Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

CHẤT TRỮ TÌNH TRIẾT lý TRONG THƠ NGUYỄN DUY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.1 KB, 7 trang )

CHẤT TRỮ TÌNH - TRIẾT LÝ TRONG
THƠ NGUYỄN DUY (ĐÒ LÈN, ÁNH TRĂNG)
(Chu Thị Lý – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K18)
Đối với những người luôn dành một góc nhỏ trái tim mình cho văn chương
thời kì hiện đại thì Nguyễn Duy không phải là cái tên xa lạ. Là nhà thơ trưởng
thành lên từ phong trào thơ ca thời chống Mỹ, thơ Nguyễn Duy bên cạnh chất trữ
tình sâu lắng còn ánh lên chất trí tuệ, triết lý, thâm trầm sâu sắc. Chất trữ tình –
triết lý xuyên suốt quá trình sáng tác thơ của Nguyễn Duy. “Đò lèn”,“Ánh trăng”
là một trong số những bài thơ thấm đẫm chất trữ tình – triết lý của Nguyễn Duy.
1.

Trữ tình về con người, quê hương

Trữ tình là yếu tố quyết định tạo nên chất thơ trong một tác phẩm văn học.
Thơ luôn thiên về diễn tả những cảm xúc, rung động, suy tư của chính nhà thơ về
cuộc sống xung quanh. Những rung động, suy tư xuất phát từ chính những hiện
tượng đời sống và phản chiếu vào tâm hồn nhà thơ. Khi phân tích tác phẩm thơ,
ta không phải đi sâu vào mổ xẻ, cắt nghĩa, lí giải về các chi tiết, sự kiện, sự việc
được nhà thơ đề cập, mà điều cốt lõi là thấy và nói được những cảm xúc, tâm
trạng, thái độ và suy tư của nhà thơ.
Đến với những trang thơ thấm đầy chất đời, chất hiện thực của Nguyễn Duy,
ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh của những con người bình dị, chân chất, mộc mạc ở
mọi miền trên đất nước dải chữ S này. Đó có thể là một người ăn mày có số phận
tội nghiệp hay ông già Sông Hậu phóng khoáng, đôn hậu hay bà mẹ với tấm lòng
bao la ở Lục Bình, …Lê Thị Thanh Đạm nhận xét : “Họ là những con người
nhọc nhằn, vất vả, gian lao suốt cả cuộc đời nhưng sống giản dị mộc mạc vô tư,
tự nhiên như lẽ của đất trời” [1; 82,83]. Bên cạnh đó, Nguyễn Duy cũng dành
khá nhiều tâm huyết và cảm xúc để gửi tặng cho những người thân yêu nhất gắn
bó trọn đời với nhà thơ, đặc biệt xuất hiện như một niềm trăn trở trên những trang
thơ của Nguyễn Duy là hình ảnh người bà tần tảo hôm sớm.
Trong “Đò Lèn”, hình ảnh người bà xuất hiện trong dòng kí ức của người


cháu,Trịnh Thanh Sơn cho là “những thước phim quay chậm” về nỗi gian truân
của người bà, khiến độc giả “chỉ đọc thôi đã muốn trào nước mắt” [3, tr.14]. Đứa
trẻ còn quá bé bỏng, quá ngây thơ nên không thấy được cuộc sống bộn bề lo toan


của người bà, còn người bà thì bao dung chấp nhận hết cực khổ để là nơi dựa tinh
thần cho đứa cháu của mình. Đó chính là tấm lòng bao dung không bến, không
bờ của người bà.
Nhà thơ như đang hoài niệm về tuổi thơ đẹp đẽ, ngây ngô nhưng vẫn còn
đầy tiếc nuối bên bà của mình. Đứa trẻ nào đã từng được tắm mình trong dòng
sông của mỗi vùng quê yên bình ở đất nước mình thì mới thấy hết cái hay của
những trò chơi như: câu cá, bắt chim, xem hát văn.... Kí ức về thuở ấu thơ bỗng
hiện lên đầy ấn tượng, sống động với hình ảnh níu váy bà, thú vui như câu cá, bắt
chim sẻ, hái trộm nhãn hay mùi hương của huệ trắng, khói trẩm bỗng thoang
thoảng như một nỗi ám ảnh hay giai điệu của những bài hát chầu văn, một dáng
người lảo đảo,...
Hình ảnh của người bà hiện lên trong tâm trí nhà thơ chưa có phút giây nào
ngơi nghỉ. Cả một đời bà dành để chăm con chăm cháu. Bà nhận hết cực nhọc về
mình để lo cho con cháu từng miếng ăn giấc ngủ, không phải chịu cái đói, cái rét.
Bà có sá chi những công việc cực nhọc hay lam lũ như “mò cua xúc tép”,
“gánh chè xanh”. Nguyễn Duy với những cảm xúc chân thật nhất của mình lại
khiến ta nhớ đến người bà tảo tần cùng bếp lửa sưởi ấm tuổi thơ của Bằng Việt:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
(Bếp lửa)
Đọc câu thơ “Quán Cháo, Đồng Dao thập thững những đêm hàn”, ta cảm
nhân những khó nhọc của những bước đi của bà trong đêm giá lạnh qua từ
"thập thững” - từ láy được nhà thơ sử dụng sáng tạo để thể hiện sự gian truân,
thầm lặng của người bà trên những bước đường bà đã đi qua. Nó vừa có giá trị

tạo hình, vừa có giá trị biểu cảm, gợi những bước đi khó nhọc của bà do con
đường gồ ghề hay do bà đang mệt mỏi do đoạn đường dài bà đã và đang đi qua.
Hình ảnh người bà chưa bao giờ rời xa đứa cháu, bà cứ theo suốt những năm
tháng ấu thơ của cậu nên đôi lần cậu đứng giữa dòng mơ hồ của hư và thực của
ảo vọng và thực tại:


Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực
giữa bà tôi và tiên, phật, thánh, thần
Cậu bé như đang đứng giữa hai bờ. Bờ bên này là thế giới hư ảo với tiên,
phật, thánh thần, bờ bên kia là thế giới thực với cuộc đời lam lũ, vất vả của bà.
Cậu bé ngây thơ, khờ dại đến "trong suốt”. Bà âm thầm đánh đổi sự an nhàn của
mình để đem sự bình yên cho cuộc sống của cậubé nên cậu bé không nhận thấy
sự vất vả của bà. Đối với cậu bé bà cũng như Tiên, Phật, thánh, thần,... hay bởi
cậu còn quá nhỏ để phân biệt đâu là hư, đâu là thực!
Trong dòng hồi ức của người cháu, hình ảnh người bà quá sâu sắc nên hình
ảnh của bà là một nỗi ám ảnh, ăn năn cũng là một niềm vui nho nhỏ khi cậu nhắc
về bà. Nguyễn Duy chắc hẳn đã rất tự hào vì đã có người bà tuyệt vời của mình
cho nên hình ảnh người bà xuất hiện một cách thường xuyên trong dòng tự sự của
nhà thơ:
bà tôi lặn lội bên sông
lả lá chè xanh xuống đò lên chợ
(Dòng sông mẹ - 1986)
Quê hương, đất nước là một trong những nguồn cảm hứng lớn của thơ ca
.Bởi ai sinh ra mà chẳng có một miền quê để nhớ để thương và để quay trở về.
Qua những dòng thơ xuất hiện ở đầu bài thơ, ta thấy cuộc sống ở làng quê nơi
Nguyễn Duy sinh ra thật yên bình, vừa thiêng liêng lại vừa gần gũi... Tất cả gắn
với một tên đất tên làng cụ thể như : Cống Na, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền
Cây Thị, đền Sòng…Những địa danh trên đều quen thuộc và gắn với những kỉ
niệm đã qua của nhà thơ. Dù mai này xa quê và đến với những vùng đất mới thì

nhà thơ mãi không thể quên đi những địa danh cụ thể đã ăn sâu vào tiềm thức của
mình.
Ánh trăng là hình ảnh xuyên suốt bốn khổ thơ trong bài Ánh trăng, xâu chuỗi
các dòng hoài niệm và suy nghĩ của một đời người về hiện tại và quá khứ. Có thể
nói Nguyễn Duy đã rất tinh tế để xây dựng thành công hình tượng ánh trăng - “vô
tri vô giác” nhưng có sức mạnh đánh thức và lay động trái tim. Hình ảnh ánh
trăng thân thuộc, gần gũi, gắn với những kỉ niệm đẹp gắn bó với tuổi thơ, với
năm tháng chiến tranh ác liệt:


Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.
Có thể nói hình ảnh “ánh trăng” đã thành biểu tượng xuyên suốt tuổi thơ của
tác giả, gắn bó với những kỉ niệm khó quên. Ánh trăng tinh khiết, dịu nhẹ lan tỏa
từ những năm tháng chiến tranh gian khổ đến cánh đồng mênh mông trong thời
bình.
2.

Triết lý về đạo lý truyền thống

Bàn về các yếu tố làm nên giá trị và sức sống lâu bền cho văn chương nghệ
thuật, GS Hồ Thế Hà cho rằng: “Đó chính là sự hài hoà thẩm mỹ giữa trí tuệ và
cảm xúc; giữa cái ảo và cái chân; giữa hình thức và nội dung. Trong đó, tính triết
lý là một phương diện cần có để làm giàu nhận thức, liên tưởng và suy tưởng của
con người.” [2] Theo Từ điển tiếng Việt, triết lý là lý luận chung của con người
về những vấn đề nhân sinh và xã hội. Tính triết lý ở đây được thăng hoa từ cảm
xúc trên cái nền hiện thực.Không phải chỉ câu thơ, bài thơ mà ngay cả những gì
trong suy nghĩ của nhà thơ đã bao hàm một ẩn tàng triết lý.

Cậu bé Nguyễn Duy qua sự hồi tưởng ấy đã mạnh dạn thú nhận sự vô tâm
đến vô tình của mình: "Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế”. "Tôi đâu biết" như một
lời nhận lỗi như một giật mình đầy xa xót của nhà thơ. Nhưng có một điều thật lạ,
thật trùng hợp, cái giật mình xót xa này cũng là cái giật mình xót xa của biết bao
người con người cháu khi đến một ngày ngoảnh đầu nhìn lại những người ta yêu
thương nhất đã không còn. Ta chợt nhận ra mình vô tâm một cách tệ hại nhất khi
chưa bao giờ thể hiện tình cảm hay cảm xúc của mình với họ - những người ta
trân trọng nhất. Ta tiếc nuối, hối hận và ao ước thần thời gian hãy cho quá khứ
quay trở lại ngày thơ ấy nhưng tất cả đã muộn màng.
Khổ cuối cùng như một sự suy ngẫm phổ quát về những kiếp người bình dị
mà ta dễ dàng bắt gặp trong cuộc sống này:
Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại


dòng sông xưa vẫn bên lở, bên hồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ cồn là một nấm cỏ thôi.
Đằng sau lời kể dường như “’không cảm xúc” của cậu bé Nguyễn Duy, ta
nhận thấy sự hối hận, tiếc nuối của cậu. Nay cậu đã trở thành một người lính
kiên cường dũng cảm, dòng sông xưa mà thời thơ ấu cậu bé vẫn thường gắn bó,
qua thời gian nó vẫn vậy chỉ có mỗi người bà ngày nào vẫn thương yêu và che
chở cho cậu đã thành hư vô, không còn hiện hữu. Sự thức tỉnh của người cháu
trước quy luật đơn giản mà nghiệt ngã của cõi người để càng đau đớn, tiếc xót vì
thươngbà. Người cháu đã thú nhận sự thức tỉnh và đau đớn xót xa của mình như
một sự trưởng thành của ngườicháu:
Khi tôi biết thương bà thì đã muộn
Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi
Nguyễn Du cảm thấy thiếu vắng và trống trải bởi bà đã không còn bên cậu
như ngày thơ bé. Tâm sự của nhà thơ thật khiến ta xúc động bởi trong mỗi chúng
ta đều tìm thấy đâu đó bản thân mình từ những dòng tâm sự của Nguyễn Duy.

Khi ta biết thương bà hay bất cứ người thân nào thì cũng là lúc họ không còn bên
ta nữa. Phải chăng mỗi chúng ta, ai cũng quá vô tư với trò chơi của lứa tuổi mà
đã bỏ qua những giây phút ngắn ngủi bên bà?
Với ngôn từ thơ trữ tình giản dị, trong sáng xen lẫn những vần thơ hài hước,
bài thơ đã làm nổi bật lên tình bà cháu sâu sắc, thiêng liêng. Thuở bé bỏng cậu
khôn lớn trong vòng tay bảo bọc của bà. Nhưng cậu lại vùi mình vào nhũng trò
đùa của trẻ thơ. Rồi khi lớn lên, cậu bé thuở xưa đã trưởng thành, cậu tham gia
kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, với hiện thực chiến trường còn thiếu thốn và khốc
liệt nên cậu chẳng thể về thăm bà. Đến khi có dịp về thăm bà, đó là lúc cậu nhận
ra quy luật nghiệt ngã của cuộc đời, nhưng lúc đó bà không còn nữa.Một sự thức
tỉnh trong trễ tràng chăng?
Trong bài thơ Ánh trăng, dù là ở đâu thì “ánh trăng” vẫn vẹn nguyên, gần gũi,
phóng khoáng khiến cho tác giả có cảm giác “không bao giờ quên”, nhưng đó chỉ


là “ngỡ” thôi. Vầng trăng tình nghĩa, chung thủy luôn là hình nhắc nhắc nhở tác
giả không được phép quên đi:
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
Nhưng chính từ “ngỡ” ấy chính là dấu hiệu cho một sự rạn nứt, quên lãng:
Từ hồi về thành phố
Quen đèn điện của gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường
Cuộc sống đô thị phồn hoa với đèn điện, cửa gương, với tiện nghi đầy đủ đã
khiến cho tác giả quên mất đi người bạn tri kỉ ngày xưa đó. Từng là bạn tri kỉ,
từng là “người” ngỡ như không quên, nhưng giờ đây tác giả vô tâm, vô tình, hờ
hững như người dưng, không hơn không kém. Phép so sánh đã khiến cho tứ thơ
xoáy sâu vào lòng người nhiều xót xa cho một sự thay đổi của lòng người, nhưng
ánh trăng với sự im lặng tuyệt đối đầy vẻ nghiêm nghị của “ánh trăng” như một

lời trách phạt, nhắc nhở “ta” phải tự nhìn lại mình và thái độ tích cực với quá
khứ, với những người đã hi sinh trong chiến tranh, đôi khi với cả chính mình khi
hoàn cảnh sống đã thật sự đổi thay. Đó là những tình cảm đầy tính chất nhân bản
vốn là truyền thống lâu đời của dân tộc ViệtNam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Đặc điểm thẩm mỹ thơ Nguyễn Duy”, Lê Thị Thanh Đạm
2. “Nghĩ về tính triết lý trong thơ”, Tạp chí Sông Hương - số 179-180 (tháng
1-2)
3. Trịnh Thanh Sơn (2004), “Lời bình của Trịnh Thanh Sơn về bài Đò Lèn”,
Báo thơ

THÔNG TIN:


1/ Chu Thị Lý
2/ Lớp Cao học Văn học Việt Nam khóa 18
3/ Mail:
4/ SDT: 01677394473



×