Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

De cuong on tap mon TTHCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.56 KB, 34 trang )

Đề cương ôn tập môn TTHCM

Câu 1. Đồng chí hãy phân tích tiền đề lý luận và thực tiễn hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh và ý nghĩa phương pháp luận của việc hiểu biết vấn đề này.
Tư tưởng HCM được hình thành, từng bước hoàn thiện và phát triển dưới tác động
của những điều kiện lịch sử-xã hội cụ thể của dân tộc và nhân loại trong thời đại Người
sống và hoạt động. Trải qua các kỳ ĐH Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là từ năm 1991,
tại ĐH VII của Đảng, đầu tiên Đảng ta nêu lên khái niệm TTHCM và khẳng định lấy
CN Mác – Leenin và TTHCM làm nền tảng TT và kim chỉ nam cho hành động của
Đảng.
Đến ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) trước yêu cầu, nhiệm vụ
mới, việc thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ
sung và phát triển), Đảng ta xác định khái niệm TTHCM một cách khái quát như sau:
“TTHCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của CM Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to
lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta dành thắng lợi”
Sự ra đời của tư tưởng HCM là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa các giá trị truyền thống tốt
đẹp của DT, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Nguồn gốc lý luận:
- Giá trị truyền thống tốt đẹp của DTVN
Chủ nghĩa yêu nước với ý chí bất khuất, tự lực, tự cường để dựng nước và giữ
nước được hun đúc qua hàng ngàn năm của DT ta. Trải qua hàng ngàn năm, chủ nghĩa
yêu nước VN là giá trị tinh thần cao nhất của dân tộc ta nhưng có đặc điểm sâu sắc là nó
mang trong mình một giá trị kép: Yêu nước-thương dân, thương dân-yêu nước. Giá trị
kép đó gắn bó biện chứng với nhau. Vì thế, vấn đề dân tộc bao giờ cũng gắn liền với vấn
đề con người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở VN.
Tinh thần đoàn kết và ý thức dân chủ xuất hiện sớm. Những giá trị này được duy


trì bền vững và không ngừng được bổ sung, phát triển trên cơ sở kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội. Từ đó, làm cho mối quan hệ Cá nhân-Gia đình-Làng –Nước ngày càng trở
nên bền chặt và nương tựa vào nhau để sinh tồn và phát triển
Cùng với chủ ngĩa yêu nước và tinh thần đoàn kết là truyền thống dũng cảm, cần
cù thông minh sáng tạo trong lao động sản xuất, chiến đấu để sinh tồn và phát triển trước
thiên nhiên nghiệt ngã và kẻ thù hung bạo. Nhưng đồng thời, trong quá trình đó, dân tộc
VN cũng luôn rộng mở đón nhận những giá trị văn hóa, văn minh của nhân loại để làm
giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh nhằm bảo tồn dân tộc và phát triển đất nước. Chọn lọc và
thâu nhận những giá trị văn hóa, văn minh của nhân loại để tồn tại và phát triển đã tạo ra
tư duy mở và mềm dẻo của con người và dân tộc VN.
Chính chủ nghĩa yêu nước – nhân văn VN là cội nguồn, là điểm xuất phát, là
động lực lên đường cứu nước và là bộ lọc các học thuyết để Hồ Chí Minh lựa chọn và
tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại mà đỉnh cao của nó là Chủ nghĩa Mác- Lênin.
- Tinh hoa văn hóa nhân loại
Tinh hoa văn hóa Phương Đông:
Từ nhỏ, HCM đã chịu ảnh hưởng trực tiếp văn hóa phương Đông mà đặc trưng là
Phật giáo và Nho giáo đã được Việt hóa.



Đề cương ôn tập môn TTHCM

Những tư tưởng căn bản của Phật giáo ảnh hưởng tích cực tới văn hóa VN là tư
tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể thương thân; nếp
sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện... Vì vậy, Phật giáo đã ảnh
hưởng rất lớn tới sự hình thành và phát triển của văn hóa, tư tưởng và lối sống VN.
Nho giáo Trung hoa vào VN do nhu cầu của sự thống trị nhưng trong quá trình đó
đã bắt gặp chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu cơ bản của tư tưởng VN nên cũng được
Việt hóa thành Nho giáo yêu nước VN thể hiện những giá trị về lòng yêu nước, thương
dân, nhân văn, dung hòa con người cá nhân với cộng đồng, coi trọng lợi ích cộng đồng

trên lợi ích cá nhân, gắn lợi ích của cá nhân với lợi ích của dân tộc. Nho giáo VN lấy yêu
nước- nhân văn Vn làm đạo lý làm người. Trong quá trình lịch sử của DT Nho giáo yêu
nước VN đã đáp ứng yêu cầu của dân tộc trong dựng nước, giữ nước, trong tổ chức xây
dựng nhà nước cũng như trong xây dựng gia đình và con người.
Bên cạnh đó những yếu tố tích cực của Nho giáo như triết lý hành động, tư tưởng
nhập thế, hành đạo giúp đời; tư tưởng về một xã hội bình trị, an ninh, hòa mục, thế giới
đại đồng; triết lý nhân sinh tu thân, dưỡng tính,...cũng được Việt hóa thành các giá trị
văn hóa VN, phù hợp với các giá trị gốc của dân tộc.
Những tác động tích cực của Phật giáo và Nho giáo VN đã tác động tới HCM ngay
từ khi còn nhỏ ở trong môi trường giáo dục-văn hóa Việt, của làng xã VN, dưới sự dạy
bảo của gia đình, đặc biệt là người cha, vừa là người thầy.
Sau này, khi trở thành người cộng sản, HCM vẫn tiếp tục tìm hiểu về văn hóa PĐ
đặc biệt là những trào lưu tư tưởng mới ở Ấn Độ và Trung hoa mà điển hình là chủ nghĩa
Găngđi và chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn
Tinh hoa văn hóa Phương Tây:
Hồ Chí Minh đã được tiếp xúc với văn hóa phương Tây từ khi còn ngồi trên ghế
nhà trường. Những tư tưởng tiến bộ của Đại cách mạng Pháp về “tự do, bình đẳng, bác
ái” đã bắt đầu ảnh hưởng mạnh mẽ đến HCM và là một trong những yếu tố tác động đến
Người trong việc tìm hướng đi mới sang phương Tây để tìm đường cứu nước, cứu dân.
Ba mươi năm sống lao đọng, học tập và hoạt động ở nước ngoài, đặc biệt là trong
môi trường văn hóa phương tây, HCM đã có điều kiện để tìm hiểu, nghiên cứu và trực
tiếp trải nghiệm qua các hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội ở đây. Đó là tư tưởng dân
chủ của các nhà khai sáng Pháp qua các tác phẩm của họ. Đó là những tư tưởng cơ bản
của chủ nghĩa dân tộc và nhân văn trong cách mạng tư sản Mỹ và Pháp với quyền dân
tộc, quyền con người và tư tưởng dân chủ mà nội dung của nó là tự do- bình đẳng-bác ái.
Đây là những điểm mới về tư tưởng trong tinh hoa văn hóa phương Tây đã tác động
mạnh mẽ tới suy nghĩ, hành động và tư tưởng của Hồ Chí Minh.
Sống trong môi trường dân chủ tư sản và thông qua các hoạt động Dc trong làm
việc, sinh hoạt ở PT, HCM đã học được các phương thức tổ chức xã hội dân chủ, cách
làm việc dân chủ và hình thành phong cách dân chủ ở Người. Nhưng cũng trong quá

trình này, HCM cũng thấy rõ những hạn chế về lý luận cũng như trong thực tế của cách
mạng TS.
Có thể thấy, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại của HCM là trong sự kế thừa có
phê phán, tiếp thu có chọn lọc để mở rộng, nâng cao và làm giàu văn hóa ở tầm thế giới.
Với tầm cao văn hóa như vậy, HCM đã dễ dàng tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Chủ nghĩa Mác- Lênin
Với sự hiểu biết sâu rộng và vốn thực tiễn phong phú cùng tầm cao trí tuệ của
mình HCM đã đến với Chủ Nghĩa Mác-Leenin một cách tự nhiên, về cả lý trí và tình



Đề cương ôn tập môn TTHCM

cảm. Tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Leenin, HCM đã từ người yêu nước trở thành người
cộng sản khi trở thành người tham gia sáng lập ĐCS Pháp
Chủ nghĩa Mác-Leenin đã cung cấp thế giới quan và phương pháp luận cách mạng
và khoa học để HCM nghiên cứu thực tiễn VN và thế giới và tự tìm ra con đường của
CMVN phù hợp với sự phát triển tiến bộ của nhân loại. Chính vì vậy, chủ nghĩa MácLênin là cơ sở lý luận làm cho HCM vượt lên trước những nhà yêu nước đương thời,
khắc phục được sự khủng hoảng về con đường tiến lên của DTVN
Với thế giới quan và phương pháp luận mác xít, HCM có sự chuyển biến về chất tư
tưởng cách mạng của mình để có thể hấp thụ và chuyển hóa được những giá trị tích cực
và tiến bộ của truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa của nhân
loại, giúp cho Người nghiên cứu lý luận và thực tế, tổng kết thực tiễn, đúc rút lý luận và
hình hành nên một hệ thống những quan điểm về cách mạng VN, hình thành nên Tư
tưởng HCM về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Vì vậy,
chủ nghĩa Mác –leenin chính là mọt nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu có vai trò quyết
định trong việc hình thành tư tưởng HCM và tư tưởng HCM chính là sự vận dụng, phát
triển sáng tạo và làm phong phú chủ nghĩa Mác – Leenin trong thời đại mới..
Như vậy, các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã được nâng lên tầm thế giới
với việc thâu nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại và chủ nghĩa Mác -leenin đã hình

thành và tạo ra bước phát triển mới phù hợp với tiến hóa của nhân loại trong thời đại mới
của tư tưởng HCM. Trên ý nghĩa đó, tư tưởng HCM có bước phát triển mới làm phong
phú thêm chủ nghĩa mác – lênin.
Nguồn gốc thực tiễn
- Thực tiễn VN
Xã hội Việt Nam trước khi Pháp xâm lược là xã hội phong kiến độc lập, nền
nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858) và hiệp định
Patơnốt (1884) được ký kết, xã hội Việt Nam trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Trong lòng xã hội thuộc địa, mâu thuẫn mới bao trùm lên mâu thuẫn cũ, nó không
thủ tiêu mâu thuẫn cũ mà là cơ sở để duy trì mâu thuẫn cũ, làm cho xã hội Việt Nam
càng thêm đen tối. Các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ, lan rộng
ra cả nước… lãnh đạo họ là các sĩ phu văn thân mang ý thức hệ phong kiến nhưng
đều thất bại, điều đó cho thấy sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trước nhiệm vụ
lịch sử của dân tộc.
Đầu thế kỷ XX, bối cảnh xã hội Việt Nam đặt dân tộc chống cả Triều lẫn Tây. Các
cuộc khởi nghĩa của nông dân và các phong trào yêu nước ở thời kỳ này dù dưới ngọn cờ
nào cũng đều thất bại hoặc bị dìm trong bể máu.
* Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến. Tiêu biểu có Phong trào
Cần Vương của Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết, Phong trào của nông dân Yên
Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo.
* Phong trào theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Tiêu biểu có Phong trào Đông
Du của Phan Bội Châu, Phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh
Những phong trào này đã diễn ra hết sức sôi nổi, thu hút nhiều người tham gia
nhưng cuối cùng đều thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp dã man. Xã hội Việt Nam đen
tối như không có đường ra. Nguyện vọng lớn nhất của nhân dân là được độc lập, tự do.
Cùng với phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ta, sự ra đời và phong rào
đấu tranh của giai cấp mới là GCCN VN sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã làm cho
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước ta thêm những yếu tố mới. Đặc biệt từ




Đề cương ôn tập môn TTHCM

đầu những năm hai mươi của thế kỷ XX, GCCN VN ngày càng trưởng thành về số
lượng và chất lượng lại chịu tác động của phong trào cách mạng thế giới đã làm phong
rào đấu ranh mang đặc trưng riêng của GCCN càng được thể hiện rõ nét. Đây là nguồn
gốc thực tiễn xã hội cực kỳ quan trọng cho sự ra đời của TT HCM.
Phong rào yêu nước và phong trào công nhân VN là cơ sở thực tiễn trong nước
cho sự ra đời của TT HCM.
Nguyễn Tất Thành sinh ra trong bối cảnh nước mất nhà tan và lớn lên trong phong
trào cứu nước của dân tộc, Người đã sớm tìm ra nguyên nhân thất bại của các phong trào
giải phóng dân tộc là: các phong trào giải phóng dân tộc đều không gắn với tiến bộ xã
hội. Người đã ra đi tìm đường cứu nước và sớm hình thành, bổ sung thêm tư tưởng của
mình qua từng giai đoạn
- Thực tiễn thế giới.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XXchủ nghĩa tư bản phương Tây từ tự do cạnh
tranh chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
ĐQCN vừa tranh giành, xâm chiếm thuộc địa vừa nô dịch các dân tộc làm sâu sắc
thêm mâu thuẫn vốn có trong lòng CNTB và làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các dân tộc
thuộc địa với CNĐQ, mâu thuẫn giữa tư bản và vô sản ở các nước phát triển, mâu thuẫn
giữa nông dân và địa chủ ở các nước lạc hậu.
Yêu cầu giải phóng các dân tộc thuộc địa trở thành yêu cầu chung của các dân tộc
trên thế giới. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất diễn ra (8/1914-11/1918). Cách mạng
tháng mười Nga (1917) thành công đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài ngườithời đại từ CNTB tiến lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Tháng 3-1919 QT3 ra đời.
Sự xuất hiện của Quốc tế Cộng sản làm nảy sinh mâu thuẫn thời đại: Đó là mẫu
thuẫn giữa CNXH với CNTB. Quốc tế Cộng sản là trung tâm tập hợp lực lượng cách
mạng và chỉ đạo cách mạng thế giới.
Thực tiễn của CM tháng Mười, sự ra đời của nhà nước Xô viết, phong rào cách
mạng thế giới của GCCN phát triển với sự ra đời và dẫn dắt của QT3 cũng như phong trào
giải phóng dân tộc trên TG là những nguồn gốc thực tiễn quốc tế cho sự hình thành tư

tưởng HCM.
Trước đòi hỏi của dân tộc và nhân loại, tư tưởng HCM xuất hiện. Sự xuất hiện tư
tưởng Hồ Chí Minh là sự giải đáp và là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam và thế
giới trong điều kiện lịch sử mới, không phải là y muốn chủ quan hay một sự áp đặt nào.
- Phẩm chất Hồ Chí Minh
Đó là ý chí quyết tâm của một con người thẫm đẫm sâu sắc chủ nghĩa yêu nước –
nhân văn Việt Nam, với tấm lòng yêu nước, thương dân và đồng loại đau khổ, có đạo
đức trong sáng, sẵn sàng hiến dâng cuộc đời mình cho dân tộc độc lập, cho tự do, hạnh
phúc của con người VN và NDLĐ trên thế giới. Đó là tài năng trí tuệ và năng lực hoạt
động thực tiễn vô cùng phong phú của HCM ở trong và ngoài nước.
Ý nghĩa phương pháp luận của việc hiểu biết vấn đề này
Hiểu biết nguồn gốc tư tưởng HCM để hiểu rõ cơ sở khoa học của việc hình thành
tư tưởng HCM, góp phần củng cố niềm tin vào nội dung và giá trị, ý nghĩa của tư tưởng
HCM, trên cơ sở đó có thái động đúng trong thực hiện Cuộc vận động Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức của Bác; có cơ sở bảo vệ và phát triển sáng tạo tư tưởng của
Người trong thời đại ngày nay.




Đề cương ôn tập môn TTHCM

Câu 2. Từ hiểu biết về khái niệm, đặc điểm tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng chí
hãy nêu rõ vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới. Liên hệ với
việc học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của mỗi cán bộ đảng viên
Tư tưởng HCM được hình thành, từng bước hoàn thiện và phát triển dưới tác động
của những điều kiện lịch sử - XH cụ thể của dân tộc và nhân loại trong thời đại Người
sống và hoạt động. Trải qua các kỳ ĐH Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là từ năm 1991,
tại ĐH VII của Đảng, đầu tiên Đảng ta nêu lên khái niệm TTHCM và khẳng định lấy
CN Mác – Lenin và TTHCM làm nền tảng TT và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.

Đến ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) trước yêu cầu, nhiệm vụ
mới, việc thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ
sung và phát triển), Đảng ta xác định khái niệm TTHCM một cách khái quát như sau:
“TTHCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của CM Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to
lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta dành thắng lợi”
Từ nguồn gốc hình thành và nội dung khái quát về TTHCM, chúng ta thấy Tư
tưởng Hồ Chí Minh có những đặc điểm cơ bản sau:
- TTHCM có quá trình phát triển lâu dài và là hệ thống mở. Là dòng TT MácLênin nhưng về nguồn gốc, trước hết TTHCM là kết quả của sự kế thừa, phát triển các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại và của thời đại. Vì
vậy, xét về nguồn gốc, nét đặc biệt của TTHCM chính là sự thẫm đẫm giá trị văn hóa,
trong đó kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với quốc tế, truyền thống với hiện đại và phù
hợp với sự tiến hóa của loài người.
- Tư tưởng chính trị là nội dung nổi bất trong TTHCM: Với nội dung cơ bản, chủ
đạo là giải phóng dân tộc, giải phóng gia cấp và giải phóng con người, độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. TTHCM là hệ thống các quan điểm giải phóng dân tộc và xây dựng
XH mới – XHXHCN- hướng tới sự giải phóng triệt để và phát triển toàn diện con người
theo tiêu chí Độc lập cho dân tộc, Tự do – Hạnh phúc cho con người Việt Nam.
- TTHCM thống nhất biện chứng với phương pháp, phong cách HCM: Sự thống
nhất giữa TT với PP và trở thành phong cách HCM là sự thống nhất biện chứng giữa lý
luận và thực tiễn, đồng thời phản ánh sự thống nhất giữa những thuộc tính bản chất của
TTHCM là khoa học, cách mạng và nhân văn.
Từ những đặc điểm tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rõ vai trò của tư tưởng
Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới như sau:
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã sản sinh ra biết bao tên tuổi vĩ
đại, vừa là anh hùng dân tộc, vừa là nhà tư tưởng lớn, nhưng không ai có được sự nghiệp
lẫy lừng như Chủ tịch HCM, không ai có được tầm vóc thời đại, được loài người tiến bộ

ca ngợi và thừa nhận như chủ tịch HCM.
Địa vị có một không hai trong lịch sử dân tộc của NAQ-HCM đã được xác lập và
củng cố vững chắc nhờ công lao to lớn và sự nghiệp vĩ đại mà Người đã cống hiến cho
cach mạng VN.
HCM đã tìm ra đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản; đó là con đường kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa QT
trong sáng, độc lập DT với CNXH, kết hợp SMDT với SMTĐ, từ đó chấm dứt cuộc



Đề cương ôn tập môn TTHCM

khủng hoảng về đường lối, mở ra một thời đại mới vô cùng oanh liệt trong lịch sử DT,
thời đại HCM.
Có công đầu trong việc truyền bá và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa M-LN vào VN,
vận dụng thế giới quan và phương pháp luận khoa học M-LN để đánh thức các tiềm
năng tinh thần truyền thống VN, bồi dưỡng nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách
mạng VN
Xây dựng những tiền đề tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của một chính
đảng của GCCN ở VN và đã thống nhất các tổ chức cộng sản đầu tiên ở trong nước để
sáng lập nên ĐCS VN. Dù ở nước ngoài hay ở trong nước, Người luôn luôn chăm sóc,
giáo dục, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta vượt qua mọi thử thách, khó khăn đưa cách
mạng VN đi đến thắng lợi to lớn như ngày nay.
Người đã dày công xây đắp nên khối đại đoàn kết DT vững chắc làm nền tảng sức
mạnh chiến thắng mọi kẻ thù. Tư tưởng lớn của Người được diễn đạt cô đọng trong khẩu
hiệu chiến lược “Đoàn kết… thành công”, đã trở thành nguồn cổ vũ, động viên, thành
ngọn cờ tập hợp, vẫy gọi đối với mọi người VN yêu nước trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ TQ
Là người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang cách mạng VN, “từ nhân dân
mà ra, vì nhân dân chiến đấu”, dã bồi dưỡng cho họ tinh thần quyết chiến, quyết thắng

làm nên những chiến công vang dội, được cả loài người ca ngợi và khâm phục.
Khai sinh ra nước VN DCCH, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam
Á, người đặt nền móng cho việc xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN “của dân,
do dân, vì dân”.
Đã khai phá con đường đi lên CNXH ở một nước nông nghiệp lạc hậu, chưa qua
chủ nghĩa TB, bị chiến tranh tàn phá, từng bước làm cho “người nghèo thì đủ ăn, người
đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm”, để đi tới một xã hội dân giàu, nước
mạnh, trong đó dân là chủ, cán bộ nhà nước chỉ là công bộc của dân.
Người là nhà giáo dục vĩ đại, đã định hướng cho sự ra đời một nền văn hóa – đạo
đức mới, một xã hội với nhân cách mới, góp phần cùng với Đảng đào tạo ra một thế hệ
chiến sỹ cách mạng kiểu mới, từ những lãnh tụ lớp đầu cho đến đội ngũ cán bộ chiến sỹ
hoạt động ở cơ sở, tất cả đều cùng một dạ sống, chiến đấu theo tấm gương của Người;
tận trung với nước, tận hiếu với dân, cần kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, khiêm tốn,
giản dị… và chính họ đã góp phần đưa ngọn cời tư tưởng HCM đến thắng lợi rực rỡ như
ngày nay.
Công lao to lớn, sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch HCM đã đưa Người lên địa vị
người anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng lỗi lạc, nhà lý luận sáng tạo của
cách mạng VN, được các dân tộc đang đấu tranh giải phóng và nhân loại tiến bộ hết lòng
ca ngợi và khâm phục.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Mác- Leenin,
tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động. Và thực tế
cho thấy tư tưởng Hồ Chí Minh đã đặt ra yêu cầu, mục đích, nội dung, phương thức,
động lực và niềm tin vào sự thành công của công cuộc ĐM. Vì vậy cần vận dụng đúng
đắn và sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp đổi mới
Trong 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhân dân
ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Nước ta đã chuyển sang một
thời kỳ phát triển mới, thế và lực đã được nâng cao hơn, đất nước đã thoát khỏi tình
trạng kém phát triển. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm




Đề cương ôn tập môn TTHCM

năng, kinh tế phát triển chưa bền vững, năng suất lao động và sức cạnh tranh còn thấp,
trình độ công nghệ còn lạc hậu so với các nước phát triển, nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Những hạn chế, yếu
kém trong các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa - xã hội, bảo
vệ môi trường chậm được khắc phục; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ
nạn xã hội, suy thoái đạo đức, lối sống... chưa được đẩy lùi. Nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy thật đầy đủ. Một số
mặt công tác xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới,
nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển biến
chậm. Còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, trên cơ sở kiên định lập trường và phương pháp của chủ nghĩa Mác Lênin, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt sâu sắc và phổ biến rộng rãi hơn nữa
tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo vào sự nghiệp đổi mới.
Toàn Đảng, toàn dân ta phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Nắm vững quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước, nắm vững hai nhiệm vụ chiến
lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập tự chủ về kinh tế, giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc, giữ vững toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia trong quá trình chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế.
Thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa
dạng hóa, đa phương hóa, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của phong trào hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới, tăng cường hợp tác, góp phần hình
thành một trật tự thế giới công bằng và bình đẳng.
Hiện nay, chúng ta đang đứng trước yêu cầu phải giải quyết mâu thuẫn lớn của xã
hội nước ta là mâu thuẫn giữa trình độ còn thấp kém của lực lượng sản xuất với yêu cầu
cao của nền sản xuất hiện đại của chủ nghĩa xã hội và không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân. Vì vậy, nhiệm vụ chủ yếu nhất của chúng ta lúc này
là phải dốc sức vào việc phát triển lực lượng sản xuất, làm ra nhiều của cải để chiến

thắng nghèo nàn và lạc hậu, đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, đồng thời
phải chăm lo xây dựng và từng bước phát triển quan hệ sản xuất tiên tiến phù hợp. Mỗi
bước tiến của cách mạng là một bước đem lại những lợi ích thiết thực trong cuộc sống
đối với người dân, đem lại công bằng cho xã hội. Dân chủ và công bằng là đặc trưng ưu
việt thuộc về bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là những vấn đề chúng ta phải đặc biệt
chú ý khi bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chúng ta cần tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo
Chỉ thị 05/CT-TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc học taaph và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí minh, vận dụng vào thực tiễn công tác của mỗi cán bộ,
đảng viên.
Câu 3. Anh (chị) hãy làm rõ những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong nhận
thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng
giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. trước dân tộc là
những tổ chức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Sự ra đời và phát triển
của CNTB dẫn đến sự ra đời của các nhà nước dân tộc TBCN. Khi CNĐQ ra đời đã đi



Đề cương ôn tập môn TTHCM

xâm chiếm và thống trị các dân tộc nhược tiểu, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa.
Khái niệm dân tộc trong di sản tư tưởng HCM là khái niệm dân tộc quốc gia, dân tộc
thuộc địa.
Vấn đề dân tộc thuộc địa trong TT HCM thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng
các DT thuộc địa, nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành ĐLDT, xóa bỏ ách áp
bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước Dt độc lập.
Tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc được thể hiện qua những luận điểm chính sau:
Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các DT.

Đối với mỗi người dân mất nước, cái quý nhất là ĐL của TQ, tự do của bản thân
và của DT. Sinh thời HCM đã từng nói: cái mà tôi cần nhất trên đời là: đồng bào tôi
được tự do, TQ tôi được độc lập. Trên đường tìm đường cứu nước, HCM đã đến nước
Mỹ, tìm hiểu tinh thần bất hủ của bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ; Người đã tiếp
xúc và tìm hiểu những giá trị nhân văn của Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791
và tinh thần tiến bộ của cách mạng Pháp: tự do-bb́nh đẳng-bác ái. Từ đó Người đã khái
quát nên chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các DT: tất cả các Dt trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng, Dt nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Năm 1919, vận dụng nguyên tắc DT tự quyết thiêng liêng đã được các nước đồng
minh thắng trận (trong đại chiến thế giới lần thứ nhất) thừa nhận, đại diện cho Hội
những người Vn yêu nước tại pháp, ký tên NAQ, Người gửi đến hội nghị hòa bình
Vecsxay bản yêu sách 8 điểm, đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân VN. Tuy
nhiên, bản yêu sách đã không dược những người đứng đầu các quốc gia đồng minh chú
ý, từ thực tiễn đó NAQ rút ra KL: muốn được giải phóng các DT chỉ có thể trông cậy
vào mình, trong cậy vào lực lượng của bản thân mình...
Năm 1941, về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Người viết thư Kính cáo đồng
bào và chỉ rõ: trong lúc này quyền lợi DT giải phóng cao hơn hết thảy.. Bởi vậy, năm
1945 khi thời cơ cách mạng chín muồi, Người khẳng định quyết tâm: dù phải đốt cháy
cả dãy Trường Sơn cúng phải kiên quyết giành cho được độc lập.
Độc lập- thống nhất- chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là quyền thiêng liêng, bất
khả xâm phạm của một dân tộc. Bởi vậy khi giành được độc lập DT năm 1945, HCM
tuyên bố: “nước Vn có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự
do và độc lập. toàn thể dân tộc VN quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Nhưng ngay sau đó 21 ngày, thực dân
Pháp một lần nữa trở lại xâm lược nước ta. Để bảo vệ quyền thiêng liêng của DT, HCM
đã ra lời kêu gọi vang dậy núi sông: “Không chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Những năm 60 của thế kỷ XX,
khi đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chến tranh ra MB hòng khuất phục ý chí ĐL, TD
của nhân dân ta, HCM đã trả lời bằng chân lý bất hủ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự
do”. Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta phải chiến đấu quét sạch nó đi.

Chính bằng tinh thần nghị lực này cả DT ta đứng dậy đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy
nhào, giải phóng MN thống nhất TQ. Và Chính phủ Mỹ phải cam kết: “Hoa kỳ và các
nước khác tôn trọng độc lập chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của nước VN như
Hiệp định Giơnevo năm 1954 về VN đã công nhận”
Tóm lại Không có gì quý hơn độc lập tự do không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ
sống, là học thuyết cách mạng của HCM. Đó là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm
nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của VN, đồng thời cũng là
nguồn động viên các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Vì vậy, Người không chỉ được



Đề cương ôn tập môn TTHCM

tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của VN, mà còn được thừa nhận là người
khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các DT thuộc địa trong thế kỷ XX.
Về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
Trong TT HCM, mối quan hệ Dt và giai cấp là mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với
nhau. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; GPDT là tiền đề để GPGC;
ĐLDT gắn liền với CNXH. Giữ vững độc lập dân tộc mình, đồng thời cũng góp phần
giữ vững sự ổn định chính trị và nền hòa bình trên thế giới, tôn trọng các dân tộc khác.
Hồ Chí Minh khác những người đi trước là Người giải quyết vấn đề DT và cách
mạng giải phóng dân tộc trên lập trường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, giành độc lập để đi
lên CNXH, mối quan hệ dân tộc và giai cấp được đặt ra và giải quyết một cách phù hợp,
nhuần nhuyễn, biện chứng. Đây là một vấn đề lý luận quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn to
lớn trong thời đại cách mạng vô sản.
Mác-ăngghen-Lênin đã nêu ra những luận điểm cơ bản về mối quan hệ biện chứng
giữa vấn đề DT và vấn đề GC, tạo cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc xác định
chiến lược, sách lược của các ĐCS về vấn đề DT và thuộc địa. Tuy nhiên, xuất phát từ
yêu cầu và mục tiêu của cách mạng vô sản ở châu Âu, các ông vẫn tập trung vào giải
quyết vấn đề giai cấp. Điều đó hoàn toàn đúng với đòi hỏi của thực tiễn cách mạng vô

sản Tây Âu đang đặt ra lúc bấy giờ, nhưng sau này không còn mấy phù hợp, đặc biệt là
đối với phong trào cách mạng giải phóng DT ở các nước thuộc địa. Có một người đã
sớm nhận ra điều đó và đưa ra những vấn đề lý luận, thực tiên mới, hết sức quan trọng
bổ sung cho lý luận về mối quan hệ giữa DT và Gc trong cách mạng GPDT, đó là lãnh tụ
HCM.
Nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề DT và vấn đề giai cấp trong
cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới, rước những thay đổi của tình hình cách
mạng thế giới, HCM khẳng định rằng, nhiệm vụ đặt ra cho các nước thuộc địa không
phải là làm ngay một cuộc cách mạng vô sản, mà trước hết là phải làm cuộc đấu tranh
giành lại độc lập cho DT; có độc lập DT rồi, mới có điều kiện tiến lên làm cách mạng
XHCN. Hơn nữa yêu cầu bức thiết của sự nghiệp đấu tranh giải phóng DT không cho
phép ỷ lại, ngồi chờ thắng lợi của cách mạng VS ở Châu âu để được trả lại nền độc lập
cho các DT thuộc địa.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Ngay từ dầu những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn ái Quốc đã sớm thấy được
mối quan hệ chặt chẽ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng giai
cấp vô sản, nên Người khẳng định: “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp
của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”.
Năm 1930, khi thành lập Đảng ta, Nguyễn ái Quốc xác định cách mạng Việt Nam
làm tư sản dân quyền cách mệnh và thổ địa cách mệnh (cách mạng dân tộc dân chủ) để
đi tới xã hội cộng sản (cách mạng xã hội chủ nghĩa). Về sau Người tổng kết: “Chỉ có chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Độc lập dân tộc phải đi tới chủ nghĩa xã hội mới xóa tận gốc cơ sở áp bức dân tộc
và áp bức giai cấp. Như vậy, ở Hồ Chí Minh, yêu nước truyền thống đã phát triển thành
yêu nước trên lập trường của giai cấp vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh còn chỉ ra: Đấu tranh cho dân tộc mình, đồng thời độc lập
cho các dân tộc.




Đề cương ôn tập môn TTHCM

Nói đến quyền dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân
chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa đế quốc trong sáng.
Vì vậy năm 1914, khi ở Anh, Người đã đem toàn bộ số tiền dành dụm được từ
đồng lương ít ỏi để ủng hộ quỹ kháng chiến của người Anh và nói với bạn mình rằng:
“Chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho
dân tộc ta vậy”.
Người tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc. Nhưng Người cũng chủ trương
ủng hộ cách mạng Trung Quốc, Lào, Campuchia... và “giúp bạn là tự giúp mình”.
Ý nghĩa:
Trong quá trình vận động, hội nhập toàn cầu hóa, phải luôn nhớ nguyên tắc quyền
lợi của dân tộc, giai cấp và không bao giời được ảo tưởng trong quan hệ hợp tác với các
nước khác. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ TQ, chúng ta cần nghiên cứu vận dụng
tư tưởng HCM về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, ĐLDT và
CNXH nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới vứng bước tiến lên
những thắng lợi mới. Trong đó cần xác định nguồn nội lực là chủ yếu. Một trong những
sức mạnh của nguồn nội lực đó là con người VN với tất cả sức mạnh tinh thần và thẻ
chất của nó. Cần phát huy chủ nghĩa yêu nước trong xây dựng CNXH, biến nó thành
nguồn nội lực vô tận để đưa đất nước vượt qua mọi nguy cơ, thử thách vững bước tiến
lên.
Trước hết, phải quán triệt cho các cấp, các ngành, các địa phương, lực lượng và
toàn dân nắm vững, thấu suốt nội hàm của ĐLDT và CNXH trong điều kiện mới. Đây là
vấn đề rất quan trọng, làm cơ sở để xác định nội dung và những bước đi phù hợp. ĐLDT
phải được nhận thức một cách triệt để, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Cùng với đó, cần quán triệt những nội dung độc lập, tự chủ trên lĩnh vực kinh tế,

quốc phòng, an ninh, đối ngoại, văn hóa, v.v. Thống nhất nhận thức về nội hàm của
ĐLDT sẽ là cơ sở đảm bảo cho hành động đúng trong thực tiễn hoạt động xây dựng
CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN trong thời kỳ mới.
Như vậy, ĐLDT và CNXH vừa là mục tiêu cơ bản của cách mạng, vừa là lợi ích
căn bản của quốc gia và là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta. Do đó, trong
quá trình thực hiện, chúng ta cần quán triệt sâu sắc quan ðiểm: lấy phát triển kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa, xã hội là nền tảng tinh thần
của xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Bên
cạnh đó, việc kiên định mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH đòi hỏi chúng ta phải
thường xuyên nắm vững và thực hiện có hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
BVTQ XHCN; coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng
- an ninh và đối ngoại; kiến tạo và giữ vững môi trường hòa bình để xây dựng, bảo vệ và
phát triển đất nước. Trong thời đại toàn cầu hóa, hợp tác quốc tế cần phát huy tinh thần
độc lập, tự chủ kết hợp tiếp thu sáng tạo những thành tựu mới trên các lĩnh vực của thời
đại với sự vận động của cách mạng Việt Nam để đề ra đường lối đúng, bảo đảm vừa kiên
định nguyên tắc chiến lược, vừa linh hoạt, sáng tạo trong những giải pháp tổ chức thực
hiện.
Trong công cuộc đổi mới, vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh,
chúng ta cần phát huy trí tuệ, bản lĩnh, tinh thần sáng tạo, đổi mới, độc lập, tự chủ, tự
lực, tự cường, kết hợp chặt chẽ lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm theo nguyên tắc



Đề cương ôn tập môn TTHCM

"Dĩ bất biến ứng vạn biến" với ý thức phục vụ nhân dân cao nhất. Đối với nước ta, dựng
nước đi đôi với giữ nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.

Câu 4. Trong lời tựa cuốn Hồ Chí Minh: Những bài viết và nói chọn lọc, bản

tiếng Nga, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Mátxcơva, 1959 có đoạn viết: “Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng
vô sản”? Bằng kiến thức đã học và nghiên cứu, anh (chị) hãy làm sáng tỏ luận điểm
trên của Hồ Chí Minh
Theo HCM, cách mạng GPDT muốn giành thắng lợi triệt để phải đi theo con
đường CMVS. GPDT là cuộc cách mạng do nhân dân các nước thuộc địa (hoặc các nước
bị nô dịch) tiến hành, nhằm lật đổ ách thống trị của CNĐQ, khôi phục ĐLDT và chủ
quyền quốc gia, xây dựng chính quyền, xây dựng nhà nước thuộc về lực lượng DT. Do
đó, mục tiêu cơ bản và chủ yếu của cách mạng GPDT là lật đổ ách áp bức, nô dịch của
chủ nghĩa thực dân đế quốc, giành ĐLDT, khôi phục chủ quyền quốc gia.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thực dận Pháp tiến hành xâm chiếm nước ta, biến
nước ta từ một nước PK có chủ quyền thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Từ đây các
cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân ta rầm rộ bùng lên, dâng cao và lan rộng trong cả
nước: từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực… ở Miền Nam; Trần Tấn, Đặng Như Mai,
Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng,…ở Miền Trung đến Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn
Quang Bích ở Miền Bắc . Các cuộc nổi dậy đều được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước
nhiệt thành và chí căm thù giặc sôi sục, song trước sau đều lần lượt thất bại vì chưa có
một đường lối kháng chiến rõ ràng.
Bước sang đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp bắt tay vào cuộc khai thác lần thứ nhất.
Xã hội VN có sự chuyển biến và phân hóa, GCCN, các tầng lớp Tiểu tư sản và giai cấp
TS dân tộc bắt đầu manh nha. Cùng lúc đó, các “tân thư” và ảnh hưởng của cuộc vận
động cải cách của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu tràn vào VN. Phong trào yêu nước
của nhân dân ta chuyển sang hướng Dân chủ tư sản, với sự xuất hiện của các phong trào
như Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy tân, VN Quang Phục hội…Người thì chủ
trương trước hết hãy dựa vào Pháp để “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” như
Phan Chu Trinh; người thì hy vọng dựa vào sự giúp đỡ của Nhật bản để đánh đuổi pháp
như Phan Bội Châu. Cả 2 cách đều không thực tế và sai lầm nên đều thất bại.
Đầu thế kỷ XX, GCTS VN đã xuất hiện, bộ phận GCTS dân tộc cũng có tinh thần
yêu nước, chống đế quốc những do địa vị của một GCTS ở thuộc địa, họ tỏ ra yếu đuối,
không đủ sức lãnh đạo, đưa cuộc đấu tranh chống pháp đến thắng lợi, xây dựng một xã

hội mới theo lý tưởng “tự do, bình đẳng, bác ái” của CMTS Pháp.
Nhìn ra thế giới, năm 1911, cách mạng Tân Hợi TQ do Tôn Dật Tiên lãnh đạo đã
lật đổ được triều đình Mãn Thanh, nhưng chưa giải quyết được 2 mâu thuẫn cơ bản của
xã hội TQ. Nước Trung Hoa vẫn là một nước thuộc địa, nửa PK. Nhân dân Ấn độ dưới
sự lãnh đạo của GCTS, cũng đã nhiều lần nổi lên chống đế quốc Anh, nhưng đều bị
chính quyền thực dân đàn áp đẫm máu.
Sau cách mạng Tháng Mười Nga1917, chỉ có cách mạng TS Thổ Nhĩ Kỳ đã thành
công vào mùa thu năm 1923 với sự ủng hộ của Liên Xô. Sau khi giành được chính
quyền, GCTS Thổ tiến hành bắt bớ những người cộng sản, giết hại đồng chí Tổng bí thư



Đề cương ôn tập môn TTHCM

của Đảng, vứt xác xuống khe núi. “GCVS Thổ Nhĩ KỲ, người đã đóng góp rất nhiều
vào cuộc đấu tranh giành độc lập thì từ nay đã bắt buộc phải tiến hành một cuộc đấu
tranh khác”
Thất bại của các cuộc đấu tranh yêu nước, chống pháp của nhân dân ta đầu thế kỷ
XX đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết: đi theo con đường nào, do lực lượng nào lãnh
đạo để đưa cuộc cách mạng GPDT đi đến thắng lợi?
Lịch sử đặt ra nhu cầu bức thiết phải có một hệ tư tưởng mới, một đường lối mới
đủ sức soi sáng, dẫn đắt con đường đấu tranh cứu nước GPDT đi tới thắng lợi. Nhiệm vụ
lịch sử đó đặt lên vai thế hệ thanh niên lớp Nguyễn Tất Thành.
Sự thống nhất giữa nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan đã đưa HCM từ
chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin.
Từ mục tiêu cứu nước giải phóng dân tộc đến con đường thực hiện thắng lợi mục
tiêu- bước phát triển tất yếu của tư duy lý luận HCM về con đường cách mạng VN.
Ở tuổi 20 khi bước chân ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911), NAQ đã là một
trong những đỉnh cao của trí tuệ yêu nước VN. Bài học rút ra từ những thất bại liên tiếp
của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ; ảnh hưởng của lòng yêu nước thương dân và

cái nhìn tỉnh táo của cụ bảng Sắc trước thời cuộc; đặc biệt là sự chứng kiến của bản thân
về những nỗi cực khổ điêu đứng của nhân dân Nghệ Tĩnh trong cuộc khai thác lần thứ
nhất của thực dân Pháp ngay tại quê nhà và sau đó là cuộc đàn áp đẫm máu của chúng
đối với phong trào chống thuế của nhân dân miền Trung…tất cả đã hình thành nên một
sự khác biệt trong chí hướng của Nguyễn Tất Thành so với PBC, Phan Chu Trinh và các
bậc tiền bối khác. Đối với anh, cứu nước không phải chỉ là đánh đuổi quân xâm lược,
giành lại ĐLDT, mà cứu nước phải đi liền với cứu dân, giải phóng Dt để chấn hưng đất
nước.
Cứu nước với cứu dân, GPDT và GP đồng bào, không phải lúc nào cũng đồng
nhất với nhau. Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của DT ta cũng như của nhiều
dân tộc khác trên thế giới, quan niệm về mục tiêu và cách thức giải quyết vấn đề dân tộc
bắt nguồn từ việc giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và GC. GC phong kiến VN ở buổi
đang lên khi còn giữ được vai trò tiến bộ trong lịch sử, đã thống nhất được lợi ích của
giai cấp mình với lợi ích của các tầng lớp dân cư khác và của cả DT, nên đã huy động
được sức mạnh của toàn DT để đánh thắng ngoại xâm, giành lại độc lập cho tổ quốc.
Ở Nguyễn Tất Thành đã sớm có một chí hướng khác. Trần Dân Tiên kể cho chúng
ta biết “…Ở tuổi 15, người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh
thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ, anh đã có chí đuổi thực dân Pháp giải phóng đồng
bào. Anh đã tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc. Anh khâm phục các cụ
Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh nhưng không hoàn toàn tán thành
cách làm của một người nào”. Vì vậy, anh muốn ra nước ngoài để xem xét, học hỏi.
Nguyễn Tất Thành nói với một người bạn “tôi muốn đi ra ngoài, xem nước pháp và các
nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”.
Nội dung giải phóng ở đây không đơn thuần chỉ là giải thoát cho đồng bào ta khỏi
thân phận nô lệ, bị áp bức mà còn bao hàm một nội dung rộng lớn hơn: giải phóng cho
họ khỏi cái đói, cái rét, cái dốt tiến lên xây dựng một cuộc đời ấm no, tự do, hạnh phúc,
trong đó nhân dân thực sự là người chủ của đất nước. Điều đó thực sự trở thành “niềm
ham muốn tột bậc” của NAQ-HCM. Đó cũng là ham muốn nghìn đời của nhân dân ta.
Một ham muốn như thế chỉ có thể thực hiện được triệt để khi sự nghiệp giải phóng dân
tộc gắn liền với sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng con người, tức là ĐLDT phải




Đề cương ôn tập môn TTHCM

kết hợp với CNXH. Từ đó, người đi đến KL: “Muốn cứu nước và GPDT không có con
đường nào khác con đường cách mạng VS”. “Chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”
Sự phát triển khách quan của lịch sử đã tạo ra những điều kiện quốc tế và trong
nước đã dẫnHCM đến con đường CMVS: kết hợp ĐLDT với CNXH.
Thời đại mới mở ra xu hướng mới – chủ nghĩa xã hội tất yếu thay thế CNTB. Đó
là thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng mười Nga 1917.thắng lợi của cuộc cách mạng
này đã làm rung chuyển thế giới và mở ra một chương mới trong lịch sử loài người. cách
mạng tháng Mười thắng lợi là kết quả vận động của những mâu thuẫn cơ bản đã làm
chính quyền tư sản sụp đổ ở một nước rộng mênh mông và báo trước cách mạng thế
giới sẽ làm rung chuyển toàn bộ chế độ tư bản.
Cách mạng tháng mười là một hiện tượng mới trong lịch sử phát triển của xã hội
loài người, nó chứng minh CNXH sẽ thay thế CNTB là một xu hướng khách quan, và
GCCN là nhân vật mới đứng ở trung tâm thời đại có đủ lực lượng và tài năng cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới, xã hội XHCN và CSCN.
Năm 1919, QT thứ ba thành lập. GCVS quốc tế đã có bộ chí huy dày dạn kinh
nghiệm lãnh đạo.
Trong khi nhiều nhà yêu nước ở PĐ và ở VN còn ngưỡng mộ những cuộc cách
mạng Ts Nhật, Pháp và có thiện cảm với cách mạng Nga thì NAQ đã đánh giá những
cuộc cách mạng TS là những cuộc “cách mệnh không đến nơi”, không giải phóng được
công nông và những người lao động. Người trân trọng tiếp thu những giá trị văn hóa PĐ
và PT nhưng vẫn nhấn mạnh “ Chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng
nhất là chủ nghĩa Lênin”
NAQ hiểu tính ưu việt của CNXH không chỉ về phương diện lý thuyết mà còn qua
khảo sát thực tiễn. Giữa năm 1923 người sang LX, có điều kiện nghiên cứu chế độ Xô

viết. Nhân dân LX vừa ra khỏi chiến tranh. Dù đời sống còn thiếu thốn. Chính phủ và
nhân dân đã giành mọi thứ tốt nhất cho trẻ em; nhân dân thực sự là người chủ đất nước;
nền dân chủ xô viết tỏ ra hơn hẳn DCTS về nhiều mặt.
Người khẳng định trên thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga “là đã thành công
và thành công đến nơi”. Cách mạng VN muốn thành công phải đi theo con đường cách
mạng tháng Mười, Phải nhờ Đệ tam quốc tế. Nói cách khác con đường cách mạng VN
chỉ có thể là con đường CMVS.
Sự trưởng thành của GCCN VN và sự ra đời Đảng tiền phong của GCCN giữ vai
trò lãnh đạo cách mạng thì giành độc lập rồi, con đường đi tới tất yếu sẽ là CNXH.
Khi đế quốc Pháp đặt được ách thống trị trên đát nước ta, tiến hành khai thác
thuộc địa thì tính chất xã hội, cơ cấu giai cấp ở VN có sự biến đổi. GCCN VN- sản phẩm
chủ yếu của 2 lần khai thác thuộc địa, phát triển mạnh về số lượng và từng bước phát
triển về chất lượng.
Việc NAQ truyền bá chủ nghĩa Mác-Leenin về nước, việc thành lập hội VN thanh
niên cách mạng và sự xuất hiện thé hệ cán bộ cách mạng đầu tiên do người đào tạo đã
dẫn đến cuộc đấu tranh giữa 2 đường lối cứu nước: đường lối cứu nước của GCTs và
đường lối cứu nước của GCVS, đưa đến kết cục “lập trường cách mạng GPDT của công
nhân đã thắng lập trường GPDT cua TS”. Từ đó phong trào yêu nước của công nông
không còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng quốc gia Ts như trước, mà trở thành phong trào
chính trị độc lập, dẫn đến việc ra đời 3 tổ chức công sản trong vòng 6 tháng.



Đề cương ôn tập môn TTHCM

HCM đã chủ trì Hội nghị thành lập Đảng trên cơ sở hợp nhất 3 tổ chức Cs thành
một Đảng duy nhất lấy tên là ĐCS VN, thông qua Chính cương vắn tắt, sách lược vắn
tắt, điều lệ tóm tắt mà tư tưởng cốt lõi là ĐLDT để đi tới CNXH
ĐLDT và CNXH là sự lựa chọn có căn cứ khoa học và thực tiễn vững chắc của
lãnh tụ NAQ, của Đảng ta và nhân dân ta, phản ánh quy luật khách quan cảu xã hội VN

trong thời đại mới,
Từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng VN, Đảng ta và chủ tịch
HCM đã kết hợp 3 yếu tố: Dân tộc, giai cấp, thời đại, tạo nên sức mạnh hùng hậu đánh
thắng mọi kẻ thù, vượt qua mọi thử thách để đến ngày nay đổi mới và đưa đất nước
bước vào thời kỳ CNH,HĐH.
Việc lựa chọn và quyết định đi theo con đường CMVS, theo con đường của CM
tháng mười Nga, theo chủ nghĩa Mác-Leenin là một quyết định đánh dấu sự trưởng
thành vượt bậc Về mặt nhận thức tư tưởng CM của lãnh tụ NAQ, đồng thời mang tính
bước ngoặt đối với CMVN.
Câu 5. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, đồng chí hãy
làm rõ tính tất yếu của sự lựa chọn con đường phát triển đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận dụng và
phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin. Đó là các luận điểm về bản chất, mục tiêu và
động lực của chủ nghĩa xã hội; về tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ; về đặc
điểm, nhiệm vụ lịch sử; nội dung, các hình thức, bước đi và biện pháp tiến hành công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư tưởng đó trở thành tài sản vô giá, cơ sở lý
luận và kim chỉ nam cho việc kiên trì, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng
ta, đồng thời gợi mở nhiều vấn đề về xác định hình thức, biện pháp và bước đi lên chủ
nghĩa xã hội phù hợp với những đặc điểm dân tộc và xu thế vận động của thời đại ngày
nay.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI (12-1986) là kết quả của sự tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn sinh động
trong phong trào cách mạng của cả nước sau năm 1975. Trong những năm đổi mới toàn
diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân thực hiện
Cương lĩnh, đường lối xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới cho con
đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cùng với tổng kết lý luận - thực tiễn, quan
niệm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng

sát thực, cụ thể hóa. Nhưng, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những
thời cơ vận hội, nước ta đang phải đối đầu với hàng loạt thách thức, khó khăn cả trên
bình diện quốc tế, cũng như từ các điều kiện thực tế trong nước tạo nên. Trong bối cảnh
đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chúng ta cần tập trung giải quyết những vấn đề quan trọng nhất.
- Kiên trì mục tiêu mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh là người tìm ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: Con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
cũng chính là mục tiêu cao cả, bất biến của toàn Đảng, toàn dân ta. Dưới sự lãnh đạo của



Đề cương ôn tập môn TTHCM

Đảng, nhân dân ta đã đấu tranh giành độc độc lập dân tộc, từng bước quá độ dần lên chủ
nghĩa xã hội. Trong điều kiện nước ta, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã hội, vì đó là quy luật
tiến hóa trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới
đáp ứng được khát vọng của toàn dân tộc: Độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân,
cơm no áo ấm cho mọi người dân Việt Nam. Thực tiễn phát triển đất nước cho thấy, độc
lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là
cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu “Dân
giàn, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” là tiếp tục con đường cách mạng
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Đổi mới, vì
thế, là quá trình vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chứ không phải là thay đổi mục tiêu.
Tuy nhiên, khi chấp nhận kinh tế thị trường, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
chúng ta phải tận dụng các mặt tích cực của nó, đồng thời phải biết cách ngăn chặn,
phòng tránh các mặt tiêu cực, bảo đảm nhịp độ phát triển nhanh, bền vững trên tất cả

mọi mặt đời sống xã hội: Kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa; không vì phát triển, tăng
trưởng kinh tế bằng mọi giá mà làm phương hại các mặt khác của cuộc sống con người.
Vấn đề đặt ra là trong quá trình phát triển vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, biết cách sử dụng các thành tựu của loài người phục vụ cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, nhất là thành tựu khoa học - công nghệ - hiện đại làm cho tăng trưởng
kinh tế luôn đi liền với sự tiến bộ, công bằng xã hội, sự trong sạch, lành mạnh về đạo
đức, tinh thần.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn
lực, trước hết là nội lực để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với
phát triến kinh tế tri thức.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là con đường tất
yếu phải đi của đất nước ta. Chúng ta phải tranh thủ thành tựu của cách mạng khoa học
và công nghệ, của điều kiện giao lưu, hội nhập quốc tế để nhanh chóng biến nước ta
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, sánh vai với các cường quốc năm
châu như mong muốn của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn dân,
do Đảng lãnh đạo, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân, nghĩa là phải biết
phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân. Theo tinh thần đó, ngày nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với
phát triển kinh tế tri thức phải dựa vào nguồn lực trong nước là chính, có phát huy mạnh
mẽ nội lực mới có thể tranh thủ sử dụng hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Trong nội
lực, nguồn lực con người là vốn quý nhất.
Nguồn lực của nhân dân, của con người Việt Nam bao gồm trí tuệ, tài năng, sức
lao động, của cải thật to lớn. Để phát huy tốt sức mạnh của toàn dân tộc nhằm xây dựng
và phát triển đất nước, cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
Tin dân, dựa vào dân, xác lập quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế, làm cho
chế độ dân chủ được thực hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người, nhất là ở địa
phương, cơ sở, làm cho dân chủ thật sự trở thành động lực của sự phát triến xã hội.
Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.




Đề cương ôn tập môn TTHCM

Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, trên cơ
sở lấy liên minh công - nông - trí thức làm nòng cốt, tạo nên sự đồng thuận xã hội vững
chắc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi,
tận dụng tối đa sức mạnh của thời đại. Ngày nay, sức mạnh của thời đại tập trung ở cuộc
cách mạng khoa học, công nghệ, xu thế toàn cầu hóa. Chúng ta cần ra sức tranh thủ tối
đa các cơ hội do xu thế đó tạo ra để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phải có cơ chế,
chính sách đúng để thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại, thực
hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Muốn vậy, chúng ta phải có đường lối chính trị độc lập, tự chủ. Tranh thủ hợp
tác phải đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc chân
chính của mọi người Việt Nam nhằm góp phần làm gia tăng tiềm lực quốc gia.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với nhiệm vụ trau dồi bản lĩnh
và bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là cho thanh, thiếu niên - lực lượng rường cột của nước
nhà, để không tự đánh mất mình bởi xa rời cốt cách dân tộc. Chỉ có bản lĩnh và cốt cách
văn hóa dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ đó mới có thể loại trừ các yếu tố độc hại, tiếp thu tinh
hoa văn hóa loài người, làm phong phú, làm giàu nền văn hóa dân tộc.
- Chăm lo xây dựng đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy
mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện cần kiệm liêm chính,
chí công vô tư xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân cần đến vai trò lãnh đạo của một Đảng cách mạng chân chính, một Nhà
nước thật sự của dân, do dân và vì dân. Muốn vậy, phải:
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, một Đảng "đạo đức, văn minh”.
Cán bộ, đảng viên gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là người hướng dẫn, lãnh đạo nhân

dân, vừa hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, gương mẫu trong mọi việc.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mạnh mẽ, sáng suốt của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia một cách
đồng bộ để phục vụ đời sống nhân dân.
Bằng các giải pháp thiết thực, cụ thể, hình thành một đội ngũ cán bộ liêm khiết
tận trung với nước, tận hiếu với dân; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy chính quyền những
“ông quan cách mạng", lạm dụng quyền lực của dân để mưu cầu lợi ích riêng, phát huy
vai trò của nhân dân trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, giữ
vững sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Giáo dục mọi tầng lớp nhân dân ý thức biết cách làm giàu cho đất nước, hăng
hái đẩy mạnh tăng gia sản xuất kinh doanh gắn liền với tiết kiệm để xây dựng nước nhà.
Trong điều kiện đất nước còn nghèo, tiết kiệm phải trở thành quốc sách, thành một chính
sách kinh tế lớn và cũng là một chuẩn mực đạo đức, một hành vi văn hóa như Hồ Chí
Minh đã căn dặn. “Một dân tộc biết cần, biết kiệm" là một dân tộc văn minh, tiến bộ; dân
tộc đó chắc chắn sẽ thắng được nghèo nàn, lạc hậu, ngày càng giàu có về vật chất, cao
đẹp về tinh thần.
Câu 6. Bằng hiểu biết về tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng chí hãy làm rõ sự vận
dụng và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam về mô hình chủ nghĩa xã hội được



Đề cương ôn tập môn TTHCM

xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011).
Tiếp thu lý luận về đặc trưng bản chất của CNXH do các nhà kinh điển Mác-Lênin
vạch ra và kinh nghiệm thức tiễn xây dựng CNXH trên thế giới cũng như thực tiễn VN,
Hồ Chí Minh đã bàn tới những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và con người thể
hiện rõ đặc trưng bản chất của CNXH.
Đó là một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ. Nhân dân lao động là chủ và làm

chủ, nhà nước là của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng
cốt là liên minh công-nông-trí, do ĐCS lãnh đạo.
Mọi quyền lực trong xã hội đều tập trung trong tay nhân dân. Nhân dân có vị trí tối
thượng trong mọi cấu tạo quyền lực, là lực lượng quyết định vận mệnh cũng như sự phát
triển của đất nước, DT. CNXH chính là sự nghiệp của chính bản thân nhân dân, dựa vào
sức mạnh của toàn dân để đem lại quyền lợi cho nhân dân.
CNXH là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát triển
của khoa học-kỹ thuật nhằm không ngừng nâng cao đời sống VC và TT cho nhân dân,
trước hết là những người lao động.
CNXH là chế độ không còn người bóc lột người. Là một xã hội mà “sự phát triển tự
do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”
CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức. Đó là một xã hội có hệ
thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng, không còn áp bức, bóc lột, bất
công, không còn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và
nông thôn, con người được giải phóng, có điều kiện phát triển toàn diện, có sự hài hòa
trong phát triển của xã hội và tự nhiên.
Như vậy, theo HCM, CNXH là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, đạo đức, văn minh, một chế độ xã hội ưu việt nhất trong lịch sử, một xã hội tự do
và nhân đạo, phản ánh được nguyện vọng tha thiết của loài người.
Vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm trên đây về đặc trưng của
CNXH trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong TKQĐ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta xác định: Xã
hội XHCN mà chúng ta đang xây dựng là xã hội:
- Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phải
được biểu hiện cụ thể thiết thực, trên cơ sở kế thừa quan điểm Marx-Lenin về mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội, đồng thời vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh…là công bằng, hợp lý, mọi
người đều được hưởng quyền tự do, dân chủ, được sống cuộc đời hạnh phúc…

Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng tới việc
hiện thực hóa đầy đủ, đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng
văn minh. Tư tưởng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Đối với dân tộc Việt Nam, chỉ có chủ nghĩa xă hội mới bảo đảm cho
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thật sự. Đây là khát vọng tha thiết
của toàn thể nhân dân Việt Nam sau khi đất nước giành được độc lập và thống nhất Tổ
quốc.
- Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ



Đề cương ôn tập môn TTHCM

Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất
ưu việt chính trị của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa giá trị quan điểm
của chủ nghĩa Marx-Lenin sự nghiệp cách mạng là của quần chúng; kế thừa những giá
trị trong tư tưởng truyền thống của dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức là
dân là chủ, dân làm chủ.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong đặc trưng vừa nêu còn được thể hiện trong
nhận thức của Đảng ta về việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn
liền với việc bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân (nhân dân là chủ thể
của mọi quyền lực).
Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã tiếp tục khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ
nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất
nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc
sống ở mọi cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân
bầu ra và các hình thức dân chủ trực tiếp…”.
- Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà
nhân dân ta đang xây dựng so với các chế độ xã hội khác.
Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) tiếp tục khẳng định: Những mâu thuẫn vốn có
của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực
lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chẳng những không giải
quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khi bàn về phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.
Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản xuất của chủ
nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng là xác lập dần từng bước chế độ công hữu.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu
sản xuất chủ yếu là một trong những yếu tố đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong
phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế. Đây cũng là một trong
những đặc trưng bản chất của CNXH theo tư tưởng HCM.
- Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tính ưu việt về tiến tiến của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể
hiện khái quát, nhân văn của văn hóa nhân loại; ở việc giữ gìn bản sắc dân tộc (những
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền
thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập, tự do, tự cường dân tộc...).
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp
thu những giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn
hóa của các tộc người Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong
đa dạng. Sự kết hợp hài hòa những giá trị tiên tiến với những giá trị mang đậm bản sắc
dân tộc thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng trên lĩnh vực văn
hóa, làm cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
- Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện.




Đề cương ôn tập môn TTHCM

Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ được thể
hiện trong đặc trưng tổng quát dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mà
còn được thể hiện qua đặc trưng về con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Về phương
diện con người, chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì
con người, cho con người và phát triển con người toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa. Để có
con người xã hội chủ nghĩa phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu
chính đáng của con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã xác định
hệ giá trị phản ánh nhu cầu, nguyện vọng thiết thực của con người Việt Nam hiện nay là:
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Tính ưu
việt của chủ nghĩa xã hội thể hiện trong đặc trưng này là quan điểm nhân văn, vì con
người, chăm lo xây dựng con người, phát triển toàn diện con người (đức, trí, thể, mỹ)
của Đảng và Nhà nước ta.
- Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng các
quan hệ dân tộc (theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc người) trong quốc gia đa dân tộc
Việt Nam.
Thực hiện 25 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt trong chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội
trong giải quyết các quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Nhờ đó đã và đang phát huy truyền
thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tính đồng thuận trong cộng đồng 54 dân tộc anh em,
chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch.
- Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý
chí, quyền lực của nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với tính ưu việt
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã chỉ rõ tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang hướng tới xây dựng. Đó là: Nhà nước gắn bó chặt
chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý
kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát,
ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền,
xâm phạm quyền dân chủ của công dân…
- Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ thể hiện tính ưu việt
trong các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà còn thể hiện trong quan hệ đối
ngoại, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữ nhân dân ta và nhân
dân các nước trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế…Đảng và Nhà nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả



Đề cương ôn tập môn TTHCM

các nước, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên
tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia tích cực vào các tổ chức, diễn
đàn quốc tế và khu vực đã chứng minh một cách sinh động tính ưu việt của chủ nghĩa xã
hội mà nhân dân ta đang xây dựng, thể hiện trong đặc trưng về quan hệ đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta.

Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng được nêu trong
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011) là thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là
thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong
điều kiện hiện nay. Đó là thành quả của sự kết hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái
đặc thù,” cái chung và cái riêng để tạo nên một mô hình: chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang thu được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng đã
thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội Việt Nam và là sự tiếp tục kế thừa và phát triển
sáng tạo tư tưởng HCM về đặc trưng bản chất của CNXH trong điều kiện mới của đất
nước.
Câu 7. Đồng chí hãy làm rõ tính khoa học và giá trị nhân văn của tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
- Tính khoa học của tư tưởng HCM về xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì
dân thể hiện ở việc nhận thức khoa học về các mô hình Nhà nước trên thế giới đề đưa ra
mô hình nhà nước Việt Nam, khẳng định: “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”, nhà nước
dân chủ.
Trên lộ trình tìm chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu nhiều mô hình
nhà nước và khởi xướng cuộc đấu tranh vì độc lập tự do cho dân tộc mình, đồng bào
mình bằng việc phê phán bản chất vô nhân đạo của bộ máy chính quyền thực dân phong
kiến đang thống trị thuộc địa trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu mô hình nhà nước tư
sản ở Mỹ, Pháp, Người vạch trần bản chất xấu xa của chủ nghĩa thực dân ẩn nấp sau
những câu châm ngôn về “Tự do – Bình đẳng – Bác ái”. Nghiên cứu mô hình Nhà nước
Xô Viết, Người khẳng định đó là nhà nước kiểu mới bởi nó phục vụ lợi ích của người lao
động bị áp bức bóc lột như phát ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền, tổ
chức kinh tế mới để thực hành “thế giới đại đồng”.
Qua quá trình khảo sát, Hồ Chí Minh cho rằng Nhà nước tư sản dù ở Mỹ hay
Pháp, tuy tiến bộ hơn các nhà nước quân chủ phong kiến nhưng đó là công cụ của giai
cấp thống trị, phục vụ lợi ích của thiểu số những kẻ bóc lột; số đông quần chúng vẫn bị
bóc lột, vẫn sống trong nghèo đói, bất công. Mô hình nhà nước Xô viết ở Nga chính là

sự gợi mở mô hình mẫu Nhà nước Việt Nam tương lai khi cách mạng thành công.
Khi thành lập Đảng. Cộng sàn Việt Nam (đầu năm 1930), Hồ Chí Minh và Đảng
ta xác định: Đạp đổ chính quyền của đế quốc chủ nghĩa Pháp và phong kiến, lập ra
chính phủ công nông binh. Tháng 2 năm 1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp chỉ đạo
phong trào cách mạng tại Hội nghị Trung ương lần thứ Tám (5-1941), Người và Đảng ta
đã xác định: “Không nên nói công nông liên hiệp và chính quyền Xô viết mà phải nói
toàn thể nhân dân liên hiệp và lập chính phủ dân chủ cộng hòa”. Chương trình Việt Minh
được Hội nghị thông qua ghi rõ: “Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ lập
một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa... Chính phủ ấy do quốc dân
đại hội cử ra”.



Đề cương ôn tập môn TTHCM

Từ mô hình Nhà nước Xô Viết công nông binh chuyển sang mô hình nhà nước
dân chủ cộng hòa - Nhà nước đại biểu cho khối đoàn kết toàn thể quốc dân là sự lựa
chọn, một bước chuyển sáng suốt của Hồ Chí Minh và Đảng ta. Đầu năm 1945, khi
phong trào cách mạng phát triển sôi nổi, mạnh mẽ, khu giải phóng gồm 6 tỉnh Việt Bắc
được thành lập, nhiều địa phương trong Khu đã thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng
do nhân dân cử ra. Đó là phôi thai của Nhà nước Việt Nam mới. Tháng Tám 1945, Ủy
ban Giải phóng dân tộc do Quốc dân Đại hội Tân Trào cử ra, làm chức năng của chính
phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và ra mắt Quốc dân Đại hội trong
những ngày Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Ngày 01/6/1946, cuộc tổng
tuyển cử bầu QH khóa I thành công, ba tháng sau chính phủ chính thức của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa được QH cử ra. Tháng 11/1946, QH thông qua bản Hiến pháp
đầu tiên. Đây là những sự kiện có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa thực sự là nhà nước hợp hiến theo thông lệ quốc tế.
Như Hồ chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ”. Bao nhiêu lợi ích
đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến chính phủ trung

ương do dân cử ra: ... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đây là cách
diễn đạt vắn tắt của Người về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam - Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước của nhân dân - như Điều 1 của Hiến pháp năm 1946
do Hồ Chí Minh là Trưởng ban soạn thảo đã ghi rõ. Tất cả quyền binh trong nước là của
toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, trai gái, giàu nghèo, giai cấp,
tôn giáo. Sau này Người lại giải thích rõ: “Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu do
mình cử ra “nếu đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng”; quyền lực của Nhà nước, của công
chức là do nhân dân ủy thác, giao phó. Vì vậy phải có ý thức trách nhiệm với sự ủy thác
đó.
Nhà nước do nhân dân là nhà nước do nhân dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu
đại diện cho mình quản lý điều hành công việc. Nhà nước ấy do dân ủng hộ, giúp đỡ,
đóng thuế để chi phí hoạt động. Hồ Chí Minh thường xuyên yêu cầu tất cả các cơ quan,
công chức Nhà nước phải dựa vào nhân dân, phải lắng nghe ý kiến của nhân dân, phải
chịu sự kiểm soát của nhân dân. Phải nhớ một điều: “Nếu chính phủ làm hại dân thì dân
có quyền đuổi khỏi Chính phủ”.
- Giá trị nhân văn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của dân, do
dân, vì dân thể hiện: Nhà nước vì nhân dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng
chính đáng của nhân dân. Người thường nói dân là chủ thì chính phủ là đầy tớ của dân
và nhấn mạnh, làm đầy tớ, công bộc của dân chứ không phải làm quan cách mạn; không
phải để “đè đầu cưỡi cổ dân”. Được nhân dân giao phó trọng trách, Hồ Chí Minh là tấm
gương sáng về tinh thần tận tụy phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Người nói rõ:
“Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quí chút nào. Bây giờ phải gánh chức
Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như người lính vâng
mệnh lệnh của Tổ quốc ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui thì tôi vui lòng
lui. Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn được
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biệc
để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không
dính líu gì đến vòng danh lợi”.
Câu 8. Đồng chí hãy phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của

Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam. Theo đồng chí, để thực hiện
tốt vai trò của Đảng đối với đất nước trong giai đoạn hiện nay, Đảng cần được xây
dựng như thế nào?
- Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhưng nếu không có Đảng lãnh đạo thì
lực lượng vô tận của quần chúng không chắc chắn thắng lợi. Ngay từ năm 1927, Hồ Chí



Đề cương ôn tập môn TTHCM

Minh đã chỉ rõ vai trò của Đảng là: Trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì
liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Người cho rằng: “Muốn khỏi
đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối
và định phương châm cho đúng. Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng
kẻ địch rất mạnh. Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ, chí khí phải
kiên quvết. Vì vậy, phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân
thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch, giành lấy chính quyền. Cách mạng thắng lợi rồi, quần
chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo”.
Hồ Chí Minh chỉ rõ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định đưa
cách mạng tới thắng lợi. Trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo bộ máy chính quyền Nhà
nước, lãnh đạo Mặt trận dân tộc thống nhất các tổ chức quần chúng, các lĩnh vực đời
sống xã hội để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và quá độ từng bước tiến lên CNXH.
Theo HCM đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước là nhân tố bảo đảm nhà nước giữ
vững, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Lời
nói đầu của Hiến pháp 1959 viết: “Nhà nước của ta là nhà nước dân chủ nhân dân, dựa
trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”.
Đảng Cộng sản lãnh đạo nhà nước cũng là nhân tố bảo đảm bộ máy chính quyền
và đội ngũ cán bộ công chức trong sạch. Trở thành đảng cầm quyền có nghĩa là dưới sự
lãnh đạo của đảng, cách mạnh bước sang thời kỳ mới với nhiều nhiệm vụ nặng nề và rất

khó khăn, đặt ra yêu cầu vai trò lãnh đạo của Đảng phải toàn diện, tỉ mỉ. Đảng phải lãnh
đạo việc xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, đồng thời lại phải quan tâm lãnh đạo
“những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hằng ngày của nhân
dân”. Trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ mới nhiều khó khăn, Đảng không tránh khỏi
những thiếu sót, sai lầm. HCM đã nhiều lần đòi hỏi Đảng phải “đặt chính sách cho
đúng”, phải thống nhất ý chí và hành động, cán bộ, đảng viên phải chống thói “quan
cách mạng”, chống quan liêu, tham ô lãng phí, phải vững về lập trường tư tưởng, phải
thạo về chuyên môn.
Trong điều kiện đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên của Đảng được giao những
chức vụ trong bộ máy chính quyền, các đoàn thể phụ trách các lĩnh vực đời sống xã hội.
Có chức có quyền thì phải làm đúng nghị quyết, Điều lệ Đảng, đúng Hiến pháp, pháp
luật, đồng thời phải phục tùng kỷ luật của cơ quan, đoàn thể mình đảng công tác, đó là
điều HCM thường xuyên nhắc nhở.
Để thực hiện tốt vai trò của Đảng đối với đất nước trong giai đoạn hiện nay,
Đảng cần được xây dựng trên các nội dung sau:
Trong bối cảnh, thời cơ và thách thức đan xen như hiện nay, vai trò lãnh đạo sáng
suốt của Đảng càng cực kỳ quan trọng và luôn là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng nước ta. Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải tiếp tục tự
đổi mới, tự chỉnh đốn, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong để xây
dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo
khoa học... Muốn vậy, cần tập trung vào một số vấn đề trọng tâm sau:
Một là, Đảng ta cần tiếp tục nâng tầm trí tuệ và đổi mới tư duy để lãnh đạo toàn
diện đất nước phù hợp với diễn biến nhanh chóng, mau lẹ của thực tế; phù hợp với
đường lối đổi mới của cách mạng Việt Nam. Mỗi đảng viên phải nhận thức đúng, đầy đủ
trách nhiệm của mình khi tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng và tuyên thệ dưới cờ
Đảng để cố gắng phấn đấu thực hiện tốt các nhiệm vụ của người đảng viên và mọi nhiệm
vụ được giao. Đảng lãnh đạo thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình hoạt động




Đề cương ôn tập môn TTHCM

trong mọi lĩnh vực. Do đó, cần xây dựng đội ngũ đảng viên có bản lĩnh chính trị vững
vàng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng; có phẩm chất
đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, "cần kiệm liêm chính, chí công vô tư"; có trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao và có khả năng tổng
kết, giải đáp những vấn đề thực tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta;
đồng thời mỗi đảng viên phải xây dựng cho mình phương pháp và tác phong công tác,
làm cho mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm thuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân như căn dặn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trước lúc đi xa.
Hai là, nêu cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, nhất là người đứng đầu
cấp ủy. Điều lệ Đảng đã quy định rõ, cấp ủy là cơ quan lãnh đạo của Đảng giữa hai kỳ
đại hội. Như vậy, cấp ủy, nhất là người đứng đầu cấp ủy có vai trò, trách nhiệm quyết
định đối với hoạt động và hiệu quả lãnh đạo của Đảng và cũng là biểu hiện tập trung
Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng.
Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội một
cách toàn diện trên các mặt phong cách, nội dung, phương pháp. Về phong cách lãnh đạo
phải gần dân, nghe dân, học dân và trọng dân theo đúng tư tưởng "lấy dân làm gốc" và
"dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát"; học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh bằng các hành động thiết thực, cụ thể trong công việc, trong quan hệ
với nhân dân, đồng chí, đồng nghiệp, gia đình... nhằm khắc phục triệt để tình trạng quan
liêu, xa dân, ngại tiếp xúc với dân, không nghe ý kiến phê bình, phản biện của dân, thậm
chí còn chèn ép dân của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Điều đó làm mất lòng tin của
nhân dân đối với Đảng.
Bốn là, mở rộng dân chủ ngoài xã hội; thực hành dân chủ thật sự trong Đảng. Nhà
nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân, biết kế thừa những tinh hoa dân chủ của các Nhà nước pháp quyền trong lịch sử và

đã, đang phát triển lên tầm cao mới, khác hẳn về bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với
dân chủ tư sản, nhưng chưa tuyên truyền, giáo dục cho người dân hiểu đúng về dân chủ
đi liền với kỷ cương nên một số người đã cố tình lợi dụng dân chủ để gây rối, chia rẽ
làm tác động xấu đến trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, tăng cường giữ gìn kỷ luật, tạo sự đoàn kết nhất trí của Đảng là sức mạnh
vô địch của Đảng. Đảng điều chỉnh hành vi của các tổ chức đảng, đảng viên bằng kỷ luật
của mình. Buông lỏng kỷ luật, sớm hay muộn Đảng sẽ bị suy yếu, tan rã.
Mọi vi phạm kỷ luật đảng đều phải được xem xét, nếu đến mức phải thi hành kỷ
luật thì xử lý thích đáng, không có "vùng cấm", không được che đậy, thiên lệch, nể nang.
Thực tế vừa qua, việc chấp hành kỷ luật của một số tổ chức đảng và đảng viên chưa
nghiêm túc; việc xử lý kỷ luật (khi có vi phạm) còn nể nang, nhẹ trên, nặng dưới, thiếu
tác dụng giáo dục, ngăn ngừa và răn đe, chưa tạo được sự đồng thuận cao của xã hội,...
Có trường hợp làm cán bộ, đảng viên phân tâm. Do vậy cần tăng cường giữ gìn kỷ luật
sắt, tạo sự đoàn kết nhất trí của Đảng và sự đồng thuận của xã hội. Đây chính là sức
mạnh vô địch của Đảng, "cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con
ngươi của mắt mình".




Đề cương ôn tập môn TTHCM

Câu 9. Trong Bài phát biểu tại lớp học chính trị của giáo viên cấp 2 và cấp 3 toàn
miền Bắc, ngày 13 tháng 9 năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Vì lợi
ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Bằng
những kiến thức đã học và nghiên cứu, anh (chị), hãy chứng minh làm rõ quan
điểm trên của Người.
Trong Bài phát biểu tại lớp học chính trị của giáo viên cấp 2 và cấp 3 toàn miền
Bắc, ngày 13 tháng 9 năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Vì lợi ích mười
năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.

Đây chính là tư tưởng, quan điểm trồng người của Hồ Chí Minh. Theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, “con người là một sinh vật xã hội”” “một chỉnh thể
thống nhất giữa yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội”. Nhìn một cách tổng quát “trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Theo HCM con
người là một chỉnh thể, thống nhất về trí lực, tâm lực, thể lực, đa dạng bởi mối quan hệ
giữa cá nhân và xã hội (quan hệ gia đình, dòng tộc, làng xã, quan hệ giai cấp dân tộc...)
và các mối quan hệ xã hội (quan hệ chính trị, văn hóa, đạo đức, tôn giáo...) Trong mỗi
con người đều có tính tốt và tính xấu. Người giải thích “chữ người nghĩa hẹp là gia
đình, anh em, họ hàng, bè bạn; nghĩa rộng là đồng bào cả nước; rộng hơn nữa là cả loài
người”. Con người có tính xã hội, là con người xã hội, thành viên của một cộng đồng xã
hội.
Hồ Chí Minh cũng cho ta những hiểu biết về yếu tố sinh vật của con người. Theo
người “dân dĩ thực vi thiên”, “dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được
ăn no, mặc đủ”. Theo Người trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách, nhiệm vụ phải
thực hiện ngay là làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, có chỗ ở, có học hành.
Trong thực tiễn, con người có nhiều chiều quan hệ: quan hệ với cộng đồng xã hội
(là một thành viên); quan hệ với một chế độ xã hội (làm chủ hay bị áp bức); quan hệ với
tự nhiên (một bộ phận không tách rời)
Xa lạ với con người trừu tượng, phi nguồn gốc lịch sử, HCM nhìn nhận con người
lịch sử-cụ thể về giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, vị trí, đảng viên, công
dân...trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Nét đặc sắc trong quan niệm của HCM về con người là nhìn nhận đặc điểm con
người VN với những điều kiện lịch sử cụ thể, với những cấu trúc kinh tế xã hội cụ thể.
Cách tiếp cận này đi đến giải quyết mối quan hệ Dt và GC rất sáng tạo, không chỉ về mặt
đường lối cách mạng mà cả về mặt con người.
Theo HCM con người là vốn quý nhất, động lực, nhân tố quyết định thành công
của sự nghiệp cách mạng. Người nhấn mạnh “mọi việc đều do người làm ra”, trong bầu
trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết
của nhân dân. Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong. Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhân dân là những người sáng tạo chân chính ra lịch

sử thông qua các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất như lao động sản xuất, đấu tranh chính
trị-xã hội, sáng tạo ra các giá trị văn hóa. Nói đến nhân dân là nói đến lực lượng, trí tuệ,
quyền hành, lòng tốt, niềm tin, đó chính là gốc, động lực cách mạng.
Con người còn là mục tiêu của cách mạng, là chiến lược số một trong tư tưởng và
hành động của HCM. Mục tiêu này được cụ thể hóa trong 3 giai đoạn cách mạng (giải
phóng dân tộc – dân chủ nhân dân – xã hội chủ nghĩa) với 3 cuộc giải phóng (giải phóng
dân tộc- giải phóng xã hội- giải phóng con người). Sự nghiệp 3 giải phóng kết hợp chặt



Đề cương ôn tập môn TTHCM

chẽ với nhau, giải phóng Dt đã có một phần giải phóng xã hội và giải phóng con người,
đồng thời nối tiếp nhau, GPDT mở đường cho GPXH và GP con người.
Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, vừa cấp
bách, vừa lâu dài, có ý nghĩa chiến lược. Xây dựng con người là một trọng tâm, bộ phận
hợp thành của chiến lược phát triển đất nước, có mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây
dựng chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội. HCM nêu 2 quan điểm nổi bật làm sáng tỏ sự cần
thiết xây dựng con người.
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.Trồng người là công việc lâu dài, gian
khổ, vừa vì lợi ích trước mắt vừa vì lợi ích lâu dài, là công việc của văn hóa giáo dục.
Trồng người phải được tiến hành thường xuyên trong suốt tiến trình đi lên CNXH và
phải đạt được những kết quả cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng. Công việc trồng
người là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị xã hội kết hợp với tính
tích cực, chủ động của từng người.
Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần phải có những con người XHCN. CNXH sẽ
tạo ra những con người XHCN, con người XHCN là động lực xây dựng CNXH. Vì vậy,
việc xây dựng con người XHCN được đặt ra ngay từ đầu và phải được quan tâm trong
suốt tiến trình xây dựng CNXH. Những con người XHCN là những con người có lý
tưởng, đạo đức, lối sống, tác phong xã hội chủ nghĩa. Đó là những con người đi trước,

làm gương, lôi cuốn người khác theo con đường XHCN.
Trong suốt cuộc đời cách mạng HCM đã rất quan tâm tới việc xây dựng con người
toàn diện vừa Hồng, vừa chuyên. Đó là những con người có mục đích và lối sống cao
đẹp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tư tưởng, tác phong và đạo đức XHCN và năng
lực làm chủ. HCM quan tâm xây dựng con người toàn diện với những khía cạnh chủ yếu
sau:
- Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể XHCN và tư tưởng “mình vì mọi người, mọi
người vì mình”
- Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ TQ
- Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng
- Có phương pháp làm việc khoa học, tác phong quần chúng, dân chủ, nêu gương
Hồ Chí Minh dặc biệt quan tâm đến việc nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch
chủ nghĩa cá nhân, phát triển toàn diện con người về đức-trí-thể-mỹ
Để có được những con người phát triển toàn diện HCM chỉ ra phương pháp xây
dựng con người là mỗi người tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức, kết hợp chặt chẽ với xây
dựng cơ chế, tính khoa học của bộ máy và tạo dựng nền DC
Chú trọng vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng. Thông
qua các phong trào cách mạng như “thi đua yêu nước”, “người tốt, việc tốt”. Đặc biệt
phải dựa vào quần chúng theo quan điểm “dựa vào ý kiến của nhân dân mà sửa chữa cán
bộ và tổ chức của ta”
Câu 10. Nghị quyết số 33 NQ/TW Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ 9, khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước” Đảng ta đã nêu định hướng giá trị của nền văn
hóa Việt Nam là: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×