Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Nâng cao chất lượng nhân lực khoa ngoại Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương giai đoạn 2015 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.01 KB, 44 trang )

1

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do xây dựng đề án
Trên thế giới sự thay đổi mạnh mẽ, nhanh chóng và toàn diện trên tất
cả các lĩnh vực an ninh, chính trị, kinh tế, xã hội đã tác động không nhỏ đến
trong nước.
Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới toàn diện, chuyển đổi
từ nền kinh tế kế hoạch hóa quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập sâu rộng với thế giới. Nhiều cơ
hội nhưng thách thức cũng không nhỏ đã ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp
đến sự phát triển đất nước, nền kinh tế đất nước tăng trưởng nhu cầu của
người dân ngày càng cao. Ngành y tế Việt nam trong đó có Bệnh viện Y học
cổ truyền Trung ương cũng chịu sự tác động đó, nhiều thành tựu to lớn của
ngành y tế Việt nam được xã hội ghi nhận. Tuy nhiên cũng còn nhiều bất cập
và hạn chế như: tình trạng quá tải, thái độ ứng xử, đạo đức nghề nghiệp,
những hậu quả do trình độ năng lực hạn chế ở một số nhân viên. Đã gây nóng
tại nghị trường họp Quốc hội, dư luận xã hội hay trên thông tin đại chúng.
Khoa ngoại bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương, có chức năng
nhiệm vụ kết hợp Y học cổ truyền với Y học hiện đại trong chăm sóc sức khỏe
cho nhân dân. Sự hội nhập sâu rộng của nước ta với thế giới đồng thời đem lại
cho đơn vị cơ hội tiếp cận những thành tựu y học hiện đại của thế giới cũng
như sự ảnh hưởng từ những mặt trái của nó. Trải qua 50 năm từ khi được
thành lập, cùng với nhiều thành tựu tích cực khoa ngoại đã đạt được trong
công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân thì những hạn chế hiện nay như: kỹ
năng giao tiếp, thái độ ứng xử, đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng nghề nghiệp
(tay nghề), trình độ chuyên môn thấp (bằng cấp) của nhân viên trong khoa
còn thiếu và yếu. Những hạn chế này đã gây ảnh hưởng lớn đến sự hài lòng,
chất lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, uy tín của
ngành Y đối với xã hội. Do đó sự cần thiết phải nâng cao kỹ năng giao tiếp,
thái độ ứng xử, trình độ tay nghề và chuyên môn là cần thiết, cấp bách cho




2

toàn bộ nhân viên đang công tác tại Khoa ngoại Bệnh viện Y học cổ truyền
Trung ương trong giai đoạn hiện nay.
Với ý nghĩa quan trọng đó, sau khi được tiếp thu lý luận chính trị cơ bản
của Học viện Chính trị Hồ Chí Minh khu vực I kết hợp với tình hình thực tế ở
đơn vị, tôi chọn đề án “Nâng cao chất lượng nhân lực khoa ngoại Bệnh viện
Y học cổ truyền Trung ương giai đoạn 2015 - 2020” làm đề án tốt nghiệp
khóa học Lý luận chính trị cao cấp. Mong rằng, đề án sẽ góp phần nâng cao
chất lượng nhân lực của Khoa ngoại để hoàn thành tốt được nhiệm vụ chăm
sóc sức khỏe cho nhân dân.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Chất lượng nhân lực tại khoa ngoại Bệnh viện Y học cổ truyền Trung
ương được cải thiện.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Đến hết tháng 11 / 2020
- 100% bác sỹ khoa ngoại có bằng sau đại học.
- 100% điều dưỡng khoa ngoại có bằng cao đẳng hoặc cử nhân.
- 100% nhân viên của đơn vị được tập huấn về nâng cao kỹ năng giao
tiếp, thái độ ứng xử, đạo đức nghề nghiệp 1lần / năm.
3. Giới hạn của đề án
3.1. Đối tượng của đề án
Đội ngũ nhân lực Khoa ngoại bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương.
3.2. Phạm vi không gian của đề án
Tập trung vào việc xây dựng, tổ chức thực hiện nâng cao chất lượng nhân
lực tại Khoa ngoại Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương về: kỹ năng giao tiếp,
thái độ ứng xử, đạo đức nghề nghiệp, trình độ tay nghề và chuyên môn.

3.3. Thời gian thực hiện của đề án
Từ năm 2016 đến hết năm 2020.


3

B. NỘI DUNG
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Một số khái niệm
- Chất lượng: Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một
sản phẩm, hệ thống hay qúa trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và
các bên có liên quan.
- Nhân lực: Bao gồm tất cả các tiềm năng của con người trong một tổ chức
hay xã hội (kể cả những thành viên trong ban lãnh đạo doanh nghiệp) tức là tất
cả các thành viên trong doanh nghiệp sử dụng kiến thức, khả năng, hành vi ứng
xử và giá trị đạo đức để thành lập, duy trì và phát triển doanh nghiệp.
- Chất lượng nhân lực: Là mức độ đáp ứng về khả năng làm việc của
người lao động với yêu cầu công việc của tổ chức và đảm bảo cho tổ chức
thực hiện thắng lợi mực tiêu cũng như thỏa mãn cao nhất nhu cầu của ngươi
lao động”. Hay chất lượng nguồn nhân lực có thể được hiểu là:” trạng thái
nhất định của nguồn nhân lực thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành
bên trong của nguồn nhân lực”
- Nguồn nhân lực:
Theo giáo trình Nguồn nhân lực của Trường Đại học Lao động – Xã hội
do PGS. TS. Nguyễn Tiệp chủ biên, in năm 2005 thì “Nguồn nhân lực bao
gồm toàn bộ dân cư có khả năng lao động” . Khái niệm này chỉ nguồn nhân
lực với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội. Nguồn nhân lực
được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động
có khả năng lao động.



4

Theo PGS.TS Trần Xuân Cầu và PGS.TS Mai Quốc Chánh, Giáo trình
Kinh tế Nguồn nhân lực, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội (2008)
“Nguồn nhân lực là một phạm trù dùng để chỉ sức mạnh tiềm ẩn của dân cư,
khả năng huy động tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh
thần cho xã hội trong hiện tại cũng như trong tương lai. Sức mạnh và khả
năng đó được thể hiện thông qua số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số, nhất
là số lượng, chất lượng con người có đủ điều kiện tham gia vào nền sản xuất
xã hội”. Nguồn nhân lực được xem xét và đánh giá theo số lượng, chất lượng
và cơ cấu:
Về số lượng: thể hiện quy mô nguồn nhân lực và tốc độ tăng nguồn
nhân lực.
Về chất lượng: thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản
chất bên trong của nguồn nhân lực, được biểu hiện thông qua thể lực, trí lực,
kỹ năng lao động, tinh thần, thái độ, ý thức lao động và phong cách làm việc.
Về cơ cấu nguồn nhân lực thông qua các tỷ lệ của từng bộ phận nguồn
nhân lực được phân chia theo các tiêu thức chất lượng khác nhau trong tổng
nguồn nhân lực như: cơ cấu nguồn nhân lực theo tuổi, theo giới tính, theo
trình độ chuyên môn…
Từ các quan điểm trên, nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo
nghĩa rộng thì nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có khả năng lao động.
Theo nghĩa hẹp thì nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội bao
gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, là tổng
thể của các yếu tố thể lực, trí lực, kỹ năng lao động, tinh thần, thái độ, ý thức
lao động.
Trong phạm vi đề án, nguồn nhân lực trong tổ chức được hiểu là tổng số
cán bộ công chức, viên chức và người lao động có trong danh sách của một tổ

chức, làm việc bằng thể lực, trí lực của họ và hoạt động theo chức năng nhiệm
vụ của tổ chức. Hay có thể gọi là lực lượng lao động của tổ chức.


5

Chất lượng nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực không chỉ được xem xét dưới góc độ số lượng mà còn ở
khía cạnh chất lượng. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về chất lượng nguồn
nhân lực.
Theo PGS. TS. Nguyễn Tiệp thì “chất lượng nguồn nhân lực là trạng
thái nhất định của nguồn nhân lực, là tố chất, bản chất bên trong của nguồn
nhân lực, nó luôn có sự vận động và phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã
hội cũng như mức sống, dân trí của dân cư.”.
Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện ở các mặt sau:
- Sức khỏe;
- Trình độ văn hóa;
- Trình độ chuyên môn – kỹ thuật;
- Năng lực thực tế về tri thức, kỹ năng nghề nghiệp.
- Tính năng động xã hội (khả năng sáng tạo, thích ứng, linh hoạt, nhanh
nhạy với công việc;
- Phẩm chất đạo đức, tác phong, thái độ đối với công việc và môi
trường làm việc;
- Hiệu quả hoạt động lao động của nguồn nhân lực;
- Thu nhập, mức sống và mức độ thỏa mãn nhu cầu cá nhân của người
lao động.
Còn theo quan điểm PGS.TS Trần Xuân Cầu và PGS.TS Mai Quốc
Chánh thì chất lượng nguồn nhân lực được hiểu như sau: “Chất lượng
nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực thể hiện mối quan
hệ giữa các yếu tố cấu thành bên trong của nguồn nhân lực”.

Trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh cao và hội nhập sâu rộng
thì chất lượng nguổn nhân lực được coi là chỉ tiêu quan trọng phản ánh trình
độ phát triển kinh tế và đời sống của con người trong một xã hội nhất định.


6

Theo PGS.TS. Phùng Rân thì chất lượng nguồn nhân lực được đo bằng
2 tiêu chí: “là năng lực hoạt động của NNL và phẩm chất đạo đức của
NNL đó” . Năng lực hoạt động có được thông qua đào tạo, qua huấn luyện,
qua thời gian làm việc được đánh giá bằng học hàm, học vị, cấp bậc công việc
và kỹ năng giải quyết công việc. Phẩm chất đạo đức là khả năng giám nghĩ,
giám làm, giám chịu trách nhiệm và khó có tiêu chí nào làm thức đo để đánh
giá phẩm chất đạo đức của NNL.
Với các cách hiểu khác nhau về chất lượng nguồn nhân lực, nhưng nhìn
chung lại thì chất lượng nguồn nhân lực là một khái niệm tổng hợp, bao gồm
những nét đặc trưng về trạng thái thể lực, trí lực, đạo đức và phẩm chất. Nó
thể hiện trạng thái nhất định của nguồn nhân lực với tư cách vừa là một khách
thể vật chất đặc biệt, vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế và các quan hệ
xã hội. Trong đó:
- Thể lực của con người chịu ảnh hưởng của mức sống vật chất, sự chăm
sóc sức khỏe và rèn luyện của từng cá nhân cụ thể. Một cơ thể khỏe mạnh,
thích nghi với môi trường sống thì năng lượng do nó sinh ra sẽ đáp ứng yêu
cầu của một hoạt động cụ thể nào đó. Thể lực có ý nghĩa quan trọng quyết
định năng lực hoạt động của con người. Phải có thể lực con người mới có thể
phát triển trí tuệ và quan hệ của mình trong xã hội.
- Trí lực được xác định bởi tri thức chung về khoa học, trình độ kiến thức
chuyên môn, kỹ năng kinh nghiệm làm việc và khả năng tư duy xét đoán của
mỗi con người. Trí lực thực tế là một hệ thống thông tin đã được xử lý và lưu
giữ lại trong bộ nhớ của mỗi cá nhân con người, được thực hiện qua nhiều

kênh khác nhau. Nó được hình thành và phát triển thông qua giáo dục đào tạo
cũng như quá trình lao động sản xuất.


7

- Đạo đức, phẩm chất là những đặc điểm quan trọng trong yếu tố xã hội
của nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ những tình cảm, tập quán phong cách,
thói quen, quan niệm, truyền thống, các hình thái tư tưởng, đạo đức và nghệ
thuật..., gắn liền với truyền thống văn hóa. Một nền văn hóa với bản sắc riêng
luôn là sức mạnh nội tại của một dân tộc. Kinh nghiệm thành công trong phát
triển kinh tế của Nhật Bản và các nước NICs châu Á là tiếp thu kỹ thuật
phương Tây trên cơ sở khai thác và phát huy giá trị tốt đẹp của nền văn hóa
dân tộc để đổi mới và phát triển.
Các yếu tố này có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, là tiền đề phát triển
của nhau. Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải nâng cao cả ba
mặt: thể lực, trí lực và đạo đức, phẩm chất. Tuy nhiên mỗi yếu tố trên lại liên
quan đến một lĩnh vực rất rộng lớn. Thể lực và tình trạng sức khỏe gắn với
dinh dưỡng, y tế và chăm sóc sức khỏe. Trí lực gắn với lĩnh vực giáo dục đào
tạo, còn đạo đức phẩm chất chịu ảnh hưởng của truyền thống văn hóa dân tộc,
nền tảng văn hóa và thể chế chính trị... Do vậy, để đánh giá chất lượng nguồn
nhân lực thường xem xét trên ba mặt: sức khỏe, trình độ văn hóa và chuyên
môn kỹ thuật, năng lực phẩm chất của người lao động.
Trong đề án này chất lượng nguồn nhân lực được hiểu như sau:
“Chất lượng nguồn nhân lực là toàn bộ năng lực của lực lượng lao động
được biểu hiện thông qua ba mặt: Thể lực, trí lực, tâm lực. Tất cả các mặt này
có quan hệ chặt chẽ với nhau cấu thành nên chất lượng nguồn nhân lực. Trong
đó cả 3 yếu tố: thể lực, trí lực và tâm lực đều là yếu tố quan trọng trong việc
xem xét đánh giá chất lượng nguồn nhân lực”.
Vậy nâng cao chất lượng nhân lực khoa ngoại Bệnh viện Y học cổ truyền

Trung ương là sự tăng cường sức mạnh và kỹ năng hoạt động sáng tạo của
năng lực thể chất và năng lực tinh thần của lực lượng lao động lên đến một


8

trình độ nhất định để lực lượng này có thể hoàn thành được nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội trong một giai đoạn phát triển của một quốc gia, một tổ
chức. Do đó, chất lượng nguồn nhân lực chính là động lực trực tiếp cho sự
phát triển kinh tế- xã hội. Thông qua chất lượng nguồn nhân lực thể hiện rõ
trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, chất lượng cuộc sống của
dân cư hay mức độ văn minh của một xã hội.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là tạo ra tiềm năng của con người
thông qua đào tạo, bồi dưỡng, tự bồi dưỡng và đào tạo lại, chăm sóc sức khỏe
về thể lực và tinh thần, khai thác tối đa tiềm năng đó trong các hoạt động lao
động thông qua việc tuyển dụng, sử dụng, tạo điều kiện về môi trường làm
việc (phương tiện lao động có hiệu quả và các chế độ chính sách hợp lý,…)
môi trường văn hóa, xã hội kích thích động cơ, thái độ làm việc của người lao
động, để họ mang hết sức mình hoàn thành các chức trách, nhiệm vụ được
giao. Việc quản lý và sử dụng đúng nguồn nhân lực sau khi đã được đào tạo
phù hợp với năng lực của mỗi cá nhân phục vụ cho các công việc cụ thể là
nhân tố quyết định đến thành công của doanh nghiệp.
Từ những luận điểm trên có thể hiểu rằng: Nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực tại khoa ngoại Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương là nâng cao
mức độ đáp ứng công việc của người lao động trên các phương diện: thể lực,
trí lực và tâm lực so với yêu cầu cụ thể nhằm đạt được mục tiêu chung của
khoa ngoại.
- Khoa ngoại: Là khoa lâm sàng thực hiện khám bệnh, chữa bệnh chủ
yếu bằng các thủ thuật và phẫu thuật.
- Khoa ngoại bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương: Là khoa lâm sàng

thực hiện khám bệnh, chữa bệnh chủ yếu bằng các thủ thuật, phẫu thuật, kết
hợp thuốc và thủ thuật Y học cổ truyền.


9

1.1.2. Vai trò của nguồn nhân lực
Hiện nay, vai trò của nguồn nhân lực đang ngày càng được thừa nhận
như một yếu tố quan trọng bên cạnh vốn, công nghệ cho mọi sự tăng trưởng.
Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi
lao động có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được hiểu theo hai
nghĩa:
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho
sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó,
nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường.
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là
nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ
tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn
bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố
về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động. Nguồn nhân
lực tương tác với các nguồn lực khác. Nguồn nhân lực được thể hiện qua các
tiêu chí: số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực.
Phát triển nguồn nhân lực là phát huy nhân tố con người, gia tăng toàn
diện giá trị con người trên các mặt trí tuệ, thể lực, năng lực lao động sáng tạo
và bản lĩnh chính trị... để họ trở thành những người có năng lực, phẩm chất
phù hợp với sự phát triển của xã hội và thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Nguồn lực là tổng thể những năng lực của con người được huy động vào quá
trình sản xuất, thì năng lực đó là nội lực con người. Động lực, mục tiêu của sự
phát triển và sự tác động của sự phát triển tới bản thân con người cũng nằm
trong chính bản thân con người. Điều đó lý giải tại sao con người được coi là

nhân tố năng động nhất, quyết định đến mọi sự phát triển.
1.1.3. Một số yếu tố cơ bản tác động đến chất lượng nhân lực tại khoa
ngoại bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương.
- Sức khỏe:


10

Trong đời sống xã hội, sức khỏe luôn giữ vai trò quan trọng. Nó là cơ sở
không thể thiếu để góp phần tạo nên nền tảng hạnh phúc cho con người, sự
phát triển của mỗi người, mỗi gia đình và toàn xã hội.
Mặt khác, sức khỏe chính là nền tảng quan trọng để tạo nên sự phát triển
của xã hội. Khi có sức khỏe, con người có thể thực hiện những hoạt động cá
nhân và hoạt động xã hội có hiệu quả. Do đó sức khỏe là yếu tố có ảnh hưởng
nhiều đến chất lượng nhân lực.
- Kỹ năng nghề nghiệp: Là khả năng thực thi công việc, kỹ năng tay
nghề tốt thì nhân viên mới có chất lượng tốt và ngược lại.
- Trình độ học vấn: Là mức độ nhận thức hiểu biết về một vấn đề hay
lĩnh vực trong xã hội, nhân lực có trình độ học vấn cao sẽ có chất lượng tốt và
ngược lại.
- Tiền lương: là thu nhập chính, có tác động trực tiếp đến người lao
động. Một trong những mục tiêu chính của người lao động là làm việc để
được đãi ngộ xứng đáng. Vì vậy vấn đề tiền lương thu hút được sự chú ý của
tất cả mọi người, nó là công cụ để thu hút lao động. Muốn cho công tác quản
trị nhân sự được thực hiện một cách có hiệu quả thì các vấn đề về tiền lương
phải được quan tâm một cách thích đáng.
- Môi trường làm việc: Môi trường làm việc tốt và phù hợp sẽ khuyến
khích, thúc đẩy và tạo cơ hội để con người được bộc lộ và phát huy hết khả
năng năng lực của mình và ngược lại.
1.1.4. Tiêu chí đánh giá chất lượng nhân lực tại khoa ngoại bệnh viện Y

học cổ truyền Trung ương
* Tiêu chí về trình độ chuyên môn
- Trưởng khoa: Yêu cầu trình độ chuyên môn thấp nhất là Tiến sĩ hoặc


11

chuyên khoa II.
- Phó trưởng khoa: Yêu cầu trình độ chuyên môn thấp nhất là Thạc sĩ
hoặc chuyên khoa I.
- Điều dưỡng trưởng: Yêu cầu có bằng cử nhân.
- Đến hết năm 2020: Yêu cầu toàn bộ điều dưỡng tối thiểu phải có bằng
cao đẳng.
- Bác sỹ, điều dưỡng chuyên ngành Y học hiện đại: ít nhất phải có bằng
chuyên khoa định hướng Y học cổ truyền.
- Bác sỹ, điều dưỡng chuyên ngành Y học cổ truyền: ít nhất phải có bằng
chuyên khoa định hướng ngoại khoa.
*Tiêu chí về kỹ năng giao tiếp, thái độ ứng xử, đạo đức nghề nghiệp
Nhân viên của khoa trong phải có chứng chỉ hoàn thành lớp tập huấn về
kỹ năng giao tiếp, thái độ ứng xử, đạo đức nghề nghiệp hàng năm.
1.1.5. Chức năng nhiệm vụ khoa ngoại bệnh viện Y học cổ truyền Trung
ương
*Tổ chức hoạt động của khoa theo đúng quy chế công tác khoa ngoại;
-Tổ chức phẫu thuật theo lịch và phẫu thuật cấp cứu theo đúng quy chế công
tác khoa phẫu thuật - gây mê hồi sức;
- Tổ chức hội chẩn trong khoa và liên khoa để đảm bảo an toàn phẫu thuật;
- Thực hiện đúng các quy định kỹ thuật bệnh viện, theo dõi chăm sóc người
bệnh trước, trong và sau phẫu thuật.
*Nhiệm vụ gây mê Hồi sức:
- Tổ chức hoạt động của khoa theo quy chế công tác khoa ngoại, quy chế công

tác khoa phẫu thuật - gây mê hồi sức và quy chế công tác khoa chống nhiễm
khuẩn;
- Tổ chức thực hiện kế hoạch phẫu thuật theo kế hoạch đã được duyệt;
- Sắp xếp người bệnh vào buồng phẫu thuật theo yêu cầu phẫu thuật các
chuyên khoa;
- Bố trí bàn phẫu thuật thường trực cấp cứu đáp ứng yêu cầu của các khoa lâm
sàng;


12

- Phân công bác sĩ gây mê, phụ gây mê, y tá (điều dưỡng) tiếp dụng cụ và y tá
(điều dưỡng) phụ kíp phẫu thuật;
* Kiểm tra:
- Thuốc cấp cứu trong các buồng phẫu thuật;
- Dụng cụ phẫu thuật;
- Vải phẫu thuật, bông gạc;
- Các vật liệu dùng trong phẫu thuật;
- Các thiết bị y tế trong buồng phẫu thuật phải bảo đảm hoạt động tốt;
- Máy gây mê, thuốc mê, ô xy …
- Máy thở, bóng thở, máy theo dõi tim mạch, máy hút …
- Kiểm tra công tác vô khuẩn theo quy định.
* Có trách nhiệm tổ chức theo dõi, chăm sóc người bệnh từ tiếp nhận đến khi
bàn giao người bệnh cho khoa lâm sàng;
* Định kỳ cùng với các khoa đánh giá kết quả các trường hợp phẫu thuật để
rút kinh nghiệm;
*Tổ chức tổng vệ sinh các buồng phẫu thuật và kiểm tra công tác bảo hộ lao
động phòng chống cháy nổ theo quy định.
* Khám chữa bệnh ngoại khoa kết hợp Y học cổ truyền
* Đảm bảo công tác cấp cứu ngoại khoa

* Chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới
*Nghiên cứu khoa học
* Hợp tác quốc tế
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
1.2.1 Cơ sở chính trị
* Nghị quyết của Bộ Chính trị số 46-NQ/TW ngày 23 tháng 02 năm
2005 về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong
tình hình mới.
Trong hơn 10 năm qua, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân
ở nước ta tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Mạng lưới y tế, đặc
biệt là y tế cơ sở ngày càng được củng cố và phát triển; nhiều dịch bệnh nguy
hiểm được khống chế và đẩy lùi; các dịch vụ y tế ngày một đa dạng; nhiều


13

công nghệ mới được nghiên cứu và ứng dụng; việc cung ứng thuốc và trang
thiết bị y tế đã có nhiều cố gắng hơn trước. Bảo hiểm y tế được hình thành và
bước đầu phát huy tác dụng. Nhân dân ở hầu hết các vùng, miền đã được
chăm sóc sức khoẻ tốt hơn; phần lớn các chỉ tiêu tổng quát về sức khoẻ của
nước ta đều vượt các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người.
Đạt được những thành tựu trên là nhờ có sự phấn đấu nỗ lực của đại đa
số cán bộ, nhân viên ngành y tế; sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy
đảng, chính quyền; sự tham gia tích cực và có hiệu quả của các ban, ngành,
Mặt trận tổ quốc, đoàn thể, tổ chức xã hội và đông đảo nhân dân.
Tuy nhiên, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ ở nước ta vẫn còn
nhiều bất cập và yếu kém. Hệ thống y tế chậm đổi mới, chưa thích ứng với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự thay
đổi của cơ cấu bệnh tật; chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng nhu cầu ngày
càng đa dạng của nhân dân; điều kiện chăm sóc y tế cho người nghèo, vùng

sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn; năng lực sản xuất và
cung ứng thuốc còn yếu, giá thuốc chữa bệnh còn cao so với thu nhập của
nhân dân. Tổ chức và hoạt động của y tế dự phòng còn nhiều bất cập. Một bộ
phận nhân dân chưa hình thành được ý thức và thói quen tự bảo vệ, chăm sóc
và nâng cao sức khoẻ. Vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm chưa được
kiểm soát chặt chẽ. Những việc làm vi phạm đạo đức nghề nghiệp của một số
cán bộ y tế chậm được khắc phục.
Nguyên nhân chính của những yếu kém trên là do quản lý nhà nước
trong lĩnh vực y tế còn nhiều bất cập, một số chính sách về y tế không còn
phù hợp nhưng chậm được sửa đổi hoặc bổ sung; việc quản lý hoạt động
khám, chữa bệnh và hành nghề y dược tư nhân chưa chặt chẽ; đầu tư của Nhà
nước cho y tế còn thấp, phân bổ và sử dụng nguồn lực chưa hợp lý, kém hiệu
quả. Chưa có những giải pháp hữu hiệu để huy động các nguồn lực từ cộng


14

đồng và xã hội cho công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe. Đội ngũ cán bộ y
tế còn thiếu và yếu, cơ cấu chưa hợp lý, chế độ đãi ngộ chưa thỏa đáng. Một
số cấp uỷ đảng và chính quyền chưa thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công
tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, nhiều nơi còn trông chờ
vào bao cấp của Nhà nước.
Cùng với những yếu kém trên, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe nhân dân ở nước ta đang đứng trước những thách thức to lớn:
- Nhiều vấn đề xã hội mới phát sinh như ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã
hội đang ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của nhân dân; chênh lệch về thu nhập
trong nhân dân đang đặt ra những thách thức lớn về bảo đảm công bằng trong
khám, chữa bệnh; mặt trái của kinh tế thị trường có nguy cơ làm phai mờ giá
trị đạo đức cao quí của người thầy thuốc.
- Quy mô dân số của nước ta những năm tới vẫn tiếp tục tăng, nhu cầu

chăm sóc sức khoẻ của nhân dân ngày càng cao và đa dạng, trong khi khả
năng đáp ứng của hệ thống y tế còn hạn chế.
- Chi phí cho chăm sóc sức khoẻ ngày càng lớn, trong khi về cơ bản
nước ta vẫn còn là một nước nghèo, đầu tư cho công tác chăm sóc sức khoẻ
còn thấp.
- Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế vừa đem lại những cơ hội
thuận lợi, đồng thời cũng đặt nước ta trước những nguy cơ bị lây truyền các
bệnh dịch nguy hiểm và những thách thức trong lĩnh vực sản xuất thuốc và
ứng dụng công nghệ cao trong y tế.
* Quyết định số 2992/QĐ-BYT ngày 17/07/2015 của Bộ Y tế về: Kế
hoạch phát triển nhân lực trong hệ thống khám bệnh, chữa bệnh giai
đoạn 2015 - 2020.
+ Phát triển nhân lực khám bệnh, chữa bệnh (KBCB) theo tinh thần Nghị
Quyết 46-NQ/TW của Bộ chính trị về “Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng


15

cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới” với quan điểm “Nghề y là một
nghề đặc biệt, cần được tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt” và
theo quan điểm chung phát triển nhân lực y tế Việt Nam trong Quyết định
816/QĐ-BYT của Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt “Quy hoạch phát triển nhân
lực y tế giai đoạn 2012-2020”;
+ Phát triển nhân lực KBCB dựa trên cơ sở thực tiễn, kế thừa và phát
huy những thành tựu, kinh nghiệm, khắc phục những bất cập và yếu kém để đáp
ứng đầy đủ nhu cầu nhân lực cho việc phát triển hệ thống KBCB, từng bước đáp
ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe (CSSK) ngày càng tăng của nhân dân;
+ Phát triển nhân lực khám bệnh, chữa bệnh trên cơ sở sự cần thiết, tính
cấp bách, tính khả thi và sự phù hợp giữa các vùng kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Điều chỉnh dần những mất cân đối trong phân bố nhân lực giữa các vùng kinh

tế, các khu vực thành thị và nông thôn, các chuyên ngành, ưu tiên tăng cường
nhân lực KBCB cho tuyến huyện, xã, khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo và
các vùng khó khăn về kinh tế – xã hội, góp phần bảo đảm ngày càng công
bằng hơn trong cung cấp các dịch vụ KBCB cho nhân dân;
+ Giáo dục y đức luôn được chú trọng và thực hiện song song với đào
tạo chuyên môn nghiệp vụ, đồng thời với phát triển năng lực nghiên cứu khoa
học y học, rút ngắn khoảng cách trình độ công nghệ trong lĩnh vực KBCB với
các nước phát triển trong khu vực và thế giới;
+ Tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút nguồn lực về tài chính và tiếp thu
công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện Việt Nam trong phát triển và phân
bổ nguồn nhân lực KBCB.
+ Phát triển đội ngũ nhân lực KBCB đủ về số lượng, mạnh về chất
lượng, hợp lý về cơ cấu, theo hướng tối ưu về phân bố giữa các khu vực và
phân bố giữa các chuyên ngành, đáp ứng yêu cầu CSSK, đặc biệt là chăm sóc
sớm, dựa vào cộng đồng, song song với phát triển kỹ thuật để góp phần nâng


16

cao chất lượng dịch vụ KBCB, thực hiện mục tiêu công bằng, hiệu quả và
phát triển. Cụ thể:
- Tăng nhanh số lượng nhân lực, nhất là bác sỹ, thông qua các loại hình
đào tạo khác nhau, ưu tiên nhân lực cho các địa phương còn nhiều khó khăn,
các bệnh viện tuyến huyện và trạm y tế xã;
- Đặc biệt chú trọng phát triển đội ngũ bác sỹ chuyên khoa, đáp ứng nhu cầu
phát triển kỹ thuật, nâng cấp bệnh viện, nhằm nâng cao chất lượng KBCB;
- Nâng cao trình độ và năng lực quản lý điều hành nhân lực cho đội ngũ
cán bộ làm công tác quản lý bệnh viện;
- Xây dựng chính sách và chế độ đãi ngộ hợp lý cho nhân lực KBCB,
đặc biệt là các vùng miền núi, hải đảo, khó khăn, vùng có nhiều đồng bào dân

tộc thiểu số và một số lĩnh vực chuyên khoa kém thu hút nhằm cân đối phân
bố nhân lực KBCB, góp phần nâng cao chất lượng KBCB ở tuyến dưới.
1.3. Cơ sơ pháp lý
Do nhận thức rõ vị trí của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng và
việc cần thiết từng bước hiện thực những giá trị nhân văn của cách mạng vô
sản, cách mạng xã hội chủ nghĩa, ngay từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn quan tâm chỉ đạo xây dựng nền y tế XHCN - nền y tế phục
vụ nhân dân lao động. Trong những điều kiện lịch sử cụ thể, công tác y tế đều
hướng tới mục tiêu xây dựng lực lượng y bác sĩ có trình độ cao, có lương tâm
nghề nghiệp và xây dựng cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh
cho nhân dân. Những thành tựu mà ngành y tế đạt được dưới sự lãnh đạo của
Đảng là những đóng góp quan trọng đối với thắng lợi dân tộc trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhât đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trong thời kỳ đổi mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được coi là
một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, là khâu đột phá của các kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
(1996), Đảng ta đã khẳng định: “con người vừa là động lực vừa là mục tiêu


17

của sự phát triển, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi”[1, tr89] Đại hội đề ra
nhiều chủ trương mới liên quan trực tiếp tới các bước đổi mới trong quản trị
nguồn nhân lực. Từ đó những tư duy đổi mới mạnh mẽ về giáo dục, khoa học,
công nghệ và nâng cao chất lượng ngành y tế đã đi vào cuộc sống một cách
sâu rộng. Đảm bảo cho người dân trên các địa bàn được chăm sóc sức khỏe
cơ bản với chi phí thấp được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
góp phần thực hiện công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống
văn hóa, trật tự an toàn xã hội, tạo niềm tin của nhân dân đối với xã hội chủ
nghĩa. Trên cơ sở những chủ trương của Đảng, ngày 20 tháng 06 năm 1996,

Chính Phủ ban hành Nghị quyết 37 về “Định hướng chiến lược chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe nhân dân đến năm 2000 và 2020”. Tiếp đó, Ban Bí
thư (Khóa IX) ra Chỉ thị số 06-CT/TW về củng cố và hoàn thiện mạng lưới y
tế cơ sở nhằm nâng cao chất lượng công tác khám chữa bệnh của nhân dân ở
các cấp địa phương.
Một trong những văn bản pháp lý quan trọng của Đề án là Nghị quyết
số 46-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 23/02/2005: “Về công tác bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới” . Nghị quyết đã nêu
rõ giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong ngành y tế: “Kiện toàn đội ngũ
cán bộ y tế cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Sắp xếp lại mạng lưới, mở
rộng và nâng cấp các cơ sở đào tạo, đáp ứng nhu cầu về cán bộ y tế phù hợp
với quy hoạch phát triển ngành; xây dựng một số trung tâm đào tạo cán bộ y
tế ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực” [2, tr 9] Nghị quyết còn chỉ ra
những giải pháp cụ thể cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của
ngành y tế cho từng vùng, đặc biệt là vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chú
trọng đào tạo cán bộ quản lý y tế, nhất là cán bộ quản lý bệnh viện; coi trọng
việc đào tạo, sử dụng và đãi ngộ nhân tài trong ngành; mở rộng việc đưa cán
bộ có trình độ cao đi đào tạo ở nước ngoài; xây dựng và thực hiện chính sách
đãi ngộ hợp lí đối với cán bộ, nhân viên y tế... được xác định là những giải
pháp cấp bách trong nâng cao chất lượng nguồn lực của y tế Việt Nam giai
đoạn mới.


18

Trên cơ sở những quan điểm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Bộ y tế đã
ban hành nhiều văn bản để triển khai thực hiện có hiệu quả công tác phát triển
nguồn nhân lực y tế như: Thông tư 23/2005/TT-BYT ngày 25/8/2005 của Bộ
trưởng Bộ Y tế hướng dẫn xếp hạng các đơn vị sự nghiệp y tế; Quyết định số
153/2006/QĐ-TTg ngày 30 tháng 6 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ phê

duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống Y tế Việt Nam giai đoạn đến năm
2010 và tầm nhìn đến năm 2020; Quyết định số 30/2008/QĐTTg ngày 22 tháng
02 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Quy hoạch phát triển mạng
lưới khám, chữa bệnh đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020; Thông tư liên
tịch Số: 08/2007/TTLT-BYT-BNV ngày 05/6/2007 về hướng dẫn định mức biên
chế nghiệp trong các cơ sở Y tế Nhà nước; Quyết định số 1816/QĐ-BYT ngày
26/5/2008 của Bộ trưởng Bộ y tế về việc phê duyệt Đề án cử cán bộ chuyên môn
luân phiên từ Bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ các Bệnh viện tuyến dưới nhằm
nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011), xuất phát từ thực
trạng nguồn nhân lực của đất nước, gắn với yêu cầu mới, mục tiêu nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực được được coi là 1 trong 3 khâu đột phá trong
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn 2011 – 2020. Tại
Đại hội XI, Đảng ta đã nhận định: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược,
là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ,
cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh
tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững”[4, tr 104]. Chủ trương mới này của Đại hội XI tiếp tục đặt ra những yêu
cầu mới đối với ngành y tế trong phát triển toàn diện, đặc biệt là xây dựng đội
ngũ y bác sĩ chất lượng cao. Để đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ mới đặt ra và
giải quyết những vấn đề bất cập của ngành y, ngày 09/01/2013, Thủ tướng
Chính phủ ra Quyết định số 92/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án giảm quá tải
Bệnh viện giai đoạn 2013-2020. Ngày 11 tháng 3 năm 2013 Bộ trưởng Bộ Y
tế ký Quyết định số 774/QĐ-BYT phê duyệt Đề án Bệnh viện vệ tinh giai
đoạn 2013 – 2020.


19


Trong những năm qua, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân
dân trên địa bàn tỉnh Ninh Bình đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn
thể quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, coi đó là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm. Chỉ đạo công tác này Tỉnh ủy tỉnh Ninh Bình đã
đưa ra những Nghị quyết có tính chiến lược đối với sự phát triển của ngành Y
tế Ninh Bình đó là: các bệnh viện tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng
khám, chữa bệnh" trên địa bàn tỉnh Ninh Bình; Nghị quyết số 03/2012/NQHĐND ngày 17/4/2012 của Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình về việc ban
hành Quy định chính sách ưu đãi về sử dụng đất đối với hoạt động xã hội hoá
trong các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể dục thể
thao, môi trường trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2012 - 2020; Nghị
quyết số 27/2011/NQ-HĐND ngày15/12/2011 của Hội đồng Nhân dân tỉnh về
việc Quy định chính sách khuyến khích tài năng và thu hút người có trình độ
cao về công tác tại tỉnh Ninh Bình; Nghị quyết số 28/2011/NQ-HĐND
ngày15/12/2011 của Hội đồng nhân dân tỉnh Quy định chế độ đối với cán bộ
chuyên môn luân phiên khám, chữa bệnh theo Quyết định 1816/QĐ-BYT
ngày 26/5/2008 của Bộ Y tế về việc phê duyệt Đề án "cử cán bộ chuyên môn
luân phiên từ Bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới nhằm
nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh”.
Những Nghị quyết trên đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo để nâng cao
chất lượng hệ thống y tế của tỉnh Ninh Bình nói chung và Bệnh viện Đa khoa
tỉnh Ninh Bình hướng tới thực hiện các mục tiêu cụ thể sau:
Thứ nhất: Quy hoạch và phát triển mạng lưới ngành y tế tỉnh Ninh
Bình một cách phù hợp và hiệu quả với xu thế phát triển của một tỉnh. Đầu tư
cơ sở vật chất, trang thiết bị, con người, nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc
sức khỏe ở tất cả các tuyến y tế trong lĩnh vực phòng bệnh, khám chữa bệnh,
phục hồi chức năng dịch vụ y tế kỹ thật cao.
Thứ hai: Phát triển Bệnh viện Đa khoa thành Bệnh viện Đa khoa mạnh,
chuyên khoa sâu, đi đầu trong việc ứng dụng khoa học công nghệ vào chẩn
đoán và điều trị trên địa bàn tỉnh và là Bệnh viện trung tâm của Khu vực Nam
Đồng bằng Bắc bộ.



20

Thứ ba: Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong khám và
chữa bệnh tại Bệnh viện.
Thứ tư: Tiếp tục nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ y tế: Đến năm 2020
có trên 60% cán bộ nhân viên có trình độ sau đại học (TS, CKII, ThS, CKI) ở
tất cả các chuyên khoa và phải thực hiện các kỹ thuật cao trong chẩn đoán và
phẫu thuật như phẫu thuật nội soi, mổ tim, can thiệp mạch máu…
Những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo của Bộ
Y tế, của Ủy ban Nhân dân tỉnh Ninh Bình gắn với các nghị quyết, quyết
định, chỉ thị nêu trên là những cơ sở pháp lý quan trọng khi triển khai thực
hiện đề án này.
1.4. Cơ sở thực tiễn
1.4.1. Trên thế giới và trong nước
Xu hướng toàn cầu hóa là tất yếu, các nước trên thế giới phụ thuộc vào
nhau có ảnh hưởng lẫn nhau. Xung đột an ninh, kinh tế , sắc tộc, tranh chấp
biên giới, biển đảo, khủng bố quốc tế đang xảy ra, sự tranh giành vị trí ảnh
hưởng giữa các nước lớn. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới các vấn đề
trong nước trong đó có nghành y tế cũng như chất lượng nhân lực của ngành.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới và chủ động hội nhập với quốc
tế, nhiều hiệp định kinh tế an ninh quốc phòng chính trị đã được ký kết. Sự
bình thường hóa hoàn toàn với Hợp chủng quốc Hoa kỳ sau chuyên thăm đất
nước ta của tổng thống Obama. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hộ chủ
nghĩa được định dạng ở nước ta, đã thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng giải
phóng và khuyến khích sức sản xuất. Tuy nhiên nó cũng tác động tiêu cực
phần nào tới đời sống xã hội trong nước. Khoảng cách giàu nghèo tăng lên,
tình trạng tham nhũng không bị đẩy lùi, điều này đã ảnh hưởng đến tâm tư
của người lao động. Tình trạng lợi ích nhóm, các văn bản dưới luật, tình trạng

giấy phép con đã cản trở sức sản xuất, bệnh thành tích vẫn còn nặng nề trong
xã hội trong đó có ngành giáo dục đào tạo dạy nghề nên đã ảnh hưởng trực


21

tiếp hay gián tiếp tới chất lượng đào tạo nhân lực. Thực tế 200.000 thạc sỹ sau
tốt nghiệp không tìm được việc làm trong khi đó nhu cầu tuyển dụng của các
doanh nghiệp cao. Đối với các trường đào nghành Y, ngành đặc biệt liên quan
đến sức khỏe tính mạnh con người cũng chịu sự tác động đó, các trường đào
tạo còn nặng về lý thuyết xem nhẹ về thực hành, nhiều trường dân lập được
thành lập nhưng thiếu về cơ sở vật chất cũng như sự kiểm soát về chất lượng
giảng dạy, hậu quả sinh viên sau khi tốt nghiệp có chất lượng thấp không đáp
ứng được yêu cầu cơ bản. Tại các cơ sở Y tế trên toàn quốc, đến nay chưa có
các thống kê báo cáo con số về tình trạng yếu kém: kỹ năng giao tiếp, thái độ
ứng xử, đạo đức nghề nghiệp, trình độ tay nghề, chuyên môn nhưng được
biểu hiện qua bức xúc của dư luận xã hội với ngành Y và phản ánh tranh luận
trên diễn đàn Quốc hội.


22

1.4.2. Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương
Là bệnh viện hạng I trực thuộc Bộ y tế, nhiệm vụ trọng tâm kết hợp nền
Y học cổ truyền với Y học hiện đại trong công tác chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân. Bệnh viện thành lập từ năm 1957 cho đến nay đã có nhiều đóng
góp cho ngành, cho xã hội góp phần đảm bảo công tác chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân. Tuy nhiên, hiện nay do bệnh viện đang xây dựng và cải tạo bệnh
viện, ngân sách đầu tư trực tiếp cho Bệnh viện giảm dần, lương theo hệ hống
còn thấp, chất lượng nguồn nhân lực tuyển dụng đầu vào thấp. Kết hoạch đào

tạo, đào tạo lại đã có nhưng hiệu quả mang lại không cao do đó đã ảnh hưởng
đáng kể đến chất lượng nguồn nhân lực của Bệnh viện. Thái độ ứng xử, kỹ
năng giao tiếp, đạo đức nghề nghiệp chưa đạt yêu cầu tuy không nhiều nhưng
vẫn còn tình trạnh gây bức xúc và không hài lòng của người bệnh. Còn thư
đơn của người bệnh phản ánh về trình trạng này với Bệnh viện.
1.4.3. Khoa ngoại bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương
Được thành lập từ năm 1960, nhiệm vụ đặc thù của khoa là kết hợp Y
học hiện đại với Y học cổ truyền trong điều trị ngoại khoa cho người bệnh.
Hàng năm khoa đã khám và điều trị cho hàng ngàn người bệnh, nhiều kỹ
thuật mới đã được triển khai và áp dụng tại khoa. Thực hiện tốt qui chế của
nghành trong thực thi công việc. Tuy nhiên, sự hạn chế và yếu kém về kỹ
năng giao tiếp, thái độ ứng xử ở một số nhân viên trong khoa khi tiếp xúc với
người bệnh vẫn còn xảy ra, có nhân viên còn vi phạm chế độ trực bỏ vị trí,
trình độ chuyên môn và kỹ năng yếu đã không xử lý được hoặc xử lý không
tốt trong chẩn đoán, điều trị hay cấp cứu. Về trình độ khoa còn 5 bác sỹ chưa
có bằng sau đại học và 15 điều dưỡng trung cấp, cần phải đào tạo.


23

2. Nội dung thực hiện của đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
2.2.1.Tình hình thế giới và trong nước hiện nay
+Trên thế giới: Vấn đề suy thoái kinh tế, nợ công, khủng hoảng tài chính
– tiền tệ; xung đột quân sự, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, khủng bố;
tranh chấp lãnh thổ, toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ.
+Trong nước: Hợp tác sâu rộng với các nước khác trên thế giới, xây
dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần để thúc đẩy phát triển kinh tế.
Tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường đến toàn xã hội trong đó có
ngành Y tế. Tình trạng tham nhũng, lợi ích nhóm, bất công bằng trong xã hội,

khoảng cách thu nhập giàu nghèo tăng, lương của nhân viên ngành Y tế còn
thấp. Do đó đã ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng nhân lực của ngành Y tế.
2.2.2. Tình hình Bệnh viện Y học cổ truyền trung ương
Là bệnh viện đầu ngành có nhiệm vụ kết hợp giữa Y học cổ truyền với Y
học hiện đại trong công tác khám chữa bệnh cho nhân dân, chỉ đạo tuyến,
nghiên cứu khoa học, đào tạo và hợp tác quốc tế.
Qui mô 550 giường bệnh, 450 nhân viên, Cơ cấu tổ chức (26 khoa
phòng), các đơn vị chức năng, trung tâm dược.
Số lượng bệnh nhân đến khám hàng ngày 1500- 2000 bệnh nhân.
Hiện tại bệnh viện chưa tự chủ được hoàn toàn kinh phí mà vẫn phải sử
dụng nguồn kinh phí nghân sách cấp hàng năm để chi phí cho hoạt động. Mặt
khác Bệnh viện đang trong giai đoạn cải tạo xây dựng khu điều trị nội trú kỹ
thuật cao nên một số khoa phòng phải di chuyển, cơ sở kinh doanh của bệnh
viện thu hẹp do đó nguồn thu của Bệnh viện giảm, đã ảnh hưởng đáng kể đến
mức thu nhập của nhân viên toàn bệnh viện, đồng thời thiếu cơ chế khuyến
khích sức lao động, 80% nhân lực của bệnh viện là chuyên ngành Y học cổ


24

truyền nên điều trị về Y học hiện đại ít nhiều cũng bị hạn chế. Sự cạnh tranh
ngày càng mạnh mẽ và khốc liệt trên mọi mặt giữa các cơ sở y tế cả công lập
lẫn dân lập.
Tất cả những yếu tố trên ít nhiều cũng đã ảnh hưởng tiêu cực đến chất
lượng nhân lực Bệnh viện.
2.2.2.Tình hình Khoa ngoại Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương
Được thành lập từ năm 1960, nhiệm vụ chuyên môn: Kết hợp Y học cổ
truyền với Y học hiện đại trong công tác khám chữa bệnh ngoại khoa.
Hiện nay:
+ Đội ngũ cán bộ công chức: Tổng số 35 nhân viên, gồm:

- PGS.TS: 01, chuyên ngành YHCT.
-Tiến sĩ:

01, chuyên ngành YHCT và chuyên khoa định hướng ngoại
01, chuyên ngành ngoại khoa.

-Thạc sỹ: 02; chuyên ngành gây mê và hồi sức ngoại khoa
02; chuyên ngành ngoại khoa.
01; chuyên ngành Y học cổ truyền.
-BS.CK I: 01; chuyên ngành gây mê
01; chuyên ngành ngoại khoa
- Bác sỹ: 02; chuyên ngành Y học cổ truyền
03; bác sỹ đa khoa
- Cử nhân điều dưỡng: 2
- Điều dưỡng:10; điều dưỡng đa khoa trung cấp
05; điều dưỡng Y học cổ truyền trung cấp.


25

- Hộ lý: 3.
+ Số giường bệnh: 45
+ Cơ cấu tổ chức:
- Trưởng khoa: 01, phụ trách chung
- Phó khoa:
01, phụ trách công tác điều trị và chăm sóc bệnh nhân.
01, phụ trách khu phẫu thuật và hồi sức sau mổ.
- Điều dưỡng trưởng: 01, phụ trách khối điều dưỡng và công tác điều
dưỡng.
- Điều dưỡng phụ trách khu phẫu thuật: 01, phụ trách khối điều dưỡng và

công tác điều dưỡng khu phẫu thuật.
- Điều dưỡng buồng bệnh, tổ tiêm truyền, thay băng.
Với đặc thù của đơn vị là điều trị ngoại khoa kết hợp Y học cổ truyền,
70% số nhân viên của khoa được đào tạo Y học hiện đại chuyên ngành ngoại
khoa, gây mê hồi sức do đó đã đảm bảo tốt được nhiệm vụ điều trị phẫu thuật.
Tuy nhiên, 30% số nhân lực là chuyên ngành Y học cổ truyền và 5 bác sỹ
chưa có bằng sau đại học tay nghề còn thiếu và yếu chưa đáp ứng được yêu
cầu trong công việc, cùng 15 điều dưỡng trung cấp chưa được học nâng cao
trình độ.
Thu nhập bình quân nhân viên của khoa còn thấp, khoa cũng đã xây
dựng được cơ chế khuyến khích lao động nhưng chưa đủ sức cuốn hút.
Những yếu tố trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng nhân lực của
khoa.


×