Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Bản án 22.2013.LĐ Tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.34 KB, 6 trang )

TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN X
THÀNH PHỐ HCM

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
------------------------

Số: 22/2013/LĐ-ST
Ngày: 29/8/2013
về vụ án: “Tranh chấp về đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động ”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X - THÀNH PHỐ HCM
Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa:
Các Hội thẩm nhân dân:

1. Ông Hoàng Việt T
2.Ông Lê Văn Q
3.Bà Hoàng Thị L
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thu H - Cán bộ Tòa án nhân dân
Quận X.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận X tham gia phiên tòa: Bà Trần Lệ T - Kiểm sát
viên.
Trong ngày 29 tháng 8 năm 2013 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận X, đã xét xử sơ thẩm
công khai vụ án lao động thụ lý số 10/2013/TLST-LĐ ngày 07 tháng 01 năm 2013 về việc “Tranh
chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động", theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số 831/2013/QĐST-XX ngày 09 tháng 8 năm 2013 giữa các đương sự:
Nguyên đơn:


Bà NĐ_Nguyễn Thị Minh Trinh, sinh năm 1966.
Địa chỉ: 215 (số cũ 38) LNQ, phường 5, quận GV, Tp. HCM.
Bị đơn:
BĐ_Công ty TNHH giải pháp tiếp thị Hoa Mai
Trụ sở: Lầu 5 số 7A NVN, phường BN, Quận X, Tp. HCM
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Bà Trần Mỹ Loan - Đại diện theo ủy quyền (Theo
Giấy ủy quyền đề ngày 25/01/2013).
Nguyên đơn, người đại diện hợp pháp của Bị đơn có mặt tại phiên tòa.
NHẬN THẤY:
Nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Minh Trinh trình bày tại Tòa:
Ngày 05/3/2012 bà được BĐ_Công ty TNHH giải pháp tiếp thị Hoa Mai (sau gọi tắt là công
ty) tuyển dụng làm việc với vị trí kế toán trưởng theo thư mời làm việc ngày 28/2/2012. Sau khi
1


xem xét và đồng ý với những nội dung trong thư mời làm việc trên, bà đồng ý thử việc tại công ty.
Hợp đồng thử việc theo quy định của công ty thời gian thử việc là 90 ngày. Tuy nhiên bà tìm hiểu
thì được biết đối với trình dộ của bà thì thời gian thử việc đối đa không quá 60 ngày theo quy định
tại Điều 32 Bộ luật Lao động.
Sau khi hết thời gian 60 ngày, công ty không ký hợp đồng lao động chính thức với bà nhưng
để bà tiếp tục làm việc tại công ty xem như bà đã trở thành nhân viên chính thức của công tyNgày 31/5/2012 giám đốc công ty có trao đổi với bà rằng không có điều gì đáng phàn nàn
về trình độ chuyên môn của bà nhưng do không hợp tính tình với tôi nên đề nghị bà nghỉ việc và
bàn giao toàn bộ công việc đang đảm trách lại cho công ty (chỉ là nói miệng). Công ty không hề
giao cho bà thông báo hay Quyết định cho thôi việc và bà cũng không làm đơn xin thôi việc.
Do giám đốc công ty và trưởng phòng nhân sự công ty gây sức ép nên bà buộc phải ký các
biên bản bàn giao công việc lại cho công ty. Sau đó bà có khiếu nại đến Phòng lao động thương
binh và xã hội Quận X. Sau khi được hòa giải đôi bên không thống nhất được ý kiến vì công ty chỉ
đồng ý trả cho bà 3 ngày lương là những ngày lương còn lại theo Hợp đồng thử việc.
Sau khi hòa giải tại Phòng lao động thương binh và Xã hội Quận X (Phòng LĐTB&XH
quận X), ngày 18/7/2012 bà có nhận được (công ty chuyển tiền vào tài khoản của bà tại Ngân hàng

TMCP Ngoại thương Việt Nam-Chi nhánh TĐ) số tiền 3.142.000 đồng là tiền 3 ngày lương và ngày
31/8/2012 bà tiếp tục nhận 22.000.000 đồng là tiền lương của 01 tháng làm việc. Khi đó, bà nghĩ
do công ty biết việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với bà là trái quy định của pháp luật nên tự
động chuyển trả các khoản tiền trên và bà đã sử dụng.
Nay, do cho rằng việc công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với bà là trái
với các quy định của pháp luật nên bà khởi kiện và có các yêu cầu sau:
- Buộc BĐ_Công ty TNHH giải pháp tiếp thị Hoa Mai phải nhận bà quay trở lại làm việc
theo Điều 41 Bộ luật Lao động.
Bồi thường cho bà hai tháng tiền lương do chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp
luật:
22.0.
000 đồng x 2 tháng = 44.000.000 đồng.
- Trả lương trong những ngày bà không được làm việc kể từ ngày 01/6/2012 cho đến ngày
Tòa án xét xử vụ án theo mức lương 22.000.000 đồng/ tháng. Tạm tính đến 29/8/2013 là 15 tháng
29 ngày: 22.000.000 đồng x 15 tháng + (22.000.000 đồng : 30 ngày) x 29 ngày = 351.266.666 đồng.
Bà đồng ý hoàn trả các khoản tiền mà công ty đã chuyển vào tài khoản của bà vào ngày
18/7/2012 là 3.142.000 đồng và ngày 31/8/2012 là 22.000.000 đồng với điều kiện sau khi công ty
đã thực hiện các nghĩa vụ trên.
* Bị đơn BĐ_Công ty TNHH giải pháp tiếp thị Hoa Mai ủy quyền cho Trần Mỹ Loan trình
bày:
Ngày 28/02/2012, bà NĐ_Nguyễn Thị Minh Trinh đã đồng ý ký Thư mời thử việc của
BĐ_Công ty TNHH giải pháp tiếp thị Hoa Mai, thời hạn thử việc là 03 tháng kể từ ngày 05/3/2012
cho vị trí kế toán trưởng.
Do bà NĐ_Trinh không thể đáp ứng yêu cầu của công việc, vì vậy, ngày 31/5/2012, Giám
đốc Công ty đã thông báo cho bà biết về việc không ký kết hợp đồng lao động với bà. Bà NĐ_Minh
Trinh cũng nhận thấy bản thân không phù hợp với môi trường ngành nghề của Công ty nên đã đồng
2


ý ký Biên bản bàn giao tài sản, thiết bị; Biên bản bàn giao chi tiết công việc và Biên bản cam kết

bảo mật thông tin trước khi nghỉ việc. Việc chấm dứt quan hệ lao động giữa các bên diễn ra bình
thường và bà NĐ_Trinh không có bất kỳ khiếu nại hay phàn nàn nào đối với quyết định của Công
ty. Công ty cũng đã thanh toán đầy đủ tiền lương tháng 5/2012 cho bà NĐ_Trinh
Sau đó, công ty nhận được thông báo về việc bà NĐ_Trinh đã nộp đơn đến Phòng
LĐTB&XH quận X khiếu nại về việc công ty đã buộc bà thôi việc.
Tại buổi hòa giải vào ngày 20/6/20012, hòa giải viên lao động đã đưa ra ý kiến cho rằng
“trong trường hợp thử việc 3 tháng đối với bà NĐ_Trinh, doanh nghiệp chấm dứt trước 5 ngày theo
thỏa thuận đã ký kết, đề nghị doanh nghiệp hỗ trợ những ngày lương còn lại đối với bà NĐ_Trinh
đồng thời thanh lý hợp đồng lao động đối với bà”. Công ty đã đồng ý với hướng đề xuất của hòa
giải viên nhưng bà NĐ_Trinh không đồng ý.
Tuy nhiên, ngay khi buổi hòa giải kết thúc, bà NĐ_Trinh đã đề nghị thỏa thuận giải quyết
vụ việc với điều kiện Công ty phải thanh toán cho bà thêm 01 tháng lương ngoài 03 ngày lương như
ý kiến của hòa giải viên của Phòng LĐTB&XH Q ( nếu tính thời gian bà NĐ_Trinh thử việc đủ 03
tháng tức đến ngày 05/6/2012 thì Công ty còn thiếu 03 ngày lương). Với thiện chí giải quyết dứt
điểm vụ việc trên, Công ty đã đồng ý thỏa thuận như đề nghị của bà NĐ_Trinh. Lần lượt vào các
ngày 18/7/2012 và 31/8/2012, công ty đã thanh toán 03 ngày lương + 1 tháng lương cho bà
NĐ_Trinh số tiền 25.142.857 đồng.
Vào ngày 20/6/2012, bà NĐ_Trinh nộp Đơn xin nghỉ việc với lý do bận việc gia đình, thời
gian nghỉ việc từ ngày 04/7/2012. Căn cứ Đơn xin nghỉ việc của bà NĐ_Trinh, ngày 29/6/2012
Công ty đã ra Quyết định thôi việc. Theo đó, chấp nhận cho bà NĐ_Trinh nghỉ việc tại công ty kể
từ ngày 04/7/2012;
Mặt khác đồng thời với việc khiếu nại đến Phòng LĐTB&XH quận X, bà NĐ_Nguyễn Thị
Minh Trinh cũng đã khởi kiện công ty đến Tòa án nhân dân Quận X với cùng yêu cầu như đã nêu
tại đơn khiếu nại nộp Phòng LĐTB&XH quận X. Tuy nhiên, sau khi các bên đã đạt được thỏa thuận
như trên và bà NĐ_Trinh đã nhận được đầy đủ khoản thanh toán từ công ty, bà NĐ_Trinh đã rút
Đơn khởi kiện và Tòa án nhân dân Quận X đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
Công ty cho rằng yêu cầu của bà NĐ_Trinh là không có cơ sở, không hợp lý hợp tình vì lý
do: Sau buổi hòa giải không thành tại Phòng LĐ TB&XH, bà NĐ_Trinh chính là người đề xuất
thỏa thuận chấm dứt quan hệ lao động với công ty để nhận thêm 01 tháng lương ngoài 03 ngày
lương công ty đã đồng ý trả. Đó là lý do bà NĐ_Trinh đã tự nguyện ký Đơn Xin thôi việc đề ngày

20/6/2012 gửi công ty. Căn cứ vào đơn này, Công ty đã ra Quyết định thôi việc, theo đó, chấp nhận
cho bà nghỉ việc tại công ty từ ngày 04/7/2012. Như vậy, quan hệ lao động giữa công ty và bà
NĐ_Trinh chấm dứt theo nguyện vọng cá nhân của bà NĐ_Trinh. Công ty không hề đơn phương
chấm dứt quan hệ lao động trái pháp luật như cáo buộc của bà NĐ_Trinh; Bên cạnh đó, Công ty đã
thanh toán cho bà NĐ_Trinh 1 tháng và 03 ngày lương lần lượt vào các ngày 18/7/2012 và
31/8/2012 theo nội dung hai bên thỏa thuận, bà NĐ_Trinh nhận và sử dụng không hề có ý kiến thắc
mắc gì về việc chuyển trả tiền trên, chứng minh việc công ty chuyển trả tiền đúng theo nội dung hai
bên đã thỏa thuận.
Theo những nội dung trình bày trên, công ty không chấp nhận toàn bộ các yêu cầu của bà
NĐ_Trinh. Công ty không có yêu cầu gì về khoản tiền 25.142.857 đồng đã trả cho bà NĐ_Trinh.

3


Tại phiên tòa, Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu, đại diện Bị đơn giữ nguyên ý kiến, yêu cầu.
Tòa án nhân dân Quận X đã tiến hành hòa giải nhưng không thành;
XÉT THẤY:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà và căn cứ
kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về hình thức:
Ngày 28/02/2012, bà NĐ_Nguyễn Thị Minh Trinh đã ký vào Thư mời thử việc của
BĐ_Công ty TNHH giải pháp tiếp thị Hoa Mai, thời hạn thử việc là 03 tháng kể từ ngày 05/3/2012
cho vị trí kế toán trưởng và các bên đã thực hiện theo nội dung của Thư mời thử việc trên. Ngày
31/5/2012 Bị đơn vì cho rằng bà NĐ_Trinh không đáp ứng được công việc nên đã yêu cầu bà
NĐ_Trinh bàn giao các tài liệu, công cụ làm việc liên quan và chấm dứt quan hệ lao động giữa hai
bên. Ngày 29/6/2012 Bị đơn ra quyết định số IMS/HRD/12-48 về việc chấp thuận cho bà NĐ_Trinh
nghỉ việc tứ 04/7/2012 theo nguyện vọng cá nhân (bà NĐ_Trinh). Do không đồng ý nên bà
NĐ_Trinh đã khiếu nại tại Phòng LĐTB&XH quận X. Phòng LĐTB&XH quận X đã tiến hành hòa
giải nhưng không thành. Bà NĐ_Trinh đã khởi kiện vụ việc trên tại Tòa án nhân dân Quận X( Hồ
sơ vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 118/2012/TLST-LĐ ngày 04/10/2012). Trong quá trình giải quyết

Tòa án nhân dân Quận X đã ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 54/2012/QĐLĐ-ST
ngày 12/10/2012 theo Điểm c, Khoản 1, Điều 192. Nay bà NĐ_Trinh tiếp tục khởi kiện có nội dung
tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Bị đơn là pháp nhân có quốc
tịch Việt Nam, có trụ sở chính tại Quận X, Thành phố HCM tại thời điểm thụ lý nên vụ kiện thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận X theo quy định tại Khoản 1, Điều 31; Điểm c,
Khoản 1, Điều 33; Điểm a, Khoản 1 Điều 35 và Khoản 1 Điều 193 Bộ luật Tố tụng dân sự đã sửa
đổi, bổ sung năm 2011.
Bị đơn ủy quyền tham gia tố tụng cho Bà Trần Mỹ Loan. Xét sự ủy quyền này là tự nguyện
và hợp lệ nên chấp nhận.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận X phát biểu: Trong quá trình thụ lý, chuẩn bị xét
xử và tại phiên tòa, Tòa án nhân dân Quận X, Thẩm phán, Hội đồng xét xử sơ thẩm và các đương
sự đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự đã sửa đổi bổ sung năm 2011 và không
có kiến nghị gì về tố tụng.
- Về nội dung :
Theo nội dung của Thư mời thử việc của BĐ_Công ty TNHH giải pháp tiếp thị Hoa Mai
vào ngày 28/02/2012 mà bà NĐ_Trinh đã ký và thực hiện đã thể hiện các nội dung của một thỏa
thuận thử việc như: Thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc, công việc cụ thể, mức lương trong thời
gian thử việc, mức lương khi làm việc chính thức.. .và xác nhận của các bên đã đủ cơ sở xác định
hai bên đã xác lập quan hệ lao động là bà NĐ_Trinh sẽ thử việc trong thời gian 03 tháng tại
BĐ_Công ty TNHH giải pháp tiếp thị Hoa Mai với công việc là Kế toán trưởng từ 05/3/2012 với
mức lương thử việc là 22.000.000 đồng/tháng, lương khi ký hợp đồng chính thức là 25.000.000
đồng/tháng, thời giờ làm việc hàng ngày từ 8 giờ 30 sáng đến 5 giờ 3 chiều.
Đối chiếu các quy định của Bộ luật Lao động thì các thỏa thuận trên là phù hợp. Tuy nhiên
riêng về khoản thời gian thử việc là trái pháp luật: Theo tại Khoản 1, Điều 27 Bộ luật Lao động

4


năm 2012, có hiệu lực ngày 01/5/2013 quy định thời gian thử việc trong trường hợp này là không
quá 60 ngày và quy định tại Điều 50 và 53 Luật Kế toán ( vì chức danh nghề của Kế toán trưởng là

cần trình độ chuyên môn từ trung cấp hoặc cao đẳng trở lên và phải có chứng chỉ qua lớp bồi dưỡng
kế toán trưởng). Do thỏa thuận này trái pháp luật nên Thư mời thử việc lập ngày 28/02/2012 đã vô
hiệu về phần quy định về thời gian thử việc do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc giữa các bên.
Đây là lỗi hỗn hợp của cả hai bên vì khi giao kết thỏa thuận thử việc hai bên phải biết các quy định
này do có đủ năng lực, trình độ nên các bên phải tự gánh chịu hậu quả.
Mặt khác, theo trình bày của đại diện bị đơn: Ngay sau khi buổi hòa giải không thành tại
Phòng LĐTB&XH quận X kết thúc, bà NĐ_Trinh đã đề nghị thỏa thuận giải quyết vụ việc với điều
kiện Công ty phải thanh toán cho bà thêm 01 tháng lương ngoài 03 ngày lương như ý kiến của hòa
giải viên của Phòng LĐTB&XH quận X. Với thiện chí giải quyết dứt điểm vụ việc trên, Công ty đã
đồng ý thỏa thuận như đề nghị này của bà NĐ_Trinh. Lần lượt vào các ngày 18/7/2012 và
31/8/2012, công ty đã thanh toán 03 ngày lương + 1 tháng lương cho bà NĐ_Trinh số tiền
25.142.857 đồng. Trong quá trình chuẩn bị xét xử, theo yêu cầu của đại diện Bị đơn, Tòa đã có
công văn số 196/TAquận X ngày 21/6/2013 gửi Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam- Chi
nhánh TĐ ( là Ngân hàng mà bà NĐ_Trinh mở tài khoản giao dịch) về việc cung cấp thông tin.
“Ngày 25/6/2013 Ngân hàng này có văn bản số 19/TTDV-CNTDi trả lời có nội dung: Khách hàng
NĐ_Nguyễn Thị Minh Trinh có đăng ký dịch vụ SMS Banking của Ngân hàng để nhận thông báo
qua điện thoại (cho điện thoại số: 0908484968) khi có giao dịch phát sinh trên tài khoản. Tình trạng
dịch vụ hiện nay vẫn hoạt động. Ngày 18/7/2012 và 31/8/2012 nội dung chuyển tiền 2 món trên đã
gửi cho khách hàng NĐ_Minh Trinh qua số diện thoại 0908484968”. Kèm theo văn bản trên, Ngân
hàng có gửi kèm theo Bản sao kê tài khoản số 0071002574428 ( của bà NĐ_Trinh). Bản sao kê đã
thể hiện các giao dịch số tiền ghi có vào tài khoản của bà NĐ_Trinh: “Ngày 18/7/2012 Nguyễn Thị
Thùy Linh nộp tiền lương đến ngày 05/6/2012 tại BĐ_Công ty Hoa Mai và ngày 31/8/2012 Nguyễn
Thị Cẩm Loan nộp tiền mặt //BĐ_Công ty TNHH giải pháp tiếp thị Hoa Mai nộp lương theo Quyết
định nghỉ việc”. Tại Tòa bà NĐ_Trinh có ý kiến cho rằng vì Công ty nhận thức được việc chấm dứt
Hợp đồng lao động với bà là trái pháp luật nên đã bồi thường cho bà 01 và 03 ngày lương là không
có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận vì qua nội dung tin nhắn SMS trên điện thoại bà NĐ_Trinh
đã biết chính xác lý do của các khoản tiền mà Bị đơn đã chuyển cho mình. Bà NĐ_Trinh đã im lặng
và sử dụng các khoản tiền trên mà không có bất cứ ý kiến gì với Bị đơn chứng tỏ bà NĐ_Trinh đã
đồng ý nhận các khoản tiền để chấm dứt quan hệ lao động. Thực tế bà NĐ_Trinh cũng đã ký các
biên bản bàn giao các tài liệu, sổ sách liên quan đến công việc và không đến làm việc từ sau ngày

31/5/2012 đến nay.
Từ các nhận định như trên, xét yêu cầu của nguyên đơn: Buộc BĐ_Công ty TNHH giải
pháp tiếp thị Hoa Mai hủy Quyết định thôi việc số IMS/HRD/12-48, phải nhận Nguyên đơn quay
trở lại làm việc: Bồi thường hai tháng tiền lương do chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:
22.0.
000 đồng x 2 tháng = 44.000.000 đồng, trả lương trong những ngày Nguyên đơn không
được làm việc kể từ ngày 01/6/2012 cho đến ngày Tòa án xét xử sơ thẩm theo mức lương
22.0.
000 đồng/ tháng, tạm tính đến 29/8/2013 là 15 tháng 29 ngày: 22.000.000 đồng x 15 tháng
+ (22.000.000 đồng : 30 ngày) x 29 ngày = 351.266.666 đồng, thực hiện các chế độ về bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế là không có căn cứ để chấp nhận.
5


Về văn bản Đơn xin nghỉ việc đề ngày 20/6/2012 do đại diện Nguyên đơn cung cấp có nội
dung: Bà NĐ_Trinh xin phép được thôi việc vì lý do bận việc gia đình từ ngày 04/7/2012: Xét đây
là bản chụp lại, không có bản chính để đối chiếu nên không có giá trị pháp lý để chứng minh việc
bà NĐ_Trinh tự nguyện xin nghỉ việc nên Hội đồng xét xử không chấp nhận như là một chứng cứ
hợp pháp.
Về khoản tiền 25.142.857 đồng mà bị đơn đã trả cho nguyên đơn: Bà NĐ_Trinh đã thử việc
từ ngày 05/3/2012 đến hết ngày 31/5/2012. BĐ_Công ty TNHH giải pháp tiếp thị Hoa Mai đã trả
lương đến hết ngày 31/5/2012 và sau đó trả tiếp cho bà NĐ_Trinh 03 ngày lương và 01 tháng lương.
Như vậy quyền lợi hợp pháp của bà NĐ_Trinh đã được bảo đảm. BĐ_Công ty TNHH giải pháp
tiếp thị Hoa Mai không có ý kiến, yêu cầu gì về khoản tiền này nên Hội đồng xét xử không xét.
- Về án phí sơ thẩm về tranh chấp lao động: Các bên không phải chịu theo luật định
Các bên được quyền kháng cáo theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng:
- Khoản 1, Điều 31; Điểm c, Khoản 1, Điều 33; Điểm a, Khoản 1, Điều 35 và Khoản 1,

Điều 193 Bộ luật Tố tụng dân sự đã sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2011;
- Các Điều: 50; 52 và 53 Luật Kế toán năm 2003;
- Điều 26 và 27 Bộ luật Lao động sửa đổi, bổ sung có hiệu lực từ 01/5/2013;
- Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009; Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án;
Xử:
1.
Tuyên bố Điều 6 quy định về thời gian thử việc của văn bản Thư mời tuyển dụng
lập ngày 28/02/2012 giữa BĐ_Công ty TNHH giải pháp tiếp thị Hoa Mai và bà NĐ_Nguyễn Thị
Minh Trinh về việc bà NĐ_Nguyễn Thị Minh Trinh thử việc tại BĐ_Công ty TNHH giải pháp tiếp
thị Hoa Mai là vô hiệu.
- Không chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn về việc: Buộc BĐ_Công ty TNHH giải pháp
tiếp thị Hoa Mai hủy Quyết định thôi việc số IMS/HRD/12-48, phải nhận Nguyên đơn quay trở lại
làm việc: Bồi thường hai tháng tiền lương do chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, trả lương
trong những ngày Nguyên đơn không được làm việc kể từ ngày 01/6/2012 cho đến ngày Tòa án xét
xử sơ thẩm theo mức lương 22.000.000 đồng/ tháng, thực hiện các chế độ về bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế.
- Quan hệ lao động giữa BĐ_Công ty TNHH giải pháp tiếp thị Hoa Mai và bà NĐ_Nguyễn
Thị Minh Trinh chấm dứt kể từ ngày 04/7/2012 theo Quyết định thôi việc số IMS/HRD/12-48 ngày
29/6/2012 của BĐ_Công ty TNHH giải pháp tiếp thị Hoa Mai .
2. Về án phí sơ thẩm về tranh chấp lao động:
Các bên không phải chịu.
3. Về quyền kháng cáo:
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày
tuyên án.

6




×