Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Công cuộc chuẩn bị lực lượng và khởi nghĩa giành chính quyền ở Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên từ 1939 đến 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (782.59 KB, 91 trang )

Header Page 1 of 116.

đại học thái nguyên
TRNG đại học S phạm
----------------------------

Lê thị quỳnh liu

Công cuộc chuẩn bị lực LNG và khởi nghĩa giành
chính quyền ở phổ yên tỉnh thái nguyên
(từ 1939 đến 1945)

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.54

Luận Văn thạc sĩ khoa học lịch sử

NGI HNG dẫn khoa học: TS. Nguyễn Duy Tiến

Thái Nguyên 2008
Footer Page 1 of 116.


Header Page 2 of 116.

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử hằng ngàn năm dựng nước và giữ nước, cách mạng tháng
Tám năm 1945 là một trong những trang sử chói lọi, là một biến cố vĩ đại trong
lịch sử dân tộc Việt Nam. Nó lật đổ chế độ phong kiến, đập tan xiềng xích nô lệ


của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Đưa nhân dân ta từ địa vị nô lệ trở thành
người làm chủ đất nước, đưa nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở
thành một nước độc lập, đưa Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí mật, bất hợp
pháp trở thành Đảng hoạt động công khai, hợp pháp.
Thành công của cách mạng tháng Tám có nhiều nguyên nhân, nhưng
nguyên nhân quan trọng nhất là sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng, đứng
đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh và tinh thần đoàn kết, quyết tâm chiến đấu vì độc
lập tự do của nhân dân ta. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là kết quả của
quá trình chuẩn bị lực lượng lâu dài, chu đáo của toàn Đảng, toàn dân ta qua 3
phong trào cách mạng: phong trào (1930 - 1931), phong trào (1936 - 1939) và
trực tiếp là phong trào (1939 - 1945).
Ngày 20/8/1945, cách mạng tháng Tám thành công tại Thái Nguyên. Cùng
với nhân dân toàn tỉnh, ngày 19/8/1945 nhân dân các dân tộc huyện Phổ Yên
đồng loạt đứng lên giành chính quyền về tay nhân dân. Thắng lợi của nhân dân
huyện Phổ Yên đã góp phần tạo điều kiện cho quá trình giành chính quyền ở
tỉnh lỵ Thái Nguyên và các địa phương trong khu vực. Có đựơc thành công
nhanh chóng là do nhân dân Phổ Yên đã có quá trình chuẩn bị lực lượng sẵn
sàng cho tổng khởi nghĩa.
Về quá trình chuẩn bị lực lượng, tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền ở
huyện Phổ Yên đã được một số cơ quan, nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Tuy nhiên còn có những nội dung cần được tiếp tục bổ sung, làm rõ hơn như:
vị trí, vai trò của Phổ Yên trong quá trình xây dựng An toàn khu của TW;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Footer Page 2 of 116.




Header Page 3 of 116.


2
việc đảm bảo giao thông liên lạc giữa phong trào cách mạng các tỉnh miền
xuôi với chiến khu.
Lịch sử dân tộc bao gồm lịch sử các địa phương, muốn nghiên cứu lịch sử
của dân tộc một cách toàn diện thì không thể không tìm hiểu lịch sử của các địa
phương. Việc nghiên cứu lịch sử địa phương sẽ góp phần làm sáng rõ, bổ sung,
làm phong phú thêm lịch sử dân tộc và khẳng định vị trí không thể tách rời của
lịch sử các địa phương
Hiện nay, trước những yêu cầu cải tạo kinh tế, xã hội nhiều địa phương đã
đẩy mạnh quá trình nghiên cứu lịch sử địa phương, đúc kết những bài học kinh
nghiệm quý, phát huy những truyền thống tốt đẹp nhằm đẩy mạnh quá trình
phát triển kinh tế, xã hội địa phương, xây dựng chế độ mới, con người mới xã
hội chủ nghĩa. Qua đó, tìm ra những nhược điểm để khắc phục.
Lịch sử Phổ Yên là một bộ phận của lịch sử tỉnh Thái Nguyên, và là một
bộ phận của lịch sử dân tộc Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu về lịch sử Phổ Yên từ
năm 1939 đến năm 1945 sẽ góp phần làm sáng rõ lịch sử dân tộc giai đoạn này.
Nghiên cứu công cuộc vận động xây dựng lực lượng cách mạng tiến tới
tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám năm 1945 ở
huyện Phổ Yên sẽ giúp chúng ta bổ sung thêm nguồn tư liệu lịch sử, phục dựng
chân xác hoạt động chuẩn bị lực lượng cách mạng ở huyện Phổ Yên. Việc
nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử của địa phương sẽ góp phần khơi dậy giáo dục
truyền thống yêu quê hương, đất nước và nâng cao niềm tin vào Đảng, Nhà nước và
chế độ xã hội chủ nghĩa cho mọi thế hệ nhân dân Phổ Yên hôm nay và mai sau.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tôi chọn vấn đề “Công
cuộc chuẩn bị lực lượng và khởi nghĩa giành chính quyền ở Phổ Yên tỉnh
Thái Nguyên từ 1939 đến 1945” làm đề tài luận văn Thạc sĩ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong những năm qua, công cuộc chuẩn bị lực lượng tiến tới khởi nghĩa
giành chính quyền ở huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên đã được một số tác giả,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Footer Page 3 of 116.




Header Page 4 of 116.

3
cơ quan nghiên cứu ở các góc độ khác nhau, được trình bày trong một số cuốn
lịch sử địa phương và tản mạn ở nhiều tài liệu.
Năm 1970, cuốn “Lịch sử thời kỳ vận động cách mạng tháng Tám tỉnh
Thái Nguyên 1939 – 1945” của Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng, các tác giả đã
phân tích về hoạt động chuẩn bị lực lượng cho cách mạng tháng Tám ở tỉnh
Thái Nguyên, trong đó có trình bày sơ lược về hoạt động cách mạng ở huyện
Phổ Yên trước cách mạng tháng Tám.
Cuốn “Lịch sử cách mạng tháng Tám Bắc Thái” xuất bản năm 1978, đã
viết về hoạt động cách mạng ở Phổ Yên, ATK II và vai trò của nó đối với cách
mạng tháng Tám, nhưng mới chỉ dừng lại ở việc nêu các sự kiện.
Với đề tài “Hoạt động của các chiến sĩ cộng sản ở trại tập trung Bá Vân
thời kỳ 1941 – 1945” tác giả Nghiêm Xuân Thạo với sự hướng dẫn của Giáo sư
Lê Mậu Hãn đã nghiên cứu những hoạt động của các chiến sĩ cộng sản trong
Căng Bá Vân, nhưng chủ yếu dừng lại ở việc thu thập tài liệu.
Cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Phổ Yên”, tập I (1930 – 1954), xuất bản
năm 1990, mở đầu các tác giả đã khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, con
người và truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc huyện
Phổ Yên trong quá trình xây dựng bảo vệ đất nước. Trong phần thứ nhất, với
tiêu đề Xây dựng cơ sở Đảng, cuốn sách đã trình bày quá trình Pháp xâm lược
nước ta và cuộc đấu tranh của nhân dân Phổ Yên chống thực dân Pháp, từng

bước hình thành cơ sở cách mạng đầu tiên ở tổng Tiên Thù (xã Tiên Phong
ngày nay), đường dây hoạt động cách mạng từ Căng Bá Vân lan ra Xuân Lãng,
Phúc Thuận, Phi Đơn, Niệm Cuông, Mỏ Chè, Phố Cò…Phần thứ hai, các tác
giả phân tích tình hình thế giới, trong nước và quá trình chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược, sách lược cách mạng của Đảng đã góp phần định hướng thúc đẩy
phong trào cách mạng ở huyện Phổ Yên. Cuốn sách đã dành nhiều trang để
phân tích, trình bày phong trào cách mạng ở tổng Tiên Thù và những hoạt động
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Footer Page 4 of 116.




Header Page 5 of 116.

4
du kích liên quan đến hoạt động của các chiến sĩ cách mạng ở “Căng Bá Vân”.
Về hoạt động chuẩn bị lực lượng trực tiếp cho tổng khởi nghĩa trong cao trào
kháng Nhật, các tác giả đã trình bày về quá trình chuẩn bị lực lượng chính trị, vũ
trang và chớp thời cơ giành chính quyền ở huyện lỵ Phổ Yên. Tuy cuốn sách đã
dành nhiều trang trình bày về hoạt động chuẩn bị lực lượng, nhưng chưa hệ
thống, chỉ tập trung chủ yếu vào hoạt động chuẩn bị lực lượng vũ trang, có nhiều
sự kiện lịch sử chưa chính xác. Cuốn sách chưa phân tích và trình bày được vai
trò, vị trí của công cuộc chuẩn bị lực lượng tiến đến khởi nghĩa giành chính
quyền của huyện Phổ Yên.
Từ năm 1990 đến năm 1995, trên cơ sở những ý kiến đóng góp của các cán
bộ lão thành cách mạng, của đông đảo cán bộ, đảng viên trong toàn huyện, Ban
thường vụ huyện uỷ Phổ Yên đã thẩm định và xác minh làm rõ nhiều vấn đề
lịch sử trong thời kỳ 1930 – 1954 và quyết định biên soạn lại cuốn sách “Lịch

sử Đảng bộ Phổ Yên”. Trên cơ sở phê phán các loại tư liệu lịch sử, cuốn sách
đã chỉnh lý bổ sung một số sự kiện lịch sử. Tuy nhiên, nội dung cuốn “Lịch sử
Đảng bộ Phổ Yên” xuất bản năm 1995 không có gì thay đổi lớn so với cuốn
“Lịch sử Đảng bộ Phổ Yên” xuất bản năm 1990.
Bài viết “Khởi nghĩa từng phần ở Bắc Thái” của tác giả Phạm Tất Quynh
in trong tạp chí Lịch sử Đảng số 4/1995, đã trình bày về quá trình khởi nghĩa
giành chính quyền ở tỉnh Thái Nguyên từ sau ngày Nhật đảo chính Pháp
(9/3/1945). Trong đó, đã trình bày và phân tích một số sự kiện lịch sử diễn ra tại
ATKII, trong đó có Phổ Yên.
Năm 1997, Huyện uỷ Đồng Hỷ xuất bản cuốn sách “Sơ thảo lịch sử Đảng
bộ huyện Đồng Hỷ 1930 – 1995”, do Tiến sĩ Nguyễn Xuân Minh làm Chủ biên
đã viết về một số sự kiện cách mạng diễn ra ở nam Đồng Hỷ, bắc Phổ Yên. Đây
là nguồn tài liệu quý để nghiên cứu về lịch sử Phổ Yên và mối quan hệ giữa lịch
sử lịch sử Phổ Yên với các địa phương khác trong khu vực.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Footer Page 5 of 116.




Header Page 6 of 116.

5
Năm 1998, cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ thị xã Sông Công 1985 – 1995” đã
dành phần mở đầu chương I để viết về phong trào cách mạng trên địa bàn huyện
Phổ Yên trước cách mạng tháng Tám, nhưng chỉ khái quát những nét chung chưa
trình bày cụ thể, hệ thống về quá trình chuẩn bị lực lượng trong thời kì 1939 – 1945.
Năm 1999, cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ xã Kha Sơn 1938 – 1995” do Tiến
sĩ Nguyễn Xuân Minh làm chủ biên, đã có trình bày về mối quan hệ giữa các

địa phương trong ATK II và mối quan hệ giữa ATK II với các địa phương khác.
Năm 1999, trong cuốn sách “Thái Nguyên Lịch sử đấu tranh cách mạng và
kháng chiến chống Pháp 1941 -1954” của Ban chỉ huy Quân sự tỉnh Thái
Nguyên, nhóm tác giả cũng đã trình bày khái quát về hoạt động cách mạng ở
huyện Phổ Yên thời kỳ 1939 – 1945.
Trong cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên”, tập I (1936 -1965) xuất
bản năm 2003, trong phần mở đầu và chương I nhóm tác giả đã có đề cập đến
tình hình Phổ Yên trước cách mạng tháng Tám, nhưng chủ yếu là những thủ
đoạn cai trị của thực dân Pháp. Các tác giả mới chỉ nêu những nét chung về
phong trào cách mạng ở Phổ yên chưa nêu cụ thể, hệ thống về phong trào cách
mạng ở huyện Phổ Yên.
Trong cuốn “Lịch sử Đảng bộ Phú Bình 1930 - 2005”, các nhà nghiên cứu
đã có phân tích vị trí, mối quan hệ, vai trò của ATK II với các địa phương khác
trong đó có hoạt động trước cách mạng tháng Tám ở huyện Phổ Yên.
Tóm lại, cho đến nay chưa có công trình nào trình bày đầy đủ và hệ
thống về công cuộc chuẩn bị lực lượng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
ở Phổ Yên từ 1939 đến 1945. Tuy nhiên, những tài liệu nêu trên là nguồn tư
liệu lịch sử có giá trị khoa học, đó là cơ sở để chúng tôi nghiên cứu, hoàn
thiện luận văn của mình.
3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Footer Page 6 of 116.




Header Page 7 of 116.


6
Đề tài nghiên cứu công cuộc chuẩn bị lực lượng và khởi nghĩa giành chính
quyền ở huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên từ 1939 đến 1945.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: chủ yếu huyện Phổ Yên (sau năm 1985 là huyện Phổ
Yên và thị xã Sông Công).
Phạm vi thời gian: từ 1939 đến cách mạng tháng Tám năm 1945.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đi sâu vào nghiên cứu công cuộc chuẩn bị lực lượng (lực lượng
chính trị, lực lượng vũ trang và căn cứ địa) và khởi nghĩa giành chính quyền ở
huyện Phổ Yên.
Khôi phục chân xác công cuộc chuẩn bị lực lượng và diễn biến Cách mạng
tháng Tám năm 1945 tại huyện Phổ Yên. Từ đó, nêu rõ vai trò, vị trí và mối
quan hệ giữa công cuộc chuẩn bị lực lượng tiến tới khởi nghĩa ở Phổ Yên với
các địa phương khác.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng trong thời
kỳ trước cách mạng tháng Tám là cơ sở lý luận để nghiên cứu đề tài.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi khai thác triệt để các nguồn tư
liệu lịch sử, tài liệu lịch sử liên quan đến công cuộc chuẩn bị lực lượng và khởi
nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám tại huyện lỵ Phổ Yên.
Các công trình nghiên cứu Lịch sử có liên quan đến quá trình chuẩn bị lực
lượng cách mạng cho cách mạng tháng Tám tại huyện Phổ Yên: Lịch sử Đảng
bộ, Huyện bộ, Chi bộ, Lịch sử quân sự,…
Các tập hồi ký của các đồng chí lãnh đạo Đảng, cán bộ lão thành cách
mạng. Ngoài các tư liệu, tài liệu thành văn, những lời kể của các nhân chứng
lịch sử là nguồn tư liệu quý, góp phần làm sáng rõ, cụ thể về công cuộc chuẩn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Footer Page 7 of 116.




Header Page 8 of 116.

7
bị lực lượng và khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám trên
quê hương Phổ Yên.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc để phục dựng lại công cuộc
chuẩn bị lực lượng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện Phổ Yên, tỉnh
Thái Nguyên.
- Phương pháp thống kê, so sánh để thấy được sự phát triển của phong trào
cách mạng ở Phổ Yên so với các địa phương khác.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp để thấy được vai trò, vị trí và mối liên
hệ giữa phong trào cách mạng ở Phổ Yên với các địa phương khác.
- Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp điền dã, phỏng vấn.
5. Đóng góp của luận văn
- Khôi phục chân thực toàn cảnh quá trình chuẩn bị lực lượng tiến tới giành
chính quyền ở Phổ Yên trong cách mạng tháng Tám (từ 1939 đến 1945).
- Phân tích, đánh giá vai trò của công cuộc chuẩn bị lực lượng trước cách
mạng tháng Tám ở huyện Phổ Yên.
- Luận văn làm rõ vai trò của Phổ Yên trong quá trình tham gia xây dựng
An toàn khu của TW và vai trò “cầu nối liên lạc” giữa phong trào cách mạng
các tỉnh miền xuôi với khu giải phóng.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài còn là nguồn tài liệu phục vụ cho quá trình
giảng dạy lịch sử địa phương, góp phần giáo dục truyền thống yêu quê hương,

đất nước và lòng tự hào dân tộc.
6. Bố cục nội dung luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục luận văn được
xây dựng thành 3 chương.
Chương 1. Vài nét về mảnh đất con người và truyền thống lịch sử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Footer Page 8 of 116.




Header Page 9 of 116.

8
Chương 2. Công cuộc xây dựng lực lượng cách mạng (từ 1939 đến 3/1945)
Chương 3. Phổ Yên trong cao trào kháng Nhật cứu nước và khởi nghĩa giành
chính quyền (từ tháng 3 đến 8/1945)

Chương 1
VÀI NÉT VỀ MẢNH ĐẤT CON NGƯỜI VÀ TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ
1.1. Điều kiện địa lý tự nhiên
Phổ Yên (nay là huyện Phổ Yên và thị xã Sông Công) là một huyện trung
du, nằm phía nam tỉnh Thái Nguyên, phía đông giáp huyện Hiệp Hoà (Bắc
Giang) và huyện Phú Bình, phía nam giáp Sóc Sơn (Hà Nội), phía tây và tây
bắc tiếp giáp với dãy Tam Đảo (Phúc Yên) và huyện Đại Từ, phía bắc giáp thị
xã Thái Nguyên. Trung tâm của huyện là thị trấn Ba Hàng.
Phổ Yên nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, khí hậu chia làm hai mùa
rõ rệt, mùa mưa và mùa khô rất thuận lợi cho việc phát triển, thâm canh cây
trồng theo mùa. Bên cạnh những thuận lợi, khí hậu Phổ Yên thường xuyên gây

ra tình trạng lũ lụt, đặc biệt là khu vực phía nam của huyện. Vì vậy, nhân dân
Phổ Yên thường xuyên phải kiên cường dũng cảm đương đầu với khó khăn của
thiên nhiên và cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm, xây dựng, bảo vệ quê
hương từ đó đã tạo nên truyền thống đoàn kết, tương trợ lẫn nhau.
Diện tích tự nhiên của huyện khoảng 300 km2, thấp dần về phía nam và
đông nam, tạo thành hai vùng với đặc điểm địa hình khác nhau, phía bắc và tây
bắc của huyện là vùng đồi núi, xen kẽ với những dải đồng bằng hẹp, thích hợp
cho việc trồng các cây công nghiệp (chè, lạc,…), cây ăn quả lâu năm (vải, nhãn,
trám,…) và chăn nuôi gia súc lớn (trâu, bò). Phía đông nam và tây nam chủ yếu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Footer Page 9 of 116.




Header Page 10 of 116.

9
là đồng đất tương đối bằng phẳng, liền kề với sông Cầu và sông Công, đất đai
dễ canh tác, thuận tiện cho việc tưới tiêu, phù hợp với trồng lúa nước và các loại
rau màu (su hào, cải bắp, cà chua đặc biệt là khoai lang và sắn).
Ở vị trí trung tâm khu vực miền núi phía bắc, nên ngoài mạng lưới các
tuyến đường liên huyện, liên xã đã được xây dựng và phát triển trong quá trình
phát triển kinh tế, xã hội, trên địa bàn Phổ Yên còn có hai tuyến đường quốc
gia. Đó là đường quốc lộ số 3 từ Hà Nội đi Cao Bằng, đoạn đi qua huyện dài
tới 30 km chạy theo hướng bắc nam và tuyến đường sắt Hà Nội – Quán Triều,
có ga đỗ tại trung tâm huyện lỵ. Hai tuyến đường này, cùng hệ thống đường liên
huyện, liên xã trở thành mạng lưới giao thông thuận lợi cho việc đi lại của nhân
dân, thúc đẩy kinh tế, văn hoá địa phương phát triển.
Ngoài các tuyến đường bộ, sông Cầu và sông Công cùng với hệ thống

kênh máng, ao, hồ không chỉ thuận lợi cho việc tưới tiêu, là nguồn cung cấp
thuỷ sản cho nhân dân trong huyện mà còn là hệ thống giao thông đường thuỷ
hết sức quan trọng. Quan trọng nhất là sông Cầu và sông Công, từ thị xã Thái
Nguyên sông Cầu chảy xuống phía đông và đông nam của huyện Phổ Yên, tạo
thành danh giới tự nhiên với huyện Hiệp Hoà (Bắc Giang). Sông Công chảy
theo hướng bắc xuống nam, chia Phổ Yên thành hai phần. Hai con sông hợp
lưu tại ngã ba Vát (thôn Phù Lôi, xã Thuận Thành). Với lưu lượng nước tương
đối lớn, hai con sông đã mang nhiều phù sa, nguồn lợi về cho huyện và góp
phần quan trọng thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển. Trong lịch sử sông Cầu
không chỉ là biên giới tự nhiên bảo vệ phía bắc kinh thành Thăng Long mà còn
là tuyến đường huyết mạch giao lưu kinh tế nối đồng bằng Bắc Bộ với các tỉnh
miền núi phía Bắc. Trên địa bàn huyện Phổ Yên, bến Đại Phùng xưa (nay là
chợ Chã) đã từng là trung tâm giao lưu buôn bán trên bến dưới thuyền lớn nhất
trong khu vực, từ đây hàng hoá ngược lên bến Thượng, Thái Nguyên và xuôi
đến tận Hải Phòng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Footer Page 10 of 116.




Header Page 11 of 116.

10
Do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, cho nên trong suốt quá trình lao
động, chống giặc ngoại xâm tộc người Kinh đã đoàn kết với các tộc người Tày,
Nùng, Sán Dìu,…cùng xây dựng, bảo vệ quê hương Phổ Yên. Sau khi giành
được quyền độc lập tự chủ, các triều đình phong kiến nước ta đã chọn Thái
Nguyên để xây dựng tuyến phòng ngự chống lại giặc phương Bắc. Với vị trí

nằm ở cực nam của tỉnh Thái Nguyên, cho nên Phổ Yên luôn là phên dậu quan
trọng bảo vệ phía Bắc kinh thành Thăng Long - Hà Nội qua các thời kỳ.
Nhìn chung, địa hình Phổ Yên là bán sơn địa, có nhiều đồi núi đất. Trước
cách mạng tháng Tám năm 1945 còn có nhiều rừng rậm rất thuận lợi cho hoạt
động bí mật, xây dựng các cơ sở cách mạng, chuẩn bị cho khởi nghĩa giành
chính quyền.
1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội huyện Phổ Yên
Do đặc điểm điều kiện tự nhiên, cho nên kinh tế chủ yếu là nông lâm
nghiệp mang tính chất tự cung tự cấp, đa số dân cư đã biết làm thuỷ lợi để phát
triển nông nghiệp trồng lúa nước, ngoài ra cư dân trong huyện còn trồng xen
canh các loại cây hoa màu khác (khoai lang, sắn, ngô) và chăn nuôi các loại gia
súc gia cầm. Tại Phổ Yên, nghề thủ công đan lát khá phát triển, trong đó nghề
truyền thống đan lát ở thôn Yên Trung, xã Tiên Phong với sản phẩm chủ yếu là:
thúng, dần, sàng, nong, giỏ, nơm…không chỉ phục vụ cho nhân dân trong
huyện, đã có nhiều lái buôn từ các nơi về cất hàng đem bán cho các địa phương
trong khu vực. Thương nghiệp trong huyện nhìn chung không phát triển, chỉ
được coi là nghề phụ, phần lớn được tiến hành vào lúc nông nhàn hoặc chỉ là sự
trao đổi những nông sản dư thừa thông qua hệ thống chợ làng, ngoại trừ một vài
cửa hàng buôn bán tại chợ Ba Hàng và chợ Chã, mặt hàng trao đổi chủ yếu là
các mặt hàng thiết yếu như muối, diêm,…
Theo dư địa chí của Nguyễn Trãi, Phổ Yên là một trong tám huyện thuộc
phủ Phú Bình, Đạo Thái Nguyên (Bắc Đạo). Địa danh Phổ Yên đã phát triển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Footer Page 11 of 116.




Header Page 12 of 116.


11
cùng quá trình xây dựng đất nước và chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Qua
các thời kỳ lịch sử, Phổ Yên vẫn thuộc phủ Phú Bình. Năm 1887, thi hành chính
sách chia để trị của thực dân Pháp, Đồng Khánh cho thiết lập lại huyện Phổ
Yên. Khi thành lập khu tự trị Việt Bắc (8/1956) Phổ Yên được chuyển giao
sang cho tỉnh Vĩnh Phúc. Tháng 7/1957, Phổ Yên trở lại là huyện của tỉnh Thái
Nguyên. Năm 1932, Phổ Yên có 7 tổng, 38 làng. Cuối năm 1984, Phổ Yên có
19 xã và 4 thị trấn (thị trấn Ba Hàng, Bãi Bông, Phúc Thuận và Mỏ Chè). Tháng
4/1985, Phổ Yên cắt một xã và một thị trấn (xã Cải Đan và thị trấn Mỏ Chè) để
thành lập thị xã Sông Công, huyện Phổ Yên còn lại là 18 xã và 3 thị trấn [42].
Cư trú trên địa bàn huyện Phổ Yên là những cư dân thuộc 7 tộc người:
“Kinh, Sán Dìu, Tày, Nùng, Dao, Hoa, Mường; trong đó người Kinh (Việt) có
số đông (93,76%), Sán Dìu (5,09%), Tày (0,53%), Nùng (0,3%), Dao (0,26%),
Hoa và các dân tộc khác chiếm 0,06% và sống xen kẽ với nhau, riêng đồng
bào Dao cư trú chủ yếu ở các xã chân dãy Tam Đảo” [41,tr.39]. Trên một địa
bàn không rộng, có nhiều tộc người cùng cư trú, văn hoá - xã hội của Phổ Yên
mang những sắc thái riêng. Bên cạnh kết cấu, quan hệ bản làng tồn tại ở các
vùng dân tộc ít người là kết cấu quan hệ làng xóm với đình làng, luỹ tre xanh
của người kinh. Đặc điểm đó đã làm phong phú thêm đời sống văn hoá, tâm
linh của dân cư trên địa bàn. Trong quá trình phát triển của lịch sử, trải qua
các cuộc đấu tranh chống thiên tai, địch hoạ, quan hệ giao lưu giữa các vùng,
các dân tộc đã tạo nên một cộng đồng dân cư thống nhất bền chặt, đó là “cơ
sở” để các tộc người trên địa bàn Phổ Yên cùng xây dựng quê hương và chống
lại thù trong giặc ngoài.
Với những đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và những tư liệu
lịch sử chứng tỏ đất và người Phổ Yên đã luôn gắn với quá trình xây dựng đất
nước, chống giặc ngoại xâm, duy trì bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Quá trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Footer Page 12 of 116.




Header Page 13 of 116.

12
phát triển lịch sử lâu dài đã hình thành cho con người Phổ Yên truyền thống yêu
nước, bất khuất trước mọi thách thức, khó khăn.
1.3. Truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng
Xuất phát từ điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế và thường xuyên phải
cùng nhau trị thuỷ, chống lại giặc xâm lược từ phương Bắc, nhân dân các tộc
người Phổ Yên luôn đoàn kết, gắn bó keo sơn. Tuy đời sống của nhân dân Phổ
Yên còn nghèo khó về vật chất, nhưng họ đều rất dũng cảm, yêu lao động, căm
thù mọi sự áp bức bất công. Những phẩm chất tốt đẹp đó được lưu truyền và
phát huy từ thế hệ này sang thế hệ khác và trở thành một trong những đặc điểm
nhân cách của con người Phổ Yên.
“Nhân dân Phổ Yên không chỉ cần cù, kiên nhẫn, sáng tạo trong lao động
sản xuất, chinh phục thiên nhiên để biến những mảnh đất hoang vu xưa thành
vùng đất màu mỡ, với những bản làng trù phú, mà còn dũng cảm kiên cường
đấu tranh chống lại mọi áp bức, bất công và giặc ngoại xâm” [16,tr.4].
Kể từ khi cuộc kháng chiến chống Triệu Đà xâm lược thất bại đến thành
công của cuộc khởi nghĩa do Khúc Thừa Dụ lãnh đạo (179 TCN - 905), đất
nước ta bị các triều đại phương Bắc kế tiếp nhau xâm lược. Trong hơn một
thiên niên kỷ đó, nhân dân ta đã liên tục vùng lên đấu tranh giành độc lập: Tiêu
biểu như khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40, khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248,
khởi nghĩa Lý Bí năm 542, khởi nghĩa Mai Thúc Loan năm 722,..
Trong đó, mùa xuân năm 542, Lý Bí đã liên kết với các hào kiệt và nhân
dân các Châu thuộc miền Bắc nước ta nổi dậy khởi nghĩa. Cùng với nhân dân

trong vùng, nhân dân Phổ Yên đã nổi dậy ủng hộ nghĩa quân. Hiện nay, tại xã
Hồng Tiến có nhiều ngôi chùa, đền đều thờ Lý Bí. Sự tham gia đóng góp của
nhân dân Phổ Yên với cuộc khởi nghĩa đã gắn liền với địa điểm “đồi khao
vương”, “ngòi khao vương” tại xã Tiên Phong ngày nay [77].
Năm 1077, nhà Tống cho 30 vạn quân vào xâm lược nước ta. Dựa vào địa
thế núi sông, Nhà Lý (1010 - 1225) đã cho dựng phòng tuyến trên sông Như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Footer Page 13 of 116.




Header Page 14 of 116.

13
Nguyệt (Sông Cầu) để chặn giặc. Trong cuộc chiến đấu đó, nhân dân các dân
tộc Phổ Yên cùng đồng bào cả nước dưới sự chỉ huy trực tiếp của tướng Dương
Tự Minh đã góp phần đánh tan quân Tống xâm lược. Ngày nay trên địa bàn
huyện có nhiều ngôi chùa, đền, nghè ven sông Cầu đều thờ Cao Sơn Quý Minh
đại vương thần (là Dương Tự Minh - một tướng quân thời Lý).
Sang thế kỷ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam ngày càng khủng hoảng,
nền kinh tế bế tắc, đời sống nhân dân khốn cùng, bộ máy chính quyền ngày
càng quan liêu, tha hoá. Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, đã làm bùng lên
làn sóng đấu tranh quyết liệt của các tầng lớp trong xã hội chống lại nhà
Nguyễn. Trong nửa đầu thế kỷ XIX, đã có gần 400 cuộc khởi nghĩa nổ ra.
Năm 1806, Dương Đình Cúc phất cờ khởi nghĩa đã được đông đảo nhân
dân Phổ Yên tham gia.
Năm 1833, nhân dân Phổ Yên đã cùng đồng bào trong tỉnh hưởng ứng cuộc
khởi nghĩa do Nông Văn Vân lãnh đạo. Sau khi đánh chiếm Thái Nguyên, nghĩa

quân đã bắt quan lại, thích vào mặt dòng chữ “quan tỉnh ăn hối lộ”, rồi đuổi ra
khỏi thành. Sau đó nhân dân Phổ Yên lại tiếp tục tham gia cuộc khởi nghĩa do
Cai Vàng chỉ huy [77].
Do triều Nguyễn phải tập trung lực lượng đàn áp các cuộc khởi nghĩa của
nông dân, cho nên biên giới phía bắc nước ta gần như bỏ ngỏ. Vì thế, năm
1870 tàn quân của phong trào nông dân Thái Bình Thiên Quốc từ Vân Nam
(Trung Quốc) tràn vào tỉnh ta, đánh chiếm thành Thái Nguyên và phủ Phú
Bình. Nhân dân các dân tộc trong phủ Phú Bình cùng các vùng lân cận hưởng
ứng lời kêu gọi của tri phủ Đoàn Công Trịnh, đã tự vũ trang đánh trả kẻ thù,
bảo vệ quê hương.
Đầu năm 1884, quân Cờ Đen do Lý A Sinh cầm đầu đã đánh chiếm và
cướp bóc hầu hết các tổng trong phủ Phú Bình. Một lần nữa nhân dân trong
khu vực và quân triều đình do Tôn Thất Thuyết chỉ huy cùng đánh đuổi bọn
giặc cướp lên phía Bắc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Footer Page 14 of 116.




Header Page 15 of 116.

14
Cùng với truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động và dũng cảm, đoàn
kết chống lại giặc ngoại xâm, nhân dân các dân tộc Phổ Yên còn có truyền
thống hiếu học, thờ cúng tổ tiên và các vị anh hùng…Tất cả những truyền thống
tốt đẹp đó là chất men tạo nên khối đại đoàn kết, sức mạnh phi thường để con
người nơi đây chinh phục cải tạo thiên nhiên, chống lại mọi áp bức bất công và
đạp bằng mọi thế lực thù địch.

Sau các cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản đã đẩy nhanh cuộc cách
mạng kỹ thuật sản xuất nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển. Để đẩy nhanh nền
kinh tế phát triển, các nước tư bản chủ nghĩa đã tiến hành xâm lược các nước
thuộc địa, mà đích đến là các nước Á, Phi, Mỹ La Tinh và trước hết là châu Á.
Từ nửa sau thế kỷ XIX, lợi dụng sự suy yếu của chế độ phong kiến Việt Nam
thực dân Pháp từng bước tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Ngày
1/9/1858, quân Pháp nổ súng tấn công vào bán đảo Sơn Trà, mở đầu cho cuộc
chiến tranh xâm lược quy mô của thực dân Pháp.
Trong khi nhân dân cả nước quyết đứng lên kháng chiến, chống thực dân
Pháp xâm lược thì nhà Nguyễn đã từng bước nhượng bộ, đầu hàng giặc. Với
điều ước Nhâm Tuất (1862) triều đình Huế đã nhượng hẳn cho Pháp ba tỉnh
miền Đông Nam Kỳ (Gia Định, Định Tường, Biên Hoà). Trong tháng 6/1867,
quân Pháp đã chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ không tốn một viên đạn
(Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên). Với Hiệp ước Hác - măng (1883), Hiệp ước
Pa - tơ - nốt (1884) thực dân Pháp đã cơ bản đặt được ách thống trị lên đất nước
ta. Sau khi hoàn thành việc chiếm đóng các tỉnh Nam bộ, Trung bộ và đồng
bằng Bắc bộ, thực dân Pháp bắt đầu đem quân đi đánh chiếm các tỉnh trung du
và miền núi phía bắc Bắc bộ.
Ngày 17/3/1884, thực dân Pháp đưa hai đại đội thuộc tiểu đoàn
xung kích Angiêri và một trung đội pháo từ Bắc Ninh qua Hiệp Hoà đánh
chiếm phủ Phú Bình, cửa ngõ phía đông nam của tỉnh Thái Nguyên. Nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Footer Page 15 of 116.




Header Page 16 of 116.


15
dân Phổ Yên cùng với nhân dân phủ Phú Bình, Hiệp Hoà và quân đội
triều đình đã chặn đánh cuộc hành binh của Pháp, làm cho chúng bị tổn
thất nặng nề và phải bỏ dở cuộc tấn công.
Sau khi củng cố lực lượng, ngày 19/3/1884, quân Pháp từ Bắc Ninh tiến
sang đánh chiếm thị xã Thái Nguyên. Do chênh lệch về lực lượng và sự nhu
nhược của bọn quan quân, từ tháng 5/1884 thực dân Pháp từng bước đặt ách
thống trị lên đầu nhân dân Thái Nguyên, trong đó có huyện Phổ Yên.
Sau khi hoàn thành việc xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã biến bộ máy
nhà nước của triều Nguyễn thành công cụ, tay sai đắc lực cho chúng. Chính
quyền thực dân đã sử dụng cả hệ thống bộ máy nhà nước từ triều đình cho đến
tận các làng xã. Với những thủ đoạn đó, thực dân Pháp chẳng những che đậy
được bộ mặt thực dân xâm lược mà còn tạo ra một đội ngũ tay sai trung thành
với chúng cả về kinh tế và chính trị. ở mỗi cấp chính quyền, thực dân Pháp duy
trì một lực lượng quân sự nhất định để làm công cụ đàn áp nhân dân ta. Đứng
đầu bộ máy cai trị bản xứ ở cấp tỉnh là viên Công sứ người Pháp. “Đến năm
1901, thực dân Pháp cơ bản thiết lập xong bộ máy cai trị tại tỉnh Thái
Nguyên” [41,tr.10].
Thực dân Pháp chia huyện Phổ Yên làm 6 tổng, 28 làng (1901). Để bảo
vệ chính sách thống trị của mình, thực dân Pháp thiết lập hệ thống đồn bốt dày
đặc, vững chắc nhằm kiểm soát các đầu mối giao thông quan trọng, các khu vực
quan trọng như đồn Sơn Cốt (1886), đồn Trinh Nữ, Phố Cò, Phúc Thuận,…đến
năm 1934 - 1935 chúng lập thêm đồn Chã, Hà Châu. Hệ thống đồn bốt này nằm
trong bộ máy cai trị thực dân trong phạm vi toàn tỉnh Thái Nguyên, nhằm trấn
giữ vị trí cửa ngõ nối liền đồng bằng Bắc bộ với miền thượng du phía bắc.
Dưới thời thực dân phong kiến, nhân dân ta phải sống trong cảnh nghèo
đói. Phần lớn ruộng đất đều bị địa chủ người Pháp hoặc địa chủ người Việt
chiếm đoạt, người nông dân bị bần cùng hoá không lối thoát.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Footer Page 16 of 116.




Header Page 17 of 116.

16
Năm 1887, trong khi chưa hoàn thành công cuộc bình định Thái Nguyên,
nhưng thực dân Pháp đã cấp giấy phép cho địa chủ người Pháp chiếm đất lập
đồn điền, quá trình đó diễn ra liên tục từ năm 1887 đến những năm 30 đầu thế
kỷ XX. Nghị định 1/5/1900, cho phép Khâm sứ Trung Kì, Thống sứ Bắc Kì,
Thống đốc Nam Kì có quyền cấp cho mỗi người 300 ha trở xuống, Toàn quyền
Đông Dương có quyền cấp ít nhất từ 300 ha trở lên. Cho nên ruộng đất của
nông dân bị bọn địa chủ người Pháp, người Việt ra sức cướp đoạt trắng trợn.
Dựa vào Nghị định của Toàn quyền Đông Dương cho phép những nhà
doanh nghiệp Pháp được khẩn hoang ruộng đất bỏ trống để lập đồn điền. Được
sự giúp đỡ của viên Công sứ đầu tỉnh, bọn thực dân đã dùng vũ lực để đánh
đuổi hàng trăm gia đình nông dân đi nơi khác để chiếm đất, chiếm ruộng. Dưới
danh nghĩa “Công ty dân dụng đồn điền” do Guillaume làm chủ có trụ sở ở Chã
và Thác Nhái, cũng như Công ty “Râynud cha và con” có trụ sở ở Sơn Cốt đã
dùng nhân viên của sở địa chính có lính đi kèm để đo đất quy hoạch cho
đồn điền, ai có ruộng trong phạm vi quy hoạch đó sẽ mất quyền làm chủ,
ai có thái độ chống lại lập tức bị kết tội: chống lại nhà nước bảo hộ và bị
trừng phạt nghiêm khắc [65].
Ngay từ năm 1898, bọn điền chủ Pháp đã bắt đầu cướp đoạt ruộng đất,
đồi bãi của nhân dân Nam Phổ Yên để lập đồn điền Chã, chúng chuyên canh
các loại cây nông sản như: lúa, cà phê, chè, trẩu. Trong đó, có 448 hộ tá điền
phần lớn được mộ từ dưới xuôi lên và hàng trăm người làm công hoặc làm
khoán theo việc, hằng năm đã mang lại cho chủ một khoản lợi rất lớn.

Sau đồn điền Chã, hàng loạt các đồn điền khác như đồn điền Sơn Cốt, do
tên Raynô lập 1898 rộng 3634 ha, các đồn điền Thác Nhái, Phúc Thuận rộng từ
200 đến 300 ha. Ngoài ra còn hơn 660 ha ruộng đất của 10 tên địa chủ người
Việt và gần 1000 mẫu ruộng nửa công nửa tư, về hình thức đây là ruộng đất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Footer Page 17 of 116.




Header Page 18 of 116.

17
làng xã nhưng thực chất thì do bọn cường hào địa chủ chức dịch địa phương
quản lý và dần tập trung vào tay chúng.
Số địa chủ người Việt tuy không có quyền lực, sức mạnh như địa chủ
người Pháp nhưng dựa vào chính quyền thực dân chúng ra sức áp bức, bóc lột
giai cấp nông dân, tước đoạt ruộng đất của nông dân ở những nơi mà bọn thực
dân chưa vươn tới.
Dưới chế độ thực dân phong kiến, giai cấp nông dân chiếm trên 90% dân
số trong huyện. Trong đó, 80% không có hoặc thiếu ruộng đất canh tác, phải
làm tá điền, cam chịu cuộc sống làm thuê cuốc mướn trong các đồn điền của địa
chủ. Hầu hết ruộng đất bị chủ đồn điền và địa chủ chiếm đoạt. Ngoài các chủ
đồn điền, số địa chủ không nhiều, chủ yếu là địa chủ vừa và nhỏ. Hình thức bóc
lột chính và phổ biến nhất là thu tô và cho vay nặng lãi. Thông thường mức tô
từ 50 đến 60% sản lượng, bất kể ruộng đất tốt hay xấu, được mùa hay mất mùa,
mức tô là 8 phương thóc (tương đương 160 kg) một mẫu. Những gia đình nông
dân nghèo không có trâu cày, phải thuê trâu của nhà giàu với giá từ 8 - 12
phương thóc một con. Ngoài tô chính còn nhiều khoản tô phụ như lễ lạt, biếu

xén trong các dịp giỗ, tết. Lãi suất cho vay rất cao, vay thóc thường được địa
chủ tính lãi theo mùa, với mức lãi từ 50 đến 60%. Do đó, lãi mẹ đẻ lãi con khiến
cho người vay không thể trả hết nợ, buộc phải gán ruộng đất cho địa chủ [65].
Trong các đồn điền của Pháp, chúng kết hợp hình thức bóc lột phong
kiến với hình thức bóc lột tư bản. Bên cạnh việc duy trì hình thức phát
canh thu tô đối với tá điền, chúng tìm cách bóc lột ngày công đối những
người làm khoán hay công nhật vào các dịp mùa vụ. “ Quyền lực của bọn
địa chủ Pháp - Việt rất lớn. Mỗi đồn điền được tổ chức như một đơn vị
hành chính riêng, có chánh phó tổng, lý trưởng và lực lượng tuần đinh
phục vụ cho công việc quản lý đồn điền và ấp trại” [41,tr.12].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Footer Page 18 of 116.




Header Page 19 of 116.

18
Cùng với các chính sách bóc lột, vơ vét cướp đoạt ruộng đất bần cùng
hoá nông dân của giai cấp địa chủ là chính sách thuế khoá nặng nề của chính
quyền thực dân phong kiến. Riêng thuế trực thu năm 1932, nhân dân Phổ
Yên phải nộp 26.871 đồng, bình quân mỗi xuất đinh nộp hơn 7 đồng trong
một năm (thời giá năm 1932 từ 3,8 đồng đến 4 đồng một tạ gạo). Ngoài ra
còn hàng chục thứ thuế vô lý khác, cùng với phu phen tạp dịch…đã đẩy
người lao động vào cuộc sống cùng cực, “nghèo nàn, sơ xác, thất nghiệp,
điêu linh. Đó là bộ mặt thật của dân cày Đông Dương” nói chung cũng như
nhân dân Phổ Yên nói riêng [42].
Sau khi từng bước đặt ách thống trị lên đầu nhân dân Thái Nguyên, thực

dân Pháp đã thi hành chính sách chia để trị. Chúng chia rẽ, gây ra sự thù hằn
giữa các tộc người, các tôn giáo, thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ tối thiểu của
người dân. Thủ đoạn thâm độc, phổ biến của thực dân Pháp trên địa bàn Phổ
Yên là tạo ra sự khác biệt, gây ra sự thù hằn giữa những tá điền trong các đồn
điền với nông dân ngoài đồn điền (gọi là dân xứ). Đối với tá điền trong các đồn
điền chúng cho đi lại tự do, tự do nấu rượu, đánh bạc,…được miễn các thứ phu
phen tạp dịch. Ngược lại đối với “dân xứ” chúng tuyên truyền là bọn “khố rách
áo ôm” và bị chèn ép cướp bóc thường xuyên. Ngoài ra chúng tìm mọi cách
mua chuộc, nâng đỡ, dung dưỡng bọn tay sai, nâng đỡ bộ máy tay sai địa
phương, thông qua bọn này để kiểm soát, bóc lột nhân dân. Bên cạnh những thủ
đoạn chia để trị, mua chuộc dụ dỗ thực dân Pháp sẵn sàng sử dụng vũ lực thẳng
tay đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ta.
Đồng thời với những thủ đoạn thâm độc về chính trị và để tạo điều kiện
cho việc bóc lột, thực dân Pháp thi hành chính sách nô dịch và ngu dân. Trước
cách mạng tháng Tám năm 1945, toàn huyện chỉ có một trường tiểu học với
khoảng 100 học sinh, đa số là con em người nhà của địa chủ, quan lại và những
gia đình giàu có. Tuyệt đại đa số con em nông dân người lao động không được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Footer Page 19 of 116.




Header Page 20 of 116.

19
đi học, hơn 95% dân số Phổ Yên mù chữ. Bên cạnh đó, nhà cầm quyền Pháp sử
dụng báo chí, văn hoá,…để phục vụ công cuộc khai thác và thống trị. Chúng ưu
tiên, khuyến khích xuất bản các loại sách báo theo chủ trương “Pháp - Việt đề

huề”, “Pháp - Việt hợp tác”. Hệ quả là các trào lưu tư tưởng mới, khoa học kỹ
thuật, văn hoá, nghệ thuật phương Tây có điều kiện tràn vào Việt Nam. Các yếu
tố, giá trị văn hoá truyền thống và văn hoá ngoại nhập, nền văn hoá mới, tiến bộ
từng bước được định hình. Trên địa bàn huyện Phổ Yên, do tác động của chính
sách văn hoá giáo dục của thực dân Pháp, đã hình thành nên số ít trí thức tân
học, đó là điều kiện thuận lợi cho quá trình tiếp thu lý luận cách mạng tiên tiến
và hoạt động cách mạng, tiêu biểu như đồng chí Đỗ Đình Tạo (Tú Tạo), đồng
chí Ngô Hải Long.
Lợi dụng trình độ văn hoá thấp kém của quần chúng, thực dân Pháp
khuyến khích việc mê tín dị đoan. Sức khoẻ, tính mạng của nhân dân lao động
bị coi thường. Cả huyện chỉ có một y tá chữa bệnh cho bọn quan lại và binh
lính. Người dân mỗi khi bị đau ốm, chỉ biết cầu trời, khấn Phật. Các tệ nạn xã
hội như cờ bạc, rượu chè, nghiện hút,…được khuyến khích phát triển. Những
chính sách của thực dân Pháp đã làm cho đời sống nhân dân Phổ Yên thêm cơ
cực. Với chính sách phản động trên, dưới chế độ thực dân, phong kiến, người
dân Phổ Yên vô cùng cực khổ lầm than, “tức nước vỡ bờ” nhân dân Phổ Yên
không cam chịu kiếp sống trâu ngựa, đã nhiều lần đứng lên đấu tranh để giành
lấy quyền sống, quyền làm người.
Ngay từ khi thực dân Pháp đánh chiếm Thái Nguyên, trước sự chống cự
yếu ớt rồi đi đến đầu hàng giặc của quan quân triều Nguyễn, nhân dân các dân
tộc Phổ Yên đã luôn đoàn kết cùng nhân dân các dân tộc Thái Nguyên nói
chung, sát cánh, quy tụ xung quanh các thủ lĩnh địa phương, tiến hành những
trận tập kích, phục kích các toán lính Pháp đang tiến hành lùng sục, bình định
các vùng phụ cận tỉnh lỵ, huyện lỵ, khiến cho tên Công sứ tỉnh Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Footer Page 20 of 116.





Header Page 21 of 116.

20
phải thú nhận “Trong hai năm 1884 - 1885, nhiều cuộc chiến đấu đã diễn ra ở
Phổ Yên và Đại Từ” [41,tr.14].
Năm 1883, cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Đề Nắm và Đề Thám
lãnh đạo bùng nổ. Đây là sự kiện quan trọng nhất của phong trào nông dân thời
Cận đại, cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn, kéo dài khoảng 30 năm dưới sự thống
trị của chính quyền thực dân Pháp. Địa bàn hoạt động của nghĩa quân rộng khắp
ở các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Nguyên và Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc). Cuộc
khởi nghĩa Yên Thế đã thu hút, nhận được sự quan tâm ủng hộ của hào kiệt các
nơi và nhân dân trong vùng. Hưởng ứng cuộc khởi nghĩa này, nhân dân Phổ
Yên không chỉ giúp đỡ lương thực, thực phẩm, vũ khí cho nghĩa quân mà nhiều
người đã trực tiếp tham gia vào lực lượng của nghĩa quân. Nhiều cuộc đụng độ
giữa nghĩa quân với thực dân Pháp diễn ra trên đất Phổ Yên. Thực dân pháp
phải thừa nhận: “toàn bộ vùng Nam Thái Nguyên,…đều quy thuộc Đề Thám và
có thái độ chống đối rõ rệt các nhà cầm quyền Pháp và bản xứ” [41,tr.15].
Với vị trí quan trọng về chính trị và quân sự đối với miền rừng núi Bắc
Kỳ, nơi thường xuyên nổ ra các phong trào đấu tranh chống Pháp. Thực dân
Pháp, bố trí ở đây một lực lượng quân sự mạnh và những tên chỉ huy khét tiếng
gian ác. Tháng 8/1917, cuộc khởi nghĩa của binh lính Thái Nguyên do Lương
Ngọc Quyến và Trịnh Văn Cấn (Đội Cấn) lãnh đạo đã thu hút được đông đảo
nhân dân tham gia. Cuộc khởi nghĩa đã làm chủ toàn bộ thị xã Thái Nguyên (trừ
trại lính Tây), ngọn cờ “Nam Binh phục quốc” tung bay trên bầu trời tỉnh lỵ
Thái Nguyên. Cùng với nhân dân Thái Nguyên, nhân dân Phổ Yên đã tích cực
ủng hộ và tham gia cuộc khởi nghĩa. Được sự che chở, giúp đỡ của nhân dân
Phổ Yên, nghĩa quân đã tổ chức nhiều trận đánh lớn, tiêu diệt nhiều sinh lực
địch như trận Hàm Lọn (Phúc Thuận), đặc biệt là trận Hoàng Đàm (Nam Tiến)
ngày 16 tháng 10 năm 1917 khiến cho chúng phải thừa nhận “cuộc chiến đấu

gay go và ta (Pháp) thiệt hại nghiêm trọng” [41,tr.15].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Footer Page 21 of 116.




Header Page 22 of 116.

21
Được sự dung dưỡng của chính quyền thực dân, địa chủ người Pháp và
địa chủ người Việt tăng cường cướp đoạt ruộng đất, bóc lột nhân dân thông qua
địa tô, thuế và chế độ lao dịch cưỡng bức. Nhân dân Phổ Yên lúc bí mật, lúc
công khai tiến hành cuộc đấu tranh làm cho bọn địa chủ phải vất vả đối phó.
Trong những năm 1887 – 1888, nông dân đã tự động dấy lên phong trào chống
lệnh Công sứ cắt đất cho địa chủ người Tây lập đồn điền. Những người nông
dân bị mất đất ruộng làm thuê trong các đồn điền, thường tìm cách phá hoại
ngấm ngầm (phá hoại hệ thống thuỷ lợi, phá hỏng sản phẩm,…) khiến cho công
việc mở rộng sản xuất, phát triển của bọn địa chủ gặp nhiều khó khăn. Năm
1932, bọn địa chủ phải xin trả bớt đất đai cho chính phủ bảo hộ với lý do ở đây
“đất không đãi khách”, “khó làm ăn”, “khí hậu độc, nhân công khan hiếm”,…
Ngoài ra, những cuộc đấu tranh chống bắt phu làm đường quân sự, chống
sưu cao thuế nặng, vận động con em không hợp tác, làm tay sai cho
địch,…thường xuyên diễn ra. Hơn nữa, nhân dân còn tổ chức trừng trị những tên
tay sai gian ác có nợ máu với nhân dân. Năm 1918, một số lính trong đồn Chã đã
bị nhân dân địa phương trừng trị khi chúng vào làng cướp bóc của dân [41].
Những cuộc đấu tranh của nhân dân Phổ Yên cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX lúc bí mật, lúc công khai đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham
gia, đặc biệt là giai cấp nông dân, nhưng tất cả đều thất bại. Đây không chỉ là

đặc điểm riêng của phong trào đấu tranh của nhân dân Phổ Yên mà là đặc điểm
chung của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX. Do khủng hoảng về đường lối và lãnh đạo cách mạng cho nên
các cuộc đấu tranh của nhân dân ta đều nổ ra mang tính tự phát, lẻ tẻ, chưa có
đường lối, tổ chức lãnh đạo rõ ràng. Vấn đề cấp thiết đặt ra cho cách mạng Việt
Nam lúc này là phải có một tổ chức lãnh đạo cách mạng tiên tiến để tổ chức
lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh phản đế, phản phong giành độc
lập tự do và ruộng đất cho dân cày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Footer Page 22 of 116.




Header Page 23 of 116.

22
Tuy thất bại, nhưng các cuộc đấu tranh đó đã thể hiện tinh thần yêu
nước, ý thức dân tộc và lòng căm thù của nhân dân ngày càng sâu sắc, mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân Pháp ngày càng gay gắt, vấn đề
độc lập dân tộc trở thành vấn đề hàng đầu cần giải quyết. Đến khi có ánh
sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường, truyền thống cách mạng của nhân
dân Phổ Yên hoà cùng sức mạnh dân tộc tạo nên dòng thác cách mạng lật đổ
chế độ thực dân phong kiến giành lại độc lập tự do, đem hạnh phúc về với
mọi người dân lao động.
Sau nhiều năm trăn trở với vận nước, sự nghiệp cứu nước không thành
của các bậc cách mạng tiến bộ, người thanh niên Nguyễn Tất Thành quyết ra đi
tìm đường cứu nước. Qua nhiều nơi, làm nhiều nghề để hoạt động và kiếm
sống, Người rút ra kết luận: Trên thế giới này, ở đâu bọn đế quốc thực dân đều

độc ác, ở đâu những người lao động đều bị áp bức, bóc lột. Trên thế giới này
cũng có nhiều màu da khác nhau, nhưng cũng chỉ có hai hạng người: hạng
người bị bóc lột và hạng người đi bóc lột. Tháng 7/1920, Người đọc bản sơ thảo
Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, qua đó Người
đã tìm thấy con đường giải cứu nước giải phóng dân tộc là cách mạng vô sản.
Sau khi tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc
tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về nước, chuẩn bị những tiền đề về tư
tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập một chính đảng ở Việt Nam. Ngày
3/2/1930, Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
thành một chính đảng duy nhất: Đảng cộng sản Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp giữa chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam,
chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành và có đủ khả năng đảm
nhiệm vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng đã chấm dứt
cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và lãnh đạo cách mạng, là nhân tố
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Footer Page 23 of 116.




Header Page 24 of 116.

23
quan trọng đầu tiên cho những thắng lợi tiếp theo. Sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam là bước ngoặt lịch sử quan trọng của cách mạng Việt Nam.
Với Cương lĩnh cách mạng đúng đắn của Đảng đã đáp ứng được yêu cầu
của lịch sử và nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta. Ngay sau khi ra đời, Đảng
đã đưa dân tộc ta vào cuộc đấu tranh mới.

Dưới dự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh
cao Xô viết Nghệ - Tĩnh tuy chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn nhưng có ý
nghĩa hết sức to lớn. Phong trào cách mạng 1930 - 1931 cùng với sự ra đời của
chính quyền Xô viết Nghệ - Tĩnh là kết tinh sức mạnh to lớn của khối liên minh
công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo, đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và
năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam, phong trào tuy thất bại,
nhưng nó góp phần rèn luyện lực lượng cách mạng và để lại nhiều bài học kinh
nghiệm quý cho giai đoạn tiếp theo.
Từ cuối năm 1931, trước sự khủng bố ác liệt của thực dân Pháp, phong
trào cách mạng Việt Nam tạm thời lắng xuống, hàng vạn người con Việt Nam
yêu nước bị bắt, tù đầy, bị tra tấn hành hạ đến chết. Trước sự tổn thất nặng nề
của Đảng cộng sản Đông Dương, Quốc tế Cộng sản đã có kế hoạch tổ chức lại
Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản Lê
Hồng Phong và một số đồng chí khác về Hương Cảng lập ban lãnh đạo Trung
ương Đảng. Tháng 6/1932, “Chương trình hành động” của Đảng đã được soạn
thảo và thông qua. Dưới ánh sáng “Chương trình hành động”, quần chúng công
nông đã sáng tạo ra các tổ chức và hình thức đấu tranh thích hợp. Các tổ chức
biến tướng như Hội cày, Hội cấy, Hội hiếu,…được thành lập ra. Phong trào
cách mạng của quần chúng dần dần được nhen nhóm lại.
Đầu năm 1933, đồng chí Nguyễn Tạo (sau này là Tổng cục trưởng Tổng
cục Lâm Nghiệp) về hoạt động tại đồn điền Tú Tạo (Đa Phúc). Tại đồn điền
này, đồng chí Nguyễn Tạo đã gây dựng cơ sở trong tá điền, trong đó đã giác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Footer Page 24 of 116.




Header Page 25 of 116.


24
ngộ được Đào Thế Mưu, người làng Phù Lôi, xã Thuận Thành, huyện Phổ Yên.
Nhân dịp kỷ niệm cách mạng tháng Mười Nga (7/11/1933), đồng chí Đào Thế
Mưu được đồng chí Nguyễn Tạo giao cho một số truyền đơn và tài liệu đưa về
Phù Lôi tuyên truyền. Hoạt động của đồng chí Đào Thế Mưu bị địch phát hiện,
ngày 11/11/1933 chúng bắt đồng chí Đào Thế Mưu và ba người khác đưa về xử
tại toà án tỉnh Thái Nguyên. Cơ sở cách mạng ở phía nam huyện Phổ Yên tạm
thời bị phá vỡ, phải gần 10 năm sau mới khôi phục được.
Từ ngày 27 đến ngày 31/3/1935 , Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản
Đông Dương họp tại Ma Cao - Trung Quốc đã đánh dấu sự phục hồi của hệ
thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng Việt Nam.
Cuộc khủng hoảng của hệ thống tư bản chủ nghĩa (1929 - 1933), đã dẫn
tới sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít, đưa loài người đứng trước nguy cơ một
cuộc chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử. Trước tình hình đó, tháng 7/1935
Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản được tổ chức và xác định: kẻ thù
trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít, nhiệm vụ trước mắt của
cách mạng thế giới là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hoà bình giành
tự do, dân chủ, xây dựng mặt trận thống nhất rộng rãi.
Tháng 5/1936, Mặt trận nhân dân Pháp giành thắng lợi trong cuộc tổng
tuyển cử, tháng 6/1936, một chính phủ mới được thành lập và đã thi hành
một số chính sách tiến bộ ở các thuộc địa: trả tự do cho tất cả tù chính trị,
thành lập Uỷ ban điều tra tình hình các thuộc địa và thi hành một số cải cách
xã hội. Những thay đổi của Chính phủ, Mặt trận nhân dân Pháp còn thấp xa
so với những đòi hỏi của các dân tộc bị trị, chỉ mang tính tượng trưng hơn là
thực chất, nhưng dù sao nó cũng tạo điều kiện “hợp pháp” cho các dân tộc
thuộc địa của Pháp đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ trong những
năm 1936 - 1939.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Footer Page 25 of 116.




×