gian sống của vùng cũng chặt hẹp do quá trình tăng dân số, quá trình đô thị hóa
ồ ạt.

- Sức ép về chất lượng cuộc sống:
+ Do dân số đông, tăng nhanh cho nên việc nâng cao chất lượng cuộc sống ở ĐBSH gặp
rất nhiều khó khăn, mức sống của vùng còn chưa cao. Thu nhập bình quân theo người
của vùng là 2.500 USD/người (năm 2015). Thu nhập bình quân đầu người thấp hơn cả
nước.
+ ĐBSH là vùng trọng điểm sản xuất lương thực lớn thứ hai cả nước, nhưng bình quân
lương thực đầu người vẫn thấp hơn mức trung bình cả nước và thấp hơn nhiều so với
ĐBSCL. Bình quân lương thực đầu người của ĐBSH là 477kg/người (năm 2005), trong
khi đó ở ĐBSCL là 1.066kg/người.
* Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế có ý nghĩa đối với dân số:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ
Theo xu thế chuyển dịch chung của nền kinh tế, tỉ trọng ngành nông nghiệp có xu
hướng giảm dần, tỉ trọng của ngành công nghiệp, dịch vụ có xu hướng tăng dần. Cụ thể
như sau: Cơ cấu kinh tế năm 2008, trong nông nghiệp (chiếm 12,67%), công nghiệp, xây
dựng (chiếm 42,88%), dịch vụ (chiếm 44,45%). Tạo điều kiện cho các ngành công
nghiệp và dịch vụ phát triển trong thời gian tới.
Trong nội bộ các ngành vùng ĐBSH vẫn chuyển dịch còn chậm. Ngành nông nghiệp
của vùng vẫn là ngành chiếm tỷ trọng cao (87,02%) năm 2008, trong khi đó ngành thủy
sản chỉ chiếm có 11,88%. Ảnh hưởng đến giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản của vùng,
đồng thời ảnh hưởng đến ngành công nghiệp chế biến của vùng.
- Thúc đẩy đô thị hóa. Cơ cấu kinh tế ngành của vùng chuyển dịch đã thúc đẩy quá
trình đô thị hóa với việc phát triển các đô thị vừa và nhỏ. Việc hình thành vùng đô thị Hà
Nội sẽ có tác động tích cực đối với sự phát triển đối với vùng. Đồng thời đẩy mạnh chủ
trương của Đảng và nhà nước trong xây dựng Nông thôn mới.
- Nâng cao trình độ lao động, chất lượng lao động
Các ngành công nghiệp và dịch vụ có tỉ trọng xu hướng tăng cao, đòi hỏi cần phải có
lực lượng lao động phù hợp, chất lượng cao, đã qua đào tạo chuyên sâu, đáp ứng yêu cầu
phát triển công nghiệp, dịch vụ của vùng.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa
Câu 9:

MB
1. Phải khẳng định rằng: Đông Nam Bộ luôn là vùng chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ
cấu đóng góp công nghiệp của cả nước. vì vùng này hội đủ rất nhiều điều kiện cả về vị
trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, cũng như kinh tế xã hội để phát triển một cơ cấu công
nghiệp với sự đa dạng ngành nghề và luôn đạt chất lượng, hiệu quả cao. Cụ thể là:
a - Vị trí địa lý
Đông Nam Bộ Vùng Đông Nam Bộ gồm 6 tỉnh, thành phố là: TP. Hồ Chí Minh, tỉnh
Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu. Phía bắc- tây bắc
giáp Campuchia, phía nam giáp biển Đông, phía tây-tây nam giáp Campuchia và Đồng
bằng sông Cửu Long, phía đông - đông nam giáp Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung
Bộ. Vùng có diện tích tự nhiên 23.605 km2, chiếm 7,1% diện tích cả nước.
Đây là vùng chuyển tiếp giữa vùng kinh tế Tây Nguyên, vùng Duyên Hải Nam Trung
Bô với vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Đây là vùng kinh tế phát triển nhất đất nước.


×