Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Những tư tưởng triết học chính trị - xã hội trong triết học TQ cổ-trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.7 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương I : Sơ lược về hoàn cảnh lịch sử xã hội và đặc điểm triết học Trung
quốc cổ - trung đại
1.1. Sơ lược về hoàn cảnh lịch sử xã hội Trung Quốc
1.1.1. Địa lý, vị trí
1.1.2. Sơ lược về các thời kỳ lịch sử
1.1.2.1 Thời kỳ cổ đại
1.1.2.2. Thời kỳ trung đại
1.2. Đặc điểm triết học Trung quốc cổ - trung đại
Chương II: Những tư tưởng triết học chính trị - xã hội trong triết học TQ
cổ đại
2.1. Tư tưởng triết học chính trị - xã hội của phái Nho gia
2.2. Tư tưởng triết học chính trị - xã hội của phái Đạo gia
2.3. Tư tưởng triết học chính trị - xã hội của phái Pháp gia
Chương III: Những tư tưởng triết học chính trị - xã hội trong triết học TQ
trung đại
3.1. Triết học Trung Quốc trung đại ( từ thế ký III TCN đến năm 1911)
3.2. Những tư tưởng triết học chính trị - xã hội trong triết học Trung
Quốc trung đại
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


MỞ ĐẦU
Trung Quốc là nước lớn ở Châu Á và thế giới, có nền văn hóa phát triển
sớm, được coi là một trung tâm văn minh bậc nhất của nhân loại thời cổ đại.
Tìm hiểu về Tư tưởng Triết học chính trị xã hội trong Triết học Trung Quốc cổ trung đại có ý nghĩa quan trọng trọng, là cơ sở nhận thức để hiểu và nắm vững
nội dung cơ bản của các học thuyết triết học trong sự hình thành và phát triển


của Triết học Trung Quốc.
Qua tìm hiểu,tôi thấy phần nổi trội nhất là tư tưởng chính trị - xã hội, lý
giải về mối quan hệ cũng như sự tồn tại của các quan điểm chung, hoặc niềm tin
hay thái độ đạo đức cụ thể về chính trị trong một xã hội, một tập thể một cách
thấu đáo bởi các nhà triết học.
Do kiến thức còn hạn hẹp, thời gian có hạn nên tôi chỉ điểm những tư
tưởng cơ sở và nổi bật nhất qua của các giáo phái và triều đại của Trung Quốc.
Trong quá trình thực hiện, tiểu luận khó tránh những sai sót. Rất mong thầy cô
chỉ bảo đóng góp thêm để bài viết được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
Chương I : Sơ lược về hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm triết học Trung quốc
cổ - trung đại
1.1. Sơ lược về hoàn cảnh lịch sử xã hội Trung Quốc
1.1.1. Địa lý, vị trí
Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử là một nước lớn ở Đông Á. Trên
lãnh thổ Trung Quốc có hai con sông lớn chảy qua, đó là Hoàng Hà (dài 5.464
km) ở phía Bắc và Trường Giang (dài 6.300 km) ở phía Nam. Hoàng Hà từ xưa
thường gây ra lũ lụt, nhưng do đó đã bồi đắp cho đất đai thêm màu mỡ, tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp khi công cụ sản xuất còn tương đối
thô sơ. Chính vì vậy nơi đây trở thành cái nôi của nền văn minh Trung Quốc.
1.1.2. Sơ lược về các thời kỳ lịch sử
1.1.2.1 Thời kỳ cổ đại

2


Trung Quốc đã trải qua xã hội nguyên thủy. Theo truyền thuyết, thời viễn
cổ ở Trung Quốc có một thủ lĩnh mà đời sau thường nhắc đến gọi là Phục Hy.
Đến nửa đầu thiên kỷ III TCN, ở vùng Hoàng Hà xuất hiện một thủ lĩnh bộ lạc
gọi là Hoàng Đế. Hoàng Đế họ Cơ, hiệu là Hiên viên, được coi là thủy tổ người
Trung Quốc. Đến cuối thiên kỷ III TCN, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ

đều là dòng dõi của Hoàng Đế. Nghiêu và Thuấn tuy chỉ là những thủ lĩnh liên
minh bộ lạc nhưng đời sau cho họ là những ông vua tốt nhất trong lịch sử Trung
Quốc. Tương truyền rằng, năm Nghiêu 72 tuổi, Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn,
đến khi Thuấn già, Thuấn lại nhường ngôi cho Vũ. Nhưng sau khi Vũ chết con
của Vũ là Khải được tôn lên làm vua, Trung Quốc bắt đầu bước vào xã hội có
nhà nước. Thời cổ đại ở Trung Quốc có ba vương triều nối tiếp nhau là Hạ,
Thương, Chu.
- Nhà Hạ (khoảng thế kỷ XXI đến XVI TCN). Tuy Vũ chưa xưng vương
nhưng ông được coi là người đặt cơ sở cho triều Hạ. Thời Hạ, người Trung
Quốc chỉ mới biết đồng đỏ, chữ viết cũng chưa có. Sau 4 thế kỷ, đến thời vua
Kiệt, bạo chúa nổi tiếng đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, triều Hạ diệt vong.
- Nhà Thương (còn gọi là Ân, thế kỷ XVI-XII TCN). Người thành lập nước
Thương là Thang. Nhân khi vua Kiệt tàn bạo, nhân dân oán ghét, Thang đem
quân diệt Hạ, thời Thương, người Trung Quốc đã biết sử dụng đồng thau, chữ
viết cũng đã ra đời. Đến thời vua Trụ (cũng là một bạo chúa nổi tiếng), Thương
bị Chu tiêu diệt.
- Nhà Chu (thế kỷ XI-III TCN). Người thành lập triều Chu là Văn vương.
Trong hơn 8 thế kỷ tồn tại, triều Chu chia làm hai thời kỳ là Tây Chu và Đông
Chu. Từ khi thành lập đến năm 771 TCN, triều Chu đóng đô ở Cảo Kinh ở phía
Tây nên gọi là Tây Chu. Nói chung, Tây Chu là thời kỳ xã hội Trung Quốc
tương đối ổn định. Từ năm 770 TCN, vua Chu dời đô sang Lạc Ấp ở phía Đông
từ đó gọi là Đông Chu. Thời Đông Chu tương đương với hai thời kỳ Xuân Thu
(722-481 TCN) và Chiến Quốc (403-221 TCN). Đây là thời kỳ nhà Chu ngày
càng suy yếu. Trong khi đó, giữa các nước chư hầu diễn ra cuộc nội chiến triền
3


miên để giành quyền bá chủ, tiến tới tiêu diệt lẫn nhau để thống nhất Trung
Quốc, thời Xuân Thu đồ sắt bắt đầu xuất hiện, đến thời Chiến Quốc thì được sử
dụng rộng rãi trong đời sống xã hội.

1.1.2.2. Thời kỳ trung đại
Thời kỳ trung đại nói chung là thời kỳ thống trị của các vương triều
phong kiến trên đất nước Trung Quốc thống nhất. Thời kỳ này bắt đầu từ năm
221 TCN tức là từ khi Tần Thủy Hoàng thành lập triều Tần cho đến năm 1840
tức là năm xảy ra cuộc chiến tranh Thuốc phiện giữa Trung Quốc và Anh làm
cho Trung Quốc từ một nước phong kiến trở thành một nước nửa phong kiến
nửa thuộc địa. Trong thời gian hơn 2.000 năm đó, Trung Quốc đã trải qua các
triều đại sau đây:
- Nhà Tần (221-206 TCN)
Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc kết thúc cục diện phân tán tranh
giành nha gần 500 năm trong lịch sử, thành lập nhà nước phong kiến trung ương
tập quyền. Triều đình gồm các cơ quan và quan chức khác nhay ứng với chức
năng nhiệm vụ khác nhau. Ở địa phương, Tần Thuỷ Hoàng bãi bỏ chế độ phân
phong chia cả nước thành các đơn vị hành chính gồm 36 quận. Dưới quận là
huyện rồi đến hương, đình, lý. Quan đứng đầu quận do triều đình bổ nhiệm hoặc
bãi miễn. Từ đây, bộ máy cai trị tổ chức theo đơn vị hành chính được hoàn thiện
dần. Các triều đại phong kiến Trung Quốc sau nhà Tần đến năm 1911:
- Tây Hán (206 TCN - 8 TCN), Đông Hán (25-220)
- Thời kỳ Tam quốc: Ngụy, Thục, Ngô (220-280)
- Thời kỳ Nam Bắc triều (420-581)
- Tùy (581-618), Đường (618-907)
- Thời kỳ Ngũ đại Thập quốc (907-960)
- Tống (960-1279), chia thành 2 thời kỳ: Bắc Tống (960-1127), Nam Tống
(1127-1279).
- Nguyên (1271-1368)
- Minh (1368-1644)
4


- Thanh (1644-1911)

Trong thời trung đại, Hán, Đường, Tống, Minh là những vương triều lớn,
đó cũng là những thời kỳ Trung Quốc rất cường thịnh và phát triển về mọi mặt,
Nguyên và Thanh cũng là hai triều đại lớn, nhưng triều Nguyên do người Mông
Cổ thành lập, triều Thanh do tộc Mãn Châu lập nên, trong xã hội tồn tại mâu
thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp rất gay gắt do đó đã hạn chế sự phát triển
về văn hóa, triều Thanh tuy tồn tại đến năm 1911, nhưng từ năm 1840, tính chất
của xã hội Trung Quốc đã thay đổi nên đã chuyển sang thời kỳ lịch sử cận đại.
1.2. Đặc điểm triết học Trung quốc cổ - trung đại
1.2.1. Điều kiện ra đời và nét đặc thù của triết học Trung Quốc cổ- trung đại.
Trung Quốc là một trung tâm văn minh lớn của nhân loại và cũng là cái
nôi đầu tiên của lịch sử loài người . Trung Quốc có nền triết học đồ sộ, tư tưởng
triết học TQ chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử tư tưởng vùng Đông Á và Việt
Nam.
Trung Quốc cổ đại là vùng đất rộng lớn, chia làm hai miền. Miền Bắc
ngang vĩ tuyến với Hy Lạp, xa biển, khí hậu lạnh, đất đai khô khan, cằn cỗi, sản
vật nghèo. Miền Nam, khí hậu ấm áp, cây cối xanh tươi, phong cảnh đẹp, sản
vật phong phú. Trung Quốc cổ đại có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ thứ
III, kéo dài tới tận thế kỷ III trCN. Trong khoảng 3000 năm lịch sử ấy, Trung
Quốc được phân chia làm 2 thời kỳ lớn: thời kỳ từ thế kỷ IX trCN về trước và
thời kỳ từ thế kỷ VIII đến thế kỷ III trCN. Thời kỳ từ thế IX về trước, bao gồm
thời Thượng cổ và thời Tam đại: là Hạ, (2205 -1784 trCN) Thương (1783-1135
trCN), Tây Chu (1135 - 770). Tây Chu là đỉnh cao của chế độ chiếm hữu nô lệ
Trung Quốc. Từ thế kỷ VIII - III trCN là thời kỳ Đông Chu (770 – 221 tr CN
thường gọi là thời kỳ Xuân thu - Chiến Quốc). Đó là thời kỳ chuyển biến từ chế
độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến. Ở thời Đông Chu quyền sở hữu tối
cao về ruộng đất thuộc về chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất hình thành. Chính
nguyên nhân kinh tế này làm xuất hiện sự phân hóa sang hèn dựa trên cơ sở tài
sản, sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ và đẩy xã hội Trung
5



Quốc cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt. Đó cũng chính là điều kiện lịch
sử đòi hỏi giải thể chế độ nô lệ thị tộc nhà Chu để xây dựng chế độ phong kiến;
giải thể nhà nước của chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến nhằm
giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển.
Những điều kiện lịch sử trên đã làm xuất hiện hàng loạt hệ thống tư tưởng
và những nhà tư tưởng vĩ đại, xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm "kẻ sĩ"
luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra những hình mẫu cho một xã hội
tương lai. Chính trong quá trình ấy đã hình thành các nhà tư tưởng lớn và các
trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và văn
hoá của Trung Quốc cổ trung đại là cơ sở cho sự ra đời và quy định nội dung,
tính chất của triết học Trung Quốc cổ trung đại. Nét đặc thù của triết học ở giai
đoạn này là ra đời một loạt học thuyết chính trị - xã hội, triết học và hầu hết các
học thuyết này có xu hướng giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo
đức của xã hội.
1.2.2. Đặc điểm triết học Trung quốc cổ - trung đại
Thứ nhất, triết học Trung Hoa cổ, trung đại luôn nhấn mạnh tinh thần
nhân văn, chú trong đến các tư tưởng triết học liên quan đến con người, còn triết
học tự nhiên có phần mờ nhạt.
Thứ hai, triết học Trung Hoa cổ, trung đại chú trọng đến lĩnh vực chính
trị-đạo đức của xã hội, coi việc thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn
bản nhất của một đời người. Có thể nói, đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến
sự kém phát triển về nhận thức luận và sự lạc hậu về khoa học thực chứng của
Trung Hoa.
Thứ ba, triết học Trung Hoa cổ, trung đại nhấn mạnh sự thống nhất hài
hòa giữa tự nhiên và xã hội, phản đối sự "thái quá" hay"bất cập".
Thứ tư, đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy của triết học Trung Hoa
cổ, trung đại là nhận thức trực giác, coi trọng tác dụng của cái "Tâm", coi đó là
gốc rễ của nhận thức.


6


Trong thời kỳ từ thế kỷ IX trCN về trước, tư tưởng triết học bắt đầu xuất
hiện, nhưng chưa đạt tới hệ thống. Tư tưởng triết học có hệ thống được hình
thành vào thời Đông Chu. Theo sách Hán thư có tất cả 103 học phái, trong đó
chủ yếu là sáu học phái: Nho, Mặc, Đạo, Danh, Pháp, Âm Dương và có ảnh
hưởng lớn nhất là ba học phái: Nho, Mặc, Đạo.
Chương II: Những tư tưởng triết học chính trị - xã hội trong triết học TQ
cổ đại
2.1. Tư tưởng triết học chính trị - xã hội của phái Nho gia
Nho gia coi những quan hệ chính trị - xã hội là những nền tảng của xã
hội. Trong đó, quan trọng nhất là quan hệ vua – tôi, cha- con, vợ - chồng. Xuất
hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một xã hội đầy biến
động và chiến tranh. Lý tưởng của Nho gia là xây dựng một “xã hội đại đồng”.
Đó là một xã hội có trật tự trên dưới, có vua sang – tôi hiền , cha từ - con thảo,
trong ấm – ngoài êm.
2.1.1. Tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Khổng Tử
Người sáng lập học thuyết Nho gia là Khổng Tử. Khổng Tử (551 – 479
TCN) là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng người Trung Hoa. Triết
học của ông nhấn mạnh trên sự tu dưỡng đức hạnh cá nhân và cai trị bằng đạo
đức: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, sự chính xác của các mối quan hệ
xã hội, đạo đức và quy phạm làm người, “Đạo Trung Dung” và các đức tính
“Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín”. Các giá trị đó đã có được tầm ảnh hưởng lớn trên
mọi học thuyết khác ở Trung Quốc như Pháp gia hay Đạo gia trong suốt triều
đại nhà Hán. Các tư tưởng của Khổng Tử đã được phát triển thành một hệ thống
triết học được gọi là Khổng giáo.
Khổng Tử sống ở cuối thời kỳ Xuân Thu. Ở thời kì này, xã hội có nhiều
biến động, lúc bấy giờ quyền hành thiên tử nhà Chu rơi vào tay người khác,
thiên tử không thể thống lĩnh được chư hầu. Khổng Tử cho rằng “Thiên hạ hữu

đạo, tắc lễ nhạt chính phạt tự thiên tứ xuất”. Ổng phản đối chính quyền, chuyển
7


xuống dưới và vua nước chư hầu, quan đại phu tiềm quyến lễ chế. Khổng tử cho
rằng, nếu vua chư hầu nắm quyền thì khoảng mười đời bị diệt vong; quan đại
phu nắm quyền thì năm đời bị tan vỡ. Nếu các gia thần của quan khanh và của
quan đại phu nắm quyền, thì chỉ ba đời là mất chính quyền. Để thực hiện lý
tưởng chính trị, ông xây dựng học thuyết “Nhân – Lễ - Chính danh”, trong đó
quan điểm về “Nhân” là trọng tâm của học thuyết này.
“Nhân” có rất nhiều nghĩa nhưng theo ông, nghĩa chíng là thương người.
Theo ông, những người mộc mạc, chất phác, tình cảm chân thực rất cần đức
“Nhân”. Tuy nhiên, do hạn chế về lập trường giai cấp, ông quan niệm chỉ người
quân tử mới có đức “nhân”. Khổng Tử chủ trương trọng người hiền, “nhân
trị”.Người hiền cần được trọng dụng. Chủ trương này không hợp thời lúc bấy
giờ trong hoàn cảnh xã hội loạn lạc, chiến tranh liên miên, song nhiều đời sau,
nó vẫn còn có giá trị. Ông chia xã hội thành hai giai cấp là quân tử và tiểu nhân.
Theo ông chỉ có quân tử mới có đức nhân, còn tiểu nhân không có đức nhân
trong khi đây là tầng lớp đông đảo, tạo ra của cải cho xã hội nhưng không được
coi trọng.
“Lễ” cũng có rất nhiều nghĩa, trước hết đó là lễ nghi, tế lễ. Ông cho xã
hội hiện tại là xã hội “vô đạo”, “vua không ra vua” nên xã hội đại loạn, do vậy
cần phải lập kỷ cương.
“Chính danh” đi liền với định phận. Chính danh đòi hỏi Vua ra vua, tôi ra
tôi, cha ra cha. Nó cũng là điều căn bản để làm chính trị -xã hội “loạn” trở lại
“trị”. Khổng tử về mặt chính trị có khuynh hướng bảo thủ. Khuynh hướng này
phản ánh rõ nét ở chính danh. Theo ông, danh có trước, thực có sau. Điều này
về mặt chính trị là một loại tư tưởng bảo thủ chống lại quy luật phát triển khách
quan của xã hội. Để thực hiện chính danh, Khổng Tử đề ra đường lối trị quốc là
“nhân trị”. Ông chủ trương lấy nhân làm cơ sở thi hành chính sự, lấy đức để cai

trị, khi nào thái quá mới dùng đến hình phạt.
Trong sách Luận ngữ, khi đề cập về xã hội lý tưởng cho thấy, theo Khổng
Tử, xã hội lý tưởng là một xã hội được xây dựng , hoàn thiện trên cơ sở của đạo
8


đức, của “đức trị”. Theo đó, trong xã hội ấy, nhà vua, người cầm quyền phải là
người có tài, đức để trị quốc và làm gương cho nhân dân noi theo. Với Khổng
Tử, đạo đức của nhà vua, người cầm quyền có vai trò to lớn trong việc trị quốc,
bình thiên hạ, trong việc xây dựng và hoàn thiện con người và xã hội có trật tự,
kỷ cương, có đạo đức và có giáo dục. Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử chỉ rõ
những đặc trưng cơ bản của xã hội lý tưởng là sự ổn định, đại đồng: Vua, chư
hầu hay quan đại phu (kẻ có nước, có nhà) chẳng lo ít dân mà chỉ lo không đồng
đều, chẳng lo nghèo mà chỉ lo không được an ninh.
Khổng Tử thấy rằng, xã hội muốn ổn định thì phải hoà mục, trên dưới
đồng lòng, mỗi cá nhân đều phải có nguyên tắc xử thế, lấy hoà làm trọng, không
tranh đấu với nhay. Xã hội phải lấy hoà làm trọng mới tồn tại được.
2.1.2. Tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Mạnh Tử
Mạnh Tử là người theo phái Nho gia của Tăng Tử nước Lỗ. Ông là học
trò của Tử Tư (Khổng Cấp cháu nội của Khổng Tử). Tư tưởng chính trị xã hội
của Mạnh Tử là sự tiếp thu, kế thừa và phát triển tư tưởng chính trị xã hội và
đạo đức của Khổng Tử. Mạnh Tử cho rằng nhân là đầu mối của “thiện đoan”.
Người có đức nhân được kính yêu là thiện. Làm điều thiện là tín. Mạnh tử nói:
“Ăn no, mặc ấm, ở yên mà không có giáo dục thì gần với cầm thú.
Sự tương quan giữa nhân luân và những điều lễ nghĩa dựa trên nhân luân
ấy khiến cho con người phân biệt với cầm thú. Nguồn gốc của quốc gia và xã
hội dựa trên những mối luân ấy. Cũng như Aristote, Mạnh tử cho rằng “người
ta là một con vật chính trị” và con người chỉ có thể phát triển những mối tương
quan của mình trong quốc gia xã hội mà thôi. Quốc gia là một tổ chức đạo đức,
đứng đầu quốc gia phải là người cầm quyền có đạo đức. Tuy nhiên, theo triết

học chính trị của nho gia, thì riêng thánh nhân mới thật đáng làm vua.
Thiên hạ là của chung, không phải là của riêng vua. Có nước, có dân mới
có vua. Người làm vua không vì dân, làm trái lòng dân là trái mệnh trời. Mạnh
Tử cho rằng chính quyền, chức tước, tài sản, sự thay đổi các triểu đại do trời
định sẵn. Thánh nhân cai trị theo ý trời.Khi thánh nhân làm vua thì chính trị của
9


thánh nhân gọi là vương chính. Theo Mạnh tử và các hậu nho, thì có hai cách
cai trị. Một là vương chính hay cai trị của vua hiền, một là bá chính hay cai trị
của tướng lãnh. Sự phân biệt vương, bá ấy luôn được các nhà triết học chính trị
Trung Quốc đời sau tôn trọng. Nếu dùng thuật ngữ chính trị hiện đại, thì có thể
nói chỉnh thể dân chủ là vương chính, còn chỉnh thể phát xít là bá chính, vì cai
trị bằng khủng bố và sức mạnh.
Tiếp tục theo quan điểm về quân tử, tiểu nhân của Khổng Tử, ông cho
rằng quân tử là người cai trị, lao tâm, được nuôi; tiểu nhân là người bị trị, lao
lực phải nuôi. Trung Quốc vốn là một nước lấy nghề nông làm gốc, do đó theo
Mạnh tử, cơ sở kinh tế của vương chính phải được xây dựng trên sự phân phối
đất đai một cách công bằng.
2.1.3. Tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Tuân Tử
Tuân Tử (313 TCN – 238 TCN) là một nhà Nho, nhà tư tưởng của Trung
Hoa vào cuối thời Chiến Quốc. Ông là một môn đồ xuất sắc của học phái Nho
gia, Tuân Tử kế thừa và phát huy nhiều luận điểm quan trọng trong học thuyết
của Khổng Tử. Nếu như Mạnh Tử phát triển tư tưởng triết học của Khổng Tử
theo hướng duy tâm thì Tuân Tử phát triển theo hướng duy vật.
Về mặt chính trị - xã hội,Tuân Tử thừa kế chủ thuyết của Khổng - Mạnh;
phần khác là thuộc về sáng kiến riêng của ông. Trong phần thừa kế, có hai điểm
rõ rệt nhất là “quý dân” và “thượng hiền”. Ông cho rằng con người là cao quý
nhất trong muôn loài. Trong cộng đồng xã hội mỗi người có một phận vị nhất
định liên hệ giúp đỡ nhau một cách tự nhiên. Để duy trì cộng đồng tất phải có

quy tắc thể chế, chính vì vật nhà nước và lễ nghĩa ra đời.
Ông đề xuất chủ trương “Lễ trị”. Lễ theo Tuân Tử quan niệm có khác
nhiều so với Lễ của Khổng - Mạnh. Tuân Tử cũng muốn dùng Lễ để củng cố
chế độ đẳng cấp, tăng cường sự cách biệt giữa trên dưới, quý, tiện,… nhưng
trong quan niệm về Lễ của Tuân Tử những yếu tố Pháp đã chiếm một địa vị khá
quan trọng. Ông nói: ''Lễ là chức phận lớn của Pháp, là kỷ cương của mọi loài”.
Trái với thuyết ''tính thiện'' của Mạnh Tử, Tuân Tử đề xuất luận điểm ''tính ác''.
10


Ông quan niệm rằng vai trò của đạo đức nhân nghĩa không phải là ở chỗ bồi
dưỡng phát huy cái ''tính thiện'' vốn có do Trời phú bẩm mà là ở chỗ phải dựa
vào Lễ để kiềm chế uốn nắn sửa đổi cái ''tính ác'' nhằm giúp con người hoàn
thiện nhân cách.
Trên cơ sở đề cao vai trò của Lễ, ông coi con người có dục vọng là một
hiện tượng chính thường, phản đối các chủ trương “chỉ dục” (dứt bỏ dục vọng)
hoặc "quả dục" (giảm bớt đến mức tối thiểu dục vọng). Ông quan niệm trong
khi điều hành việc thỏa mãn dục vọng của các tầng lớp khác nhau trong xã hội,
Lễ phải thực hiện chức năng ''Cắt bớt chỗ dài; bù đắp thêm cho chỗ ngắn; rút
bớt chỗ dư thừa, tăng thêm cho chỗ thiếu thốn''. Như vậy là (thỏa mãn dục
vọng) ở đây có bao hàm ý nghĩa phân phối lại ở mức độ nhất định của cải xã hội
nhằm ngăn chặn các hiện tượng giàu nghèo chênh lệch quá phi lý bất công.
Cũng từ quan điểm này, về các vấn đề "Quốc kế dân sinh'' khác, Tuân Tử coi
trọng cả nghĩa lẫn lợi vừa chủ trương phải thực hành triệt để chính sách ''Canh
chiến'' (đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, tăng cường lực lượng vũ trang, chuẩn
bị chiến tranh kiêm tính), vừa chủ trương bồi dưỡng sức dân, thi hành Vương
đạo nhằm tranh thủ nhân tâm. Ông nói: "Vua như thuyền, dân như nước, nước
nâng thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền. Chính vì vậy bậc Vương giả muốn
được ở yên ngôi vị không gì bằng thi hành chính sự cho công bình và thương
yêu dân chúng'' (Tuân Tử Vương Chế).

2.2. Tư tưởng triết học chính trị - xã hội của phái Đạo gia
Trong các phái Nho gia, Đạo gia, Pháp gia của các tư tưởng Trung Quốc
thời cổ đại, người đầu tiên đề xướng học thuyết Đạo gia là Lão Tử. Tư tưởng
Đạo gia phản ánh tư tưởng, nguyện vọng của một tầng lớp quý tộc nhỏ không
kịp chuyển biến trước sự tan rã của chế độ thị tộc. Nó đối trọng với Nho gia.
Lão Tử sống vào khoảng thế kỷ 5-6 TCN. Về mặt triết học, Lão Tử cho
rằng nguồn gốc của vũ trụ là "đạo". Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra
ba, ba sinh ra vạn vật. Sau khi sự vật được tạo ra thì phải có quy luật để duy trì
sự tồn tại của nó, quy luật ấy gọi là "đức". Như vậy, đạo đức ở đây là một phạm
11


trù thuộc về triết học, khác với đạo đức của Nho gia là thuộc về phạm trù luân
lý.
Về tư tưởng chính trị - xã hội, ông trốn tránh hiện thực, hoài cổ, thủ tiêu
đấu tranh, ước mơ một xã hội ít người, sống hoà thuận và vui vẻ. Về cách quản
lý đất nước, Lão Tử chủ trương vô vi. Ông cho rằng cách tốt nhất làm cho đất
nước được thái bình là giai cấp thống trị không can thiệp đến đời sống của nhân
dân, không thu thuế quá nhiều, không sống xa hoa. Đồng thời nên quay lại thời
kỳ vừa thoát thai khỏi xã hội nguyên thuỷ, không cần chữ viết, không cần vũ
khí, thuyền xe. Còn đối với nhân dân thì chỉ cần làm cho tâm hồn họ trống rỗng
nhưng bụng họ thì no, chí của họ yếu nhưng xương cốt của họ mạnh. Khi đó họ
không biết gì và không có ham muốn.
Lão Tử chủ trương một chính quyền theo tự nhiên mà giữ giềng mối, “vô
vi nhi trị”, trị mà như không trị tức là trị vậy. Theo Đạo mà trị nước vì nếu dùng
trí thuật mà trị nước tức là làm hại nước. Chính quyền gồm những người chất
phác, ăn ở giản dị và cần kiệm, không xa hoa. Họ không can thiệp vào chuyện
của nhân dân, không tôn quí hiền tài, không vận dụng lý trí để ứng xử với dân.
Luật pháp phải rộng rãi và uyển chuyển vì càng gia tăng luật lệ thì dân càng bị
trói buộc, khổ sở. Trọng dụng hiền tài chỉ làm dân tranh nhau để được tiếng là

người hiền. “Dứt thánh bỏ trí, dân lợi trăm phần. Dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại
thảo lành. Dứt xảo bỏ lợi, trộm cướp không còn”. Ở trong nước, chính quyền
không nên dùng các hình phạt răn đe, nhất là đem cái chết ra dọa dân vì tới một
lúc nào đó dân không còn sợ. Đối với bên ngoài, phải cố hết sức tránh nạn binh
đao. Lão Tử triệt để bác bỏ chiến tranh. Cực chẳng đã phải dùng thì nên điềm
đạm, chừng mực. “Nước lớn mà hạ mình trước nước nhỏ thì được nước nhỏ
thần phục; nước nhỏ mà hạ mình trước nước lớn thì tất được nước lớn che chở”.
Tóm lại, phép trị quốc an dân hay nhất để đem lại phúc lợi cho dân chúng là
càng ít can thiệp càng tốt, để mặc cho dân sống tự nhiên, mộc mạc và giản dị.
Chủ trương chính trị của Lão không được giai cấp thống trị đương thời chấp

12


nhận, nhưng tư tưởng ấy đã đặt cơ sở cho việc hình thành Đạo giáo ở Trung
Quốc sau này.
Lão tử có cùng quan điểm với nho gia, đạo gia cho rằng Nhà nước lý
tưởng là Nhà nước đươc cầm đầu bởi Thánh nhân. Chỉ thánh nhân là có thể và
phải cầm quyền. Tuy vậy, sự khác nhau giữa hai bên đó là: theo nho gia khi lên
cầm quyền tối cao, thánh nhân phải làm nhiều việc cho dân , trong lúc đó, theo
đạo gia, bổn phận của vua thánh không phải là làm việc, mà trái lại phải bỏ hay
không làm gì cả.Theo Lão tử, vua thánh sẽ diệt mọi nguyên nhân rối loạn trong
đời, sau đó sẽ trị vì bằng vô vi. Vô vi thì vua không phải làm gì , tuy nhiên, mọi
việc đều thành.
Theo các đạo gia, vị cầm đầu Nhà nước phải bắt chước đạo. Nhà cầm
quyền cũng không làm gì, mà để mọi người dân làm điều gì mọi người có thể
làm. Đó là một nghĩa khác của từ “vô vi” mà sau này, với chút ít thay đổi, nó đã
trở thành căn bản của một trong những lý thuyết quan trọng của Pháp gia.
Về Xã hội lý tưởng, chương 80 Đạo Đức Kinh, Lão Tử viết: “Nước nhỏ,
dân ít, không dùng binh khí, sống giản dị. Thức ăn đạm bạc mà thấy ngon, quần

áo đơn giản cho là đẹp, nhà ở thô sơ mà thích, có xe thuyền không ngồi, phong
tục giản phác mà lấy làm vui. Các nước gần nhau vui vẻ yên ổn nơi mình ở.
Không can thiệp vào nhau”.
2.3. Tư Tưởng chính trị - xã hội của phái Pháp gia
Học thuyết của trường phái Pháp gia phản ánh tư tưởng, ý chí của giai
cấp địa chủ cuối thời Xuân thu – Chiến quốc. Pháp gia là trường phái chủ
trương trị nước bằng pháp luật, đối lập với đức trị. “Trị nước phải có pháp luật,
pháp luật phải nghiêm, coi trọng “thế” và “Thuật”. Tư tưởng chủ đạo của pháp
gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị
thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc
bình thiên hạ" được.
Học giả nổi tiếng của Pháp gia là Hàn Phi Tử. Hàn Phi Tử ( 281 TCN 233 TCN) sống cuối đời Chiến Quốc, trong giai đoạn Tần Thủy Hoàng đang
13


thống nhất Trung Hoa. Hàn Phi tuy là học trò của Tuân Tử, nhưng đã bỏ đạo
Nho theo đạo Pháp. Hàn Phi phủ định đức tính Nhân nghĩa của nhà Nho, tự
sáng lập ra triết lý chính trị riêng, có giá trị rất đáng kể.
Trước Hàn Phi, nhiều triết gia của các học phái khác đều có bàn đến pháp
luật, nhưng không cho đó là phương pháp giúp cho xã hội an bình tốt đẹp. Lão
Tử chử trương vô vi , phản đối pháp luật. Đến Tuân Tử thì tuy chủ trương lễ trị
nhưng ông nêu rằng: Hình pháp là cái gốc của thiên hạ, ngăn cấm điều bạo
ngược, ghét bỏ điều ác để răn những điều chưa xảy ra. Đến Hàn Phi, nhận ra sự
bất lực của Nho gia và Đạo gia trong việc trị nước, tiếp thu tư tưởng về Pháp,
Thuật, Thế từ Tuân Tử, ông xây dựng Pháp trị. Tiếp thu Tuân Tử, Hàn Phi cho
rằng bản tính con người là ác và ham lợi. Vì lợi người ta sẵn sàng ác. Khi bản
tính con người ác và ham lợi không có gì ngăn cản được thì trật tự xã hội đổ vỡ.
Hàn Phi viết :Chữ nhân không dùng để trị nước được, dân chúng phục tùng
quyền thế chứ không vì đạo nghĩa mà cảm hoá”.
Trong tư tưởng chính trị của Hàn Phi, quyền lực là tất cả. “Quyền thế bất

khả dĩ tá nhân, thượng thất kỳ nhất, hạ dĩ vi bách”. (Quyền thế chớ có chia sẻ
cho người ta, khi bề trên chia mất một quyền, thì kẻ dưới sẽ lạm dụng thành
trăm). Hàn Phi không những coi trọng quyền lực, còn là kẻ sùng bái quyền lực.
Đó là ý nghĩ chung của kẻ chủ trương độc tài, chuyên chế từ cổ chí kim, từ đông
chí tây, họ coi quyền lực như là chân lý, có quyền lực là có tất cả.
Theo Hàn Phi Tử , “Luật, là cái được biên chép vào sổ sách, đặt nơi quan
phủ, để ban khắp cho trăm họ”. Do pháp luật ấy mà trăm họ được báo cho biết
những gì phải làm và những gì không được làm. Một khi luật được ban ra nhà
vua phải kiểm soát chặt chẽ hành vi của dân. Vì vua có “thế”, nên có thể phạt kẻ
phạm luật, thưởng người tuân theo. Làm như vậy, thi vua có thể trị được dân,
dẫy đông bao nhiêu. Hàn Phi Tử viết : “Thánh nhân trị nước, không cậy người
tự làm thiện, mà khiến người không được làm trái” Nhà vu trị dân bằng “pháp”
và “thế”. Vua không cần những khả năng đặc biệt hay phẩm đức cao, hay như

14


các nho gia nói, phải nêu gương tốt trong cách cư xử hoặc cai trị do ảnh hưởng
cá nhân mình.
Triết lý chính trị của Hàn Phi, chủ trương hình thành một hệ thống gồm
ba chủ điểm là: Pháp, Thuật và Thế. Ông cho rằng "Pháp", "Thế", "Thuật" là ba
yếu tố thống nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật.
Trong sự thống nhất đó, "Pháp" là nội dung trong chính sách cai trị được thể
hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh, còn "Thuật"
là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Tất cả đều là
công cụ của bậc đế vương.
Trước hết nói về "Pháp". Trong tư tưởng Trung Quốc cổ đại, "Pháp" là
phạm trù triết học được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng "Pháp" là thể chế
quốc gia là chế độ chính trị xã hội của đất nước; theo nghĩa hẹp "Pháp" là những
điều luật, luật lệ, những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và

phát triển lý luận pháp trị của pháp gia thời trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp
là hiến lệnh công bố của các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là
thi hành, thưởng người cẩn thận, giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề
tôi sẽ theo Pháp". Hàn Phi còn đưa ra chủ trương mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật. Ông cho rằng sự trừng phạt không cần biết đến tước vị của giới
quý tộc vì luật không xu nịnh giới quý tộc. Nội dung thưởng phạt, nhằm mục
đích thực hiện "Pháp" để cứu loạn cho dân chúng, trừ họa cho thiên hạ, khiến
cho kẻ mạnh không lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp đám số ít người già được
hưởng hết tuổi đời, bọn trẻ mồ côi được nuôi lớn, biên giới không bị xâm phạm,
vua tôi thân nhau, cha con bảo vệ nhau, không lo bị giết hay bị cầm tù" . Với
nội dung và mục đích như trên, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân
định danh phận, phải trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự
đều qui về một mối, đều lấy pháp làm chuẩn. vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc
của thiên hạ.
Cùng với "Pháp", "Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị.
Pháp gia cho rằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối
15


tôn trọng thi hành thì nhà vua phải có "Thế". "Thế" trước hết là địa vị, thế lực,
quyền uy của người cầm quyền mà trước hết là của nhà vua. "Thế" có vị trí
quan trọng đến mức có thể thay thế được hiền nhân: "Chỉ có bậc hiền trí không
đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền vậy... Kiệt làm
thiên tử chế ngự được thiên hạ không phải vì hiền mà vì có quyền thế. Nghiêu
thất phu không trị nổi ba nhà không phải vì hiền mà vì địa vị thấp"
Sau "Pháp" và "Thế", pháp gia rất chú ý đến "Thuật" trong đường lối
pháp trị. "Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn...
trong việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ
nó pháp luậtđược thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Nhiệm
vụ chủ yếu của "Thuật" cai trị là phân biệt rõ ràng những quan lại trung thành,

tận tâm và những quan lại xu nịnh ma giáo, thử năng lực của họ, kiểm tra công
trạng và những sai lầm của họ với mục đích tăng cường bộ máy cai trị trên cơ
sở bộ máy luật pháp và chế độ chuyên chế" .
"Thuật" còn thể hiện trong "thuật dùng người". Pháp gia đưa ra nguyên
tắc cơ bản của thuật dùng người là: "Chính danh", "Hình danh", "Thực danh".
Để chọn đúng người trao đúng việc thì vua phải biết dùng "Thuật". "Bề tôi tỏ lời
muốn làm việc gì thì vua theo lời mà trao việc, cứ theo việc mà trách công.
Công xứng việc, việc xứng lời thì thưởng. Công không xứng việc thì phạt"
Nhìn chung, tư tưởng của Hàn Phi Tử có tính chất tiến bộ so với thời bấy giờ.
Sau khi ông chết, nhà Tần đề cao Pháp trị trong việc dựng nước, giữ nước, song
nhà Tần sụp đổ, mất nước cũng vì quá đề cao Pháp trị.
Chương III: Những tư tưởng triết học chính trị - xã hội trong triết học
Trung Quốc trung đại
3.1. Triết học Trung Quốc trung đại ( từ thế ký III TCN đến năm 1911)
Sau khi nhà Tần thống nhất Trung Quốc, chấm dứt cục diện phân tán
tranh giành hỗ loạn gần 500 năm chế độ phong kiến cát cứ tan rã. Thay vào đó
là chế độ phong kiến tập quyền hay quân chủ chuyên chế tồ n tại khoảng 2000
16


năm. Thời kỳ này cơ sở kinh tế vẫn là nông nghiệp, giai cấp thống trị cũng như
là kẻ sĩ là địa chủ, cho nên quan niêm vũ trị và nhân sinh không tác rời sản xuất
nông nghiệp.
3.2. Những tư tưởng triết học chính trị - xã hội trong triết học Trung Quốc
trung đại
3.2.1. Tư tưởng triết học chính trị - xã hội thời nhà Hán
Nhà Hán tồn tại khoảng 400 năm , là thời kì xã hội tương đối ổn định và
phát triển. Nho gia được duy tâm tôn giáo hoá, đóng vai trò là hệ tư tưởng thống
trị xã hội. Đạo gia phát triển thành Đạo giáo. Tuy thế, tư tưởng duy vật thô sơ
tiếp tục vận động dòng nước ngầm phản ánh sự đối kháng giai cấp trong xã hội.

3.2.1.1. Đồng Trọng Thư (180-105 TCN)
Đồng Trọng Thư (là triết gia nổi bật thời nhà Hán, tiếp tục phát triển Nho
gia kết hợp với Âm dương gia và một số học phái khác, đưa Nho lên một giai
đoạn mới là Hán Nho mang tính chất duy tâm thần học.
Ông là người đầu tiên đề xướng tổ chức các kỳ thi tuyển chọn quan lại
qua học tập kinh điển Nho gia. Theo đó, các viên chức quan lại được tuyển
dụng không phụ thụ thuộc vào dòng dõi quý tộc hay tài sản mà cần trúng tuyển
qua các kỳ thi Nho học. Tiếp tục phát triển quan niệm về trời của Khổng Tử
theo hướng duy tâm, ông cho rằng trời vừa là giới tự nhiên muôn loài muôn vật
với quy luật vận động của nó vừa là đấng ngự trị tối cao quyền uy tuyệt đối của
giới tự nhiên.
Về chính trị - xã hội, ông đưa ra các biện pháp trị nước chăn dân. Trước
hết, vua phải noi theo ý trời, thuận mệnh để cai trị muôn dân, phát huy bản tính
thiện , lấy giáo hoá dân làm việc to, chọn thầy giỏi để dạy kẻ sĩ trong nước,
tuyển chọn người tài mà dùng… có thế mới đạt được nền thái bình thịnh trị.
Ông kết luận: Thịnh suy trị loạn là do người chứ không do trời, tuân theo mệnh
trời thì thịnh trị, không theo mệnh trời thì hỗn loạn suy sụp.
Ông nêu ra 4 cách cai trị là Khoan dung , Thưởng , Phạt, Hình tương ứng
4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Trời có 4 mùa, vua có 4 cách cai trị, đó là trời và
17


người tương ứng nhau. Như thế là giáo hoá dân là chính chứ không phải là duy
nhất trong việc trị nước chăn dân. Về sự phát triển của xã hội, ông nêu thuyết
“tam thống” cho rằng lịch sử xã hội loài người vận động mang tính tuần hoàn.
Theo Đồng TRọng Thư, một triều đại dù tốt đến đâu cũng có những hạn chế,
đến khi cáo chung phải nhường chỗ cho triều đại khác vận động theo “tam
thống”.
Đổng Trọng Thư đã phát triển Nho tiên Tần theo hướng duy tâm cực đoan
nên được giai cấp thống trị đương thời hoan ngênh và sử dụng như là công cụ

thống trị đắc lực về mặt tinh thần.
3.2.1.2. Hoàn Đàm (23 TCN- 50)
Ông là triết học duy vật vô thần đấu tranh mạnh mẽ với quan điểm duy
tâm mê tín đương thời. Ông cho rằng trời không có tình cảm ý chí như con
người, vạn vật sinh ra biến đổi không do một lực lượng thần bí nào chi phối. Sự
sinh ra, trưởng thành, già yếu , chết của con người mang tính tất nhiên cũng như
sự biến đổi của bốn mùa Xuân , Hạ, Thu, Đông kế tiếp nhau.
Về xã hội, ông chủ trương pháp trị, tán thành chế độ quân chủ chuyên
chế. Theo ông pháp luật phải rõ ràng, thưởng phạt công minh. Tuyển dụng quan
lại phải chọn người hiền tài, dám đổi mới, không dựa vào dòng dõi, không cất
nhắc con nhà quyền thế tài hèn đức kém.
3.2.2. Tư tưởng triết học chính trị - xã hội thời Nguỵ - Tấn
Nguỵ - Tấn là thời kì xã hội không ổn định khoảng 150 năm. Mâu thuẫn
xã hội giữa nhân dân lao động với giai cấp thống trị biểu hiện rất phức tạp. Các
tập đoàn địa chủ phong kiến luôn lôi kéo nông dân vào cuộc chiến tranh giành
nhau, các tộc người ở Tây Bắc tràn vào phá phách. Bối cảnh đó làm cho chủ
nghĩa duy tâm tôn giáo phát triển chi phối đồi sống xã hội.
Triết học thời kì này, Nho giáo với quan điểm của Đổng Trọng Thư bị đả
kích nên mất vai trò, Huyền học duy tâm tư biện hình thành phát triển chi phối
tinh thần xã hội. Chủ nghĩa duy vật với tư tưởng tiến bộ xã hội trở thành trào
hưu chống Huyền học, chống sự nô dịch về tinh thần của giai cấp thống trị
18


3.2.2.1. Tư tưởng triết học chính trị - xã hội phái Huyền học
Huyền có nghĩa là tối tăm, khó hiểu, bí ẩn, Huyền học là cái tối tăm mờ
mịt. Huyền học tiếp thu tư tưởng của Đạo gia, nho gia và Phật. Về xã hội, phái
này cho rằng quan điểm chính trị đạo đức của Nho gia phiền toái, phải trở về
sống theo tự nhiên vô vi.
3.2.2.1.1.Hướng Tú (227-277) và Quách Tượng (252-312)

Đây là nhóm phê phán Huyền học ngả về duy vật. Hai ông phủ nhận
thuyết vô sinh hữu. Cái không đã là không rổi thì không thể sinh ra cái có được.
Sự vật đều tồn tại độc lập, tự mình phát triển biến hoá mà vào chốn huyền diệu,
cứ như vậy luân chuyển trong một vòng, kết thúc rồi lại bắt đầu. Xã hội thịnh trị
hay loạn lạc cũng là tự nhiên, không do người làm.
3.2.2.1.2. Bùi Ngỗi ( khoảng cuối thế kỷ III)
Ông là nhà y học, triết học duy vật. Theo ông, đạo là nguồn gốc của vạn
vật, là hữu chứ không phải vô, tồn tại vật chất là cơ sở của mọi sự vật đang phát
sinh biến hoá. Ông phản đối sống vô vi, phải quý trọng lẽ sống, lao động rồi
mới hưởng, tận dụng cái thiên nhiên bao cho con người, không ăn bám hưởng
lạc xa hoa.Về chính trị, ông tán thành nhà nước trung ương tập quyền, chống cát
cứ phân biệt.
3.2.3. Triết học thời Nam Bắc triều và Tuỳ - Đường
Thời kỳ này ( khoảng 5 thế kỷ) xã hội Trung Quốc ổn định xen với không
ổn định. Mâu thuẫn xã hội chủ yếu là nông dân và địa chủ luôn thể hiện khi
ngấm ngầm lúc gay gắt. Nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân với quy mô lớn nổ ra.
Các tâp đoàn phong kiến lợi dụng mâu thuẫn ấy lôi kéo quần chúng vào những
cuộc chiến tranh giành nhau.
Thời kỳ này Huyền học suy thoái, Nho gia trì trệ, Triết học Phật giáo với
giá trị của nó được tôn vinh, lại được cấp thống trị tạo điền kiện phát triển. Phật
giáo từ Ấn Độ vào Trung quốc cho đến khi hình thành Phật giáo Trung Quốc là
một quá trình lâu dài. Cùng với Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo đã tạo nên thế
chân vạc của đời sống tinh thần và bản sắc tư tưởng Trung Quốc.
19


Triết học Phật giáo lấy đối tượng con người và xã hội làm trung tâm cho
sự nghiên cứu, có xu hướng chung là giải quyết các vấn đề thực tiễn nhằm cải
thiện đời sống nhân sinh ngày một tốt đẹp hơn.
Theo quan điểm Phật giáo, nguồn gốc của loài người và nguồn gốc hình

thành Quốc gia đều xuất phát từ lòng dục. “Do lòng dục sinh khởi quá mạnh mà
có quốc gia. Quốc giahay chính phủ là quyền thống trị được quy định bởi kết
quả của dân ước, trong đó mỗi người dân đều muốn được bảo vệ quyền
lợi và tài sản tư hữu của mình”. (Kinh Thế kỷ, Phẩm Thế bản duyên, (Trường A
Hàm, quyển 22)

Như vậy chúng ta có thể bàn đến phương pháp lấy dục

làm trung tâm mà hạn chế tư dục để trù mưu cuộc chung sống, chung hưởng
trong một quốc gia. Chính trị quan Phật giáo Đạo phật vốn không có chủ trương
làm chính trị, chính trị và đạo Phật hai lối đi khác nhau
Thời kỳ này có học gia Lưu Vũ Tích, về mặt xã hội, ông cho rằng quy luật
tự nhiên và quy luật xã hội không tương đồng. Giới tự nhiên vận động theo luật
mạnh thắng yếu, trong xã hội lấy quan niệm phải trái để giới tự nhiên nên biết
lợi dụng giới tự nhiên theo lợi ích của mình. Xã hội phải biết thực hiện pháp chế
chính trị trong sáng, phân biệt phải trái tốt xấu thiện ác… để thưởng phạt công
minh, nếu pháp chế xã hội lộn xộn. Xã hội có trật tự ổn định hay lộn xộn là do
người, không đổ tại trời.
3.2.4. Tư tưởng triết học chính trị - xã hội thời Minh – Thanh
Nhà Minh thành lập đã thực hiện một loạt chính sách khoan dân, củng cố
chế độ quân chủ chuyên chế, được coi là một trong những triều đại thịnh trị,
Nhà Thanh do tộc người Mãn ở đông bắc Trung Quốc thống trị, nối tiếp sự phát
triển của nhà Minh, tạo được một số thành tựu.
Thời Minh- Thanh văn hoá, khoa học đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Triết học duy vật phát triển trong sự đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm, dựa vào
sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật vàt tiếp cận với văn minh Tây Âu, bước đầu
đặt cơ sở lý luận cho cách mạng dân chủ tư sản.
3.2.4. 1. Tôn Trung Sơn
20



Ông là nhà triết học duy vật, ông nêu ra thuyết “tam dân”- dân tộc, dân
quyền, dân sinh, Dân tộc là dánh đổ vương triều Mãn Thanh và bọn tay sai đế
quốc phương Tây, chống chia cắt Trung Quốc, giành độc lập. Dân quyền là đánh
đổ chế độ phong kiến chuyên chế, thành lập nhà nước cộng hoà dân chủ tư sản.
Dân sinh có nội dung chủ yếu là bình quân địa quyền. Tôn Trung Sơn đã vận
động làm cách mạng chủ tư sản 1911, đặt dấu chấm hết cho chế độ phong kiến
kéo dài hàng ngàn năm ở Trung Quốc.
KẾT LUẬN
Nền triết học Trung Hoa cổ trung đại ra đời vào thời kỳ đất nước Trung
Quốc còn nhiều loạn lạc, chiến tranh. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm
hàng đầu của các nhà tư tưởng Trung hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống
thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy
tâm để giải thích và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng
những tư tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn trong việc xác lập một trật tự xã
hội theo mô hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những
giá trị chuẩn mực chính trị - đạo đức phong kiến phương Đông.
Nho gia với đường lối đức trị, đề cao trách nhiệm bậc sĩ phu , quân tử
trong việc cứu nước, cứu quốc. Đạo gia đề xuất triết lý nhân sinh khuyên con
người sống “vô vi” theo đạo trời mà hành động. Pháp gia thể hiện đường lối
pháp trị thích hợp với xã hội thời loạn lạc. Với quan niệm thực tế khi nhìn nhận
nguyên căn của tình trạng loạn lạc là do tính ác của con người vì danh lợi mà
tranh giành, đấu đá lẫn nhau làm xã hội loạn lạc mà các học giả đã tìm được
giải pháp sử dụng luật pháp để trị nước.
Mặc dù, mỗi thời kỳ đều có những quan điểm triết học chính trị - xã hội
khác nhau đều tồn tại những mặt tích cực và tiêu cực, chung quy đều có những
giá trị nhất định để kế thừa xây dựng nhà nước lý tưởng. Nói chung, lịch sử phát
triển của các tư tưởng triết học chính trị - xã hội trong triết học Trung Quốc cổ

21



trung đại từ thời hình thành đã có sự phát triển mang tính hệ thống, phong phú
và đa dạng về mặt nội dung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Thích, Đại cương triết học sử Trung Quốc, NXB Văn hóa thông tin, 2004.
2. PGS, TS Trương Ngọc Nam, ThS. Trương Đỗ Tiến. Giáo trình lịch sử triết
học trung quốc thời kỳ cổ - trung đại, NXB Chính trị - Hành chính , 2009
3. Tạp chí khoa học và công nghệ, đại học Đà Nẵng - số 3(26).2008
4. Phùng Hữu Loan, Lịch sử triết học Trung Quốc, NXB Khoa học xã hội, 2006.
5. Phùng Hữu Loan, Đại cương Triết học sử Trung Quốc, NXB Thanh niên,
1999.
6. Giáo trình Triết học
7. Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử Triết học phương Đông, NXB TP Hồ Chí Minh,
1991.

22



×