Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Giáo trình một số trào lưu triết học phương tây hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (947.65 KB, 45 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

GIÁO TRÌNH
(Lưu hành nội bộ)

MỘT SỐ TRÀO LƯU TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI

Tác giả: Th.s Lương Thị Lan Huệ

Năm 2017
1


MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI...3
1.1. Hoàn cảnh ra đời của triết học phương Tây hiện đại............................................3
1.2. Đặc điểm cơ bản của triết học phương Tây hiện đại............................................5
1.3. Phương pháp nghiên cứu triết học phương Tây hiện đại......................................7
1.4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu, học tập, nghiên cứu triết học phương Tây hiện
đại...................................................................................................................................7
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ TRÀO LƯU TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI..........9
2.1. Chủ nghĩa thực chứng...........................................................................................9
2.2. Chủ nghĩa thực dụng...........................................................................................16
2.3. Chủ nghĩa hiện sinh............................................................................................30
2.4. Chủ nghĩa Tômat mới.........................................................................................37
2.5. Chủ nghĩa Phờrớt................................................................................................38



2


LỜI NÓI ĐẦU

Nhằm đáp ứng nhu cầu học tập nghiên cứu của sinh viên chuyên ngành Giáo dục
chính trị, chúng tôi biên soạn bài giảng: Một số trào lưu triết học phương Tây hiện đại.
Bài giảng có bố cục hai chương.
Chương 1: Khái lược chung về triết học phương Tây hiện đại
Chương 2: Một số trào lưu triết học phương Tây hiện đại
Mặc dù đã cố gắng thể hiện nội dung bài giảng một cách cô đọng, hệ thống nhất,
tuy nhiên khó tránh khỏi những thiếu sót cần bổ sung, chỉnh sửa. Rất mong nhận được ý
kiến phản hồi từ đồng nghiệp và sinh viên.

Quảng Bình, tháng 8 năm 2016

Nhóm tác giả

3


CHƯƠNG 1: KHÁI LƯỢC CHUNG VỀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
HIỆN ĐẠI (12 TIẾT)
1. Hoàn cảnh ra đời của triết học phương tây hiện đại
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến giai đoạn
cao là chủ nghĩa đế quốc. Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa với quan hệ sản
xuất chật hẹp lỗi thời mà biểu hiện trong đời sống xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp tư
sản với giai cấp công nhân, làm cho xã hội tư bản rơi vào khủng hoảng kinh tế. Thêm

vào đó, hai cuộc chiến tranh thế giới đặc biệt là chiến tranh thế giới thứ hai 1939-1945
để lại hậu quả cực kỳ nghiêm trọng, hàng ngàn thành phố bị phá hủy, hàng chục triệu
người chết.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười (Nga) thắng lợi tạo ra những bước
phát triển có lợi cho phong trào công nhân và giải phóng dân tộc. Phe xã hội chủ
nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc trở thành đối trọng với hệ thống các nước đế
quốc. Triết học Mác- Lênin được truyền bá rộng rãi và ngày càng tỏ rõ ưu thế so với
các học thuyết khác và trở thành vũ khí lý luận của giai cấp công nhân. Sự phát triển
của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa,
phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa làm cho chủ
nghĩa tư bản khủng hoảng về tư tưởng. Giữa thế kỷ XX, các cuộc cách mạng khoa
học- kỹ thuật đạt được nhiều kết quả nghiên cứu mới, Thuyết tương đối rộng và hẹp
(1905, 1915), tìm ra điện tử tia phóng xạ, Học thuyết về Gien, Vật lý lượng tử v.v. làm
đảo lộn nhiều tri thức trước đó. Việc ứng dụng kết quả của khoa học đã làm cho loài
người chế tạo được nhiều dạng công cụ lao động mới, đưa năng suất lao động lên cao
chưa từng thấy, đồng thời, loài người cũng chế tạo ra những vũ khí giết người hàng
loạt (bom nguyên tử, tên lửa mang đầu đạn hạt nhân, vũ khí sinh, hoá học v.v.) với
lượng chất nổ trong tay, con người có thể phá huỷ được nhiều lần Trái Đất. Cuộc chạy

4


đua vũ trang, sự phá huỷ môi trường sống luôn đặt loài người trước những thảm hoạ
khủng khiếp và khó lường.
Đến giữa thế kỷ XIX, với việc giai cấp tư sản nhiều nước Châu Âu lần lượt
giành được chính quyền, triết học cận đại cũng hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó
trong cách mạng tư sản. Từ sau đó, triết học này đã dần xa rời truyền thống duy vật và
biện chứng của triết học Anh, Pháp , Đức, trong các thế kỷ XVII, XVIII, XIX. Nó
chuyển hướng sang chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình nên không còn đưa ra được
một thế giới quan tích cực, giàu sức sống như nó đã từng thể hiện trong mấy thế kỷ

trước. Từ đầu thế kỷ XX, nhất là sau chiến tranh thế giới thứ hai, triết học phương Tây
hiện đại không ngừng phân hóa thành nhiều trường phái, nhưng xoay quanh hai trào
lưu chủ yếu, đó là chủ nghĩa duy khoa học và chủ nghiã nhân bản phi duy lý.
Vì sao có sự chuyển hướng đó trong triết học tư sản hiện đại?
Ở thời kỳ chủ nghĩa tư bản đi lên, chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa nhân đạo đã
từng là hai vũ khí tư tưởng của giai cấp tư sản chống lại chế độ phong kiến và thần
học và chủ nghĩa kinh viện. Lúc đó, giai cấp tư sản tôn sùng lý tính, đề cao khoa học
và chủ nghĩa nhân đạo để dùng chúng chống lại tôn giáo và chế độ chuyên chế phong
kiến. Trong cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản nhằm xác lập và phát triển chủ nghĩa tư
bản, thì chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa nhân đạo thống nhất với nhau và đã có vai trò
lịch sử tiến bộ.
Sau khi giành được chính quyền, giai cấp tư sản buộc phải đối phó với những lực
lượng xã hội mới và các mâu thuẫn xã hội mới ngày càng bộc lộ gay gắt. Họ không còn
nhu cầu chống lại thần học, tôn giáo như trước đây. Nhưng để phát triển sức sản xuất,
củng cố sự thống trị của bản thân họ, giai cấp tư sản cần phát triển khoa học kỹ thuật.
Vì vậy, giai cấp này tìm cách điều hoà mâu thuẫn giữa khoa học và tôn giáo. Dưới chế
độ tư bản, tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ nhưng
vẫn không đưa lại “tự do, bình đẳng, bác ái”. Trái lại, nó còn dẫn đến các cuộc khủng

5


hoảng xã hội, khủng hoảng tinh thần, khủng hoảng sinh thái ngày càng sâu sắc, đẩy con
người vào tình trạng tha hoá toàn diện ngày càng nặng nề hơn.
Trong điều kiện lịch sử đó, trong triết học phương Tây đã diễn ra sự tách biệt và
sự đối lập giữa chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa nhân bản. Để phát triển sản xuất, gia
tăng lợi nhuận, giai cấp tư sản cần đến khoa học, nhưng lại lý giải khoa học một cách
duy tâm, do đó đã hình thành trào lưu triết học duy khoa học theo lập trường duy tâm
đầy mâu thuẫn trong vấn đề con người và xã hội, giai cấp tư sản không muốn thừa
nhận các quy luật khách quan của sự phát triển nên họ đề cao chủ nghĩa phi duy lý. Do

đó đã hình thành trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy lý. Trào lưu duy khoa học và
trào lưu phi duy lý dường như đối lập nhau, nhưng trên thực tế lại bổ sung nhau, vì
chúng đều cần thiết cho sự ổn định và phát triển của xã hội tư bản, đều là phản ánh
mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Triết học phương Tây hiện đại thực chất là hệ tư tưởng, là thế giới quan của giai
cấp tư sản, nó ra đời và tồn tại gắn liền với chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản.
Chủ nghĩa tư bản được hình thành và phát triển nhờ nền tảng của cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật. Người ta cho rằng khoa học kỹ thuật là chiếc đũa thần là đòn
bẩy để phát triển kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội. Từ chỗ đó, họ tôn sùng khoa học
kỹ thuật dẫn đến chủ nghĩa duy lý. Mặt khác, con người cũng nhận thấy rằng, với sự
phát triển khoa học kỹ thuật, con người mất đi vị trí chúa tể của mình, từ đó sinh ra
chủ nghĩa phi lý đề cao con người chống lại chủ nghĩa duy lý đề cao khoa học kỹ
thuật. Nguyên nhân của sự phân thành hai hệ tư tưởng cơ bản trên là do những mâu
thuẫn kinh tế-xã hội vốn có trong lòng tư bản chủ nghĩa và sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học kỹ thuật.
2. Đặc điểm cơ bản của triết học phương Tây hiện đại
+ Triết học phương tây hiện đại có nhiều trào lưu trường phái, chủ nghĩa khác
nhau, rất đa dạng và phức tạp. Đó là chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực chứng, chủ
nghĩa tômat mới, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa nhân vị, chủ nghĩa cấu trúc, chú giải
6


học…Các trào lưu triết học này xuất hiện kế tiếp nhau và thay nhau giữ vai trò chủ
đạo với những mức độ khác nhau trong đời sống triết học phương tây hiện đại. Từ đầu
thế kỷ XX, nhất là sau chiến tranh thế giới thứ hai, triết học phương tây hiện đại
không ngừng phân hóa thành nhiều trường phái khác nhau. Tuy vậy nội dung của các
trường phái đó chỉ xoay quanh vấn đề chủ yếu là duy khoa học và nhân bản phi lý.
+ Tiếp tục ý đồ vượt lên trên sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm, các trào lưu triết học như chủ nghĩa thực chứng, chủ nghĩa thực dụng, chú
giải học….cố đi tìm con đường trung gian ở giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy

tâm trong triết học hoặc tìm cách lẫn tránh, phủ nhận vấn đề cơ bản của triết học. Chủ
nghĩa duy khoa học nhấn mạnh việc chống siêu hình, chủ nghĩa nhân bản nhấn mạnh
chống nhất nguyên luận, coi logic khoa học, phương pháp luận khoa học…là những
vấn đề trung tâm của triết học, nghĩa là phủ nhận mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại
là vấn đề cơ bản của triết học.
Các trào lưu triết học phương tây hiện đại coi trọng việc nghiên cứu nhiều vấn
đề mới về con người, có khái quát một số thành tựu khoa học tự nhiên, có những
khám phá mới có giá trị trong nhận thức khoa học.
+ Triết học phương tây hiện đại phê phán và từ bỏ chủ nghĩa duy lý cực đoan,
siêu hình của triết học để chuyển sang thế giới đời sống hiện thực với hai chủ đề chính
là con người và khoa học. Đây là khuynh hướng tích cực và đúng đắn.
+Triết học phương tây sớm đi vào vấn đề toàn cầu và dự đoán tương lai của
nhân loại, đưa ra những dự báo có giá trị.
Vạch ra mối quan hệ giữa khoa học kỹ thuật với con người, về tương lai của
chủ nghĩa tư bản, về tiền đồ của nhân loại và đã phát hiện ra những thiếu sót của chủ
nghĩa kỹ trị và triết học duy lý, chỉ ra được những mâu thuẫn khủng hoảng và hiện
tượng tha hóa mới của phương tây.
Tóm lại các trào lưu triết học phương tây đã phản ánh được một số vấn đề mới
của thời đại, có những tìm tòi và đạt được những thành quả nhất định. Song do còn
hạn chế về thế giới quan duy tâm và phương pháp siêu hình nên không giải quyết
7


được những vấn đề mà họ đưa ra và càng không thể chỉ ra phương hướng tiến lên cho
nhân loại.
3. Phương pháp nghiên cứu triết học phương Tây hiện đại
Triết học phương Tây hiện đại đều ra đời từ sự kế thừa có chọn lọc triết học
phương Tây cận đại và triết học cổ điển, sự lưu truyền và phát sinh ảnh hưởng của
chúng gần như một thời điểm lịch sử nên tất yếu giữa chúng có quan hệ mật thiết.
Nhưng suy cho cùng triết học phương Tây hiện đại là thế giới quan của giai cấp tư sản

còn triết học Mácxit là thế giới quan của giai cấp vô sản và nhân dân lao động nên
giữa chúng có sự khác biệt. Chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ có thể sử dụng triết học
Mácxit làm nền tảng tinh thần xã hội chứ không thể triết học nào khác. Do đó, trong
nghiên cứu triết học chúng ta không được dùng triết học phương Tây để thay thế hoặc
làm suy yếu triết học Mácxit. Nhưng chính sách cải cách mở cửa lại đòi hỏi chúng ta
mở rộng, đi sâu tìm hiểu văn hóa, kinh tế-xã hội các phương Tây thì mặt triết học
cũng cần mở cửa. Chúng ta phải coi việc làm phong phú triết học Mácxit là nhiệm vụ
của nghiên cứu triết học do đó không nên có thái độ bài xích triết học phương Tây.
Gần đây giới nghiên cứu triết học ở nước ta đã khắc phục được thái độ phủ định sạch
trơn tồn tại suốt một thời gian dài. Nguyên nhân là do người ta còn lo ngại mối quan
hệ giữa triết học phương Tây và triết học Mácxit. Họ cho rằng triết học Mácxit đã loại
bỏ chủ nghĩa duy tâm, siêu hình, kế thừa có phê phán chủ nghĩa duy vật và phép biện
chúng trước đó để xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Còn triết học phương Tây do nó bài xích chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
nên suy cho cùng quay về chủ nghĩa duy tâm, siêu hình. Từ đó họ cho rằng hai trường
phái này đối lập nhau căn bản (triết học Mác xit cách mạng còn triết học phương Tây
phản tiến bộ). Thời gian qua, ngày càng nhiều người thừa nhận triết học phương Tây
chứa đựng nhiều nhân tố hợp lý.
4. Ý nghĩa của việc học tập, nghiên cứu các trào lưu triết học phương Tây
hiện đại

8


Chúng ta đang bước sang một thiện niên kỷ mới cùng với những cơ hội và
thách thức mới. Loài người đã và đang đạt được nhiều thành tựu to lớn trong mọi lĩnh
vực đời sống xã hội. Căn nguyên của mọi thành tựu đó suy cho cùng là nhờ vào khoa
học và tư duy duy lý. Nhưng thực tiễn cho thấy cuộc sống con người còn đầy rẫy
những vấn đề. Hóa ra khoa học, tư duy duy lý là cần thiết nhưng nó chưa đủ để đảm
bảo cho con người một cuộc sống hạnh phúc, toàn vẹn. Đứng trước bối cảnh tiến bộ

khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, xã hội nảy sinh nhiều vấn đề mới khó giải
quyết thì triết học phương Tây đặt và giải quyết những vấn đề hoàn toàn mới mẻ so
với triết học duy lý truyền thống. Lần đầu tiên triết học phương Tây khám phá ra được
trong con người có những yếu tố khác ngoài lý tính mà cũng chi phối con người
không kém gì lý tính. Triết học phương Tây hiện đại cũng phát hiện ra rằng, sự giải
phóng bên ngoài (xã hội, chính trị, kinh tế) là cần thiết nhưng chưa đủ để con người có
được tự do. Tự do con người về thực chất là thế giới nội tâm. Vậy con người cần phải
suy nghĩ và làm gì để trở thành người có tự do. Triết học phương Tây hiện đại đã cố
gắng đưa ra câu trả lời cho vấn đề này.
Triết học phương Tây hiện đại gắn liền với việc tìm kiếm và sáng tạo ra các
hình thức, nội dung triết học mới, tạo nên các khuynh hướng trào lưu đa dạng trong
triết học.
Về cơ bản triết học phương Tây hiện đại là một hình thái lý luận thế giới quan
và nhân sinh quan của giai cấp tư sản, là sự phản ánh thực trạng xã hội tư bản trong
thời kỳ hiện đại. Triết học phương Tây nổi tiếng với nhiều triết gia tiêu biểu tạo nên
tính đa dạng, phong phú trong kho tàng tri thức triết học.
Việc tìm hiểu, học tập và nghiên cứu triết học phương Tây hiện đại giúp chúng
ta có được nhận thức toàn diện, đúng đắn, thúc đẩy sự kết hợp giữa việc nghiên cứu
triết học phương tây hiện đại ở nước ta với việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác trong giai
đoạn mới.

9


CHƯƠNG 2: MỘT SỐ TRÀO LƯU TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
HIỆN ĐẠI (18 Tiết)
2.1. Chủ nghĩa thực chứng
- Sự xuất hiện và phát triển của chủ nghĩa thực chứng
Chủ nghĩa thực chứng là một trường phái triết học ra đời sớm nhất trong trào
lưu triết học phương Tây hiện đại. Nó xuất hiện ở Pháp vào những năm 30 của thế kỷ

XIX, ở Anh vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Đại diện của trường phí này ở Pháp
có nhà triết học Côngtơ, ở Anh có nhà triết học MinLơ, Xpenxơ.
Bản chất của triết học thực chứng là sự đề cao tri thức khoa học đã được kiểm
chứng. Họ xem nguồn gốc duy nhất của tri thức đích thực là khoa học cụ thể, được
kiểm nghiệm và có hiệu quả thực tiễn. Đồng thời họ cũng phê phán tri thức không đáp
ứng với những tiêu chí khoa học nhưng lại đóng một vai trò quan trọng trong nghiên
cứu khoa học, trong triết học trong văn hóa. Ví dụ, một nhà khoa học công bố đã chế
tạo một loại thuốc chữa lành căn bệnh hiểm nghèo. Chủ nghĩa thực chứng cho rằng
thông tin này chưa đủ căn cứ khoa học vì nó chưa được kiểm chứng.
Thuật ngữ “chủ nghĩa thực chứng” có nghĩa gì ? Comte giải thích: chủ nghĩa
thực chứng - đó là triết học của tri thức khoa học tự nhiên thực chứng nghiệm. Các tri
thức khác đều là giả hiệu, tầm thường. Nhiệm vụ của chủ nghĩa thực chứng là chỉ ra
tri thức nào là tri thức khoa học đích thực, tri thức nào là tri thức giả hiệu, tầm thường.
Tri thức giả hiệu, tầm thường là Siêu hình học truyền thống.
Theo suy nghĩ của Comte tôn giáo truyền thống và chủ nghĩa duy tâm không
còn thích hợp nữa. Giờ đây cách mạng xã hội đã phát huy hết tác dụng của mình, thay
vào đó là nhu cầu cách mạng kỹ thuật, góp phần kiến tạo xã hội mới. Chủ nghĩa duy
tâm giàu sức tưởng tượng và vượt lên trên hiện thực khó mà đáp ứng đòi hỏi bám sát
hiện thực để làm thay đổi chính nó. Trong khi đó chủ nghĩa duy vật và vô thần lại quá
10


cứng nhắc, không tính đến nhu cầu phong phú của đời sống. Comte chống cả ba:
chống chủ nghĩa duy vật thô thiển, chống chủ nghĩa duy tâm tư biện, chống tôn giáo
thần quyền. Comte gọi triết học truyền thống là siêu hình tư biện. Giải pháp khắc phục
nó chỉ có thể là thứ triết học vượt ra khỏi vòng luẩn quẩn của sự đối đầu duy vật - duy
tâm, vô thần - tôn giáo, hay nói thẳng ra là vứt bỏ cả hai sự đối đầu, thay các suy luận
mơ hồ bằng tri thức hữu dụng, dựa trên các thành tựu và các dữ kiện của khoa học cụ
thể. Comte tuyên bố, nếu triết học được xây dựng trên nền tảng khoa học tự nhiên
thực nghiệm, loại trừ siêu hình học cũ, thì chắc chắn nó sẽ tiến bộ hơn so với triết học

truyền thống. Trong Giáo trình triết học thực chứng Comte chỉ ra bốn chức năng, đồng
thời là bốn ưu thế của triết học thực chứng. Một là, việc nghiên cứu triết học thực
chứng tạo nên một công cụ lý tính duy nhất làm bộc lộ các quy luật lôgíc của tư duy
con người, cái mà cho đến nay được xác định bằng các phương pháp không mấy phù
hợp. Comte cho rằng kể từ thời F. Bacon đến nay chủ nghĩa thực chứng đã có được
diện mạo rõ ràng đến mức các nhà siêu hình học đã “lợi dụng” nó để phổ biến tri thức
giả hiệu của mình. Tuy nhiên, do thói quen tư duy sáo mòn, bất chấp những đòi hỏi
của cuộc sống đang ngày thêm đa dạng, mà Siêu hình học chỉ dừng lại ở những phán
quyết thiếu tính hiệu quả.
Sự hình thành của chủ nghĩa thực chứng có quan hệ chặt chẽ với điều kiện lịch
sử xã hội Châu Âu, đặc biệt là ở Pháp và Anh. Lúc bấy giờ giai cấp tư sản Pháp, Anh
bắt đầu xác lập sự thống trị của mình. Về mặt chính trị, họ có khuynh hướng bác bỏ lý
luận cách mạng xã hội do đó cũng bác bỏ, thù địch với chủ nghĩa duy vật và thuyết vô
thần (Bêcơn, Hốpbơ, Lốccơ) bắt đầu làm bạn với chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo (Mettri,
Calilơ). Về mặt kinh tế, Nước Anh đang tiến hành cuộc cách mạng công nghiệp, ở
Pháp cũng đang tiến hành. Cuộc cách mạng này có tác dụng thức đẩy sản xuất phát
triển. Cuộc cách mạng công nghiệp này muốn thành công phải dựa vào khoa học, đặc
biệt là khoa học tự nhiên. Về mặt tư tưởng, trong triết học Phương Tây còn ảnh hưởng
tư tưởng chủ nghĩa kinh nghiệm (Beccoly, Hium).

11


Ngoài hai nước Anh và Pháp, chủ nghĩa thực chứng còn lưu truyền khá rộng rãi
ở các nước Phương Tây khác. Chủ nghĩa thực chứng đã mở đầu trào lưu tư tưởng chủ
nghĩa khoa học trong triết học phương Tây hiện đại, Sau này các trường phái triết học
khác như chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa Cantơ mới rất gần với chủ nghĩa thực chứng
trên một số quan điểm.
- Đặc điểm và lý luận cơ bản của chủ nghĩa thực chứng (CNTC)
+ Chủ nghĩa thực chứng quan niệm toàn bộ triết học đều lấy kinh nghiệm làm

nền tảng. Những tri thức này để có ý nghĩa và giá trị khoa học cần được khoa học
kiểm nghiệm. Các nhà triết học thực chứng cho rằng, chỉ có các hiện tượng hoặc sự
kiện, mới là "cái thực chứng", do đó họ không thừa nhận bất cứ cái gì ngoài hiện
tượng, không thừa nhận bản chất của sự vật, họ muốn lẩn tránh vấn đề cơ bản của triết
học, muốn loại trừ vấn đề thế giới quan ra khỏi triết học truyền thống. Auguste Comte
cho rằng, triết học phải lấy các sự vật "thực chứng", "xác thực" làm căn cứ.. Họ xem
tri thức khoa học trước đây là vô bổ, tư biện vì không được kiểm chứng thực tiễn.
Công tơ cho rằng, việc tìm tòi nguyên nhân đầu tiên hay cuối cùng là vô nghĩa và
không thực hiện được. Khoa học nói chung và triết học cần phải bám sát tri thức khoa
học có tính xác thực, tính thực tiễn, tính có ích trong cuộc sống. Triết học thực chứng
giúp con người tìm ra các quy luật logic của trí tuệ con người, thay đổi hệ thống giáo
dục và đào tạo, giúp cho khoa học cụ thể phát triển và cải tạo xã hội.
Chủ nghĩa thực chứng ra đời từ thế kỷ XIX. Cùng với sự phát triển của khoa
học tự nhiên ở thế kỷ XX, nhất là sự ra đời hình học phi Euclite, thuyết tương đối, cơ
học lượng tử, phương thức tư duy truyền thống đã bị tác động rất mạnh. Các phương
pháp toán học, phương pháp logic toán trở thành phương pháp đặc biệt quan trọng
trong khoa học tự nhiên. Tuyệt đối hóa điều đó, một số nhà triết học đã cho rằng,
chính việc nghiên cứu các phương pháp đó mới là nhiệm vụ, nội dung chủ yếu của
triết học. Thậm chí có nhà triết học còn cho rằng, việc toán học hóa, logic học hóa
triết học mới là lối thoát của triết học hiện đại. Trong các nhà triết học chủ trương
logic học hóa triết học có một số người nhấn mạnh việc phân tích ngôn ngữ. Trường
12


phái coi việc phân tích logic ngôn ngữ là nội dung trung tâm của triết học được gọi là
CNTC hoặc triết học phân tích.

Triết học phân tích được hình thành vào đầu thế kỷ XX. Trong số các nhà sáng
lập thì Bertrand Russell và Ludwig Wittgenstein là hai người có ảnh hưởng lớn.
Rớtxơn coi nhiệm vụ phân tích hình thức và phân tích logic là nội dung chủ yếu của

triết học. Ông chủ trương lấy logic toán - lý hiện đại làm cơ sở sáng tạo ra ngôn ngữ
nhân tạo để đảm bảo sự nhất trí giữa cấu trúc cú pháp của mệnh đề và hình thức logic
của

nó.

Đến những năm 20 của thế kỷ XX, trong triết học phân tích đã xuất hiện một chi phái
lớn: Chủ nghĩa kinh nghiệm logic, hoặc còn gọi là chủ nghĩa thực chứng logic.Chủ
nghĩa thực chứng logic sử dụng những thành quả của toán học, đặc biệt là của logic
toán lý từ đầu thế kỷ XX đến nay, đem tất cả các tri thức quy thành các mệnh đề có
thể dùng logic toán để biểu thị. Trên cơ sở đó, triết học chỉ còn nhiệm vụ tiến hành sự
phân tích kết cấu logic đối với tất cả mọi mệnh đề khoa học dựa trên các tài liệu thực
chứng.
Trước và sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong triết học phân tích đã xuất hiện
phái ngôn ngữ học thường ngày. Các đại biểu của phái này đều là các giáo sư trường
Đại học Oxford cho nên trường phái đó cũng được gọi là trường phái Oxford. Những
người theo chủ nghĩa thực chứng logic thường phê phán các khái niệm của ngôn ngữ
tự nhiên là mơ hồ, không rõ ràng, nên không phù hợp với tư duy chính xác. Trái lại,
trường phái ngôn ngữ lại nhấn mạnh tính phong phú của khái niệm và sự phân biệt tỉ
mỉ giữa các khái niệm trong ngôn ngữ tự nhiên. Nếu chủ nghĩa thực chứng logic quy
nhiệm vụ triết học thành sự phân tích logic, thì trường phái ngôn ngữ luôn luôn quy
triết học thành sự phân tích ngôn ngữ tự nhiên, cả hai đều phủ định ý nghĩa thế giới
quan của triết học. Chúng ta đều biết, trong xã hội tư sản hiện đại, một mặt đang tồn
tại cuộc khủng hoảng xã hội trầm trọng, nhưng mặt khác, khoa học tự nhiên lại có sự
13


tiến bộ to lớn. Đứng trước mâu thuẫn đó, một số nhà triết học cảm thấy bó tay không
có cách gì giải quyết. Về mặt lý luận, họ chán ghét loại triết học thuần túy tư biện, cho
rằng loại triết học này căn bản không thể góp phần giải quyết những vấn đề xã hội đặt

ra. Trong khi đó, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên lại đưa đến cho họ
niềm hy vọng và chỗ dựa tinh thần mới. Vì vậy, họ chuyển hướng nghiên cứu triết học
từ phương diện thế giới quan sang phương diện phương pháp luận của khoa học. Một
loạt trường phái và phong trào được gọi là chủ nghĩa duy khoa học đã ra đời trong
hoàn cảnh đó. Ngoài bối cảnh xã hội, còn một nguyên nhân nữa xuất phát từ đặc điểm
của khoa học tự nhiên hiện đại. Sự phát triển nhanh chóng của nhiều môn khoa học
mới, sự phân công trong nội bộ khoa học ngày càng tỷ mỷ hơn, sự ứng dụng rộng rãi
toán học và logic toán, việc khoa học ngày càng đi sâu hơn vào kết cấu vật chất, vai
trò của mô hình và kết cấu lý luận tăng lên, v.v.. Tất cả những điều đó đòi hỏi các môn
khoa học thực chứng không những phải nghiên cứu những nội dung cụ thể mà còn
phải nghiên cứu những vấn đề chung của khoa học, đặc biệt là vấn đề phương pháp
luận nhận thức của khoa học. Chủ nghĩa duy khoa học dựa vào yêu cầu mới đó trong
khoa học tự nhiên hiện đại để đưa ra các quan điểm triết học thực chứng của mình.
Chủ nghĩa duy khoa học đã có công đi sâu nghiên cứu và tiếp thu nhiều thành
quả trong toán học và trong các khoa học tự nhiên hiện đại, nêu ra nhiều vấn đề mới
cho triết học, mở ra nhiều hướng mới cho sự phát triển triết học duy vật và phép biện
chứng. Trong đó, có thể nói những nhân tố tích cực, triết học Mác có thể tiếp thu và
sử dụng. Tất nhiên, trào lưu triết học này có một mâu thuẫn, do đó cũng là sai lầm
không thể khắc phục được: do muốn phá vỡ một số công thức của triết học truyền
thống, nên đã cực đoan phủ nhận ý nghĩa thế giới quan của triết học, tức là phủ nhận
bản thân triết học. Mặc dù những nhà triết học sau Popper và Kuhn đã chú ý đến ý
nghĩa thế giới quan của triết học đối với khoa học, nhưng do thiếu quan điểm duy vật
lịch sử nên họ không có cách nào thoát khỏi tính hạn chế đó. Vì vậy chủ nghĩa duy
khoa học không thể mở ra con đường mới đúng đắn cho sự phát triển của triết học.

14


+ Chủ nghĩa thực chứng đã kế thừa và phát triển chủ nghĩa hiện tượng của
Hium. Họ không chỉ đòi hỏi, triết học được giới hạn trong phạm vi hiện tượng (kinh

nghiệm) và cho rằng triết học cần vứt bỏ việc nghiên cứu những vấn đề của triết học
truyền thống như vật chất, ý thức, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
+ Chủ nghĩa thực chứng nhấn mạnh tri thức nhân loại, nhấn mạnh vận dụng
khoa học thực nghiệm có khả năng cải tạo tự nhiên và xã hội.
+ Chủ nghĩa thực chứng từ bỏ tư duy máy móc của các triết gia thế kỷ XVII,
XVIII, tiếp nhận phương pháp khoa học tự nhiên từ thế kỷ XIX đến nay.
+ Chủ nghĩa thực chứng đề xướng khoa học, sự tiến bộ nhưng bài xích cách
mạng, tuyên truyền chủ nghĩa cải lương.
Trong quá trình hình thành và phát triển, chủ nghĩa thực chứng trải qua ba giai
đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: Từ khi xuất hiện đầu thế kỷ XIX do A. Comte khởi xướng,
các đại biểu là Spencer, J.m.mill. Chủ nghĩa thực chứng mới ra đời chống lại chủ
nghĩa duy tâm tư biện của Hêghen và đề cao nguyên tắc thực chứng.
Giai đoạn thứ hai: Từ cuối thế kỷ XIX, với các đại biểu chính như Makhow,
Avênarius, chủ nghiã thực chứng mới giai đoạn này tuyệt đối hóa vai trò cảm giác, coi
cảm giác là cái có trước, quyết định sự vật.
Giai đoạn thứ ba: Đây là giai đoạn xuất hiện chủ nghĩa thực chứng mới. Nó ra
đời sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất và và phát triển cao vào những năm 50 của
thế kỷ XX.
Đã hơn một thế kỷ nay, chủ nghĩa thực chứng đã nhiều lần thay đổi hình thức
và những trường phái, chi phái khác nhau, nhưng tất cả đều hợp thành một tập đại
thành bám giữ khẩu hiệu “bản thân khoa học đã là triết học, những tri thức về thế giới
là đặc quyền của khoa học thực chứng”. Có thể nói chủ nghĩa thực chứng là hình thức
hiện đại của của chủ nghĩa duy lý.
+ Một số khái niệm và luận điểm cơ bản chủ nghĩa thực chứng cũ là một trào
lưu triết học tư sản có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn được thành lập vào những năm 30
15


của thế kỷ XIX, đầu tiên xuất hiện ở Pháp sau đó lan sang Anh rồi đến các nước Tây

Âu trong hoàn cảnh khi mà cuộc đấu tranh giành chính quyền của tư sản đã kết thúc
thắng lợi và các nước tư bản chủ yếu trên thế giới đang đứng trước thềm của cuộc cải
cách công nghiệp.
Sau hơn nửa thế kỷ hình thành và phát triển, có thể tóm tắt các quan điểm của
chủ nghĩa thực chứng cũ vào các ý chính sau:
+ Nhận thức cần phải được giải phóng khỏi bất kỳ sự phân tích mang tính triết
học nào (cả sự phân tích dưới góc độ thế giới quan)
+ Mọi triết học, kể cả triết học truyền thống đều là triết học siêu hình, giáo điều
kinh viện cần phải được thủ tiêu và thay thế, hoặc bằng những khoa học trực tiếp bởi
vì khoa học chính là triết học hoặc bằng học thuyết về mối quan hệ qua lại giữa các
khoa học về ngôn ngữ của chúng. Triết học cần tiếp tục con đường trung lập với tư
cách là phương tiện hữu hiệu đề cao sự đối lập giữa duy vật và duy tâm.
Chủ nghĩa thực chứng mới
Theo các nhà thực chứng mới, triết học không nên nghiên cứu những vấn đề
như bản chất của sự vật, các quy luật chung của thế giới mà đi tìm phương pháp khoa
học có hiệu quả nhất, đáng tin cậy nhất cho nhận thức của con người và đó chính là
mô hình các khoa học thực chứng.
+Đưa ra một số cơ sở cho sự chuyển đổi đối tượng nghiên cứu của triết học,
chống lại triết học tư biện của Heghen, phát triển và ứng dụng rộng rãi toán học và
logic học như là phương pháp quan trọng của khoa học tự nhiên. Sự phát triển của
khoa học tự nhiên tạo ra các kết quả mới: hình học ơcơlit, thuyết tương đối, cơ học
lượng tử…đã tạo ra những đảo lộn về nhận thức triết học.
Các nhà triết học phân tích-chủ nghĩa thực chứng mới coi việc phân tích logic
ngôn ngữ là nội dung trọng tâm của triết học.
Chủ nghĩa thực chứng logic lại tuyệt đối hóa vai trò của logic, ký hiệu logic
toán học trong sự phát triển nhận thức. Họ có luận điểm xuất phát thống nhất là
nguyên tắc thực chứng bằng thực nghiệm và loại trừ siêu hình.
16



Các nhà triết học thực chứng logic phủ nhận vấn đề đối tượng, nhiệm vụ và vai
trò của triết học truyền thống với lý do: triết học truyền thống đã tạo nên tri thức
không liên quan gì tới khoa học kinh nghiệm.
Chủ trương sử dụng những thành quả của toán học, đặc biệt là logic toán để
biểu thị toàn bộ các tri thức của loài người đạt được. Đối tượng của triết học lúc này
chỉ còn là sự phân tích kết cấu logic của các mệnh đề khoa học dựa trên các tài liệu
thực chứng.
+ Chủ nghĩa ngôn ngữ học hằng ngày cho rằng, triết học là phân tích ngôn ngữ
do Wittgenstein tiếp tục phát triển chủ nghĩa nguyên tử logic lên trình độ cao. Trường
phái này lại cho rằng đối tượng của triết học là phân tích ngôn ngữ.
2.2. Chủ nghĩa thực dụng
- Sự xuất hiện và phát triển của chủ nghĩa thực dụng
Hoa kỳ là một dải đất rộng lớn nối giữa đại tây dương và thái bình dương, là
quốc gia đứng thứ 4 trên thế giới về diện tích (sau Liên bang Nga, Canada, Trung
quốc) bao gồm 50 bang với tổng diện tích là 9.320.000km2.Trở về lịch sử nước Mỹ,
vào năm 1492 khi Côlombo phát hiện ra châu Mỹ thì vùng đất này vẫn chưa được biết
đến, nó vẫn còn hoang sơ và lạc hậu. Đến thế kỷ XVI – XVII khi các cuộc di dân ồ ạt
từ các nơi trên thế giới đã làm thay đổi diện mạo nơi đây. Vào năm 1763 nước Mỹ có
13 bang đến năm 1958 đã có tất cả 50 bang. Những người nhập cư đến mỹ với nhiều
hoàn cảnh, mục đích khác nhau, như tổng thống Kenedy cho rằng: " do 3 áp lực chính
- sự khắc nghiệt của tôn giáo, áp lực chính trị, khó khăn về kinh tế là những nguyên
nhân chính của sự di dân hàng loạt đến đất nước chúng ta”.
Tình hình đó, một thể chế chính trị về dân chủ, tự do, bình đẳng trong đó coi
trọng cá tính con người cũng được phát triển. Mãnh đất màu mỡ chưa khai phá này là
miền đất hứa. Con người nơi đây nhanh chóng hợp lưu trong một dòng chảy mới của
một cách tư duy mới đó là chủ nghĩa thực dụng.
Chủ nghĩa thực dụng là hệ tư tưởng của tập đoàn tư bản độc quyền và đã giữ vai
trò quan trọng trong đời sống xã hội Mỹ và của thế giới tư bản trong thế kỷ XX. Đây
17



là một trào lưu tư tưởng triết học thực chứng và triết học đời sống đặc biệt kiểu mỹ
được hình thành vào những năm 70 của thế kỷ XIX, nhưng phải đến những năm 20
của thế kỷ XX nó mới thực sự có ảnh hưởng rộng lớn trên đất nước Mỹ.
Người sáng lập ra trào lưu triết học chủ nghĩa thực dụng là nhà toán học, logic
học, nhà triết học C.Percie. Ông sinh ra và lớn lên ở bang Massachusetts (Mỹ) trong
một gia đình trí thức mà cha là một nhà toán học có tên tuổi ở đại học Harvard. Năm
1858, ông vào học tại đại học Harvard và năm 1861 ông tốt nghiệp trường này, sau đó
bắt đầu công tác giảng dạy về logic học, lịch sử học tại đại học Harvard và đại học
Hopkin. Từ năm 1877 ông trở thành viện sĩ viện hàn lâm khoa học và nghệ thuật mỹ.
Điều nổi bật mà người đương thời với ông nhận thấy là trong quá trình hoạt động
nghiên cứu lý luận để xây dựng nên học thuyết triết học của mình ông đã đề cao đến
mức thái quá yếu tố chủ quan của thực tiễn nhận thức đã đưa ông tới chỗ sáng lập nên
một trào lưu triết học mới-chủ nghĩa thực dụng.
Năm 1872 lần đầu tiên ông đưa ra khái niệm “chủ nghĩa thực dụng” và trình
bày những tư tưởng cơ bản của mình về chủ nghĩa thực dụng trong báo cáo khoa học
tại “câu lạc bộ siêu hình học” thuộc đại học Harvard. Sau đó báo cáo khoa học này đã
được ông chỉnh lý bổ sung thành hai bài viết với tên gọi xác định niệm tin và làm thế
nào để cho quan niệm của chúng ta được sáng tỏ và lần lượt cho đăng trên nguyệt san
khoa học phổ thông số 11-1877 và số 1-1878. Hai bài viết này được coi là tiêu biểu
cho chủ nghĩa thực dụng của C.Percie. Tuy nhiên bản thân C.Percie trong quá trình
luận giải về bản chất triết học của mình ông vẫn chưa sử dụng danh từ “chủ nghĩa thực
dụng”. Ông đã nhiều lần định sử dụng danh từ này nhưng cảm thấy ý nghĩa của nó
chưa được rõ ràng nên chưa dùng. Mãi đến năm 1902, khi viết về đề mục từ điển triết
học tâm lý của Boune ông mới sử dụng danh từ này. Tuy nhiên cũng trong thời gian
này ông nhận thấy quan điểm thực dụng W. James và các nhà thực dụng khác, ông đã
sửa đổi danh từ “chủ nghĩa thực dụng” thành “chủ nghĩa duy thực dụng” có nghĩa là
hành vi, hành động. Ông cho rằng, chỉ khái niệm này mới làm rõ được bản sắc lý
thuyết của mình và tránh được sự vay mượn không cần thiết.
18



Đến cuối thế kỷ XIX, W. James và một số nhà triết học trong câu lạc bộ siêu
hình học tiếp tục phát triển và hoàn thiện những tư tưởng của C. S Peirce trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội và ý thức xã hội.
Chủ nghĩa thực dụng là một trường phái triết học phương Tây hiện đại đề cao
kinh nghiệm và hiệu quả, ra đời vào cuối thế kỷ XIX ở nước Mỹ. Giữa các đại biểu chủ
yếu của chủ nghĩa thực dụng có nhiều điểm khác nhau, nhưng nói chung, triết học của
họ đều giới hạn trong phạm vi kinh nghiệm, coi tri thức là công cụ để thích ứng với
hoàn cảnh, coi chân lý là cái “có ích”. Chủ nghĩa thực dụng thể hiện một cách nổi bật
phương thức tư duy và phương thức hành động vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận của xã
hội Mỹ. Vì vậy, nó trở thành một trong những trường phái triết học có ảnh hưởng lớn
nhất ở nước Mỹ từ đầu thế kỷ XX đến nay.
Chủ nghĩa thực dụng, với tư cách là mọt trường phái triết học, đã ra đời trong các
năm 1871 – 1874, khi câu lạc bộ siêu hình ở trường Đại học Cambridge (bang
Masachuset) được thành lập. Đó là một hội học thuật do một số giáo viên của trường
lập ra. Người sáng lập ra chủ nghĩa thực dụng là Piêcxơ và một số người khác trong đó
có Giêmxơ.
Nguyên tắc căn bản trong phương pháp luận của chủ nghĩa thực dụng là lấy hiệu
quả, công dụng làm tiêu chuẩn. So với các trường phái triết học phương Tây khác, chủ
nghĩa thực dụng đã phản ánh trực tiếp lợi ích và nhu cầu thực tế của giai cấp tư sản, nên
nó đã gây ảnh hưởng tương đối rộng lớn ở xã hội phương Tây. Một đặc điểm làm cho
chủ nghĩa thực dụng khác với triết học truyền thống là nó đã đi vào triết học từ phương
pháp. Người đại biểu chủ yếu của nó đã có lúc đã quy triết học chỉ còn là vấn đề
phương pháp, tuyên bố chủ nghĩa thực dụng không phải là lý luận triết học có hệ thống
mà chỉ là lý luận về phương pháp.
Sau những năm 40 của thế kỷ XX, địa vị chủ đạo của chủ nghĩa thực dụng trong
triết học Mỹ đã được thay thế bằng các trường phái triết học mới nổi lên ở châu Âu và
được truyền bá vào nước Mỹ.


19


Về nhận thức luận: Chủ nghĩa thực dụng nói đến một phương thức tư duy đặc
thù. Phương thức tư duy đó không xem xét khái niệm trong bản thân khái niệm mà đi
sâu nghiên cứu xem khi sử dụng thì nó sản sinh ra hậu quả gì. Khái niệm và lý luận
không phải là sự giải đáp về thế giới. Muốn phân biệt ý nghĩa và giá trị của nó thì
không phải là xem xét nó có phản ánh đúng thực tế khách quan hay không mà là xem
hiệu quả có thể kiểm nghiệm được của nó khi ứng dụng vào thực tế. Các cuộc tranh
luận giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết hoc truyền thống được coi
là cuộc đấu tranh có tính chất siêu hình, chẳng có ý nghĩa gì. Bởi vì, theo cách nhìn của
chủ nghĩa thực dụng, thì thế giới mà con người có kinh nghiệm thực tế về nó, đều giống
nhau. Lấy hiệu quả thực tế mà xét thì thế giới dù là vật chất hay là tinh thần cũng chẳng
có sự khác biệt gì. Nếu xuất phát từ hiệu quả để khẳng định giá trị của tôn giáo và của
khoa học thì niềm tin khoa học và tín ngưỡng tôn giáo đều có giá trị thiết thực vì cả hai
đều là công cụ để đạt được mục đích của con người.
Chủ nghĩa thực dụng phê phán triết học truyền thống là đã tách rời chủ thể nhận
thức, tức là tách rời người có kinh nghiệm với đối tượng nhận thức trong kinh nghiệm,
tức là tách rời tinh thần và vật chất thành hai cái không cùng một lĩnh vực. Nó sử dụng
khái niệm “kinh nghiệm” để lẩn tránh vấn đề cơ bản của triết học. Đối với người theo
chủ nghĩa thực dụng thì “kinh nghiệm” không có tính chủ quan, cũng không có tính
khách quan mà là “kinh nghiệm thuần tuý” hoặc “kinh nghiệm nguyên thuỷ”. Kinh
nghiệm là một khái niệm có hai nghĩa: nó bao gồm mọi cái thuộc về ý thức chủ quan,
nhưng nó cũng bao gồm mọi cái về sự vật, sự kiện khách quan. Bản thân nó cũng không
có sự khác biệt và đối lập về nguyên tắc giữa chủ quan và khách quan. Kinh ngiệm có
tính “nguyên thuỷ”, vật chất và tinh thần đều là sản phẩm của việc tiến hành sự phản
tỉnh đối với kinh nghiệm nguyên thuỷ. Chủ thể và đối tượng, kinh nghiệm và tự nhiên
đều là hai mặt khác nhau trong một chỉnh thể kinh nghiệm thống nhất, chúng không thể
thoát ly khỏi kinh nghiệm mà tồn tại độc lập được.
Việc chủ nghĩa thực dụng dùng hiệu quả của kinh nghiệm để thẩm định tất cả là

nhằm phủ định thế giới bên ngoài và quy luật khách quan, về thực chất là đi theo con
20


đường kinh nghiệm luận duy tâm của Béccơli, song, về hình thức có những điểm khác
biệt sau:
- Dùng quan điểm tâm lý học hoặc sinh học để giải thích kinh nghiệm. Kinh
nghiệm không phải là tri thức, không phải là sự phản ánh của bộ óc con người đối với
thế giới khách quan, mà là hoạt động tâm lý nào đó thích ứng với hoàn cảnh.
- Cường điệu tính năng động chủ quan của kinh nghiệm. Dewey J. nhận định
rằng, hoạt động thích ứng với hoàn cảnh của con người khác với động vật thích ứng
một cách tiêu cực đối với thiên nhiên. Con người dựa vào ý chí và trí tuệ của mình làm
cho hoàn cảnh phát sinh sự thay đổi có lợi cho đời sống con người. Cho nên kinh
nghiệm được hình thành ở con người là do tác động lẫn nhau của con người và hoàn
cảnh.
Chủ nghĩa thực dụng, khi cường điệu tính năng động của kinh nghiệm đã thủ tiêu
cơ sở khách quan của kinh nghiệm. Họ nhận định rằng đối tượng của kinh nghiệm là do
ý chí sáng tạo ra, bản thân kinh nghiệm là cái ở vào trạng thái hỗn độn. Trong hoạt động
kinh nghiệm con người tập trung sự chú ý của mình vào những kinh nghiệm thích hợp
với mục đích, hứng thú, nguyện vọng của mình, hơn nữa làm cho những bộ phận kinh
nghiệm đó được cố định, gán cho nó cái địa vị độc lập của “khách thể”. Cho nên, khách
thể, đối tượng chỉ là một bộ phận mà ý chí tách ra từ trong kinh nghiệm, còn chủ thể
của kinh nghiệm chẳng qua chỉ là ý chí, mục đích, hứng thú, tâm tình, v.v.. chi phối
hoạt động kinh nghiệm trong kinh nghiệm mà thôi.
Như vậy, chủ nghĩa thực dụng đã tuyệt đối hoá tác dụng của ý chí con người nên
rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy ý chí.
Quan niệm về chân lý của chủ nghĩa thực dụng: Lý luận về chân lý của chủ nghĩa
thực dụng có quan hệ mật thiết với kinh nghiệm luận của nó. Lý luận này cho rằng tư
duy của con người chỉ là một cách thức của kinh nghiệm, là hành vi thích ứng và chức
năng phản ứng của con người. Nó không đưa lại một hình ảnh chủ quan của thế giới

khách quan. Giêmxơ lập luận rằng, chân lý không phải là “bản sao chép” sự vật khách
21


quan, nó chỉ là mối quan hệ giữa các kinh nghiệm với nhau. Ông cho rằng một quan
niệm chỉ cần có thể đem các quan niệm cũ và mới liên hệ với nhau, đem lại cho con
người lợi ích cụ thể và hiệu quả thoả mãn thì nó là chân lý. Muốn xét một quan niệm có
phải là chân lý hay không, thì không cần phải xem nó có phù hợp với thực tế khách
quan hay không, mà phải xem nó có đem lại hiệu quả hay không. Như vậy, hữu dụng và
vô dụng đã trở thành tiêu chuẩn để ông ta phân biệt chân lý với sai lầm. Hữu dụng là
chân lý đó là quan điểm căn bản của Giêmxơ về chân lý.
Quan niệm của Dewey J. coi chân lý là công cụ, về thực chất nhất trí với quan
điểm của Giêmxơ về chân lý. Dewey J. nhận định rằng tính chân lý của quan niệm,
khái niệm, lý luận, v.v.. không phải là ở chỗ nó có phù hợp với thực tế khách quan hay
không mà ở chỗ chúng có gánh vác được một cách hữu hiệu nhiệm vụ làm công cụ cho
hành vi của con người hay không.
Quan niệm về chân lý của chủ nghĩa thực dụng không những là chủ quan mà còn
có khuynh hướng tương đối chủ nghĩa rõ rệt. Những người theo chủ nghĩa thực dụng
cho rằng, chân lý là cái thoả mãn nhất mà con người cảm nhận được trong một thời
điểm hoặc trong một trường hợp cụ thể. Do con người thì có nhiều hứng thú, lợi ích
khác nhau, cho nên có các loại chân lý tuỳ theo các nhu cầu được tạo ra bởi hứng thú và
lợi ích khác nhau. Một quan niệm có ích cho đời sống con người hay không là tuỳ theo
từng người, từng thời gian và địa điểm khác nhau.
Chủ nghĩa thực dụng chủ yếu nhấn mạnh: Triết học phải đứng vững trên đời
sống hiện thực, xem niềm tin được xác lập là điểm xuất phát, xem việc sử dụng hành
động là phương tiện chủ yếu, xem hiệu quả là mục đích cao nhất. Chủ nghĩa thực
dụng coi chân lý là tương đối, họ đề cao tính tương đối, cường điệu tính cụ thể, từ đó
đi đến tách rời tính phổ biến và tính tuyệt đối của chân lý. Với họ tiêu chuẩn của chân
lý là sự thành công, là cái có ích, cái có lợi. Hiện thực chẳng qua là kinh nghiệm chủ
quan, những cảm giác là sản phẩm của hoạt động sáng tạo của bộ óc và bàn tay con

người.

22


Có thể khẳng định: Chủ nghĩa thực dụng đứng trên quan điểm duy tâm, đặt thế
giới phụ thuộc vào sự tồn tại của chủ thể, vào thực thể có ý thức. Chủ nghĩa thực dụng
đã làm hạn chế khoa học và nhận thức của con người. Nó là hệ tư tưởng của giai cấp
tư sản, là công cụ nhận thức và phương tiện xâm lăng của chủ nghĩa tư bản, chúng ta
cần phải đấu tranh, xóa bỏ ảnh hưởng của nó.
Đặc điểm triết học cơ bản của chủ nghĩa thực dụng:
Ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa thực dụng Mỹ coi nhiệm vụ của triết học là
định ra nhận thức luận và phương pháp luận khoa học không có liên quan tới thế giới
quan và lấy cớ là chống lại " siêu hình", " nhị nguyên luận" để né tránh các vấn đề cơ
bản của triết học, họ muốn đi theo đường lối trung lập trong triết học, điều này được
thể hiện cụ thể như sau:
Nguyên tắc căn bản trong phương pháp luận của chủ nghĩa thực dụng là lấy
hiệu quả công dụng làm tiêu chuẩn. So với các trường phái triết học phương tây khác,
chủ nghĩa thực dụng đã phản ánh trực tiếp hơn lợi ích và nhu cầu thực tế của giai cấp
tư sản, nên nó đã ảnh hưởng rộng lớn trong đời sống của xã hội phương tây. Nét nổi
bật của chủ nghĩa thực dụng là không đi sâu tìm hiểu về siêu hình học tức là bản
nguyên của thế giới mà chủ yếu bàn về phương pháp. Chính W. James đã có lúc cho
rằng chủ nghĩa thực dụng không phải là lý luận về triết học có hệ thống mà chỉ là lý
luận về phương pháp. Điều này được thể hiện ở chỗ chủ nghĩa thực dụng dựa trên ba
nguyên tắc căn bản:
Một là, ý tưởng của ta chỉ có giá trị khi được thử nghiệm thực sự trong hoạt
động của con người.
Hai là, kinh nghiệm là kết quả của sự tương tác giữa con người với nhau và giữa
con người với thiên nhiên.
Ba là, trong đời sống, con người sẽ phải đối phó với nhiều vấn đề khác với

những kinh nghiệm đã từng trải qua làm cho đời sống bổng dưng bị “trục trặc” và cần
được giải quyết.

23


Từ đó, chủ nghĩa thực dụng đề ra các phương pháp giải quyết vấn đề nhấn mạnh
đến tính hiệu quả trong hoạt động. Một trong những phương pháp giải quyết vấn đề
được nhà triết học thực dụng Dewey khởi xướng đã được áp dụng trong nền giáo dục
Hoa Kỳ hiện đại là phương thức tư duy toàn diện gồm có 5 bước:
Bước 1: Gặp một tình huống có vấn đề. Trong cuộc sống ta thường xuyên gặp
một tình huống mới, không giống với những gì ta đã từng kinh nghiệm, và tình huống
này là cản trở trong sinh hoạt của ta.
Bước 2: Xác định vấn đề: trong bước này ta cần xét thật kỹ xem “vấn đề” ta gặp
thực sự là gì bằng cách dừng lại, suy xét tình huống.. Nếu không xác định đúng vấn đề
chắc chắn sẽ không giải quyết được.
Bước 3: Nghiên cứu, thăm dò, điều tra vấn đề. Ta có thể rút từ kinh nghiệm các
bài học quá khứ để xem vấn đề mới này có chỗ nào giống với vấn đề cũ không. Nếu
không ta phải tìm tòi trong sách vở hay tham khảo ý kiến của bạn bè để biết được
nguyên nhân, bản chất vủa vấn đề.
Bước 4: Đưa ra một số giả thuyết và phương thức giải quyết. Sau khi nghiên
cứu thật cẩn thận, ta đưa ra một số giả thuyết và giải quyết theo các giả thuyết đó. Thí
dụ, một sinh viên có hành vi lệch chuẩn như đánh bạn dẫn đến thương tích, khi điều
tra về nguyên nhân ta có thể đưa ra các giả thuyết như do say rượu, do mâu thuẫn cá
nhân, do bạn bè kích động…từ đó ta có một số phương thức giải quyết.
Bước 5: Chọn một phương thức và thí nghiệm xem phương thức này có hiệu
quả không. Sau khi đã chọn xong phương thức ta cần phải thí nghiệm xem phương
thức này có mang lại hiệu quả, giải quyết được vấn đề cho ta hay không. Hy vọng
rằng hành động của ta giải quyết được vấn đề và ta lại có thêm kinh nghiệm quý giá
trong cuộc sống vì cuộc sống luôn gặp “vấn đề”. Kinh nghiệm sẽ làm cho kiến thức

của ta phong phú hơn, hiểu biết về sự vật sâu sắc hơn và làm việc có hiệu quả hơn.
Trường hợp nếu cách giải quyết vấn đề của ta không có hiệu quả, ta phải xem lại toàn
bộ tiến trình, xem thử có chỗ nào bỏ sót hay không rồi lại tiếp tục. Cứ thế đến lúc nào

24


đạt hiệu quả thì thôi. Điều cần ghi nhớ là phương thức này chỉ được coi là toàn diện
khi bước thứ 5 được thực hiện.
Phương thức tư duy toàn diện nhấn mạnh đến việc thực hành. Thiếu giai đoạn
thực hành những kiến thức ta thu thập được từ trước trong các bước 2,3,4 chỉ là lý
thuyết suông.
Sơ bộ và vắn tắt có thể gọi chủ nghĩa thực dụng là triết lý chỉ chấp nhận những
giá trị thực tiễn làm tiêu chuẩn cho chân lý, chỉ có gì dẫn đến thành công của “tôi”
mới là chân lý đáng tin cậy.
Một số luận điểm cơ bản:
- Về siêu hình hoc:
+ Chủ nghĩa thực dụng quan tâm đến lý giải về siêu hình học tức trả lời câu hỏi
đằng sau thực tại là cái gì, điều gì hay cái gì thực sự có thật, thực sự hiện hữu, bản
chất của cái hiện hữu là gì. Chủ nghĩa thực dụng đã bác bỏ quan niệm của Platon cho
rằng tư tưởng của con người xuất phát từ một khái niệm bất biến thuộc về một cõi siêu
hình nào đó không lệ thuộc vào kinh nghiệm của con người. Những người theo chủ
nghĩa thực dụng cho rằng tư tưởng là công cụ của con người gồm có giả thuyết, ước
đoán và những kế hoạch nhằm giải quyết vấn nạn của con người. Mọi tư tưởng đều
xuất phát từ xã hội, liên quan tới các sinh hoạt của con người. Thay vì đi tìm câu trả
lời trong siêu hình học những người theo chủ nghĩa thực dụng chú trọng vào sự tương
tác giữa con người với nhau, giữa con người với môi trường để sinh sống và phát
triển. Chính sự tương tác này tạo ra các vấn nạn mà con người cần giải quyết để sinh
tồn. Quan tâm chủ yếu của người thực dụng là tìm ra một phương pháp giải quyết
trong đời sống thực.

-Về nhận thức luận
+ Chủ nghĩa thực dụng bàn về một phương thức tư duy đặc thù. Phương thức tư
duy đó, không xem xét khái niệm ở bản thân khái niệm mà chỉ đi sâu nghiên cứu xem
khái niệm đó khi được sử dụng thì sinh ra hiệu quả gì. Ý nghĩa và giá trị của khái
niệm chỉ được xác định khi nó được ứng dụng vào thực tế và mang lại hiệu quả cho
25


×