Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

Giải pháp phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam Chi nhánh Thanh Xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.45 KB, 71 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

----------

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Giải pháp phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam - Chi nhánh Thanh Xuân

Họ và tên sinh viên

: Phan Thanh Hương

Lớp

: K14 TTQTC

Khóa

: 14

Khoa

: Ngân hang

Hà Nội, tháng 05 năm 2015



MỤC LỤC


3
DANH MỤC CÁC TỪ VIÊT TẮT

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

NHCT

Ngân hàng Công thương

TCTD

Tổ chức tín dụng

TMCP

Thương mại cổ phần

NHTMCP

Ngân hàng thương mại cổ phần


VietinBank

Ngân hàng Công thương Việt Nam

CN

Chi nhánh

DNVVN

Doanh nghiệp vừa và nhỏ

L/C

Letter of Credit – Thư tín dụng

TTTM

Tài trợ thương mại


4

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ
1. CÁC SƠ ĐỒ
SƠ ĐỒ 1.1: BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
SƠ ĐỒ 1.2: SƠ ĐỒ BẢO LÃNH TRỰC TIẾP
SƠ ĐỒ 1.3: SƠ ĐỒ BẢO LÃNH GIÁN TIẾP
SƠ ĐỒ 1.4: SƠ ĐỒ BẢO LÃNH ĐƯỢC XÁC NHẬN
2. CÁC BẢNG BIỂU



5

3. LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài:
Trong nền kinh tế thị trường, các giao dịch kinh tế ngày càng đa dạng và phát triển

không ngừng, vượt qua khỏi lãnh thổ quốc gia, khu vực. Cùng với xu hướng quốc tế hóa
và toàn cầu hóa thì thương mại quốc tế ngày càng được biết đến nhiều hơn. Người mua và
bán ở các nước khác nhau đã dẫn đến sự khác biệt về không gian, thời gian, thể chế chính
trị, kinh tế, xã hội. Do các thương vụ mua bán ngày càng gặp nhiều rủi ro hơn như các rủi
ro phát sinh một cách chủ quan như người bán giao hàng không đúng trong hợp đồng khi
người mua đã thanh toán, hoặc người mua không thanh toán khi người bán đã giao hàng
hay khi người mua bị mất khả năng thanh toán… và những rủi ro phát sinh một cách
khách quan như sự biến động về kinh tế, chính trị, xã hội, thiên tai, hay những rủi ro khác
không lường được khiến cho một bên không thể thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Sự
mất cân đối về thông tin khiến các bên tham gia giao dịch không thể tin tưởng vào bạn
hàng được. Để đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia thương mại quốc tế, hạn chế được
những rủi ro nêu trên, đòi hỏi phải có những biện pháp nhằm tránh và hạn chế những rủi
ro như cầm cố, thế chấp tài sản, quy định điều khoản hợp lí giải quyết khi có tranh chấp
xảy ra, bảo hiểm hay là nhờ bên thứ bat ham gia bảo lãnh. Hình thức bảo lãnh là hình thức
đơn giản nhất và được áp dụng phổ biến nhất.
Trong thực tế, những mầm mống bảo lãnh ra đời rất sớm nhưng bảo lãnh ngân hàng
chỉ thực sự xuất hiện vào những năm 60 của thế kỉ XX, tại thị trường nội địa Mĩ. Đến
những năm 70, bảo lãnh ngân hàng bắt đầu được sử dụng trong thương mại quốc tế. Thời
gian này, các nước Trung Đông mau chóng thinh vượng vì việc sản xuất và xuất khẩu dầu
mỏ, họ đã liên tục kí kết các hợp đồng có giá trị lớn với các nước phương Tây để cải tạo

cơ sở vật chất, cải cách công, nông nghiệp, quốc phòng… Giá trị rất lớn của hợp đồng và
thế mạnh tài chính của cac nước Trung Đông đòi hỏi phải có sự đảm bỏa chắc chắn về
phía đối tác tham gia. Những đảm bảo độc lập do các ngân hàng phương Tây lập đã đáp
ứng được các yêu cầu về sự an toàn và thuận tiện cho các nước nhập khẩu. Từ đó đến nay,


6
bảo lãnh được sử dụng rộng rãi và ngày càng phát triển trở thành nghiệp vụ thông dụng
trong dịch vụ tài trợ thương mại quốc tế.
Nghiệp vụ bảo lãnh được xuất hiện lần đầu tiên tại Việt Nam vào năm 1994 cùng
với sự vận hành nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường đầu những năm 90 của thế
kỉ XX. Mặc dù sau gần 20 năm áp dụng, nghiệp vụ bảo lãnh cũng đã có những bước phát
triển song đây vẫn còn là một nghiệp vụ còn khá truyền thống và đơn điệu. Vì vậy, em xin
lựa chọn đề tài: “Giải pháp phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Thương mại
Cổ phần Công Thương Việt Nam - Chi nhánh Thanh Xuân” làm đề tài cho bài chuyên
đề tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Thứ nhất, hệ thống hóa các vấn đề về phát triển nghiệp vụ bảo lãnh.
Thứ hai, phân tích thực trạng nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Công Thương Việt Nam- Chi nhánh Thanh Xuân.
Thứ ba, đề xuất hệ thống giải pháp, kiến nghị đồng bộ nhằm phát triển nghiệp vụ tại
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam- Chi nhánh Thanh Xuân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu về nghiệp vụ bảo lãnh.
Phạm vi nghiên cứu: tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công ThươngViệt NamChi nhánh Thanh Xuân trong giai đoạn từ năm 2012 - 2014.
4. Các phương pháp nghiên cứu đề tài
Chuyên đề sử dụng đồng thời và có sự kết hợp giữaphương pháp phân tích kinh tế,
phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê kinh tế… để hoàn
thành việc nghiên cứu đề tài.



7

5. Bố cục vấn đề nghiên cứu đề tài
Bài chuyên đề ngoài phần lời mở đầu, phần kết luận chia làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan lí thuyết về phát triển nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Công Thương Việt Nam- Chi nhánh Thanh Xuân
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị về phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam- Chi nhánh Thanh Xuân.


8

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LÍ THUYẾT VỀ PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO
LÃNH NGÂN HÀNG.
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG.
Khi nền kinh tế thị trường phát triển, sự giao lưu buôn bán trong một quốc gia và
giữa các quốc gia trở nên phổ biến. Mặc dù thông tin kinh tế rất đa dạng nhưng không
phải lúc nào các doanh nhân cũng có đầy đủ thông tin về đối tác kinh doanh. Sự cần thiết
của chữ tín trong quan hệ kinh tế là rất quan trọng nhưng không thể được xác lập ngay lần
đầu. Trong khi đó, ngân hàng với vị trí là một tổ chức tài chính trung gian lại có đầy đủ uy
tín và thông tin về khách hàng. Xuất phát từ nhu cầu bảo đảm uy tín cho khách hàng và
khả năng đáp ứng của ngân hàng, nghiệp vụ bảo lãnh ra đời đã giải quyết nhu cầu cấp
bách trong nền kinh tế.
1.1.1. Khái niệm về bảo lãnh ngân hàng
Ở mỗi quốc gia lại có một khái niệm bảo lãnh khác nhau song bản chất của bảo lãnh
thì không thay đổi.
Theo điều 361 Luật Dân sự Việt Nam: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi
là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực



9
hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến
thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên
được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.”
Theo Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam quy định: “Bảo lãnh ngân hàng là một
trong những hình thức cấp tín dụng, được thực hiện thông qua sự cam kết bằng văn bản
của tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã
cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng số
tiền đã trả thay.”
Còn trong điều 2, theo quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo quyết định số
26/2006/QĐ- NHNN ngày 26/06/2006 của Thống đốc NHNN Việt Nam thì: “Bảo lãnh
ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh)với bên có quyền
(bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được
bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam
kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số
tiền đã được hoàn trả.”
Dù được hiểu theo định nghĩa nào thì bản chất của bảo lãnh vẫn bao gồm mối quan
hệ của ba chủ thể tham gia: người bảo lãnh, người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo
lãnh.
Sơ đồ 1.1: Bảo lãnh ngân hàng

Ngân hàng
(Bên bảo lãnh)
Hợp đồng bảo lãnh

Cam kết bảo lãnh


Bên được bảo lãnh
Bên vụ
thụ hưởng bảo lãnh
Hợp đồng cung cấp hàng hoá - dịch


10
1.1.2. Đặc điểm và vai trò của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng.
1.1.2.1. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng
Thứ nhất,trong một nghiệp vụ bảo lãnh,tồn tại mối quan hệ đa phương.
Trong một nghiệp vụ bảo lãnh, tồn tại mối quan hệ giữa ba bên ngân hàng- bên bảo
lãnh, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Quan hệ giữa bên được bảo lãnh và bên
thụ hưởng bảo lãnh là mối quan thương mại – mối quan hệ gốc – cơ sở phát sinh yêu cầu
bảo lãnh. Do đó, hợp đồng bảo lãnh và cam kết bảo lãnh phải được lập trên cơ sở các điều
khoản của hợp đồng thương mại. Nghĩa vụ tài chính của ngân hàng đối với bên nhận bảo
lãnh chỉ phát sinh khi có sự vi phạm hợp đồng thương mại của bên được bảo lãnh. Trong
một số trường hợp, hoạt động bảo lãnh ngân hàng còn phức tạp hơn với sự tham gia của
một số bên trung gian như ngân hàng thông báo, ngân hàng xác nhận bảo lãnh…
Thứ hai, bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập.
Một đặc tính hết sức quan trọng của nghiệp vụ bảo lãnh là tính độc lập tương đối với
hợp đồng chính. Mặc dù có quan hệ chặt chẽ với hợp đồng thương mại ký kết giữa bên
thụ hưởng và bên được bảo lãnh, cam kết bảo lãnh có hiệu lực độc lập với các văn bản
khác. Điều đó có nghĩa là, nghĩa vụ tài chính của ngân hàng đối với bên thụ hưởng chỉ
phát sinh khi hành động vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh là một trong các điều
khoản của cam kết bảo lãnh. Tính độc lập của bảo lãnh phụ thuộc vào chính các điều kiện
của bảo lãnh.
Thứ ba, bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng nhưng lại được quản lý
như một nghiệp vụ tín dụng.
Bản chất của bảo lãnh là một hình thức tài trợ thông qua uy tín. Khi phát hành một

cam kết bảo lãnh, bảng cân đối tài sản của ngân hàng không hề bị thay đổi. Do vậy,
nghiệp vụ bảo lãnh được coi là một hoạt động ngoại bảng. Tuy nhiên, trong trường hợp


11
bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng theo các điều khoản được nghi trong cam kết bảo
lãnh, ngân hàng buộc phải sử dụng nguồn vốn của mình để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
đối với bên nhận bảo lãnh. Nếu bên được bảo lãnh chưa hoàn trả ngay cho ngân hàng,
ngân hàng sẽ cấp một khoản tín dụng bắt buộc cho bên được bảo lãnh. Khi đó, nghiệp vụ
bảo lãnh sẽ tác động đến bảng cân đối tài sản của ngân hàng, ảnh hưởng đến khả năng
thanh khoản và các chỉ tiêu tài chính của ngân hàng. Bởi vậy, tuy là một hoạt động ngoại
bảng, bảo lãnh vẫn phải được giám sát và quản lý một cách chặt chẽ như các hình thức
cấp tín dụng khác.
1.1.2.2. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng.
Ngiệp vụ bảo lãnh ngân hàng đang dần thể hiện được tầm quan trọng của minh
không chỉ đối với ngân hàng thương mại- bên bảo lãnh, với các doanh nghiệp mà còn
đóng một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Vai trò đó được thể hiện:
a.

Đối với ngân hàng bảo lãnh
Thứ nhất, nghiệp vụ bảo lãnh là một nghiệp vụ làm tăng doanh thu cho các ngân

hàng thông qua phí bảo lãnh. Phí bảo hành là hoa hồng phần trăm tính trên doanh số bảo
lãnh. Bên cạnh đó, ngân hàng còn sử dụng khoản tiền ký quỹ bảo lãnh để cho vay thu lãi
coi như một nguồn vốn khá ổn định của ngân hàng.
Thứhai, bảo lãnh giúpđa dạng hoá dịch vụ.Nghiệp vụ bảo lãnh với nhiều phương
thức phát hành và mục đích tài trợ khác nhau đã góp phần vào việc thực hiện chiến lược
đa dạng hoá nhằm giảm thiểu rủi ro của ngân hàng. Ngày nay xu hướng của các NHTM
hiện đại là tăng tỷ trọng thu nhập từ các hoạt động dịch vụ trong tổng thu nhập của ngân
hàng.

Thứ ba, nhờ có hoạt động bảo lãnh mà ngân hàng tăng cường vị thế và uy tín, mở
rộng quan hệ đại lý. Việccung cấp những dịch vụ bảo lãnh đa dạng và chất lượng sẽ giúp
các NHTM tăng cường uy tín của mình trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế,


12
tạo điều kiện mở rộng mối quan hệ với các ngân hàng đại lý. Bên cạnh đó, phát triển hoạt
động bảo lãnh giúp NHTM mở rộng đối tượng khách hàng, không ngừng củng cố và xây
dựng mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng.
b.

Đối với khách hàng
-

Với bên được bảo lãnh:
Nhờ có hoạt động bảo lãnh mà bên được bảo lãnh có thể thực hiện được thương vụ

của mình một cách dễ dàng, từ đó góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp,
tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất mở rộng. Đồng thời, thông qua
nghiệp vụ này mà bên được bảo lãnh có thể quảng bá hữu hiệu trong việc tìm kiếm đối tác
và tạo dựng uy tín trên thị trường.
-

Với bên nhận bảo lãnh:
Bảo lãnh ngân hàng có vai trò như một thước đo uy tín, từ đó giúp doanh nghiệp tiết

kiệm thời gian và chi phí trong việc lựa chọn đối tác. Đồng thời, đây cũng là cách bù đắp
thiệt hại nhanh nhất khi có rủi ro xảy ra.
c.


Đối với nền kinh tế
Thứ nhất, nghiệp vụ bảo lãnh giúpđáp ứng nhu cầu vay vốn trong nền kinh tế. Với

chức năng tài trợ, bảo lãnh ngân hàng đóng vai trò như một tài sản đảm bảo hiệu quả và
kinh tế hơn so với cầm cố - thế chấp. Nó đặc biệt có ý nghĩa đối với những dự án cần thu
hút vốn từ các TCTD ở nước ngoài. Bên cạnh đó, bảo lãnh ngân hàng còn giúp doanh
nghiệp có được những khoản tín dụng thương mại quan trong phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh như các khoản tiền ứng trước…
Tứ hai, bảo lãnh giúp thúc đẩy việc ký kết các hợp đồng kinh tế. Với chức năng hạn
chế thông tin không cân xứng, đôn đốc thực hiện hợp đồng và hạn chế tổn thất phát sinh


13
do vi phạm hợp đồng, bảo lãnh góp phần thúc đẩy việc ký kết các hợp đồng kinh tế, đặc
biệt là những giao dịch thương mại quốc tế.
Thứ ba, hoạt động này góp phần định hướng phát triển kinh tế. Giống với các hình
thức cấp tín dụng khác, chính sách phí bảo lãnh và điều kiện bảo lãnh sẽ có tác dụng định
hướng phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn hay làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
chiến lược phát triển của quốc gia.
1.1.3.

Các hình thức bảo lãnh trong NHTM

1.1.3.1. Căn cứ theo phương thức phát hành

a. Bảo lãnh trực tiếp
Bảo lãnh trực tiếp là bảo lãnh mà trong đó ngân hàng phát hành bảo lãnh chịu trách
nhiệm trực tiếp cho bên được bảo lãnh. Người được bảo lãnh sẽ chịu trách nhiệm bồi
hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh.
Bảo lãnh trực tiếp thông thường có ba bên tham gia: ngân hàng phát hành bảo lãnh,

người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh. Trường hợp người thụ hưởng là người
nước ngoài có thể có thêm ngân hàng ở cùng quốc gia với người thụ hưởng bảo lãnh trong
vai trò ngân hàng thông báo.


14
Sơ đồ 1.2:Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp
Ngân hàng phát hành

Ngân hàng thông báo

(3)
(5)

(4)

(2)
Ngườiđược bảo lãnh

(1)

Người thụ hưởng

Diễn giải sơ đồ:
(1)

Người được bảo lãnh và người thụ hưởng thoả thuận hợp đồng chính (hợp đồng
thương mại).

(2)


Người được bảo lãnh đề nghị ngân hàng mình phát hành bảo lãnh cho người
thụ hưởng.

(3)

Ngân hàng bảo lãnh phát hành bảo lãnh cho ngân hàng thông báo.

(4)

Ngân hàng thông báo thông báo cho người thụ hưởng về bảo lãnh của ngân
hàng phục vụ người mua.

(5)

Trường hợp ngân hàng bảo lãnh phát hành bảo lãnh trực tiếp đến người thụ
hưởng không thông qua ngân hàng thông báo.

b. Bảo lãnh gián tiếp
Bảo lãnh gián tiếp hay còn gọi là bảo lãnh đối ứng là loại bảo lãnhtrong đó ngân
hàng bảo lãnh đã phát hành bảo lãnh theo chỉ thị của một ngân hàng trung gian phục vụ
cho người được bảo lãnh dựa trên một bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng. Người được
bảo lãnh không chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành mà chính


15
ngân hàng trung gian chịu trách nhiệm bồi hoàn.Bảo lãnh gián tiếp thường được dùng
trong trường hợp người thụ hưởng yêu cầu ngân hàng phát hành bảo lãnh là ngân hàng mà
người được bảo lãnh không có quan hệ với ngân hàng của người thụ hưởng.
Sơ đồ 1.3: Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp

Ngân hàng phát hành

Ngân hàng thông báo

(4)

(3)
(6)

Ngân hàng thứ nhất

(5)

(2)
Ngân hàng yêu cầu bảo lãnh

(1)

Ngân hàng thụ hưởng

Trong đó:
(1) Người được bảo lãnh và người thụ hưởng thoả thuận hợp đồng chính.
(2) Người được bảo lãnh đề nghị ngân hàng phục vụ mình (ngân hàng thứ nhất)
phát hành bảo lãnh đối ứng cho ngân hàng phát hành (ngân hàng thứ hai).
(3) Ngân hàng thứ nhất phát hành bảo lãnh đối ứng cho ngân hàng thứ hai.
(4) Ngân hàng thứ hai phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng thông qua ngân
hàng thông báo.
(5) Ngân hàng thông báo thông báo cho người thụ hưởng về bảo lãnh của ngân
hàng thứ hai.



16
(6) Ngân hàng thứ hai có thể phát hành bảo lãnh trực tiếp đến người thụ hưởng,
không thông qua ngân hàng thông báo.
Như vậy trong bảo lãnh gián tiếp có ít nhất bốn bên tham gia: Ngân hàng phát hành
bảo lãnh, ngân hàng chỉ thị, người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh. Một số
trường hợp có thể có một ngân hàng giữ vai trò thông báo như trong bảo lãnh trực tiếp.
Bảo lãnh gián tiếp xảy ra khi ngân hàng phục vụ người mua không có quan hệ đại lý
với ngân hàng phục vụ người bán. Vì vậy, ngân hàng phục vụ người bán không chấp nhận
bảo lãnh của ngân hàng phục vụ người mua. Vì vậy, trên cơ sở đề nghị của người được
bảo lãnh, ngân hàng phục vụ người mua phải đề nghị một ngân hàng khác (ngân hàng thứ
hai) thay mặt mình phát hành bảo lãnh theo mẫu hoặc những điều khoản nhất định. Ngân
hàng thứ nhất xem xét phát hành bảo lãnh đối ứng cho ngân hàng thứ hai cũng tương tự
như xem xét phát hành bảo lãnh trực tiếp. Những cam kết thoả thuận của người được bảo
lãnh đối với ngân hàng thứ nhất cũng tương tự như trường hợp ngân hàng thứ nhất phát
hành bảo lãnh trực tiếp (ngân hàng thứ nhất và ngân hàng thứ hai phải có quan hệ đại lý
với nhau).
c. Xác nhận bảo lãnh
Bảo lãnh được xác nhận là việc xác nhận của một ngân hàng đối với một bảo lãnh
do một ngân hàng khác phát hành để xác nhận lại tính bảo đảm của bảo lãnh. Bảo lãnh
được xác nhận thường phát sinh trong trường hợp người thụ hưởng muốn một ngân hàng
khác trong nước xácnhận bảo lãnh do một ngân hàng nước ngoài phát hành.
Như vậy, người thụ hưởng có thể xuất trình những chứng từ theo yêu cầu của bảo
lãnh đến ngân hàng xác nhận và nhận thanh toán nếu người được bảo lãnh không thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình.
Trong bảo lãnh này ngoài ngân hàng phát hành, người thụ hưởng, người được bảo
lãnh còn có thêm ngân hàng xác nhận bảo lãnh, được người thụ hưởng bảo lãnh do không


17

tin tưởng vào khả năng tài chính của ngân hàng phát hành đã chỉ định xác nhận bảo lãnh.
Trách nhiệm thanh toán trực tiếp cho người thụ hưởng sẽ thuộc về ngân hàng xác nhận.
Nhưng hình thức này không phổ biến vì nếu không tin tưởng ngân hàng phát hành, người
thụ hưởng thường yêu cầu thực hiện nghiệp vụ tái bảo lãnh.

Ngân hàng phát hành

Bảo lãnh

Yêu cầu bào lãnh

Ngườiđược bảo lãnh

Ngân hàng xác nhận

Xác nhận bảo lãnh

Người thụ hưởng
Hợp đồng (điều khoản bảo lãnh)
Sơ đồ 1.4: Sơ đồ bảolãnh được xác nhận

d. Đồng bảo lãnh
Đồng bảo lãnh thường được áp dụng trong trường hợp có thương vụ lớn, khả năng
rủi ro cao, một ngân hàng không thể thực hiện được vì các quy định về pháp lý của chính
phủ. Do vậy, để phân tán rủi ro ngân hàng đó sẽ thực hiện một nghiệp vụ đồng bảo lãnh.
Khi một nghiệp vụ đồng bảo lãnh phát sinh, sẽ có một ngân hàng đứng ra bảo lãnh chính
trong số các thành viên tham gia đồng bảo lãnh. Trách nhiệm của ngân hàng này là phát
hành thư bảo lãnh cho toàn bộ số tiền bảo lãnh, giữ các chứng từ thế chấp cầm cố, thu phí
bảo lãnh từ người được bảo lãnh và chia lại cho các ngân hàng thành viên theo tỷ lệ.
Trách nhiệm thanh toán bảo lãnh của ngân hàng chính với người thụ hưởng là trách nhiệm

trực tiếp. Sau khi đã thực hiện thanh toán, ngân hàng chính sẽ đòi từ các ngân hàng thành
viên số tiền đã chia theo tỷ lệ.


18
Sơ đồ 1.5: đồng bảo lãnh
NH1

NH2

(3)

Ngân hàng phát hành

(4b)

Ngân hàng thông báo

NH3
(4b)

(4a)
(2)
Ngườiđựoc bảo lãnh

(1)

Người thụ hưởng bảo lãnh

Trong đó:

(1) Hợp đồng gốc
(2) Người được bảo lãnh yêu cầu phát hành bảo lãnh
(3) Ngân hàng chính dàn xếp bảo lãnh cùng với các ngân hàng đồng minh
(4a), (4b) Ngân hàng chính phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng, chuyển trực
tiếp hoặc qua ngân hàng thông báo.
Ngoài những loại bảo lãnh trên đây dựa theo phương thức phát hành còn có một số
loại bảo lãnh khác như: Bảo lãnh giáp lưng, bảo lãnh xác nhận, bảo lãnh phụ… được sử
dụng chủ yếu trong các quan hệ quốc tế.
1.1.3.2. Căn cứ theo mục đích


19
a. Bảo lãnh vay vốn
Bảo lãnh vay vốn là hình thức thức bảo lãnh thông dụng hiện nay.Bảo lãnh vay vốn
là cam kết của ngân hàng thực hiện trách nhiệm tài chính thay cho khách hàng nếu khách
hàng vi phạm hợp đồng, không thanh toán khoản vay mà ngân hàng đã đứng ra bảo lãnh.
Bảo lãnh vay vốn là một dạng nhỏ của bảo lãnh thanh toán. Thời hạn bảo lãnh bắt đầu có
hiệu lực kể từ khi người được bảo lãnh nhận được vốn vay và kết thúc khi thanh toán hết
khoản vay. mức phí thường tính theo tỷ lệ phần trăm theo khoản vay. Các ngân hàng sẽ
tuỳ theo mức độ rủi ro cũng như mối quan hệ của khách hàng với ngân hàng mà quy định
mức phí cụ thể. Thường không vượt quá 2% giá trị của khoản vay.
b. Bảo lãnh dự thầu
Bảo lãnh dự thầu là cam kết của ngân hàng phát hành với chủ đầu tư (hay chủ thầu)
về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các quy định trong hợp
đồng dự thầu. Mục đích của bảo lãnh dự thầu là bảo đảm cho việc người dự thầu không
rút lui, không kí hợp đồng hay thay đổi ý định khi đã được trúng thầu gây ra thiệt hại cho
người thụ hưởng. Do vậy, khi tổ chức đấu thầu, người chủ đầu tư sẽ yêu cầu những người
đăng kí tham gia đấu thầu phải cung cấp một bảo lãnh ngân hàng gọi là bảo lãnh dự thầu,
thông thường có giá trị từ một đến năm phần trăm trị giá hợp đồng đấu thầu. Bảo lãnh này
sẽ tự động hết hiệu lực nếu những người dự thầu không trúng được thầu.

Bảo lãnh dự thầu thực chất là phương tiện thay thế cho việc ký quỹ của người tham
gia dự thầu, nên giá trị của bảo lãnh này được quy định theo mức ký quỹ chuẩn do người
tổ chức đấu thầu đưa ra. Thông thườnggiá trị bảo lãnh dự thầu là từ 1% đến 5% giá trị của
hợp đồng thầu.
c. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là cam kết của ngân hàng phát hành về việc chi trả tổn
thất thay cho khách hàng nếu khách không thực hiện đầy đủ hợp đồng như đã cam kết,


20
gây tổn thất cho bên thứ ba. Loại bảo lãnh này rất thường được sử dụng để cung cấp cho
người thụ hưởng một bảo đảm về việc thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh. Bảo
lãnh này thông thường được sử dụng kèm với phương thức thanh toán khác, giá trị hợp
đồng bảo lãnh này tuỳ theo giá trị hợp đồng và tuỳ tính chất của mỗi thương vụ. Tuy
nhiên, giá trị bảo lãnh thường từ khoảng 5% đến 10% giá trị hợp đồng.
d. Bảo lãnh thanh toán
Bảo lãnh thanh toán là cam kết của ngân hàng phát hành về việc thanh toán tiền
đúng hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không
thanh toán đủ. Bảo lãnh thanh toán hoàn toàn có thể được sử dụng như một phương tiện
bảo đảm trong hợp đồng mua bán, hợp đồng thuế mua tài chính, hợp đồng đại lý, hợp
đồng xây dựng...Đối với loại bảo lãnh này, về mục đích giống như tín dụng thư thương
mại thông thường là bảo đảm cho nghĩa vụ thanh toán. Tuy nhiên, nó hoàn toàn khác về
bản chất và phương thức truy đòi tiền, trong bảo lãnh thanh toán, trách nhiệm thanh toán
của ngân hàng phát hành là trách nhiệm thứ yếu, nghĩa là, ngân hàng chỉ chịu thanh toán
khi người được bảo lãnh không thanh toán và vi phạm hợp đồng. Còn thư tín dụng thương
mại, trách nhiệm thanh toán của ngân hàng là đầu tiên, đại diện cho người mua thanh toán
tiền cho người bán khi người bán đã thực hiện đúng hợp đồng thương mại, mọi phát sinh
từ hợp đồng thương mại đều ảnh hưởng tới quyết định thanh toán của ngân hàng.
1.2. PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1.2.1. Khái niệm phát triển nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng

Trong bối cảnh cạnh tranh hội nhập, bất cứ một doanh nghiệp nào cũng muốn đứng
vững và phát triển buộc các doanh nghiệp đó phải không ngừng mở rộng và cải thiện chất
lượng các sản phẩm dịch vụ của mình nhằm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu đặt ra của nền
kinh tế. Đối với ngân hàng cũng vậy, muốn tồn tịa và phát triển trên thị trường buộc phải
nâng cao sức cạnh tranh qua việc mở rộng và phát triển các dịch vụ của mình trong đó có
phát triển nghiệp vụ bảo lãnh.


21
Phát triển tức là tăng về quy mô và chất lượng tức là nói đến sự tăng trưởng cả về
chiều rộng và chiều sau. Vì vậy, phát triển nghiệp vụ bảo lãnh là sự đáp ứng các yêu cầu
ngày càng tăng của khách hàng về quy mô bảo lãnh, biểu diễn dưới hình thức gia tăng dư
nợ bảo lãnh, gia tăng thị phần, sự hoàn thiện hơn về quy trình nghiệp vụ… và hơn nữa là
sự nâng cao chất lượng của nghiệp vụ bảo lãnh, biểu hiện hoạt động bảo lãnh có chất
lượng khi hoạt động này đmả bảo tính an toàn và đem lại uy tín cũng như lợi nhuận cho
ngân hàng, đem lại cơ hội kinh doanh, thu lợi và đảm bảo tính an toàn về tài chính cho
khách hàng, từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.2.

Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng.

1.2.2.1. Các chỉ tiêu định tính
Các chỉ tiêu định tính đóng một vai trò quan trọng để ngân hàng có thể đánh giá
được sự phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh, đó chính alf sự phản hồi của khchs hàng và
nền kinh tế.
Sự phản hồi của khách hàng là một yếu tố quan trọng đánh giá chất lượng hoạt động
bảo lãnh. Khách hàng tìm đến những dịch vụ ngân hàng bởi sự thuận tiện trong sử dụng
giúp khách hàng nắm bắt được cơ hộikinh doanh. Khách hàng không chỉ yêu cầu sự đảm
bảo của ngân hàng mà còn yêu cầu sự nhanh chóng về thời gian xem xét, sự đơn giản về
thủ tục tiến hành, sự thuận lợi trong các điều khoản mà ngân hàng cung cấp. Mức ký quỹ

thấp cùng một mức phí phù hợp trong hoàn cảnh cạnh tranh khắc nghiệt giữa các ngân
hàng sẽ càng hấp dẫn khách hàng. Chất lượng dịch vụ sẽ được phản ánh đầy đủ khi khách
hàng sử dụng dịch vụ và phản hồi kết quả điều tra từ phía khách hàng.
Bên cạnh đó, xét trên góc độ tổng thể của nền kinh tế, hoạt động bảo lãnh sẽ đáp
ứng được nhu cầu phát triển kinh tế nếu chiến lược phát triển hoạt động bảo lãnh của
ngân hàng phù hợp với chiến lược phát triển chung của toàn xã hội. Chỉ tiêu mức độ đáp
ứng nhu cầu của nền kinh tế được phân tích dựa trên cơ cấu của hoạt động bảo lãnh so với
cơ cấu của nền kinh tế. Nếu những hoạt động bảo lãnh của ngân hàng phục vụ những


22
ngành nghề, những hoạt động kinh doanh được ưu tiên phát triển thì chắc chắn hoạt động
bảo lãnh góp không nhỏ cho nền kinh tế.
1.2.2.2.

Các chỉ tiêu định lượng

a. Hình thức bảo lãnh
Căn cứ vào tiêu chí khác nhau, nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng có thể được chia thành
nhiều loại, mỗi loại bảo lãnh khác nhau lại có mục đích sử dụng khác nhau. Danh mục
bảo lãnh cung cấp cho khách hàng phản ánh mức độ đa dạng về sản phẩm này của một
ngân hàng thương mại. Điều này cũng thể hiện sự quan tâm trong việc phát triển nghiệp
vụ bảo lãnh của ngân hàng thương mại đó. Đối với ngân hàng chủ trương đẩy mạnh
nghiệp vụ này, danh mục sản phẩm bảo lãnh sẽ ngày càng phong phú, đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng.
b. Số món bảo lãnh phát hành
Số món bảo lãnh phát hành là tổng số cam kết bảo lãnh mà ngân hàng phải chịu
trách nhiệm bảo lãnh cho khách hàng phát sinh trong kì (thường là một năm). Số món bảo
lãnh phát hành tăng qua các năm thể hiện hoạt động bảo lãnh phát triển và được mở rộng
đồng nghĩa với chất lượng được nâng cao.

c. Doanh số bảo lãnh và dư nợ bảo lãnh
Doanh số bảo lãnh là tổng giá trị các khoản bảo lãnh phát sinh trong một thời kì, đây
là chỉ tiêu phản ánh tình hình hoạt động bảo lãnh của ngân hàng trong một thời kì nhất
định.
Dư nợ bảo lãnh là tổng giá trị các khoản bảo lãnh của ngân hàng tại một thời điểm
nhất định. Đây là chỉ tiêu mang tính thời điểm, sự gia tăng hoặc giảm sút của chỉ tiêu này
cho thấy sự gia tăng hay giảm sút của nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng so với thời điểm
so sánh. Doanh số bảo lãnh và dư nợ bảo lãnh được tính toán dựa vào bảng tổng kết hoạt


23
động ngoại bảng của ngân hàng. Các chỉ tiêu này được tính vào thời điểm cuối năm để
thấy được sự tăng trưởng của nghiệp vụ bảo lãnh qua các năm.
Dư nợ bảo lãnh cuối năm = Dư nợ bảo lãnh đầu năm + Doanh số bảo lãnh trong kì –
Doanh số tất toán bảo lãnh trong kì.
d. Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh
Đây là chỉ tiêu quan trọng phản ánh trực tiếp khả năng sinh lời của nghiệp vụ bảo
lãnh. Nguồn thu này chủ yếu từ phí mà bên được bảo lãnh phải trả cho ngân hàng thương
mại khi sử dụng dịch vụ này. Bên cạnh việc phản ánh tình trạng hoạt động bảo lãnh, chỉ
tiêu này còn phản ánh chính sách phí của ngân hàng.
Tuy nhiên, để có sự đánh giá toàn diện, người ta thường kết hợp xem xét chỉ tiêu
này trong mối quan hệ tương quan với các hoạt động khác thông qua chỉ số như: tỷ trọng
doanh thu từ nghiệp vụ bảo lãnh trong tổng doanh thu dịch vụ của ngân hàng. Chỉ số này
phản ánh đóng góp của nghiệp vụ bảo lãnh trong nguồn thu từ phí dịch vụ của ngân hàng.

Tỷ trọng doanh thu từ hoạt động bảo lãnh (%)Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh
=

X100
Tổng doanh thu của ngân hàng


1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGHIỆP VỤ
BẢO LÃNH NGÂN HÀNG.
1.3.1.
-

Nhân tố khách quan

Môi trường chính tri, xã hội: chính trị, xã hội mất ổn định như khủng hoảng, chiến tranh,
bạo động, đình công… đều làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh


24
nghiệp từ đó ảnh hưởng đến hoạt động của cả hệ thống ngân hàng, ngân hàng cũng không
thể thực hiện được các nghĩa vụ đã cam kết của mình với khách hàng và ảnh hưởng đến
doanh số bỏa lãnh, số món bảo lãnh cũng như chất lượng của từng món bảo lãnh tại ngân
hàng.
-

Môi trường pháp lí: Tính chặt chẽ, thống nhất của pháp luật trong việc ban hành các văn
bản, quy chế bảo lãnh ngân hàng sẽ giúp các bên nhận thức rõ quyền lợi và nghĩa vụ của
mình từ đó tránh các tranh chấp phát sinh ảnh hưởng đến chất lượng bảo lãnh ngân hàng.

-

Sự linh hoạt trong việc thay đổi các chương trình đầu tư, chính sách xuất nhập khẩu, tỷ
giá, lãi suất, chính sách tiền tệ… sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của các bên tham gia bảo lãnh có thể làm ảnh cho người được bảo lãnh không thể thực
hiện được nghĩa vụ của mình.


-

Các nhân tố ảnh hưởng thuộc về người yêu cầu bảo lãnh gồm:
Năng lực điều hành, quản lí của ban lãnh đạo: Chất lượng của quản lí cũng như khả
năng của người lãnh đạo có vai trò rất quan trọng trong việc sản xuất ra sản phẩm và dịch
vụ có lợi nhuận thỏa đáng. Nhà quản lí sẽ nắm lấy các cơ hội mới, thể hiện điều chỉnh kịp
thời trong sản xuất để đáp ứng những thay đổi về nhu cầu của nền kinh tế góp phần thúc
đẩy sự phát triển củ donah nghiệp tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong việc thực hiện tốt
những cam kết với đối tác cũng như nghĩa vụ với ngân hàng.
Năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: năng lực của doanh nghiệp trong
sản xuất kinh doanh sẽ phản ánh hiệu quả kinh doanh, khả năng cảu doanh nghiệp trong
việc cung ứng các sản phẩm có mẫu mã, hình thức và chất lượng phù hợp với nhu cầu và
thị hiếu của ngưoừi tiêu dùng, từ đó ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ của mình
trong nghiệp vụ bảo lãnh.


25
Quy mô vốn và tình hình tài chính: quy mô vốn và tình hình tài chính của khách
hàng cho thấy được tiềm lực tài chính, khả năng thanh toán cũng như trả nợ của khách
hàng khi có rủi ro xảy ra.
Phương án sản xuất kinh doanh, dự án xin bảo lãnh: tính khả thi, tính kinh tế của dự
án, phương án sản xuất kinh doanh có vai tò quan trọng quyết địnhkhả năng thu hồi vốn
và khả năng trả nợ củ khách hàng.
Như vậy, nếu người yêu cầu bảo lãnh có tình hình tài chính, năng lực quản lí, năng
lực sản xuất kinh doanh tốt, dự án xin bảo lãnh có tính khả thi cao thì khả năng thanh toán
cao, có khả năng trả nợ khi có rủi ro xảy ra do đó sẽ giảm thiểu rủi roc ho ngân hàng khi
thực hiện bỏa lãnh, nâng cao uy tín cho ngân hàng và chất lượng bảo lãnh ngân hàng.
-

Các nhân tố ảnh hưởng thuộc về người thụ hưởng bảo lãnh:

Người thụ hưởng bảo lãnh cần trung thực trong việc yêu cầu ngân hàng thanh toán
các khoản bảo lãnh cũng ảnh hưởng đến chất lượng bảo lãnh.
1.3.2. Nhân tố chủ quan
- Chiến lược phát triển kinh doanh của ngân hàng
Trong việc kinh doanh không chỉ ngân hàng mà bất cứdoanh nghiệp nào cũng phải
luôn nghiên cứu và đưa ra những chiến lược phát triển, kinh doanh trong ngắn hạn và dài
hạn, để đảm bảo ngân hàng luôn thực hiện đúng hướng các mục tiêu mà ngân hàng hướng
tới. Chính việc hoạch định chính sách phát triển và kinh doanh, đặc biệt là chính sách phát
triển bảo lãnh là cơ sở để các ngân hàng đưa ra các giải pháp để thực hiện các mục tiêu
đó, do vậy một chương trình chiến lược phát triển, kinh doanh nói chung và phát triển bảo
lãnh nói riêng tốt hay tồi đều ảnh hưởng đến hiệu quả cũng như khả năng mở rộng bảo
lãnh. Nếu đó là một kế hoạch phát triển chưa nhằm vào mục tiêu mở rộng bảo lãnh thì
trong quá trình kinh doanh của ngân hàng bảo lãnh không được chú trọng mở rộng, tuy


×