Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

ĐIỀU TRỊ BỆNH PHONG THẤP tải free tại book.quangtuyen.net

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.31 KB, 148 trang )

ĐIỂM HUYỆT LIỆU PHÁP
Của MÃ TÚ ĐƯỜNG
Nhà xuất bản Thiểm tây khoa học kỹ thuật xuất bản
xã- Tháng 2 / 1981
Người dịch. Lê Văn Sửu, Tháng 10/1991
LỜI GIỚI THIỆU SÁCH :
Ông Mã Tú Đường là một nhà châm cứu và điểm
huyệt đã nhiều năm.
Riêng về khoa điểm huyệt, ông bắt đầu nghiên cứu từ
mùa xuân năm 1956 đến mùa thu năm 1959, Ông đã
đem những liệu pháp kinh nghiệm lâm sàng giai đoạn
đầu làm thành tổng kết bước đầu ,nhà xuất bản Thiểm
Tây nhân dân xuất bản xã giúp đỡ đem xuất bản. Sau
đó, trải qua nhận được nhiều thư của độc giả cổ vũ,
thúc giục, ông càng thêm tin tưởng và quyết tâm tăng
thêm sức mạnh nghiên cứu của minh.
Đến năm 1978, trên cơ sở thực tiễn lâm sàng “ Điểm
huyệt liệu pháp” đã qua 20 năm, chữa nhiều loại bệnh,
tăng thêm được nhiểu thủ pháp chữa trị, xác minh được
một số vấn đề có tính lý luận đã gặp trên lâm sàng, làm
cho một liệu pháp bất luận là cơ sở lý luận, hay là ở vận
dụng thủ pháp và thự tiễn lâm sàng đều rất là phong
phú so với sách trước. Nhưng ông nói ở y học viện Địa
lý Đà tất cánh là nơi vun xới chính cho vườn ươm vun
xới cho cây ( tứ là vấn đề này ) nẩy nở và lớn lên, cũng


còn cần ngày càng nhiều viện gặp gỡ,thấm nạp và quản
lý làm cho nó dần dần phát triển và lớn lên.
Theo tác giả nói: thì ông tự thấy kinh nghiệm lâm sàng
và trình độ lý giải của mình đều còn rất hạn chế không


thể tránh khỏi có sự sai sót.
Khi đọc sách ông viết: Tôi thấy đây là một công trình
tâm huyết của một đời người tận tuỵ với nghề và với
con người, nên tôi lược dịch lại để cùng nhau học tập.
Gọi là lược dich vì tôi bỏ đi những phần về kinh lạc,
huyệt vị mà chúng ta đã có dịp học hỏi ở những sách
khác, và bỏ đi những y án kèm theo có tính chất xác
minh hiêụ quả để làm căn cứ kiểm tra khi cần, vì chúng
sẽ dùng thực nghiệm lâm sàng của chúng ta để rút ra
kinh nghiệm cho mình trong tương lai là chính.
Tôi rất cám ơn ông Mã Tú Đường và xin phép ông
được giới thiệu những phần chúng tôi muốn học ở sách
ông viết.
Hà Nội, ngày 28
tháng 10 năm 1991

Lê Văn
Sửu


MỤC LỤC :
THIÊN THƯỢNG :

TRI THỨC CƠ BẢN

Chương I : NGUYÊN LÝ CỦA ĐIỂM HUYỆT
LIỆU PHÁP
Tiết 1 – Thế nào là điểm huyệt liệu pháp
Tiết 2 - Điểm huyệt và quan hệ kinh lạc
Tiết 3 - ảnh hưởng của điểm huyệt đối với tạng phủ

Tiết 4 – Tác dụng của điểm huyệt đối với doanh , vệ
, khí , huyết .
Tiết 5 – Quan hệ kinh lạc và tạng phủ ( lược )
Chương II: THỦ PHÁP CỦA ĐIỂM HUYỆT LIỆU
PHÁP
Tiết 1 – Bình nhụ pháp ( phép nắn day ngang bằng
)
1-1 - Tiêu chuẩn tả hữu bình nhụ


1-2 – Tả hữu bình nhụ và bổ, tả
1-3 – Tác dụng của bình nhụ pháp
1-4 – ứng dụng cỉa bình nhụ pháp
Tiết 2 - áp phóng pháp ( phép nhấn nhả )
2-1 – Tiêu chuẩn áp phóng pháp.
2-2 – Bổ tả của áp phóng pháp
2-3 – Tác dụng của áp phóng pháp
2-4 – úng dụng của áp phóng pháp
( Phụ ) – cụ thể tiêu chuẩn thao tác bình nhụ pháp và
áp phóng pháp.
Tiết 3 – Bì phu điểm đả huyệt ( phép chấm gõ ở da )
3-1 – Tác dụng của phép bì thu điểm đả
3-2 – ứng dụng của phép bì phu điểm đả
Tiết 4 – Kinh lạc tuần án pháp ( phép dựa theo
đường kinh lạc )
4-1 – Bổ tả của kinh lạc tuần án pháp
4-2 – Tác dụng của kinh lạc tuần án pháp
4-3 – ứng dụng của kinh lạc tuần án pháp
Tiết 5 – Ngũ hành liêm dụng pháp ( phép nối tiếp
dùng ngũ hành )

5-1 – Tên gọi năm loại thủ pháp
5-2 – Thứ tự thao tác ngũ hành liên dụng pháp
5-3 – Thao tác cụ thể và lý luận của ngũ hành liên
dụng pháp
5-4 – Tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp ( lược )
Tiết 6 – Các thủ pháp bổ trợ khác
6-1 - Đầu bộ thôi vận pháp ( phép đẩy xoay ở vùng


đầu )
6-2 – Bối bộ tuần áp pháp ( phép áp theo ở vùng lưng )
6-3 – Chấn chiến pháp ( pháp rung rẩy )
6-4 – Tứ chi dao vận pháp ( phép lắc vần tứ chi )
6-5 - Áp huyệt pháp ( phép áp huyệt )
6-6 – Thiết huyệt pháp ( phép cắt huyệt )
6-7 - Đấu chấn pháp ( phép rung lắc )
6-8 – Thiết dao pháp ( phép cắt lay )
6-9 – Niết huyệt pháp ( phép véo huyệt )
6-10 – Thôi cảnh hạng pháp ( phép đẩy ở cổ gáy )
6-11 - Áp cảnh động mạch đàn nhân nghinh pháp (
phép áp động mạch cảnh gáy ở nhân nghinh )
6-12 – Kháng bối pháp ( phép chống đỡ ở lưng )
6-13 – Áp tích pháp ( phép nhấn cột sống )
6-14 - Án trú phân băng pháp ( phép ấn giữ kéo chia )
6-15 – Cử suất pháp ( phép nâng lên hạ xuống )
Chương III: SỰ CỐ LÂM SÀNG CẦN CHÚ Ý
KHI DÙNG ĐIỂM HUYỆT LIỆU PHÁP.
Tiết 1: Thái độ của người điểm huyệt
Tiết 2: Công việc chuẩn bị của điểm huyệt
TIết 3: Chú ý sự cố của điểm huyệt

Tiết 4: Tiêu chuẩn lấy huyệt của điểm huyệt liệu
pháp
Chương IV: TUẦN HÀNH CỦA 14 KINH MẠCH,
BỆNH TẬT CỦA KINH MẠCH VÀ DU HUYỆT
THƯỜNG DÙNG ( LƯỢC )
Chương V: KINH NGOẠI KỲ HUYỆT THƯỜNG


DÙNG ( LƯỢC )
Chương VI: PHƯƠNG PHÁP CƠ BẢN VỀ PHỐI
HUYỆT CỦA ĐIỂM HUYỆT LIỆU PHÁP ( LƯỢC
)


Thiên Hạ: TRỊ LIỆU LÂM SÀNG
Chương I: Bệnh nội khoa
1
– Bán thân bất toạ
2 – Cao huyết áp ( can dương thượng cang ).
3 – Liệt
4 – Cảm mạo
5 – Thổ tả
6 – Tiêu chảy mãn tính ( tỳ thận hư hàn )
7 – Lỵ
8 – Tao bón
9 – Di tinh
10 – Liệt dương
11 – Mất ngủ
12 – Ho hắng ( viên khí quản )
13 - Đau đầu

14 – Chấn thương não
15 – Choáng váng ( choáng tiền đình )
16 – Chứng hồi hộp ( Chinh trung )
17 - Đau dạ dầy (Viêm mãn tính, nước chua quá
nhiều, loét đường tiêu hoá)


18 – Hạ sườn chứơng đau ( viêm gan )
19 – Lừng đùi đau
20 – Vai, cánh tay đau
21 - Đùi, đầu gối đau
22 – Lưng trên, lồng ngực đau
23 – Mất tiếng
24 - Đái nhiều lần
25 - Đái dầm
26 – Tạng taó ( bệnh is–tê-ri )
27 - Động kinh ‘
28 – Bàn tay và cánh tay tê bại ( tê bại do rối loạn
thần kinh )
Chương II: Bệnh phụ khoa
1 – Kinh nguyệt không đều
2 – Hành kinh đau bụng
3 – Bế kinh
4 – Băng lộng huyết
5 – Sản dịch không dứt
6 – Có mang nôn mửa
7 – Sảy thai
Chương III: Bệnh trẻ em
1 – Trẻ em pháp sốt
2 – Thổ tả

3 – Trẻ em rối loạn tiêu hoá
4 – Trẻ em sợ hãI
5 – Sưng quai bị ( sưng tuyến dưới tai )
6 – Ho gà (đốn khái, bách nhật khái )


7 - Bại liệt trẻ em
8 – Chứng trẻ em lắc đầu
Chương IV: Bệnh ngoại khoa
Tiết 1 – Cổ gáy có hạch ( tràng nhạc )
Tiết 2 – Thoát giang
Tiết 3 – Sán khí ( hồ sán ) sưng dịch hoàn
Tiết 4 – Bong gân
Tiết 5 – Sái cổ
Tiết 6 – Bướu cổ
Tiết 7 – Sưng cụ bộ do tiêm thuốc
Tiết 8 – Viêm ruột thừa
Tiết 9 – Viêm tổ chức dưới da ( tổ chức phong sào –
hình tổ ong )
Tiết 10 – Dị ứng mẩn ngứa
Chương V: Bệnh ngũ quan
Tiết 1 – Tai kêu
Tiết 5 –
Chảy máu mũi
Tiết 2 – Cấp tính viêm tai giữa
Tiết 6 Đau họng
Tiết 3 – Viêm tai ngoàI
Tiết 7 –
Thần kinh mặt tê bại
Tiết 4 - Đau răng

Tiết 8 –
Miệng khó há to.

THIÊN THƯỢNG
------------------


Tri thức cơ bản
---o0o--Chương I: NGUYÊN LÝ CỦA ĐIỂM HUYỆT
LIỆU PHÁP

Tiết 1: Thế naò là điểm huyệt liệu pháp
Điểm huyệt liệu pháp là một phép chữa bệnh không
dùng thuốc, lại không dùng công cụ, chỉ dựa vào hai
bàn tay, vận dụng thủ pháp nhất định có thể đạt mục
đích chữa bệnh.
Huyệt vị là nói về kinh huyệt, nó có quan hệ rất mật
thiết với kinh lạc. Do dùng ngón tay nắn, áp, điểm, gõ
trên huyệt vị là có hiệu quả chữa bệnh, cho nên gọi là
điểm huyệt liệu pháp.
Những năm gần đây, điểm huyệt liệu pháp dưới sự chỉ
đạo của lý luận y học cổ đại Phương Đông như Kinh
lạc, âm dương, ngũ hành,….Thông qua thực tiễn lâm
sàng, chứng minh hiệu quả chữa bệnh của nó rất cao,
thu được những tiến triển rất lớn. Trong đời sống xã hội
Phương Đông, nó đang dần dần trở thành một trong
những phương pháp chữa bệnh, bảo vệ sức khoẻ của
nhân dân.
Nguyên lý của điểm huyệt liệu pháp là căn cứ lý luận
của thúc, án ma mà kết hợp nghiên cứu, bởi vì lý luận



của hai loại này đều quan hệ mật thiết với kinh huyệt,
kinh lạc, và ngũ tạng, kinh huyệt và kinh lạc tổ hợp
thành hệ thống tuần hoàn khí huyết, luân chuyển phân
bố toàn thân.
Ngũ tạng là khí quan chứa tinh của cơ thể con người,
nó phản ứng tính tinh khí, ở phương diện kinh huỵêt và
kinh mạch, nhưng mà phản ứng lại dựa vào sự tuần
hoàn của doanh, vệ, khí, huyết.
Ngũ tạng có tương sinh tương khắc, tương thừa,
tương vũ, đối lập mà lại thống nhất, loại thống nhất này
là trọn vẹn một quá trình sinh tàn tinh khí, con người
khi có bệnh, sẽ mất đi mất bình thường của tính thống
nhất, sẽ ảnh hưởng tới sức khoẻ của con người.
Sinh mạng của cơ thể con người là sự kết hợp với nhâu
giữa tiên thiên và hậu thiên, Tiên thiên thuộc về chỗ y
học Phương Đông gọi là thận, hậu thiên thuộc về tì,
Thận tác dụng tương thông với nhâm mạch và đốc
mạch, do thận tuần hành lên bụng, đi kẹp hai bênh
nhâm mạch cách năm phân, Bàng quang kinh tuần hành
từ đỉnh đầu vào não, lại ra ở dưới mà đi ở vùng lưng,
kẹp hai bên đốc mạch cách 1,5 thốn. Du huyệt của ngũ
tạng lục phủ đều ở trên bàng quang kinh vùng lưng.
Thận và bàng quan cùng biểu lý và đều có quan hệ với
đốt xương sống, quan hệ đó cùng với phương diện giải
phẫu của thần kinh não tuỷ và thần kinh thực vật có
quan hệ rất lớn. Tiên thiên là sự chi phối nhất thiết với
cơ thể của con người, hậu thiên bị tiên thiên chi phối,



tiên thiên nêú không có hậu thiên bồi bổ cung cấp khí
huyết cũng không thể duy trì sinh lý đó được bình
thường.
Tỳ là gốc của hậu thiên, tỳ và vị là biểu lý tương hỗ, vị
nạp đồ ăn tỳ chủ vận hoá, tỳ vị thuộc trung tiêu. Trung
tiêu đem tinh hoa của đồ ăn thức uống làm cho biến đổi
thành phần (chưng phát ) hoá thành khí huyết, đưa lên
phế, tuần hoà toàn thân.
Tác dụng của điểm huyệt là sự kết hợp tương hỗ của
thủ pháp và kinh huyệt thông qua sự tuần hoàn của khí
huyết, doanh vệ, để xuc tiến phản ứng của tinh khí ngũ
tạng, làm cho tiên thiên chi phối năng lực và quá trình
cung cấp khí huyết của hậu thiên, đạt đến sinh lý đúng
đắn, loại bỏ chứng trạn, khôi phục sức khoẻ.

Tiết 2 : Điểm huyệt và quan hệ kinh lạc
Kinh huyệt nằm trong sự bao hàm của học thuyết kinh
lạc, bởi vì cần làm rõ kinh huyệt, tức là cần phải biết kĩ
về kinh lạc. Điểm huyệt tuy trọng điểm tiến hành thủ
pháp trên huyệt vị, nhưng trên thực tế là căn cứ và sự
phân bố và tuần hành của kinh lạc ở thân người. Vì
kinh lạc là đường thông để vận thành doanh, vệ, khí,
huyết ở thân người, mà kinh huyệt là điểm giao hội
hiện rõ sự vận hành doanh, vệ, khí, huyết trong đường
thông, cho nên có một số huyệt như Đại chuỳ hội với


thủ tam dương, túc tam dương và đốc mạch, Quan
nguyên là hội của túc tam ông và nhâm mạch …

Những cái đó nói nên rằng kinh huyệt và kinh lạc tương
hỗ thành một qua hệ gắn bó, do đó điểm huyệt có đủ
sức điều chỉnh các biến hoá biểu lý giữa các kinh lạc và
các lệch lạc về hàn nhiệt của âm kinh và dương kinh.
Cho nên muốn hiểu rõ được liệu pháp điểm huyệt,
trước hết cần phải hiểu rõ được học thuyết kinh lạc,
nắm được bản chất hệ thống (thể) kinh lạc, mới có thể
đủ sức nơi có bệnh, căn cứ của biện chứng thí trị.
Tiết 3: Ảnh hưởng của điểm huyệt đối với tạng
phủ
Cơ thể người ta là do khí, huyết, gân mạch, xương,
tuỷ, phủ, tạng hợp thành. Mỗi một bộ phận tổ thành,
chúng dựa dẫm vào nhau đều có quan hệ âm dương
không thể chia cắt. Khí và huyết, cân và mạch, cốt và
tuỷ, phủ và tạng đều là giúp nhau làm việc. Khí là soái
của huyết, khí hành thì huyết hành, khí dừng thì huyết
dừng. Cân là sứ của mạch, cân đậu thì mạch nhanh (
cấp ), cân tĩnh thì mạch chậm ( hoãn ). Cốt là nhà của
tuỷ, xương rắn chắc thì tuỷ đầy đủ, xương mềm thì tuỷ
rỗng. Phủ là biểu của tạng, phủ khoẻ thì tạng khoẻ, phủ
yếu thì tạng suy. Chúng đều thuộc về nhau theo biểu lý
âm dương, kinh mạch, kinh mạch nối liền suốt giữa các
hỗ tương đó, trong sự hỗ tương của khí huyết vận hành,


thành một hệ thống hoàn chỉnh ( chỉnh thể ). Trong đó
nổi lên tác dụng chủ đạo là của ngũ tạng lục phủ, Ngũ
tạng lục phủ phối hợp trong thuộc tính ngũ hành mộc,
hoả, thổ, kim, thuỷ, trong đó nổi lên tác dụng sinh khắc
lẫn nhau, chế ước lẫn nhau, duy trì nhau ở mức bình

thường, mà còn có thể đủ sức ảnh hưởng đến quan hệ
sinh lý đều đặn của các mặt khí, huyết, cân mạch, cốt,
tuỷ….
Chỉnh thể con người bất luận phát sinh bệnh biến ở
một bộ phận nào đều có quan hệ với tạng phủ sinh
khắc, chế ước. Dựa vào quan hệ phân bố của kinh lạc,
trong thì thông với ngũ tạng lục phủ, ngoài thì nối với
tứ chi, bách hàI ( trăm đốt). Do mười hai kinh mạch
thống thuộc tạng phủ ( kinh mạch từng tạng phủ nối
nhau ), quan hệ cuả kinh huyệt và tạng phủ cũng rất mật
thiết, vì vậy, tiến hành điểm huyệt ở bề mặt cơ thể con
người cũng sẽ có thể nhằm vào tạng phủ gây nên ảnh
hưởng nhất định, cũng có thể trực tiếp điều tiết giữa cái
hữu dư hoặc bất túc của ngũ tạng lục phủ, làm cho sự
sinh khắc, chế hoá lẫn nhau trở lại trạng thái ngang
bằng, từ đó làm cho tổ chức chỉnh thể tiếp tục duy trì
được hiện tượng bình thường của nó.
Tạng phủ có hữu dư hoặc bất túc, tức là trên sinh lý
mất đi hiện tượng bình thường, xuất hiện hiện tượng
bệnh lý mất bình thường. Liệu pháp điểm huyệt căn cứ
vào tình huống hiện thực loại này, vận dụng thủ pháp
cụ thể, bổ cái bất túc, tả cái hữu dư, thúc đẩy công năng


tạng phủ duy trì sinh lý bình thường.
Tiết 4: Tác dụng của điểm huyệt với doanh, vệ,
khí, huyết

Kinh huyệt là bộ phận hợp thành của kinh lạc,
12

kinh
lạc

8
mạch
kỳ
kinh
xuyên suốt chỉnh thể
người ta, hình thành hệ thống kinh lạc hoàn chỉnh.
Doanh, vệ, khí, huyết là yếu tố duy trì hoạt động sinh lý
bình thườngcủa cơ thể con người. Liệu pháp điểm
huyệt có thể chữa được bệnh chủ yếu là có thể điều
chỉnh được quan hệ của doanh, vệ, khí, huyết…
Thiên “ Doanh vệ sinh hội” sách Linh Khu nói: ((
Người ta thụ khí ở ngũ cốc,
cốc vào dạ dầy, rồi
chuyển vào phế, ngũ tạng lục phủ, đều thụ khí ở đó )). (
nhân thụ khí vu cốc, cốc nhập vu vị, di chuyển vu phế,
ngũ tạng lục phủ, giai dĩ thụ khí, Kỳ thanh giả… vi
doanh, trọc giả vi vệ, doanh tại mạch trung, vệ tại mạch
ngoại), (( Cái trong là doanh, cái đục là vệ, doanh ở
trong mạch, vệ ở ngoàI mạch )), … Trong “ Trung
Quốc y học đại từ điển” có giải thích đoạn kinh văn đó
như sau: “ Trong là doanh ( trong sạch ), tức là máu ở
trong huyết quản đi ra ( phát huyết quản ), cũng gọi là
máu ở động mạch , Thoạt đầu qua phế lọc qua trong
không khí sạch, qua tâm phòng đẩy ra, làm cho tinh
khiết mà có máu đỏ. đục(trọc ) là vệ, tức là máu trong



sạch, máu trở về, cũng gọi là máu ơ tĩnh mạch. Đúng
nhất là chưa về trước lúc vào phế tạng, chất vẩn đục có
nhiều ở trong máu, cho nên mạch máu đó cũng xanh tối
mà không tươi sáng. Doanh tại mạch trung, tưc là phát
huyết quantrong con người là mạch máu ở từng trong.
Vệ tại mạch ngoại, tức là hồi huyết quản trong con
người là mạch máu từng ngoàI, điều đó nói rõ quan hệ
doanh vệ với hệ thống tuần hoàn.
Thiên “ Quyết khí” nòi: (( Trong tiêu thụ khí lấy nước
lỏng, biến hoá cho đỏ làm ra máu)) ( Trung tiêu thụ khí
thủ chấp, biến hoá nghi xích thị vi huyết ).
Thiên “ tà khách…” nói: “ Doanh khí thấm ra ngoài là
tân dịch, trú ở trong mạch, hoá làm huyết để nuôi
dưỡng tứ chi, bên trong thì trú ở tạng phủ” (Doanh khí
giả, thảm kỳ tân dịch, trú chi vu mạch, hoá dĩ vi huyết,
dĩ doanh tứ mạt, nội trú ngũ tạng lục phủ). Căn cứ vào
cách nói trên, huyết có nguồn gốc từ trong tiêu hoá hấp
thu được chất tinh vi của đồ ăn thức uống, thông qua
tác dụng khí hoá mà thành doanh khí, doanh khí phân
chia ra tân dịch vào trong mạch, trú ở trong ngũ tạng
lục phủ, nuôi tứ chi trăm đốt ở ngoài, toàn thân không
có chỗ nào không chịu sự nuôi dưỡng của nó, Vệ cũng
giống như thế,từ trong sự hấp thu đồ ăn uống đó phần
dưỡng ra mà thành.
Thiên “Bại luận”, trong Tố vấn kinh nói rằng: “Vệ là
hãn khí của đồ ăn uống, khí đó cực kỳ trơn tru nhanh
nhậy, không thể vào trong mạch, cho nên đi ở trong da


nơi giữa da và thịt hun đúc hoang mạc, tản ra ở ngực ,

bụng”, (vệ giả, thuỷ cốc, chi hãn, khí dã, kì khí phiếm
tật hoạt lợi, bất năng nhập vu mạch dã, cố tuần bì phu
chi trung, phân nhục chi gian, chưng vu hoang mạc, tán
vu hung phúc). Căn cứ vào đoạn kinh văn trên, vệ khí
phân bố ở ngoài mạch đạo, rất có quan hệ với đường đi
của tĩnh mạch.
Thiên “âm dương ứng tượng đại luận” nói: “Khí trời
thông vào phế, địa khí thông vào họng”, ( thiên khí
thông vu phế, địa khí thông vu ích). điều đó cũng nói,
một là không khí của trời theo thở hít mà vào phổi, một
nữa là khí của thuỷ cốc mà vào họng. Từ đó chứng
minh, khí của cơ thể con người là khí của thuỷ cốc gộp
lại với khôn khí của trời mà thành, cũng là cổ nhân đã
chỉ rằng nguồn gốc cụ thể của doanh, vệ, khí, huyết có
quan hệ với kinh lạc.
Bình nhụ pháp của điểm huyệt liệu pháp là điều lý âm
dương trong cơ thể con người. Bởi vì tượng trưng của
âm dương là trái và phải, trái thuộc dương, phải thuộc
âm, vì thế phép bình nhụ dựa đúng theo quan hệ âm
dương, có quan hệ phải, trái. Cổ nhân lấy âm là tĩnh,
dương là động, tĩnh cũng là không động, động cũng là
không dừng. Nhụ là động kết hợp với tĩnh, vì thế phép
bình nhụ cũng có thể điều lý quan hệ âm dương.
Áp phóng pháp của điểm huyệt liệu pháp cụ thể điều
tiết doanh, vệ, là theo đúng doanh hành mạch trung, ở
tổ chức kinh lạc vùng hơi sâu hơn, vệ hành mạch ngoài


ở vùng hơi nông của tổ chức kinh lạc. Vì vậy, áp phóng
pháp là áp sâu đạt đến doanh, phóng nông đến vệ, áp

cùng kết hợp với phóng, trực tiếp điều tiết doanh vệ.
Kinh huyệt là điểm cuối cùng của sự tuần hoàn
doanh, vệ, khí, huyết, ở thân thể con người. Cơ thể
người ta một khi sinh ra bệnh biến, cùng với bệnh biến
là kinh mạch hữu quan và kinh huyệt trong vùng sẽ sinh
ra một phản ứng biến hoá nhất định, như tê dại, đau
đớn, sưng đỏ.v.v.v. khác nhau, người khác thấy mà
mình cũng tự thấy, đó là những hiện tượng trực tiếp trở
ngại của sự tuần hành doanh, vệ, khí, huyết. Bình nhụ,
áp phóng trong điểm huyệt liệu pháp có thể làm mất đi
hiện tượng phản ánh trong huyệt vị và vùng trung
quanh cũng là nhằm vào chỗ gây nên tác dụng điều tiết
doanh, vệ , khí, huyết.
Tiết 5 – Quan hệ kinh lạc và tạng phủ ( lược )
Chương thứ hai: THỦ PHÁP CẢU ĐIỂM HUYỆT
LIỆU PHÁP
Thủ pháp điểm huyệt chia ra: “ Bình nhụ pháp”, “
Áp phóng pháp”, “ Bì phu điểm đả pháp”, “ Kinh lạc
tuần án pháp”, “ Ngũ hành liên dụng pháp” là năm loại
thủ pháp cơ bản. Ngoài ra còn có: “ Đầu bộ thôi vận
pháp”, “ Bối bổ tuần áp pháp”, “ Tứ chi dao vận pháp”
và các thủ pháp bổ trợ khác.


Việc vận dụng thủ pháp trên lầm sàng phải căn cứ
tình hình bệnh tật mà tuyển chọn. Khi thời gian ít, dùng
riêng một loại thủ pháp. Khi thời gian nhiều, dùng hai
loại thủ pháp trở lên. Đối với chứng thần kinh chức
năng, bệnh hệ thống nội tạng, phần lớn lá dùng bình
nhụ pháp và áp phóng pháp, có khi phối hợp với ngũ

hành liên dụng pháp ( ngũ liên pháp ), đối với tật nạn
đau đớn vùng lưng đùi, ngoài trọng điểm dùng ngũ liên
pháp, căn cứ vào bệnh tình khác nhau, có khi sử dụng
bình nhụ pháp, áp phóng pháp, hoặc kinh lạc tuần án
pháp ( tuần án pháp ), và tứ chi dao vận pháp ( dao vận
pháp ). Quá trình thao tác cụ thể của thủ pháp, sẽ nói kỹ
trong các thủ pháp và thủpháp phối hợp trong chữa
từng bộ phận.
Tiết 1: Bình nhụ pháp ( phép nắn day ngang bằng
)
Gọi tên là Bình nhụ pháp vì “ Bình mà nhụ”.
“ Bình” tức là không chế nghiêng lệch, giữ gìn mức
ngang bằng thích đáng.
“ Nhụ” tức là động tác ấn xoa, là động tác “ án
công” và “ ma công” cùng phối hợp lại. Án công là tay
ấn nặng và dừng ở trong cơ ( bắp thịt )không động. Ma
công là tay xoa nhẹ ở da không ngừng, Bất động là tĩnh,
thuộc âm, Không dừng là động, thuộc dương. nhụ là
phát huy của sự kết hựop “ án” và “ ma”, có tác dụng
điều tiết âm dương.


Thao tác cụ thể của Bình nhụ pháp là:
Đầu ngón tay giữa của người thaỳ điểm huyệt vị
người bệnh, kế đó đem đầu ngón tay cái để ở dưới gầm,
phía trong của ngón tay giữa, chỗ khớp đốt thứ nhất, lại
lấy ngón trỏ và ngón bốn chụm lại áp ở phía ngoài đốt
thứ nhất ngón giữa, để làm thế bổ trợ cho ngón giữa
tiện cho thao tác của ngón giữa. Sau đó dùng đầu ngón
giữa đã để trên huyệt vị làm bình nhụ hình vòng tròn,

gốm có hai ý ấn và day.
Vì bề mặt của ngón tay nhụ phải lõm và dưới da
huyệt vị, đây là động dạng nhụ ( kiểu như nắn day ) sẽ
không thể rời khỏi da ( nếu như nhụ đầu ngón tay
ngang bằng với mặt da, mà đầu ngón tay và mặt da làm
thành trạng thái mài xát, kiêu đó sẽ hình thành phép xoá
trong án ma cần chú ý thêm ). Bình nhụ một vòng là
một lần, tiêu chuẩn chung là 50 – 100 lần. Tăng giẳm
số lần phải tuỳ bệnh tình mà quyết định.
Diện tích vùng nhụ là do vùng huyệt quyết định,
mặt khác cần căn cứ tình hình bệnh. Do đó ở thao tác
nhụ,cần phải xem xét toàn diện nhưng chủ yếu là vòng
ngón tay nhu ước chừng trên dưới 1 phân ( lem ), lấy đó
làm phạm vi vòng tròn vận nhụ và kết hợp với diện tích
vùng huyệt linh hoạt vận dụng thích đáng.
Xoay nhụ của bình nhụ pháp, tuỳ thao tác trên huyệt vị
nhưng do liên tục kích thích của bình nhụ, ở trong tổ
chức huyệt vị cũng dẫn đến cảm giác buốt tê hoặc buốt
khó chịu, cũng là cho sinh ra biến hoátổ chức huyệt


vị,dẫn đến cơ nặng điều tiết trên sinh lý của tổ chức
trong cơ thể con người. Đây là một thủ pháp trọng yếu
phi thường trong toàn bộ phép điểm huyệt. Vì vậy, nó
được ứng dụng trên lầm sàng rất là rộng rãi. Thủ pháp
nặng hay nhẹ cần phân biệt ở thể chất gầy hay béo,
bệnh tình lâu hay mới mà quyết định. Người béo mới
bị bệnh thì thủ pháp nặng, người gầy yếu bệnh lâu lài
thì thủ pháp nhẹ. Nhưng ở người béo khẻo cũng có khi
dùng thủ pháp nhẹ, người gầy yếu bệnh lâu cũng có khi

dùng thủ pháp nặng. Hiện tượng này là phương thuốc
biến hoá căn cứ vào tình hình đặc thù của bệnh tật mà
linh hoạt quyết định sử dụng. Ngoài ra thủ pháp này
không những trực tiếp điều tiết âm dương, mà còn có
thể căn cứ vào 12 kinh âm dương tuần hành, cũng với
vấn đề khởi chỉ của mạch nhâm tuần hành ở bụng,
mạch đốc tuần hành ở lưng, tiến hành thủ pháp bổ tả,
tăng mạnh thêm tác dụngđiều tiết âm dương.
1 – 1: Tiêu chuẩn tả hữu bình nhụ
Hướng về bên trái bình nhụ, hoặc là hướng về bên phải
bình nhụ là lấy vị trí của người bệnh mà quyết định trái
phải. Khi huyệt vị ở bên trái hoặc ở bên phải của người
bệnh, không kể là huyệt ở dương kinh hay ở âm kinh,
xoay nhụ từ phải qua trái hướng lên là hướng tả bình
nhụ. Ngược lại, từ trái qua phải hướng lên mà xoay nhụ
là hướng hữu bình nhụ.
1 – 2: Tả hữu bình nhụ và bổ tả


Bản thân bình nhụ pháp vốn có đủ tác dụng điều tiết
âm dương. phương pháp bổ tả của hướng tả bình nhụ và
hướng hữu bình nhụ có thể tăng thêm mạch điều tiết bất
túc. Đó là căn cứ vào bắt đầu và dứt ở 14 kinh tuần
hành trên cơ thể ngừơi, và vấn đề thăng giáng của tả
dương hữu âm, kết hợp cụ thể vào thủ pháp thao tác,
tiến hành bổ tả nghênh tuỳ.
Thủ tam dương kinh đi từ tay lên đầu bằng:
Khi nhụ huyệt vị ở bên trái, hướng tả bình nhụ tứ là
nhụ từ phải qua trái, hướng lên theo chiều đường kinh
mà nhụ xoay là tả.

Khi nhụ huyệt vị ở cạnh phải hướng bình nhụ tức là
nhụ từ trái qua phải, hướng lên theo đường kinh mà nhụ
xoay là bổ, hướng xuống đón ngược chiều đường kinh
mà nhụ xoay là tả.
( Nếu dùng cả hai tay mà nhụ cho người bệnh đều lấy
hướng lên mà bổ, hướng xuóng là tả )
Thủ tam âm kinh đi từ ngược ra tay bằng:
Khi nhụ huyệt vị ở cạnh trái, hướng hữu bình nhụ tức
là nhụ từ trái qua phải, hướng lên đón ngược chiều
đường kinh đi mà nhụ xoay là tả, hướng xuống theo
chiều đường kinh đi mà nhụ xoay là bổ.
Khi nhụ huyệt vị ở cạnh phải, hướng tả bình nhụ tức là
nhụ từ phải qua trái, hướng lên đón ngược chiều đường
kinh đi mà nhụ xoay là tả, hướng xuống theo đường
kinh đi mà nhụ xoay là bổ.
( Hai tay nhắm vào nhau mà nhụ, đều là lấy hướng


lên làm tả, hướng xuống là bổ )
Túc tam dương kinh đi từ đầu tới chân:
Khi nhụ huyệt vị ở cạnh trái hướng tả bình nhụ – tức là
nhụ ở phải qua trái hướng lên theo chiều đường kinh
mà nhụ xoay là bổ, hướng xuống đón ngược chiều
đường kinh là nhụ xoay là tả.
Khi nhụ huyệt vị ở cạnh phải, hướng hữu bình nhụ tức là nhụ từ trái qua phải, hướng lên theo đường kinh
đi mà nhụ xoay là bổ, hướng xuống đóng ngược chiều
đường kinh đi mà nhụ xoay là tả.
( Hai tay nhắm vào nhau mà nhụ, đều là lấy hướng
lên làm bổ, hướng xuống là tả )
( Phụ )

Hình vẽ bổ tả ở thủ tam dương kinh
Hình vẽ và những ví dụ kể trên là bổ tả ở nam giới.
Nếu khi dùng ở nữ giới thủ pháp bổ tả bình nhụ thì phải
đổi ngược chiều tả hữu ( tức là ở nam giới hướng tả
bình nhụ là bổ, thì ở nữ giới hướng hữu bình nhụ là bổ.
Nam hướng bình nhụ là tả, thì ở nữ giới hướng tả bình
nhụ là tả.
Ghi chú: Bất luận là hướng tả bình nhụ hoặc hướng
hữu bình nhụ đều có tác dụng điều tiết âm dương . Vì
để tăng cường tác dụng điều tiết phải cần đến thủ pháp
nghênh tuỳ trong bình nhụ.
“ Nghênh” là nguyên tắc cổ nhân nhằm tiến hành tả, “


nghênh nhi đoạt chi” tức là đón kinh khí đến, ý tứ là
đoạt lấy tà khí thực.
“ Tuỳ” là nguyên tắc cổ nhân tiến hành bổ, “ tuỳ nhi tế
chi” tức là theo điều kinh khí, ý tứ là giúp cho chính khí
hư.
Không rõ bổ tả, bàn hướng tả bình nhụ hoặc hướng
hữu bình nhụ cũng được, không sao.
Sự sai lạc giữa không dùng bổ tả và dùng bổ tả làm.
nói chung các bệnh tật, không dùng thủ pháp bổ tả thì
hiệu quả chữa cũng đã rất cao. Ở những bệnh tật
nghiêm trọng có những biểu hiện đột xuất ở âm dương,
biểu, lý, hư, thực, hàn, nhiệt, thì tiến hành thủ pháp bổ
tả càng tốt.
1 – 3: Tác dụng của bình nhụ pháp
Như đã nói ở phần trước, “ Nhụ” là sản vật của sự kết
hợp hai loại án và ma, khái quát chủ yếu là án trú bất

động làm cho ức chế, cần phải có cái nông dừng của ma
để hưng phấn. Bình nhụ có thể làm cho ức chế và hưng
phấn kết hợp giúp cho nhau và giúp nhau gây nên
ngang bằng.
Bình nhụ trên huyệt vị có thể gây nên tác dụng vì ở
kinh huyệt và ở kinh lạc có quan hệ mật thiết, do đó sau
khi bình nhụ ở huyệt vị, làm cho bản kinh ở thuộc (
dương kinh hoặc âm kinh có huyệt vừa làm thủ pháp )
được đến sự điều chỉnh. Như thế, sẽ làm cải biến hiện
trạng tuần hành khí huyết trong kinh mạch. Vì vậy, làm
cho công năng sinh lý trong cơ thể người nảy sinh ra


một loại biến hoá mới, mà loại biến hoá này ảnh hưởng
ngay đến mọi mặt của bản kinh và tạng phủ có quan hệ
biểu lý.
Nói tóm lại, bình nhụ là điều tiết âm dương và các
hiện tượng không thăng bằng, nó có thể bổ hư, có thể tả
thực, thăng được, giáng được, tiêu tích, trừ hãn, cũng có
thể đẩy cái cũ đến tác dụng mới, là thủ pháp chủ yếu
trong điểm huyệt.
1 – 4: Ứng dụng của bình nhụ pháp
Bình nhụ pháp trên lâm sàng, không kể là dùng thủ
pháp bổ hoặc dùng thủ pháp tả, hoặc bình bổ bình
tảpháp, tất cần phải kết hợp với sự nhẹ nặng của thủ
pháp, tốc độ nhanh chậm khi nhụ xoay và kết hợp với
thế bệnh nặng nhẹ hoãn cấp, thể chất người bệnh khoẻ
yếu béo gầy, và cả quan hệ khác nhau như nam nữ già
trẻ, nắm chắc tuỳ thời, gặp chứng ứng biến.
Bình nhụ pháp ứng dụng cực rỗng rãi trên lâm sàng,

bệnh tật nói chung đều có thể chọn dùng. Khi phối hợp
thủ pháp, thường sử dụng kết hợp với áp phóng pháp,
và các thủ pháp khác đều có thể phối hợp. Khi tháo tác,
một ngón tay giữa cũng có thể lấy để nhụ, hai ngón tay
giữa cũng có thể lấy để nhụ. Một hướng tả bình nhụ
cũng được, hướng hữu bình nhụ cũng được, để cho
thuận tay người thày là được. Nếu như ở một loại bệnh
khi mà thấy không có hiệu quả hoặc thu hiệu qủa không
nhiều, thì có thể chọn dùng phương pháp bổ tả của bình
nhụ. Giả như, đối với việc luyện tập chưa thành thạo


×