Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trường trung học phổ thông Quang Hà, tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2016 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.17 KB, 50 trang )

1

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

TRẦN KIM QUÂN

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUANG HÀ,
TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2016 – 2019

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNHTRỊ

HÀ NỘI, THÁNG 9 NĂM 2016


2

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỀ ÁN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUANG HÀ,
TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2016 - 2019

Người thực hiện: Trần Kim Quân
Lớp: Cao cấp lý luận chính trị tỉnh Vĩnh Phúc
Chức vụ: Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường THPT Quang Hà, huyện Bình Xuyên,
tỉnh Vĩnh Phúc



HÀ NỘI, THÁNG 9 NĂM 2016


3

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập và nghiên cứu thực hiện đề án tốt nghiệp Cao
cấp lý luận chính trị, Học viên đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình
của các thầy, cô giáo Học viện Chính trị khu vực I; và các đồng chí lãnh đạo,
đồng nghiệp nơi công tác.
Trước tiên, học viên xin bày tỏ sự biết ơn chân thành đến các thầy giáo,
cô giáo phụ trách giảng dạy lớp Cao cấp lý luận chính trị tại chức tỉnh Vĩnh
Phúc, đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học
viên học tập và nghiên cứu. Học viên đặc biệt bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới các
thầy cô của Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Khu vực I, đã tậm tình
hướng dẫn và giúp đỡ học viên trong suốt thời gian thực hiện Đề án: “Nâng
cao chất lượng đội ngũ giáo viên trường trung học phổ thông Quang Hà,
tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2016 - 2019” .
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Giang, ngày 26 tháng 9 năm 2016
Học viên

Trần Kim Quân


4

MỤC LỤC



5

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GD&ĐT

Giáo dục và đào tạo

GDCD

Giáo dục công dân

GV

Giáo viên

KTCN

Kỹ thuật công nghệ

TD

Thể dục

THPT

Trung học phổ thông

UBND


Ủy ban nhân dân

WTO

Tổ chức Thương mại thế giới


6

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do xây dựng đề án
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của đội ngũ
nhà giáo trong xã hội và trong sự nghiệp cách mạng, Người nói: “Nhiệm vụ
giáo dục rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy thì không có giáo
dục... Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế
văn hóa. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu” [9, tr.184]. Trong
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn coi trọng nhiệm vụ giáo
dục và đào tạo. Ở bất kỳ giai đoạn nào, hình thức giáo dục nào, chất lượng
dạy học phụ thuộc rất lớn vào chất lượng đội ngũ nhà giáo. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ Hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII khẳng định: “Giáo
viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh. Giáo
viên phải có đủ đức, tài” [5, tr.38 - 39]. Điều 15 Luật Giáo dục (2005) ghi rõ:
“Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục.
Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho người học”
[12, tr.15]. Đội ngũ giáo viên là một trong những lực lượng nòng cốt của
nhà trường, là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục đào tạo, nghiên cứu
khoa học và xây dựng nhà trường tiên tiến mẫu mực. Đào tạo, xây dựng đội
ngũ giáo viên có đủ phẩm chất năng lực là vấn đề cơ bản, thường xuyên và
là nhiệm vụ chính trị quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc hiện nay.
Quán triệt quan điểm của Đảng, ngành GD&ÐT tỉnh Vĩnh Phúc xác
định việc nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo là nhiệm vụ quan trọng, là
khâu then chốt trong công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay. Đội ngũ nhà giáo
đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, có năng lực giáo dục, gương mẫu về đạo
đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Ngành GD &ĐT tỉnh Vĩnh Phúc đã triển


7

khai đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung giáo dục, rèn luyện đạo đức nhà
giáo thông qua hình thức đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo
nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
Trường THPT Quang Hà là một trong những ngôi trường có bề dày
thành tích về giáo dục và đào tạo của tỉnh Vĩnh Phúc. Thời gian qua, công tác
giáo dục của nhà trường đã đạt được những thành tích đáng kể. Công tác giáo
dục toàn diện luôn được nhà trường chú trọng và đạt kết quả tốt. Kết quả thi
HS giỏi văn hoá, thể dục thể thao, thi văn nghệ, thi THPT Quốc gia qua các
năm luôn có sự gia tăng về số lượng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt
được, công tác giáo dục của nhà trường còn tồn tại những hạn chế nhất định.
Để khắc phục những hạn chế đó thì điều quan trọng trước tiên và lớn nhất
chính là phải nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên của nhà trường.
Xuất phát từ những yêu cầu cả về mặt lý luận và thực tiễn trên, là một
cán bộ quản lý nhà trường, tôi nhận thấy cần phải quan tâm đặc biệt tới công
tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV. Vì vậy, tôi chọn đề án: “Nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên trường trung học phổ thông Quang Hà, tỉnh Vĩnh
Phúc giai đoạn 2016 - 2019” .
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Phát triển đội ngũ GV đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý, tăng thêm GV

đào tạo trình độ trên chuẩn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, sử
dụng thành thạo công nghệ thông tin, nhận thức đầy đủ và triển khai có hiệu
quả về chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, có lối sống lành
mạnh, đạo đức chuẩn mực và tâm huyết với nghề nghiệp.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Đến năm 2019 đạt các chỉ tiêu sau:


8

- Thêm 03 GV được đào tạo trình độ trên chuẩn; trong đó 02 GV môn
toán, 01 GV môn tiếng Anh.
- Môn toán, vật lý, hóa học, sinh học có 01GV/môn sử dụng được tiếng
Anh trong giảng dạy.
- 100% GV đạt chuẩn nghề nghiệp từ xếp loại khá trở lên
- 100% GV sử dụng thành thạo TBDH(máy vi tính, máy chiếu và các
thiết bị công nghệ hỗ trợ giảng dạy...).
- Phấn đấu đến hết năm 2019 có thêm 10 giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh.
- Phấn đấu hàng năm có 15% đạt danh hiệu chiến sỹ thi đua cấp cơ sở
trong đó có 02 giáo viên đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp tỉnh.
- Không có GV vi phạm đạo đức nhà giáo.
3. Giới hạn của đề án
- Đối tượng áp dụng: đội ngũ giáo viên.
- Địa điểm áp dụng: Trường THPT Quang Hà, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Thời gian thực hiện đề án: từ 2016 - 2019.


9

B. NỘI DUNG

1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn thế hệ trẻ: Non sông
Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài
vinh quang sánh vai cùng các cường quốc năm châu được hay không, chính là
nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.
Người rất quan tâm đến công tác giáo dục thế hệ trẻ nói chung, công
tác dạy học nói riêng. Người đã dạy rằng: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu,
muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa.
Người đã nhận định: óc những người trẻ tuổi trong sạch như một tấm lụa
trắng, nhuộm xanh thì nó sẽ xanh, nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ, vì vậy sự học tập ở
nhà trường có ảnh hưởng rất lớn cho tương lai của thanh niên và tương lai của
thanh niên là tương lai của nước nhà. Do đó, người thầy tốt thì ảnh hưởng tốt,
người thầy xấu thì ảnh hưởng xấu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của những thầy giáo,
cô giáo đối với sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ: Có gì vẻ vang hơn là nghề đào
tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản? Người thầy giáo tốt, thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là
người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng
huân chương, song những người thầy giáo tốt là những người anh hùng vô
danh... Nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân, thì làm sao mà
xây dựng chủ nghĩa xã hội được? Vì vậy nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất
là vẻ vang.
Lời dạy của Người chứa đựng toàn bộ giá trị chân lý của thời đại. Để
không bị tụt hậu, để xây dựng và phát triển thành công một đất nước độc lập


10

tự do theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì rất cần phải nhận thức rõ hơn nữa

vị trí và vai trò của GD&ĐT, vị trí của người thầy trong sự nghiệp vĩ đại này.
Khi nguồn lực con người được coi là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi
quốc gia thì phát triển GD&ĐT là phương tiện chủ yếu để quyết định chất
lượng con người, là nền tảng của chiến lược con người. Con người vừa là
trung tâm của mọi sự phát triển, vừa là mục tiêu, động lực của sự phát triển.
Với tư cách là động lực cho sự phát triển, GD&ĐT chuẩn bị cho con người sự
phát triển bền vững trên tất cả các lĩnh vực, cho lợi ích hiện tại và tương lai
của đất nước.
Trong bối cảnh đó, giáo dục đã trở thành nhân tố quyết định nhất đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội. Hàm lượng tri thức trong nền kinh tế là nhân
tố quy định sự phát triển. Hàng hoá nào có hàm lượng tri thức càng cao thì
càng có giá trị. Tri thức là nguồn tài nguyên rất đặc biệt, khác với những
nguồn tài nguyên khác, tri thức là vô hạn, càng khai thác càng giàu lên, càng
cho đi, càng thu về nhiều hơn. Do vậy, phát triển dựa trên tri thức là phát triển
bền vững. Mà tri thức thì chính là những dữ liệu, thông tin hay những kỹ năng
mà con người có được qua sự trải nghiệm hoặc thông qua giáo dục. Như vậy,
giáo dục chính là yếu tố để gia tăng hàm lượng tri thức trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã luôn khẳng
định GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, là những chính sách trọng tâm, có vai
trò chính yếu của Nhà nước, được ưu tiên trước nhất, thậm chí đi trước một
bước so với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Ngay từ khi mới thành
lập, Đảng đã có nhiều quan điểm chỉ đạo về phát triển GD&ĐT. Ngày
03/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ


11

Chí Minh đã trình bày với các Bộ trưởng 6 nhiệm vụ cấp bách của đất nước

lúc bấy giờ, trong đó có nhiệm vụ về giáo dục đó là “diệt giặc dốt”.
Với vị trí quốc sách hàng đầu, GD&ĐT có vai trò là nền tảng, động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò của GD&ĐT được thể hiện rõ
trong quan điểm của Đảng ở các kì Đại hội:
Nghị quyết TW 3, khoá 7 năm 1993 khẳng định: Khoa học và công nghệ,
GD&ĐT là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển.
Nghị quyết TW 2 khoá VIII đã khẳng định: Phát triển GD&ĐT là nền
tảng, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng nhấn mạnh: GD&ĐT là một
trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát
huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững.
Nghị quyết TW 8, khoá XI: GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, là sự
nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư
cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội.
Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trong thời kì quá độ lên
CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) một lần nữa khẳng định lại quan điểm
xuyên suốt của Đảng ta: “GD&ĐT có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước,
xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 được
thông qua tại Đại hội XI, vai trò của GD&ĐT được nhấn mạnh và làm rõ:
“GD&ĐT cần tập trung vào việc phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao”.


12


Luật giáo dục năm 2005, Luật giáo dục sửa đổi năm 2009
Luật giáo dục đã quy định nhiều nội dung, trong đó có mục tiêu giáo
dục, đầu tư cho giáo dục, trách nhiệm của nhà giáo, vai trò và trách nhiệm của
cán bộ quản lý giáo dục, mục tiêu của giáo dục phổ thông....
Điều 2: Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển
toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung
thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Điều 13: Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển.
Điều 15. Vai trò và trách nhiệm của nhà giáo
Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục.
Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho người học.
Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo; có chính sách sử dụng,
đãi ngộ, bảo đảm các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo
thực hiện vai trò và trách nhiệm của mình; giữ gìn và phát huy truyền thống
quý trọng nhà giáo, tôn vinh nghề dạy học.
Điều 16. Vai trò và trách nhiệm của cán bộ quản lý giáo dục
Cán bộ quản lý giáo dục giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức, quản
lý, điều hành các hoạt động giáo dục. Cán bộ quản lý giáo dục phải không
ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn,
năng lực quản lý và trách nhiệm cá nhân.


13

Nhà nước có kế hoạch xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
quản lý giáo dục nhằm phát huy vai trò và trách nhiệm của cán bộ quản lý
giáo dục, bảo đảm phát triển sự nghiệp giáo dục.


Điều 27. Mục tiêu của giáo dục phổ thông
Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện
về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng
lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị
cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và
có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện
phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học,
cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Quyết định số 16/2008/QĐ-GDĐT ngày 16 tháng 4 năm 2008 của Bộ
GD&ĐT ban hành Qui định về đạo đức nhà giáo
Quy định về đạo đức nhà giáo là cơ sở để các nhà giáo nỗ lực tự rèn
luyện phù hợp với nghề dạy học được xã hội tôn vinh, đồng thời là một trong
những cơ sở để đánh giá, xếp loại và giám sát nhà giáo nhằm xây dựng đội
ngũ nhà giáo có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất và lương tâm
nghề nghiệp trong sáng, tích cực học tập, không ngừng nâng cao chuyên môn


14

nghiệp vụ và phương pháp sư phạm, có lối sống và cách ứng xử chuẩn mực,
thực sự là tấm gương cho người học noi theo.
Thông tư 30/2009/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Bộ
GD&ĐT ban hành Quy định chuẩn nghề nghiệp GV trung học cơ sở, GV
trung học phổ thông
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học là hệ thống các yêu cầu cơ bản
đối với giáo viên trung học về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; năng lực

chuyên môn, nghiệp vụ. Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học giúp giáo
viên trung học tự đánh giá phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, năng lực
nghề nghiệp, từ đó xây dựng kế hoạch rèn luyện phẩm chất đạo đức và nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; làm cơ sở để đánh giá, xếp loại giáo viên
hằng năm phục vụ công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
và sử dụng đội ngũ giáo viên trung học; làm cơ sở để xây dựng, phát triển
chương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên trung học; làm cơ sở để nghiên
cứu, đề xuất và thực hiện chế độ chính sách đối với giáo viên trung học; cung
cấp tư liệu cho các hoạt động quản lý khác.
Nội dung của thông tư gồm 06 tiêu chuẩn với 25 tiêu chí:
Tiêu chuẩn 1: Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống (gồm 05 tiêu chí)
Tiêu chuẩn 2: Năng lực tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục
(gồm 02 tiêu chí)
Tiêu chuẩn 3: Năng lực dạy học (gồm 08 tiêu chí)
Tiêu chuẩn 4: Năng lực giáo dục (gồm 06 tiêu chí)
Tiêu chuẩn 5: Năng lực hoạt động chính trị, xã hội (gồm 02 tiêu chí)
Tiêu chuẩn 6: Năng lực phát triển nghề nghiệp (gồm 02 tiêu chí)
Chiến lược phát triển giáo dục phổ thông tỉnh Vĩnh Phúc đến năm
2020 và tầm nhìn đến năm 2030


15

Trong 10 đến 20 năm tới, phát triển toàn diện giáo dục, đào tạo Vĩnh
Phúc theo hướng tiên tiến, hiện đại, đạt chuẩn quốc gia và có yếu tố đạt trình
độ quốc tế. Xây dựng Vĩnh Phúc thành trung tâm giáo dục và đào tạo đa
ngành, đa lĩnh vực và chất lượng cao của cả nước.
Đội ngũ giáo viên phổ thông được phát triển đủ về số lượng, có trình độ
chuyên môn vững và thành thạo phương pháp, công nghệ giáo dục hiện đại,
xây dựng đồng bộ về cơ cấu để thực hiện giáo dục toàn diện, dạy học phân

hóa, dạy học 2 buổi/ngày, dạy học song ngữ Anh - Việt ở một số môn học.
1.3. Cơ sở thực tiễn
Trong bối cảnh đất nước đang hội nhập, nhiều cơ hội và thách thức đặt ra
không chỉ cho ngành giáo dục mà cho toàn xã hội. Đội ngũ GV nói chung còn
bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng. Đa số GV mới
chỉ chú trọng đến dạy chữ, chưa chú trọng dạy làm người, dạy học chưa gắn
liền với thực tiễn đời sống, còn chạy theo lý thuyết kinh điển, bám vào tri thức
có sẵn trong sách giáo khoa, ít lắng nghe, luôn đổ lỗi cho HS, cho cha mẹ HS
và nhà trường, đồng nghiệp. Nhiều GV chưa thực hiện đổi mới phương pháp
giảng dạy, phương pháp giáo dục, chưa chú trọng những đợt tập huấn, huấn
luyện nghiệp vụ do trường hoặc Sở giáo dục tổ chức. Một số GV chưa coi
trọng nghề của mình bằng việc không thực hiện được tính chuyên nghiệp của
nghề giáo, dễ tự do tùy tiện, ngẫu hứng, không chịu theo những qui trình chuẩn
mực chặt chẽ. Tất cả những chuẩn mực của một giờ chỉ được GV quan tâm
thực hiện đầy đủ khi thao giảng hoặc có thanh tra, có người dự giờ.
2. Nội dung thực hiện của đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
2.1.1. Bối cảnh trong nước


16

Việt Nam hội nhập một cách sâu và rộng với thế giới trong bối cảnh
nền kinh tế toàn cầu hoá, khoa học, công nghệ có những tiến bộ nhảy vọt, tri
thức nhân loại tăng theo cấp số nhân. Nhiều vấn đề mang tính toàn cầu như
biến đổi khí hậu, bệnh dịch, an ninh lương thực...đòi hỏi sự hợp tác của tất cả
các quốc gia trên thế giới.
Việt Nam là quốc gia đông dân cư, có tỷ lệ dân số vàng (cứ 2 người
trong độ tuổi lao động thì chỉ có 01 người phụ thuộc). Tuy nhiên tỷ lệ sinh
đang giảm, tuổi thọ nâng cao, giai đoạn dân số vàng đang bước vào giai đoạn

già hóa, người đang ở độ tuổi lao động chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ cao (86%
người từ 15 tuổi trở lên chưa qua đào tạo).
Việc Việt Nam gia nhập WTO (trong đó có GATS), APEC, TPP và trở
thành thành viên cộng đồng ASEAN vào năm 2015… đang đặt ra cho giáo
dục những thách thức và cơ hội mới. Giáo dục Việt Nam được tiếp cận với
các nền giáo dục tiên tiến, có cơ hội để học tập và hội nhập bình đẳng. Mặt
khác đây cũng là thách thức không nhỏ, đòi hỏi các nhà quản lí giáo dục nâng
cao sức cạnh tranh với các cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài.
Nền kinh tế thị trường của nước ta đang được hoàn thiện trong tất cả
các lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực được xem là “nhạy cảm” như tài chính, ngân
hàng, viễn thông, GD&ĐT. Các quy luật cơ bản của kinh tế thị trường như giá
trị, cạnh tranh, cung cầu…đang được vận hành dưới sự điều chỉnh của các bộ
luật tương ứng, giúp Việt Nam hoàn thiện nền kinh tế thị trường đầy đủ và
được quốc tế thừa nhận.
Tình hình chính trị trong nước ổn định, các giá trị văn hoá, tinh thần
được gìn giữ và phát huy. Định hướng XHCN cũng dần được khẳng định rõ
nét hơn. Đó là một xã hội trong đó “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn


17

hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển; có
nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước trên thế giới”[11]. Tuy kinh tế tăng trưởng cao những vẫn còn các yếu tố
gây bất ổn như lạm phát, khủng hoảng toàn cầu. Nhu cầu về nguồn nhân lực

được đào tạo ngày càng lớn, nhu cầu học đại học trong thanh niên ngày càng
cao. Giáo dục đại học, chuyên nghiệp, dạy nghề bước đầu được vận hành theo
cơ chế thị trường định hướng XHCN.
Nghị quyết 29 đã bắt đầu phát huy tác dụng và đi vào cuộc sống, Nghị
quyết đã nhấn mạnh vai trò “quốc sách hàng đầu của GD&ĐT”, đồng thời
cũng thừa nhận sự yếu kém của chất lượng giáo dục, nhất là giáo dục đại học
và dạy nghề, sự yếu kém về chất lượng đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục. Nghị
quyết chỉ rõ phương hướng chủ đạo trong “đổi mới căn bản toàn diện giáo
dục Việt Nam” là: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu
quả giáo dục, đào tạo, đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân”; xây dựng nền giáo dục mở, thực
học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lí tốt, có cơ cấu và phương thức giáo
dục hợp lí, gắn với xây dựng, bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng,
chuẩn hoá, hiện đại hoá, dân chủ hoá, xã hội hoá và hội nhập quốc tế hệ thống
giáo dục và đào tạo, giữ vững định hướng XHCN và bản sắc dân tộc.
Bắt đầu hình thành những đặc trưng của một xã hội học tập, nơi con
người được tạo điều kiện học tập suốt đời. Bước chuyển từ kinh tế công
nghiệp sang kinh tế trí thức, cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng của kho
tàng kiến thức nhân loại và những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ đã dẫn tới nhu cầu tất yếu là phải học tập suốt đời, và đương


18

nhiên nền giáo dục truyền thống cũng phải chuyển sang một giai đoạn mới là
giáo dục suốt đời cùng với sự hình thành xã hội học tập.
Khái niệm học tập suốt đời đã được khẳng định trong Nghị quyết Hội
nghị TW 4 (khoá VII): “Thực hiện một nền giáo dục thường xuyên cho mọi
người, xác định học tập suốt đời là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi công
dân”. Quyết định số 112/2005/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 - 2010” đã đưa ra những chỉ
tiêu cụ thể, các nhiệm vụ chủ yếu và các giải pháp xây dựng xã hội học tập ở
Việt Nam.
Những cơ hội có thể là: được tiếp cận với các nền giáo dục tiên tiến, có
khả năng học hỏi, tiếp thu những yếu tố tiên tiến phù hợp với truyền thống
của giáo dục đại học Việt Nam, làm cơ sở cho sự nghiệp đổi mới giáo dục
Việt Nam, hội nhập với giáo dục thế giới trong một không gian giáo dục mở.
Còn những thách thức cũng rất to lớn:
- Cạnh tranh trong lĩnh vực giáo dục nhất là giáo dục đại học sẽ gay gắt
hơn, với nhiều đối thủ hơn, và ngay trên đất Việt Nam.
- Mặc dù chúng ta chủ động đổi mới giáo dục nhưng việc Việt Nam hội
nhập ngày càng sâu rộng, nhất là từ khi gia nhập WTO, tiến trình đổi mới giáo
cần được tiến hành nhanh hơn, đồng bộ hơn và hiệu quả hơn.
- Trong bối cảnh đó, giáo dục Việt Nam vẫn phải gìn giữ bản sắc dân
tộc, định hướng xã hội chủ nghĩa trong đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho
sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước.
2.1.2. Bối cảnh địa phương
* Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Vĩnh Phúc là tỉnh đồng bằng (trong đó có một số địa bàn miền núi), là
một trong cái nôi hình thành nên cộng đồng người Việt (di chỉ Đồng Đậu) với
dân cư tập trung sinh sống lâu đời, kinh tế phát triển nhanh trong hơn một


19

thập kỷ qua, mạng lưới kết cấu hạ tầng khá phát triển và liền kề với Thủ đô
Hà Nội nên có mạng lưới giáo dục, đào tạo tương đối toàn diện và phát triển.
Bằng nhiều nguồn vốn khác nhau (ngân sách nhà nước, chương trình
mục tiêu, huy động từ các thành phần kinh tế, sự đóng góp của người dân…),
mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo các cấp của tỉnh đã và đang phát triển ngày

càng rộng và phân bố trên khắp các xã, đến tận thôn/bản trên địa bàn tất cả
các huyện/thị trong tỉnh với hệ thống cơ sở trường, lớp và cơ sở vật chất - kỹ
thuật từng bước được cải thiện.
Toàn tỉnh có 37 trường trung học phổ thông với 879 lớp, phân bố trên
khắp các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trong số các trường THPT có
02 trường Trung học (cấp 2+3).
Tổng số học sinh PTTH năm 2010 có 37.510 em. Tỷ lệ học sinh tốt
nghịêp THCS được vào học lớp 10 tăng từ 75% năm 2000 lên 91,8% năm
2010 (trong đó vào THPT là 76,8% và bổ túc THPT là 15,0%.
Giáo dục trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh trong những năm qua có
những tiến bộ về kết quả dạy và học. Học sinh các trường THPT của Vĩnh
Phúc có điểm thi trung bình trong thi tuyển vào các trường đại học đứng thứ 5
trên tổng số 63 tỉnh thành của cả nước và 6 trường THPT của tỉnh đứng vào
nhóm 200 trường có chất lượng tuyển sinh cao nhất của cả nước, trong đó có
5 trường thuộc nhóm 100 trường tốt nhất.
Hầu hết các trường trung học phổ thông được xây dựng khang trang. Số
trường THPT đạt chuẩn quốc gia là 11 trường, đạt tỉ lệ 29,7% (tăng 2 trường so
với năm học trước). Hệ thống cơ sở vật chất về trường, lớp và các công trình
phục vụ học tập của cấp trung học phổ thông được xây dựng tương đối đồng bộ
và về cơ bản là tốt. Tính chung trên toàn tỉnh có 99% tổng số phòng học trong
các trường THPT được xây dựng kiên cố, hầu hết thuộc loại nhà cao tầng. Số
phòng bán kiên cố hiện còn 26 phòng. Có 100% trường THPT có 2 -3 phòng


20

máy tính với 30 máy tính/ phòng và được nối mạng Internet, toàn cấp có 3.010
chiếc. Có 47,4% số trường THPTcó phòng học bộ môn được khai thác tốt, hầu
hết các trường đều có thư viện, nhiều trường có thư viện đạt chuẩn.
Số học sinh trung bình/lớp học là 43 học sinh/lớp, nằm trong giới hạn

định mức chuẩn (40 - 45 học sinh/lớp).
Tỷ lệ phòng học/lớp tính chung toàn tỉnh có 0,96 phòng/lớp.
Tổng diện tích đất của các trường THPT hiện có 76 ha, bình quân một
học sinh đạt 20,2 m2/học sinh, so với định mức của HĐND tỉnh là 30 m2/1
học sinh, còn thiếu bình quân 9,8 m2/học sinh.
Tổng số giáo viên trung học phổ thông của toàn tỉnh năm 2010 có
1.897 người. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn trở lên là 100,0%, trong đó tỷ lệ trên
chuẩn là 25,97%.
Số giáo viên bình quân/lớp vào khoảng 2,16 giáo viên/lớp (cao hơn so
với mức chuẩn là 2,25 giáo viên/lớp). Tuy nhiên, về cơ cấu môn học, hiện còn
thiếu khá nghiêm trọng giáo viên tin học. Toàn tỉnh có 34 giáo viên tin học
tính cho 38 trường THPT của tỉnh (mỗi trường không có đủ 1 giáo viên); cả
tỉnh có 210 giáo viên ngoại ngữ (bình quân 5 giáo viên một trường). Như vậy,
còn tình trạng trường THPT không có giáo viên tin học. Giáo viên một số bộ
môn khác như nhạc, mỹ học, thể dục, giáo dục công dân... cũng thiếu.
Việc bồi dưỡng kiến thức và nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng
nghiệp vụ được tổ chức thường xuyên. Hàng năm thường có 100% cán bộ
quản lý và giáo viên THPT được tập huấn về chương trình, sách giáo khoa và
sử dụng thiết bị dạy học lớp 10. Thường xuyên tổ chức cho giáo viên THPT
tập huấn về sử dụng thiết bị dạy học tại trường Đại học sư phạm Hà Nội.
* Bối cảnh nhà trường:
Trường THPT Quang Hà là đơn vị trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo
tỉnh Vĩnh Phúc, nằm tại thị trấn Gia Khánh huyện Bình Xuyên. Năm 1987


21

nhà trường được thành lập với tên gọi trường PTTH Kỹ thuật Quang Hà, đến
năm 1993 đổi tên thành trường PTTH cấp 2 - 3 Quang Hà. Ngày 11/6/1997
UBND tỉnh Vĩnh Phú(cũ) ra Quyết định số 644/QĐ-UB giải thể trường PTTH

cấp 2 - 3 Quang Hà và thành lập trường THPT Quang Hà.
Nhà trường tuyển sinh con em các xã thuộc phía Bắc huyện Bình
Xuyên là: Tam Hợp, Hương Sơn, Trung Mỹ, Bá Hiến, Thiện Kế và thị trấn
Gia Khánh, các xã Minh Quang, Hợp Châu của huyện Tam Đảo. Phần lớn gia
đình học sinh ở vùng nông thôn làm nông nghiệp, nhìn chung kinh tế của
nhiều gia đình còn khó khăn nên sự chăm lo về học tập cho con em còn nhiều
hạn chế. Hằng năm chất lượng tuyển sinh vào lớp 10 của nhà trường thấp nhất
so với các trường THPT trong Tỉnh, điểm chuẩn vào trường là 11.0 điểm
(Trung bình 2,2 điểm/môn). Những yếu tố trên là những nguyên nhân chính
ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục của nhà trường.
Qua quá trình phát triển đến nay cơ sở vật chất nhà trường đã có nhiều
thay đổi, hiện tại nhà trường đã có 30 phòng học kiên cố đầy đủ ánh sáng,
quạt điện và bàn ghế ngồi, 10 phòng chức năng, 01 nhà đa năng, 01 thư viện,
01 phòng truyền thống, 01 phòng y tế với 04 giường và tủ thuốc chăm sóc sức
khoẻ và sơ cấp cứu ban đầu cho học sinh, 01 căng tin, 12 phòng học bộ môn
đầy đủ các TBDH, có nhà để xe cho giáo viên, học sinh. Khu vệ sinh của học
sinh được vệ sinh thường xuyên sạch sẽ, hệ thống lọc nước sạch công suất
300 lít/giờ đủ cung cấp nước uống cho toàn trường.
Bảng 2.1: Qui mô lớp, học sinh
Lớp 10
Năm học

Lớp 11

Lớp 12

Cộng

Số


Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

lớp

HS

lớp

HS

lớp

HS

lớp

HS


2013 -2014

8

358

8

335

9

382

25

1075

2014-2015

8

348

8

334

8


327

24

1009


22

2015-2016

8

302

8

333

8

331

24

966

2.2. Thực trạng vấn đề cần giải quyết trong đề án
2.2.1. Số lượng, cơ cấu và độ tuổi giáo viên
Bảng 2.2 Cơ cấu, độ tuổi giáo viên

Môn

Tổng

Toán

Hóa
Sinh
Văn
Anh
Sử
Địa
GDCD
Tin
TD
KTCN
KTNN
Cộng

số
11
5
4
3
10
6
5
4
2
2

4
1
2
59

Giới tính
Nam
Nữ
2
1
2
2
1
1
1

9
4
2
3
8
5
4
3
2
2

Chia ra theo độ tuổi
≤30
>30;≤40 >40;≤50

1
1
1
1
1
1
1
1

4
1
15

1
1
44

8

10
4
4
2
5
4
3
3
1
1
3

1
2
43

>50

1

4
1
1

1
7

1

Đại đa số GV nhà trường có kinh nghiệm giảng dạy từ 10 năm cho đến
15 năm. Đây là độ tuổi sung sức nhất, đã tích luỹ được khá nhiều kinh nghiệm
về chuyên môn, nghiệp vụ, là lực lượng năng động nhất, tích cực, chủ động,
nhạy bén với cái mới. Có thể nói GV của trường đang có cơ cấu “vàng”. Nếu
có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, khích lệ, động viên tốt thì sẽ tạo ra đội ngũ
GV chuyên nghiệp, tinh nhuệ, có khả năng thực hiện thắng lợi mục tiêu giáo
dục của nhà trường. Ngược lại, nếu không khơi dậy được niềm đam mê nghề


23

nghiệp sẽ hình thành cho họ một sức ì, ngại tiếp cận với cái mới, ngại thay đổi
phương pháp dạy học, dẫn đến hậu quả là ngày càng mai một về ý chí phấn

đấu cũng như trình độ nghiệp vụ.
2.2.2. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
100% GV có trình độ đạt chuẩn; 12 GV có trình độ thạc sĩ(20.3%); 01
GV đang học tiến sĩ.
2.2.4. Trình độ tin học, ngoại ngữ
Về trình độ tin học, 100% GV trong trường sử dụng thành thạo tin học
văn phòng phục vụ cho công tác giảng dạy và quản lý học sinh.
Về trình độ Ngoại ngữ ( tiếng Anh), 100% GV dạy môn tiếng Anh có
trình độ Đại học và đạt trình độ C năng lực. Đối với GV dạy các môn khác,
năng lực giao tiếp thông thường của tất cả GV đều rất hạn chế, gần như không
thể thực hiện. Nhiều GV lâu năm không còn khả năng nghe, đọc tiếng Anh.
Đây là một rào cản rất lớn đối với đội ngũ GV khi hoạt động hay trao đổi về
chuyên môn trong giai đoạn hiện nay.
2.2.5. Phẩm chất đạo đức, tinh thần tự học, sự tận tâm với nghề
Đa số GV tích cực học tập nâng cao trình độ, kiến thức, có lối sống
lành mạnh, trung thực, biết đặt lợi ích của nhà trường lên trên hết; luôn tôn
trọng đồng nghiệp, yêu quý HS, tâm huyết với nghề. Tuy nhiên, vẫn còn một
số ít GV ít quan tâm đến các hoạt động nhà trường, thiếu sự say mê trong các
hoạt động giáo dục.
2.2.6. Nhận định chung về đội ngũ GV
Bằng thực tế quản lý, xét theo năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, có thể
phân loại đội ngũ nhà giáo đang giảng dạy thành 4 loại như sau:
Loại 1: Những nhà giáo giỏi chuyên môn có năng lực sư phạm luôn chủ
động sáng tạo, say mê yêu nghề, trong điều kiện nào họ đều là người đi đầu
kiên trì đổi mới nội dung phương pháp giảng dạy luôn lôi cuốn khích lệ HS.


24

Họ luôn là những nhà giáo mẫu mực, thực hiện lời dạy Chủ tịch Hồ Chí Minh

“Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt, học tốt”.
Loại 2: Những nhà giáo có năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm
nhưng không nhiệt tình, không tự giác, không say mê với nghề như loại 1. Họ
có thể làm tốt tùy hoàn cảnh nhưng không thường xuyên.
Loại 3: Những nhà giáo năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm còn
có nhiều hạn chế nhưng về mặt ý thức họ là người nghiêm túc cố gắng làm
hết sức mình nhưng kết quả giảng dạy, giáo dục đều không đạt đến điều mong
muốn, không thể đáp ứng nổi yêu cầu “đổi mới căn bản giáo dục” hiện nay.
Loại 4: Những nhà giáo hạn chế cả về năng lực lẫn phẩm chất đạo đức
hoặc có năng lực nhưng phẩm chất kém, tạo ra những tiêu cực cho ngành
nhiều hơn là đóng góp tích cực. Dựa vào đặc điểm đội ngũ và phân loại GV
theo 4 loại, cơ cấu đội ngũ GV của nhà trường như sau:
Loại 1: 25 GV
Loại 2: 20 GV
Loại 3: 04 GV
Loại 4: 0 GV
Với 3 loại nhà giáo trong nhà trường như trên, nhà trường phải sớm có
cơ chế chính sách khích lệ, quản lý để GV loại 2 nhanh chóng trở thành loại 1
và phải tổ chức đào tạo lại, trang bị lại kiến thức, phương pháp cho số đông
nhà giáo ở loại 3 thì nhà trường mới có thể thực hiện yêu cầu “đổi mới căn
bản, toàn diện”. Có biện pháp quản lý để không hình thành GV loại 4.
2.2.7. Nguyên nhân của thực trạng
* Nguyên nhân của các thành tựu:
Có sự quan tâm, chỉ đạo cụ thể của UBND tỉnh, của Sở GD&ĐT, sự
quan tâm ủng hộ của các tổ chức chính trị, đoàn thể trong tỉnh, của Ban đại
diện cha mẹ HS nhà trường.


25


Đội ngũ GV đoàn kết, có tinh thần trách nhiệm, yêu nghề, có ý thức tự
vươn lên. Đội ngũ quản lý tâm huyết; người đứng đầu có phương pháp làm
việc khoa học, quy tụ sự đồng thuận của toàn thể cán bộ, GV, nhân viên, tạo
ra môi trường pháp lý, quản lý toàn diện nhà trường, đẩy mạnh các hoạt động
giáo dục, trong đó đặc biệc coi trọng hoạt động dạy – học; luôn quan tâm xây
dựng đội ngũ GV, đội ngũ CBQL về phẩm chất, năng lực chuyên môn nghiệp
vụ, năng lực quản lý; tạo điều kiện để GV cải thiện đời sống và tự giác học
tập để nâng cao về mọi mặt.
*Nguyên nhân của những hạn chế:
Đội ngũ GV tuy đã đủ về số lượng, đảm bảo chuẩn đào tạo nhưng chưa
đồng đều về chất lượng. Một số GV không thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng
để cập nhật kiến thức mới, chưa tích cực đổi mới phương pháp dạy học để
phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của HS. Nhiều GV mới ra trường có
kiến thức phong phú nhưng kinh nghiệm giảng dạy còn hạn chế.
2.3. Nội dung cụ thể đề án cần thực hiện
2.3.1. Bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống cho đội ngũ GV
Bồi dưỡng về chính trị tư tưởng, giúp cho đội ngũ GV nắm vững đường
lối, chủ trương và chính sách về GD&ĐT, về tình hình kinh tế - xã hội trong
nước và quốc tế, về xu thế phát triển của xã hội và giáo dục là một công việc
cần thiết, có tác động lớn đến nhận thức và tư tưởng của đội ngũ GV trong
giai đoạn mới.
Công tác bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức lối sống cần tập trung vào việc
nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ GV đối với sự
nghiệp GD&ĐT. GV phải có nhận thức đúng đắn về trách nhiệm của một
công dân, một nhà giáo với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, sẵn sàng
tham gia các hoạt động xã hội, xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước, góp
phần phát triển đời sống văn hóa cộng đồng; yêu nghề, tận tụy với nghề; sẵn



×