Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

GIÁO TRÌNH LỊCH sử VIỆT NAM TRUNG đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (805.37 KB, 100 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
---------------------

GIÁO TRÌNH
LỊCH SỬ VIỆT NAM TRUNG ĐẠI
(LƢU HÀNH NỘI BỘ)

Quảng Bình – 01/2016

1


NỘI DUNG HỌC PHẦN
1.1 Hƣớng dẫn học tập và bài tập
1.1.1 Phương pháp học tập

Trên cơ sở năm được kiến thức cơ bản sinh viên biết so sánh với lịch sử thế giới
trong cùng thời kỳ (so sánh đồng đại) để nắm được bản chất của các sự kiện, hiện tượng
nhân vật lịch sử, thấy được mối liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau giữ chúng, rút ra quy luật, bài
học lịch sử. Bên cạnh việc đọc giáo trình, nghe giảng sinh viên phải chủ động đọc thêm
nhiều tài liệu tham khảo rèn luyện các kỹ năng tư duy như suy luận lôgich, nhận xét đánh
giá, so sánh để tìm ra sự tiến bộ, phát triển kết hợp rèn luyện các kỹ năng thực hành bộ
môn như: sử dụng bản đồ, lược đồ, lập niên biểu vẽ sơ đồ, sử dụng các đồ dùng trực
quan, thiết bị dạy học.
1.1.2 Tài liệu học tập và tham khảo
+ Tài liệu học tập: Trương Hữu Quýnh - Nguyễn Cảnh Minh (1999), Lịch sử Việt
Nam từ nguồn gốc đến 1858, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
+ Tài liệu tham khảo:
[1] Dự án đào tạo giáo viên THCS, (2003), Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến 1858,
NXB Đại học Sư phạm.


[2] Nhiều tác giả; (1998), Đại cương lịch sử Việt Nam , tập 1, NXB Giáo dục, H N.
[3] Nguyễn Quang Ngọc (cb), (2001), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, HN.
[4] UBKHXH, (1976), Lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB Khoa học Xã hội.
[5] Trần Bá Đệ (cb), (2002), Một số chuyên đề lịch sử việt Nam, NXB ĐH Quốc gia
Hà Nội.
[6] Sách giáo khoa, sách giáo viên, sách bài tập, (2010), lịch sử lớp 7, 10 NXB
Giáo dục, HN.
[7] Trương Đình Tín, (2000), Vua chúa Việt Nam qua các triều đại, NXB Đà Nẵng.
- Khác: Internet: Vi.wiki.pedia.org/ Lịch sử

2


CHƢƠNG 1
BƢỚC ĐẦU XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ QUỐC GIA PHONG KIẾN
ĐỘC LẬP TỰ CHỦ - NƢỚC ĐẠI CỒ VIỆT (THẾ KỶ X)
1.1 Bƣớc đầu xây dựng và bảo vệ nền tự chủ của đất nƣớc
1.1.1 Họ Khúc dựng nền tự chủ
Năm 905, Khúc Thừa Dụ khôi phục được quyền tự chủ xưng là Tiết độ sứ. Năm
906, nhà Đường buộc phải thừa nhận và phong cho Khúc Thừa Dụ làm Tỉnh hải Tiết độ
sứ Đồng binh chương sự có quyền nắm cả việc quân sự, chính trị, kinh tế, tài chính. Tuy
dưới danh nghĩa là một chức quan của nhà Đường nhưng trên thực tế Khúc Thừa Dụ đã
bắt tay xây dựng một nhà nước tự chủ.
Năm 907 Khúc Thừa Dụ mất con trai ông là Khúc Hạo lên thay, tiếp tục xưng là
Tiết độ sứ. Nhà Hậu Lương (đã thay thế nhà Đường) cũng phải thừa nhận Khúc Hạo là
“An Nam Đô hộ sung Tiết độ sứ”.
Tuy đất nước đã khôi phục được quyền tự chủ song hậu quả mà hơn 1000 năm đô
hộ của phong kiến phương Bắc để lại hết sức nặng nề. Nguy cơ ngoại xâm đe dọa nền
độc lập tự chủ từ phương Bắc vẫn là vấn đề thường trực. Mặt khác để tạo cơ sở vững
chắc cho chính quyền tự chủ thì yêu cầu cấp thiết của lịch sử lúc này là phải tiến hành

công cuộc cải cách đất nước. Nhận thức được yêu cầu thực tế đó, Khúc Hạo đã tiến hành
cuộc cải cách đầu tiên trong lịch sử nước ta.
a. Cải cách hành chính
Trước hết Khúc Hạo bãi bỏ bộ máy hành chính đô hộ cũ của nhà Đường, chia lại
đơn vị hành chính. Hệ thống hành chính cấp quận huyện được thay thế bằng các đơn vị
lộ, phủ, châu; các hương bên dưới được tổ chức lại và đổi gọi là Giáp. Mặt khác ông còn
đặt thêm những giáp mới, tổng cộng có 314 giáp (nhà Đường chia làm 159 hương). Ở các
giáp Khúc Hạo đặt các chức chánh, tá lệnh trưởng và giáp trưởng trông coi nhằm tăng
cường sự quản lý trực tiếp của chính quyền trung ương đối với các đơn vị hành chính cơ
sở, đồng thời xác lập quyền tự chủ của đất nước. Mặt khác Khúc Hạo còn cho lập sổ hộ
khẩu, bắt dân đinh phải “kê rõ họ tên, quê quán” giao cho giáp trưởng coi giữ.
b. Cải cách kinh tế
Chính sách tô thuế cống nạp mà nhà Đường đặt ra đối với nhân dân ta rất nặng nề.
Do đó Khúc Hạo đã bãi bỏ và ban hành chính sách mới. Theo sách “Khâm định Việt sử
thông giám Cương mục” ghi chép về nội dung chính sách cải cách đó như sau: “Bình
quân thuế ruộng tha bỏ lực dịch…” 1
Cải cách về kinh tế của Khúc Hạo “đã xoá bỏ được chế độ bóc lột nặng nề của
3


chính quyền đô hộ nhà Đường, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân lúc bấy giờ. Do
đó, có tác dụng tích cực củng cố mối quan hệ gắn bó giữa nhà nước với nhân dân. Một
nhân tố quan trọng trong công cuộc xây dựng và vảo vệ nhà nước, quốc gia độc lập, tự
chủ non trẻ vừa mới thành lập…” 2
Đánh giá ý nghĩa tác dụng cải cách của Khúc Hạo. Giáo trình viết: “Những cải
cách của Khúc Hạo đã tạo điều kiện cho chính quyền trung ương có khả năng kiểm soát
một cách trực tiếp các địa phương trong nước, góp phần quan trọng củng cố sự thống
nhất lãnh thổ, bước đầu xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột của chính quyền đô hộ, giúp cho
nhân dân ta có điều kiện ổn định cuộc sống, tích cực tham gia lao động sản xuất, xây
dựng nước nhà”.

Mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng cải cách của Khúc Hạo đã thể hiện rõ
tinh thần của một quốc gia độc lập, có quyền tự chủ. Nó mở ra một thời kỳ phát triển mới
của xã hội Việt Nam mà các triều đại sau đó sẽ kế tục.

1.1.2 Cuộc kháng chiến của Dƣơng Đình Nghệ, nền tự chủ đƣợc khôi phục
Mặc dù đã phong cho Khúc Hạo làm Tiết độ sứ song nhà Hậu Lương vẫn không
từ bỏ tham vọng khôi phục lại ách đô hộ ở Âu Lạc cũ.
Năm 908, nhà Hậu Lương phong cho Lưu Ẩn là Tiết độ sứ ở Quảng Châu làm
Nam bình vương kiêm Tỉnh Hải Quân tiết độ sứ An Nam đô hộ với ý đồ buộc nước ta
phụ thuộc vào chính quyền họ Lưu.
Năm 911 Lưu Ẩn chết, em là Lưu Nham (3) lên thay. Năm 917, Lưu Nham tự
xưng là Hoàng đế đặt quốc hiệu cho đất Quảng Châu mà y cai quản là nước Nam Hán.
Đây là một trong 10 nước cát cứ thời “Ngũ đại thập quốc” ở Trung Hoa.
Sau khi đánh bại cuộc tấn công của nước Sở, ổn định phía Bắc, Lưu Nham bắt đầu
thực hiện âm mưu bành trướng xuống phía Nam mà mục tiêu đầu tiên là nước ta. Năm
930, viện cớ Khúc Thừa Mỹ thần phục nhà Hậu Lương có ý chống Nam Hán, Lưu Nham
sai Lý Thủ Dung và Lương Khắc Trinh đem quân xâm lược nước ta. Do thiếu chuẩn bị
lại chênh lệch lực lượng bởi quân xâm lược mạnh hơn nên Khúc Thừa Mỹ không chống
nổi quân Nam Hán. Tháng 10 năm 930, thành Đại La bị địch chiếm, Khúc Thừa Mỹ bị
quân Nam Hán bắt đem về Quảng Châu, nước ta lại rơi vào tay nhà Nam Hán. Nhà Nam
Hán cử Lý Tiến sang làm Thứ sử Giao Châu. Tuy nhiên chính quyền ngoại bang chỉ kiểm
soát được thành Đại La và vùng phụ cận trung tâm. Ở các nơi xa, các đơn vị hương giáp,
xã vẫn nằm ngoài vòng kiểm soát của chúng. Nhân dân ta với ý thức độc lập tự chủ lại
tập hợp dưới ngọn cờ của Dương Đình Nghệ.
4


Năm 931, Dương Đình Nghệ (là tướng cũ của Khúc Hạo) vốn là Hào trưởng, quê
ở làng Ràng (Dương Xá, Thiệu Hoá, Thanh Hoá) có thế lực mạnh ở châu Ái (Thanh Hoá)
sau một thời gian chuẩn bị lực lượng đã tiến quân ra Giao châu bao vây và tiến công

thành Đại La. Vua Nam Hán vội vã sai Trình Bảo đem quân sang cứu viện. Viện quân
địch chưa tới kịp thì Dương Đình Nghệ đã hạ được thành Đại La. Tướng giặc là Lương
Khắc Trinh bị giết. Thứ sứ Lý Tiến chạy thoát về nước.
Sau khi tạm ổn định tình hình trong thành, Dương Đình Nghệ mang quân ra ngoài
đón đánh quân Trình Bảo. Quân giặc rối loạn tan vỡ, tướng Trình Bảo bị giết.
Kháng chiến thắng lợi, quyền tự chủ của đất nước được khôi phục, Dương Đình
Nghệ vẫn tự xưng là Tiết độ sứ, phong thưởng cho những người có công. Đinh Công Trứ
được phong làm thứ sử châu Hoan, Ngô Quyền được phong làm thứ sử châu Ái, Ngô
Mân làm thứ sử châu Đường Lâm…
Năm 937, Kiều Công Tiễn, một nha tướng của Dương Đình Nghệ giết chủ để đoạt
quyền Tiết độ sứ, nhân dân cũng như nhiều tướng lĩnh hết sức bất bình. Vua Nam Hán lại
nhân cơ hội đó xua quân xâm lược nước ta. Người lĩnh sứ mạng lãnh đạo cuộc kháng
chiến bảo vệ nền độc lập, tự chủ của dân tộc chính là Ngô Quyền.

1.1.3 Cuộc kháng chiến của Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938
a) Ngô Quyền diệt Kiều Công Tiễn và chuẩn bị KC chống quân Nam Hán
Ngô Quyền là con thứ của Ngô Mân và là con rễ của Dương Đình Nghệ, ông đã
từng theo Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán năm 931. Sau thắng lợi, Ngô
Quyền được Dương Đình Nghệ phong làm thứ sử châu Ái. Ngô Quyền vốn có sức khoẻ
hơn người, có tài trị nước nên rất được quân sĩ và nhân dân quý mến.
Nghe tin Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ cướp chính quyền, Ngô Quyền
đã tập hợp lực lượng đưa quân từ châu Ái ra Bắc, tiến công Đại La để diệt trừ Kiều Công
Tiễn. Trước thế mạnh của lực lượng Ngô Quyền, Kiều Công Tiễn sợ hãi sai người sang
cầu cứu vua Nam Hán. Chớp cơ hội, vua Nam Hán đã phong cho con trai là Thái tử
Hoằng Tháo làm Tĩnh hải Tiết độ sứ, (sau đó đổi làm Giao vương với ý đồ lấy đất Giao
Châu phong ấp cho Hoằng Tháo) chỉ huy một đạo binh thuyền lớn sang xâm lược nước
ta. Vua Nam Hán là Lưu Cung cũng tự làm tướng đem hậu quân đóng ở Hải Môn, sát
biên giới nước ta để làm thanh viện cho Hoằng Tháo.
Mùa đông năm 938 Ngô Quyền đã cùng quân sĩ tiêu diệt Kiều Công Tiễn trước khi
quân Nam Hán tiến vào nước ta. Mối hoạ bên trong đã được loại bỏ, Ngô Quyền cùng

quân sĩ gấp rút chiẩn bị cho cuộc kháng chiến. Được biết quân Nam Hán do Hoằng Tháo
chỉ huy sẽ kéo vào xâm lược nước ta qua cửa sông Bạch Đằng. Ngô Quyền đã tuyên bố
5


“… Bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị thì thế được thua chưa biết ra
sao. Nếu ta sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển,
thuyền của bọn chúng theo nước biển lên vào trong cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự,
không cho chiếc nào ra thoát”. Kế hoạch của Ngô Quyền vạch ra được mọi người nhất
trí tán thành và hăng hái triển khai. Theo tinh thần đó quân sĩ và nhân dân ngày đêm đằn
gỗ đẽo cọc, rèn sắt làm mũi nhọn bịt ở đầu cọc. Ngô Quyền chọn vùng hạ lưu cửa biển
Bạch Đằng làm vùng trận địa quyết chiến với giặc. Với quyết tâm tiêu diệt quân giặc,
Ngô Quyền đã huy động một lực lượng chiến đấu lớn với nhiều tướng giỏi như: Đinh
Công Trứ, Ngô Xương ngập, Dương Tam Kha, Đỗ Cảnh Thạc (hào trưởng Đỗ Động), nữ
tướng Dương Phương Lan (vợ Ngô Quyền).
b. Chiến thắng Bạch Đằng
Sau khi Ngô Quyền bố trí xong trận địa thì cũng vừa lúc quân Nam Hán do Hoằng
Tháo chỉ huy đến ngoài cửa sông Bạch Đằng. Ngô Quyền cử Ngô Tất Tố chỉ huy một đội
binh thuyền nhẹ tiến ra chặn địch. Khi nước triều lên ngập trận địa cọc, Ngô Tất Tố giả
vờ thua rút chạy nhữ quân giặc đuổi theo, thuyền địch tiến sâu vào trong bãi cọc đúng
trận địa mà Ngô Quyền và các tướng lĩnh đã dự kiến. Quân ta vừa đánh vừa rút lui chờ
cho nước triều xuống thì phối hợp tấn công quyết liệt vào binh thuyền giặc. Dưới sự chỉ
huy trực tiếp của Ngô Quyền; đại quân ta từ 3 phía, đánh chặn đầu kết hợp với quân thuỷ
bộ mai phục hai bên bờ sông đánh vào binh thuyền giặc. Quân Nam Hán bị đánh bất ngờ
không kịp chống đỡ, phải quay thuyền đua nhau tháo chạy ra biển. Đúng lúc nước thuỷ
triều rút, trận địa cọc gỗ của ta nhô lên đâm thủng thuyền giặc. Số lớn thuyền giặc bị cọc
bịt đầu sắt đâm thủng, một số va vào nhau mà chìm đắm. Hàng vạn quân giặc trong đó có
chủ tướng là Hoằng Tháo bị tử trận. Trận chiến diễn ra trong một ngày đã kết thúc, quân
của Hoằng Tháo bị quân ta tiêu diệt gọn. Đội quân Nam Hán do Lưu Cung chỉ huy vừa
mới đến sát biên giới nước ta nghe tin quân Hoằng Tháo đại bại cũng tan vỡ. Cuộc kháng

chiến chống quân xâm lược Nam Hán của quân và dân ta kết thúc thắng lợi vẻ vang.
Tham vọng trở lại đô hộ nước ta của vua Nam Hán sụp đỗ hoàn toàn.
c. Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Bạch Đằng năm 938
Chiến thắng Bạch Đằng đã bảo vệ và củng cố vững chắc nền độc lập tự chủ của dân
tộc. ý chỉ xâm lược của bọn phong kiến phương Bắc bị bẻ gãy. Chiến thắng Bạch Đằng
đã ghi vào lịch sử nước ta một “vũ công cao cả vang dội đến nghìn thu” của cha ông.
Chiến thắng Bạch Đằng chính là thành quả của hơn 30 năm làm chủ đất nước của nhân
dân ta. Chiến thắng này còn thể hiện tài năng quân sự lỗi lạc và ý chí quyết chiến quyết
thắng của người anh hùng dân tộc - Ngô Quyền. Nó còn để lại nhiều bài học kinh
6


nghiệm, bổ ích về đường lối chiến lược, chiến thuật đầy mưu trí, sáng tạo cho các cuộc
kháng chiến ở các giai đoạn sau.

1.2 Các triều đại Ngô, Đinh và Tiền Lê củng cố độc lập và xây dựng
đất nƣớc
1.2.1 Ngô Quyền xƣng vƣơng và thành lập nhà nƣớc
Sau chiến thắng Bạch Đằng, Ngô Quyền bỏ bộ máy cai trị cũ của họ Khúc, lên
ngôi vua lập ra triều đình nhà Ngô. Vua đứng đầu trông coi mọi việc về chính trị, quân
sự, ngoại giao. Dưới vua có 2 ban văn, võ. Ở địa phương, Ngô Quyền cử các tướng trông
coi các châu quan trọng: Đinh Công Trứ làm thứ sử châu Hoan; Kiều Công Hãn làm Thứ
sử Phong Châu… Ngô Quyền chọn thành Đại La làm kinh đô. Tài năng và uy tín cá nhân
đã giúp Ngô Quyền duy trì được một chính quyền quân chủ tập trung, mặc dù vẫn tồn tại
nhiều thế lực của các hào trưởng địa phương có xu hướng cát cứ.
Sau 5 năm cai trị, Ngô Quyền mất (944) các con của Ngô Quyền là Ngô Xương
Ngập (con trưởng) và Ngô Xương Văn không đủ uy tín và sức mạnh để duy trì chính
quyền quân chủ tập trung. Dương Tam Kha (em vợ Ngô Quyền) đã cướp ngôi vua, tự
xưng là Bình vương. Ngô Xương Ngập phải trốn khỏi kinh thành đến nương nhờ tại nhà
Phạm Lệnh Công ở Trà Hương (Nam Sách, Hải Dương). Dương Tam Kha nhiều lần sai

người đi đánh mà không bắt được Ngô Xương Ngập. Chính việc làm của Dương Tam
Kha đã đẩy các dòng họ đến mâu thuẫn và khiến lòng người ly tán, dẫn tới tình trạng đất
nước loạn lạc.
Năm 950, Ngô Xương Văn - con thứ của Ngô Quyền đã cùng các tướng Đỗ Cảnh
Thạch và Dương Cát Lợi sau khi đi đánh dẹp cuộc nổi dậy của 2 thôn Đường, Nguyễn ở
Ba Vì đã quay về Cổ Loa lật đỗ Dương Tam Kha giành lại chính quyền. Xương Văn
xưng là Nam Tấn vương cho đón anh là Ngô Xương Ngập tức Thiên Sách vương về cùng
coi việc nước. Thiên Sách vương thâu tóm quyền hành đã làm nội bộ nhà Ngô bất hoà.
Năm 954 Ngô Xưng Ngập chết, Nam Tấn vương Xương Văn một mình cầm quyền đã sai
sứ sang xin thần phục chúa Nam Hán nhận chức Tinh hải quân Tiết độ sứ kiêm Đô hộ.
Mâu thuẫn nội bộ cùng thái độ bạc nhược của Ngô Xương Văn lúc này đã tạo điều
kiện cho các thổ hào địa phương nổi dậy. Sau khi Xương Văn chết (965) đất nước rơi vào
thế hỗn loạn, các Hào trưởng chiếm lĩnh các địa phương, sử gọi là loại 12 sứ quân.
- Phú Thọ có các sứ quân: Kiều Công Hãn, Nguyễn Khoan.
- Hà Nội có Nguyễn Siêu
- Hà Tây có Ngô Nhật Khánh, Kiều Thuận, Đỗ Cảnh Thạc
- Bắc Ninh có Lý Khuê, Nguyễn Thủ Tiệp
7


- Hưng Yên có Lữ Đường, Phạm Bạch Hỗ
- Thái Bình có Trần Lãm (sau liên kết với Đinh Bộ Lĩnh)
- Thanh Hoá có Ngô Xương Xí (con Ngô Xương Ngập)
Cùng thời gian này (năm 960) ở Trung Quốc nhà Tống thành lập, chấm dứt thời Ngũ
đại thập quốc và bắt đầu mở rộng thế lực xuống phía Nam.
- Nguy cơ ngoại xâm lại đe dọa vận mệnh dân tộc, mặt khác cuộc chiến tranh tương
tàn giữa các sứ quân gây nhiều đau khổ tang tóc cho nhân dân. Do đó yêu cầu lúc này là
phải nhanh chóng loại trừ các thế lực cát cứ củng cố sự thống nhất quốc gia để đối phó
với nguy cơ ngoại xâm trở nên hết sức cấp bách đối với lịch sử dân tộc. Đinh Hoàn (tức
Đinh Bộ Lĩnh) đã xuất hiện gánh vác sứ mệnh lịch sử, dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất

nước củng cố nền độc lập tự chủ.

1.2.2 Đinh Hoàn dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nƣớc
Đinh Hoàn là con trai của Đinh Công Trứ người làng Đại Hoàng (nay là xã Gia
Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình). Sau khi Đinh Công Trứ mất, Đinh Hoàn cùng
mẹ là Đàm Thị đem theo gia nhân về quê nhà. Đinh Hoàn là người có ý chí lại có tài tập
hợp và lãnh đạo quần chúng. Thấy cảnh đất nước rối loạn, ông được sự ủng hộ của nhân
dân và bạn bè đã tổ chức lực lượng chiếm giữ miền Hoa Lư. Sau một thời gian cố thủ ở
Hoa Lư (từ 951 - 965) Đinh Hoàn đã liên kết với sứ quân Trần Lãm tạo nên một thế lực
hùng mạnh. Ông còn tập hợp dưới trướng của mình những tướng lĩnh tài ba như: Lê
Hoàn, Nguyễn Bặc, Phạm Cự Lạng, Phạm Hạp, Trịnh Tú, Đinh Điền.
Đinh Bộ Lĩnh đã liên kết hàng phục được các sứ quân Trần Lãm, Phạm Bạch Hổ,
Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, Kiều Công Hãn, Nguyễn Thủ Tiệp, Kiều Thuận, Lý Khuê.
Sau 2 năm dẹp loạn, Đinh Bộ Lĩnh thu phục được các sứ quân và thống nhất đất nước.

1.2.3 Nƣớc Đại Cồ Việt thời Đinh - Tiền Lê (968- 1009)
1.2.3.1 Tình hình chính trị
Năm 968 sau khi thống nhất đất nước Đinh Hoàn lên ngôi Hoàng đế tức Đinh Tiên
Hoàng, đặt quốc hiệu nước ta là Đại Cồ Việt, chọn Hoa Lư làm kinh đô. Năm 970 ông bỏ
không dùng niên hiệu Trung Quốc tự đặt niên hiệu là Thái Bình và sai sứ sang giao hảo
với nhà Tống, việc làm này thể hiện lòng tự tôn dân tộc chứng tỏ sự lớn mạnh của quốc
gia sánh vai với phong kiến trung Hoa..
a. Tổ chức bộ máy nhà nước
Nhà nước từ thời Ngô đến Đinh- Tiền Lê đều được tổ chức theo thể chế quân chủ
tập quyền, tuy nhiên nó vẫn còn sơ sài và mang tính quân sự vì từ Ngô Quyền, Đinh
Hoàn, đến Lê Hoàn đều xuất thân từ những tướng lĩnh quen trận mạc là tổng chỉ huy tối
8


cao quân đội nắm mọi quyền bính. Năm 978, Đinh Tiên Hoàng lập con nhỏ là Hạng Lang

làm Thái tử, phong con thứ Đinh Toàn làm vệ vương. Đinh Liễn (con cả) có nhiều đóng
góp trong quá trình thống nhất đất nước chỉ được phong là Nam Việt vương. Đội ngũ
quan lại trong triều gồm 3 bộ phận:
- Ban võ do Lê Hoàn giữ chức Thập đạo tướng quân đứng đầu.
- Ban văn do Định quốc công Nguyễn Bặc đứng đầu.
- Tăng sư do Tăng thống Ngô Châu Lưu - Khuông Việt Đại sư đứng đầu.
Ngoài ra còn có các chức như: Hồng Hiến làm Thái sư; Lưu Cơ giữ chức Đô hộ
phủ sĩ sư coi việc hình án, Trịnh Tú làm Sử quan.
Năm 979, Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị viên quan hầu là Đỗ Thích giết hại.
Đinh Toàn mới 6 tuổi, lên nối ngôi. Thập đạo tướng quân Lê Hoàn được cữ làm phụ
chính. Các tướng lĩnh trong triều chia thành phe phái đánh nhau. Vì nghi ngờ Lê Hoàn có
ý định cướp ngôi, các tướng cũ của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm
Hạp đưa quân về kinh định giết Lê Hoàn. Kết quả giao chiến các tướng Đinh Điền,
Nguyễn Bặc, Phạm Hạp đều bị Lê Hoàn giết chết.
Nhân cơ hội đó nhà Tống ở phương Bắc lại lăm le xâm lược nước ta. Năm 980,
trước sự đe doạ của nhà Tống, được sự suy tôn của Dương Thái hậu và theo đề nghị của
Phạm Cự Lạng, Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế. Nhà Lê được thành lập (sử cũ thường gọi là
nhà Triều Lê), Lê Hoàn đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống Tống
xâm lược năm 981 thắng lợi.
Dưới thời Lê Hoàn tổ chức bộ máy nhà nước thời Đinh tiếp tục được giữ nguyên,
Hoa Lư vẫn được chọn làm kinh đô.
Kinh đô Hoa Lư thời Đinh - Tiền Lê được xây dựng khá đàng hoàng. “Hoa Lư là
một vùng đất hẹp xung quanh có nhiều đồi núi. Nhà Đinh cho xây tường thành nối các
đồi thành khu vực: thành nội và thành ngoại. Trong thành có cung điện của nhà vua và
nhiều nhà ở của các quan lại, binh sĩ; có chùa Nhất Trụ, tháp Báo Thiên… nhà cửa các
cột dưới dát vàng, bạc”.
Chính quyền trung ương thời Tiền Lê vẫn gồm 3 bộ phận: Văn, Võ, Tăng quan và
Đạo sĩ giúp vua trị nước. Năm 982, Lê Hoàn phong Dương Thái hậu làm Đại thắng minh
hoàng hậu cùng 4 hoàng hậu khác. Những người có công phò tá nhà vua lên ngôi và
chống ngoại xâm đều được Lê Hoàn phong thưởng. Phạm Cự Lạng, Hồng Hiếu được trao

chức Thái uý. Từ Mục được ban tước hầu giữ chức Tổng quản coi việc quân dân (vai trò
giống Tể tướng). Ngoài ra trong triều còn có các chức Đô hộ phủ sĩ sư, Tả hữu Điện tiền
chỉ huy sứ, Chi hậu…
9


Tăng quan có các chức: Đại sư (Ngô Chân Lưu), Tăng lục (Trương Ma Ni) Sùng
chân uy nghi (Đặng Huyền Quang)… Họ giữ vai trò tham mưu giúp vua trị nước vừa là
người cùng vua bàn kế đánh giặc và giao tiếp sứ giả khi cần.
Hệ thống hành chính và chính quyền địa phương thời Đinh - Tiền Lê được tổ
chức đầy đủ. Thời Đinh cả nước chia làm 10 đạo. Lê Hoàn đổi đạo thành lộ, dưới lộ có
phủ, châu, giáp - xã. Các lộ, châu đều có Quản giáp, Thứ sử, Trấn tướng trông coi… Hầu
hết quan lại đều là võ tướng. Để bảo vệ quyền lực dòng họ thời Tiền Lê, vua cử các
hoàng tử đi trấn trị các nơi và phong tước vương cho họ. Các vương triều Đinh - Tiền Lê
đều chú trọng xây dựng quân đội mạnh.
b. Quân đội
Gồm hai bộ phận, quân ở kinh thành còn gọi là quân Điện tiền và quân ở các địa
phương gồm quân của các đạo.
c. Luật pháp
Dưới thời Đinh - Tiền Lê chưa có luật pháp thành văn. Đinh Tiên Hoàng cho đặt
vạc lớn ở sân điện hoặc nuôi hổ trong chuồng và quy định người nào làm trái phép bị
ném vào vạc dầu hoặc đem cho hổ ăn thịt. Quan chức địa phươngthì vẫn xử kiện theo luật
tập quán.
Nhận xét: Nhà nước Đinh - Tiền Lê tuy còn rất đơn giản, chưa có quy cũ rõ ràng,
còn mang nặng tính chất quân sự song cũng đã là một nhà nước Quân chủ trung ương tập
quyền, đặt cơ sở cho chế độ Quân chủ chuyên chế sau này.
d. Ngoại giao
+ Đối với Trung Quốc
Thời Đinh, sau khi thống nhất đất nước, năm 970 Đinh Tiên Hoàng sai sứ sang
giao hảo với nhà Tống. Năm 973 vua Tống phong Đinh Tiên Hoàng là Giao Chỉ Quận

vương và phong cho Đinh Liễn làm Tỉnh hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ. Năm 975
vua Tống lại sai sứ sang phong cho Đinh LIễn làm Giao Chỉ Quận vương. Quan hệ giữa
hai triều Đinh và Tống hoà hiếu tốt đẹp trong nhiều năm. Nhưng từ năm 979 nhân triều
Đinh lâm vào cảnh rối loạn, nhà Tống biết được tình hình nước ta nên đã theo đề nghị
của viên Tri châu Ung là Hầu Nhân Bảo xua quân sang xâm lược nước ta. Năm 981 cuộc
xâm lược của nhà Tống bị quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn đánh bại. Quan
hệ Đại Cồ Việt - Tống căng thẳng một thời gian ngắn. Năm 982 Lê Hoàn chủ động cho
sứ giả sang Trung Quốc đặt lại quan hệ hoà hiếu . Năm 983 nhà Tống cho sứ sang giao
hảo và phong tước cho Lê Hoàn. Năm 986 nhà Tống cử sứ bộ sang phong cho Lê Hoàn
chức Khu tứ quang lộc đại phu kiêm hiệu Thái uý An Nam Đô hộ Tỉnh hải quân Tiết độ
10


sứ. Để tỏ thiện ý, Lê Hoàn đã trao trả cho nhà Tống hai viên tướng là Quách Quân Biện
và Triệu Phụng Huân bị bắt trong cuộc xâm lược trước đó. Từ đó quan hệ bang giao giữa
Đại Cồ Việt với nhà Tống nhìn chung tốt đẹp. Lê Hoàn thi hành chính sách đối ngoại
mềm dẻo mà kiên quyệt nhằm nâng cao vị thế của đất nước. Năm 988 nhà Tống phong
cho Lê Hoàn tước “Khai quốc công”. Năm 990, vua Tống lại sai sứ sang phong cho Lê
Hoàn hai chữ “Đặc tiến”. Nhà vua cho bày quân thuỷ, chiến cụ ra khoe, gióng trống, hò
reo ra ngoài thành đón sứ giả. Nhà vua nhận chiếu đặt lên điện không lạy mà lấy cớ là
đau chân do ngã ngựa khi đi đánh giặc Man. Trong bữa tiệc thiết đãi sứ giả Tống Cảo, Lê
Hoàn nói: “Sau này nếu có quốc thư thì nên giao nhận ở đầu địa giới, khỏi phiền sứ giả
đến kinh đô”. Trong quan hệ với nhà Tống, Lê Hoàn nhiều lần tỏ thái độ bình đẳng, song
các vua Tống lẫn sứ giả đều rất nể trọng Lê Hoàn. Sử sách nhà Tống gọi Lê Hoàn là
người “Vác núi, lấp biển”. Có lần vua Tống cho sứ sang phàn nàn việc quân Đại Cồ Việt
sang cướp phá ở trấn Như Hồng thì Lê Hoàn nói đại ý là: “Việc trấn Như Hồng bị cướp
phá, hẵn vua Tống biết không phải là quân của Đại Cồ Việt. Bởi vì nếu Đại Cồ Việt mà
có ý làm phản thì không chỉ đánh vào trấn Như Hồng mà còn đánh vào tới Trung
Nguyên”.
Năm 993, nhà Tống lại sai sứ sang phong Lê Hoàn làm Giao Chỉ quận vương,

năm 997, lại gia phong cho Lê Hoàn là “Nam Bình vương”.
Sau khi Lê Hoàn mất, các con tranh chấp ngôi vua nội bộ lục đục. Các viên quan
địa phương của Trung Quốc dò biết dâng sớ xin đem quân xâm lược Đại Cồ Việt đều bị
vua Tống khước từ. Lê Long Đỉnh nối ngôi vẫn được nhà Tống phong làm Giao chỉ quận
vương và đúc ấn ban cho.
+ Đối với Chăm pa ở phía Nam.
Quan hệ giữa Đại Cồ Việt với Chăm pa nhìn chung khá căng thẳng, mặc dù các
triều đại Đinh - Tiền Lê đều có thiện ý trong quan hệ. Do vua Chăm thần phục nhà Tống
nên đeo đuổi chính sách thù địch với Đại Cồ Việt.
Năm 979 nhân hai cha con vua Đinh bị sát hại, quân Chăm theo sự dẫn đường của
tên bán nước Ngô Nhật Khánh với gần hơn 1000 chiếc thuyền chiến chia làm 2 mũi vượt
biển định tiến vào Hoa Lư song chẳng may gặp bão, thuyền lật, quân lính bị chết đuối,
trong đó có cả Ngô Nhật Khánh, cuộc tấn công xâm lược không thành.
Sau khi kháng chiến chống Tống thắng lợi năm 981, Lê Hoàn đã sai sứ sang
Chămpa đặt quan hệ hoà hiếu song bị Chămpa khước từ, bắt giam sứ giả. Trước hành
động ngang ngược đó của vua Chăm, năm 982, Lê Hoàn tự làm tướng đem quân trừng
phạt Chămpa. Quân đội nhà Tiền Lê đánh vào đất Chămpa, quân Chăm đại bại, Lê Hoàn
11


chiếm kinh đô cho quân san phẳng kinh thành thu nhiều của cải, bắt cung nữ, kỹ nữ cùng
nhiều tù binh. Sau khi đại bại, Chămpa phải thần phục và triều cống Đại Cồ Việt. Tuy
nhiên, mỗi khi nội tình Đại Cồ Việt lục đục, suy yếu thì Chămpa lại phái quân sang xâm
lấn. Mặt khác Chămpa còn dựa vào uy thế của nhà Tống để gây sự với Đại Cồ Việt khi
có điều kiện.
1.2.3.2 Tình hình kinh tế thời Đinh - Tiền Lê
a. Nông nghiệp
Sau khi đánh bại các sứ quân thống nhất đất nước, giang sơn trở lại yên bình, nhân
dân ta đã chăm lo khôi phục và phát triển nông nghiệp; công cuộc khẩn hoang lập làng
được tiếp tục, cuộc sống ngày càng ổn định.

Nhà Tiền Lê cũng thi hành chính sách trọng nông, chăm lo phát triển nông nghiệp.
Hàng năm vua Lê thường đi cày ruộng Tịch điền để khuyến khích nhân dân sản xuất. Mặt
khác, nhà nước cũng cho đào nhiều kênh ngòi để lấy nước tưới ruộng (năm 1003 Lê
Hoàn cho quân dân nạo vét kênh Đa Cái ở Nghệ An).
Về ruộng đất: Nhà vua nắm quyền sở hữu tối cao về ruộng đất trên cả nước. Các vua
Đinh. Tiền Lê đã tiến hành phong cấp đất đai cho các hoàng tử, quý tộc và quan lại.
Nhà Đinh phong cho Trần Lãm thực ấp ở Sơn Nam Lạc Đạo; phong cho hào trưởng
Lê Lương thái ấp ở châu Ái. Nhà Tiền Lê củng phong đất cho các hoàng tử,
giao cho họ quyền cai quản và thu thế địa phương mà họ trấn trị.
Nhờ sự chăm lo của nhà nước và tinh thần lao động cần cù sáng tạo của nhân dân
nên nền kinh tế dần dần được phục hồi và phát triển, nhiều năm được mùa, đời sống nhân
dân ổn định.
b. Thủ công và thương nghiệp
- Thủ công nghiệp.
Thời Đinh- Tiền Lê tiếp tục phát triển trên cơ sở các ngành nghề thủ công truyền
thống. Thủ công nghiệp gồm 2 bộ phận: thủ công nghiệp nhà nước và thủ công nghiệp
nhân dân.
Nhà Đinh - Tiền Lê đã cho xây dựng một số Quan xưởng(xưởng thủ công của nhà
nước) để đúc tiền, làm đồ dùng cho vua quan, chế tạo vũ khí và xây dựng cung điện nhà
cửa, chùa chiền…
Các nghề thủ công dân gian cổ truyền như: kéo tơ, dệt lụa, làm gốm, rèn sắt, đúc
đồng, làm giấy, phát triển nghề đóng thuyền, làm đồ vàng bạc xuất hiện nhiều nơi với
trình độ kỹ thuật ngày càng cao.
- Thương nghiệp: Nông nghiệp, thủ công nghiệp phát triển đã thúc đẩy các hoạt
12


động thương nghiệp trở nên nhộn nhịp.
Tiền tệ ra đời đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc buôn bán, trao đổi trong nước
và với nước ngoài. Nhà Đinh cho đúc tiền “Thái Bình”, nhà Lê lại cho đúc tiền “Thiên

Phúc”. Ngoài các trung tâm lớn như: Đại La, Long Biên, Luy Lâu, Hoa Lư,… việc trao
đổi, buôn bán còn diễn ra ở các chợ địa phương.
Từ năm 976, việc buôn bán với nước ngoài của Đại Cồ Việt được bắt đầu diễn ra.
Thuyền buôn các nước láng giềng đã đến xin buôn bán. Nhu cầu của việc trao đổi, lưu
thông hàng hoá đòi hỏi mở mang giao thông, thuỷ bộ. Đường sá được sửa, đắp nối kinh
đô với các vùng phía Bắc và phía Nam. Từ năm 982 - 1009, Lê Hoàn và Lê Long Đỉnh
đã cho đào nhiều kênh ở Thanh Hoá, Nghệ An nối liền các sông và lấy nước tưới ruộng.
Năm 992, Lê Hoàn sai Ngô Tử An đem 3 vạn người đắp đường từ cửa Nam Giới (Hà
Tĩnh) vào đến Địa Lý (Quảng Bình).
Sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp, thủ công và thương nghiệp đã góp
phần củng cố thêm cơ sở cho chính quyền trung ương, nâng cao đời sống của nhân dân,
để đất nước có đủ tiềm lực trong việc xây dựng đất nước độc lập tự chủ và chống ngoại
xâm thắng lợi.
1.2.3.3 Cuộc kháng chiến chống quân xâm lƣợc Tống ở thế kỷ X
Năm 979 sau khi cha con Đinh Tiên Hoàng bị giết hại, vua mới lên ngôi còn nhỏ
tuổi, triều đình Hoa Lư rối loạn. Viên quan nhà Tống ở Ung Châu dò biết được đã tâu về
triều đề nghị vua Tống cho đưa quân sang xâm lược Đại Cồ Việt.
+ Diễn biến
Mùa thu năm 980, vua Tống sai Hầu Nhân Bảo làm Giao châu lộ thuỷ lục kế độ
chuyển vận sứ Tổng chỉ huy. Tôn Toàn Hưng làm phó tướng cùng các tướng Lưu Trừng,
Giả thực, Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân họp quân tiến vào nước ta theo 2 đường
thuỷ, bộ.
Trước tình hình đó, được sự tôn phò của triều đình và Dương Thái hậu, Lê Hoàn
lên ngôi vua tổ chức kháng chiến. Lê Hoàn sai quân đóng cọc nhọn ở cửa sông Bạch
Đằng theo kế của Ngô Quyền để chặn quân thuỷ. Ngoài ra Lê Hoàn cũng đặt một số đồn
quân đóng ở vùng biên giới Đông Bắc. Phía đường bộ Lê Hoàn cũng đã chuẩn bị chiến
trường để đợi giặc.
Tháng 4 năm 981 quân Tống theo 2 đường thuỷ, bộ tiến vào nước ta. Quân bộ do
Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ chỉ huy tiến vào theo đường Lạng Sơn.
Quân thuỷ do Lưu Trừng, Giả Thực chỉ huy tiến về phía sông Bạch Đằng. Lê Hoàn cho

quân chặn đường thuỷ, rồi nhữ địch vào trận địa mai phục đánh cho tan tành.
13


Hầu Nhân Bảo chỉ huy cánh quân tiến vào nước ta theo sông Thương, vừa đến Chi
Lăng chưa kịp đề phòng Hầu Nhân Bảo bị Lê Hoàn cho quân trá hàng rồi lợi dụng sơ sở
bất ngờ đánh úp, Hầu Nhân Bảo bị giết tại trận. Quân Tống đại bại, Trần Khâm Tộ nghe
tin rút chạy về nước dọc đường bị Lê Hoàn truy kích, quá nữa số quân của Trần Khâm Tộ
bị giết, các tướng Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân bị bắt. Tôn Toàn Hưng, Lưu
Trừng, Giả Thực chạy thoát về nước đều bị vua Tống chém hoặc tống ngục đến chết.
+ Kết quả và ý nghĩa lịch sử.
Cuộc kháng chiến của quân và dân ta giành thắng lợi hoàn toàn, nền độc lập
được bảo vệ và củng cố vững chắc thêm.
Chiến thắng này đã giáng một đòn mạnh vào tư tưởng bành trướng của nhà Tống;
đồng thời lịch sử cũng ghi thêm một trang đấu tranh anh dũng tuyệt vời của quân và dân
Đại Cồ Việt dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn.
1.2.3.4 Nhà Tiền Lê suy vong
Năm 1005 Lê Hoàn mất, các hoàng tử đưa quân đánh nhau giành ngôi vua. Sau 3
tháng nội chiến, Thái tử Long Việt lên ngôi, chỉ được 3 ngày thì bị em là Lê Long Đỉnh
giết và cướp ngôi. Lê Long Đỉnh làm vua được 5 năm (1005 - 1009). Dưới thời Long
Đỉnh trị vì, đất nước cũng có sự phát triển nhất định ở một số mặt như mở mang giao
thông với việc hoàn chỉnh các con đường thuỷ, bộ từ Hoa Lư qua châu Ái, châu Hoan;
đào sông đắp đường từ cửa sông Chi Long (Ngọc Sơn - Thanh Hoá) đến sông Vũ Lũng.
Vua sai Phòng át sứ Hồ Thủ Ích đem 5000 quân vào sửa đắp con đường nối liền Hà Tĩnh
với Quảng Bình (con đường này được Ngô Tử An cùng 3 vạn người đắp từ năm 992 thời
Lê Hoàn).
Ngoài ra, Long Đỉnh còn mang quân đi đánh dẹp các cuộc nổi dậy của các thế lực
địa phương ở những vùng xa. Quan hệ giao hảo với nhà Tống dưới thời Long Đỉnh tiếp
tục được mở mang. Vua Tống phong cho Long Đỉnh làm “Giao Chỉ quận vương”. năm
1009, Lê Long Đỉnh chính thức đặt quan hệ thông thương với chân Liêm và Trấn Như

Hồng (nam Quảng Tây và Quảng Đông).
Dù làm được một số việc, song Long Đỉnh là một ông vua bạo ngược sớm đi vào
con đường ăn chơi sa đoạ, sau mắc bệnh trĩ phải nằm hội chầu với các quan nên thường
được gọi là “Lê Ngoạ Triều”. Vua có kiểu hành hình tù binh hay tội nhân rất tàn nhẫn
như quấn cỏ quanh người rồi lấy lửa đốt, dùng dao cùn róc thịt cho chết, thả người
xuống biển cho chết dần, bắt người trèo lên cây cao rồi chặt cây đổ cho chết, róc mía trên
đầu sư cho chảy máu… Lúc coi chầu thì vua thích nghe bọn hoạn quan pha trò hơn là lời
tâu bày của triều thần. Sự bạo ngược của nhà vua khiến lòng người chán ghét. năm 1009
14


Lê Long Đỉnh chết con còn quá nhỏ, triều đình đã tôn Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ
Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Triều Tiền Lê chấm dứt, triều Lý thành lập.
Câu hỏi ôn tập chƣơng
1. Trình bày nội dung và đánh giá cải cách của Khúc Hạo.
2. Trình bày diển biến của trận Bạch Đằng chống quân Nam Hán năm 938. ý nghĩa của
chiến thắng này.
3. Cuộc k/chiến chống Tống năm 981 do Lê Hoàn lãnh đạo? ý nghĩa lịch sử?
4. Tình hình kinh tế nước ta thời Đinh- Tiền Lê.
5. Chính sách nội trị ngoại giao thời Đinh - Tiền Lê.

15


CHƢƠNG 2
ĐẠI VIỆT THỜI LÝ, TRẦN, HỒ (TK XI - CUỐI TK XIV)
2.1 Nhà Lý (1010 - 1225)
5.1.1 Nhà Lý thành lập

Tháng 11 năm 1009, Lê Long Đỉnh chết, triều thần oán ghét nhà Tiền Lê, sư Vạn

Hạnh cùng quần thần đứng đầu là Chi hậu Đào Cam Mộc đã vận động, suy tôn Lý Công
Uẩn lên ngôi vua lập ra vương triều Lý.
Lý Công Uẩn là người trung nghĩa có học vấn, đạo đức cao lại nhân từ, khoan thứ,
hoà nhã, tinh tế nên được các triều thần nhà Lê rất quý trọng. Lý Công Uẩn lên ngôi,
xuống lệnh đại xá thiên hạ, lấy năm 1010 làm năm Thuận Thiên thứ nhất. Nhà Lý thành
lập, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam - thời kỳ xây dựng
một nhà nước Quân chủ tập quyền chính quy độc lập, tự chủ.
5.1.2 Kinh đô ở Thăng Long

Sau khi lên ngôi, nhận thấy Hoa Lư đất hẹp, giao thông cách trở, kinh tế nông,
công thương còn thấp kém không đủ làm chỗ ở của đế vương nên Lý Công Uẩn muốn
dời đi chỗ khác. Sau khi đi quan sát, tìm hiểu nhiều nơi Lý Công Uẩn đã chọn thành Đại
La làm địa điểm để xây dựng kinh đô mới. Đầu năm 1010 Lý Công Uẩn viết “Chiếu dời
đô”. Bài chiếu có đoạn: “…Chỉ vì muốn đóng đô ở trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính
kế muôn đời cho con cháu, trên tuân mệnh trời, dưới theo ý dân… cho nên vận nước lâu
dài phong tục, phồn thịnh… thành Đại La, đô cũ của Cao vương ở giữa khu vực trời đất
được cái thể rồng cuộn, hổ ngồi, chính giữa Nam - Bắc - Đông - Tây tiện nghi núi sông
sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, cư dân không
khổ thấp, trũng tối tăm… Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa thực là chỗ tụ hội quan
yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời. Trẫm muốn nhân địa
lợi ấy mà định nơi ở”.
Tháng 8/1010 Lý Công Uẩn cho dời đô từ Hoa Lư về Đại La. Khi tạm đỗ thuyền
dưới chân thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự nên vua đổi tên Đại La thành Thăng
Long
Việc Lý Công Uẩn dời đô đã chứng tỏ được tầm nhìn chiến lược của ông về tương
lai của nước Việt, vừa chứng tỏ sự trưởng thành của dân tộc về mọi mặt. Từ đây Thăng
Long trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của đất nước.
Kinh thành Thăng Long thời Lý gồm 2 phần là Hoàng thành và Kinh thành, có 2
vòng thành bao bọc.Vòng ngoài là La Thành của Cao Biền được giữ nguyên. Qua dấu vết
còn lại đến nay của La Thành người ta có thể phác hoạ như sau: Phía Đông là đoạn đê

16


sông Hồng lên tới hồ Tây, tiếp là đoạn đường Hoàng Hoa Thám rồi chạy theo bờ tả ngạn
sông Tô Lịch từ Bưởi đến Ô Chợ Dừa, Kim Liên rồi thẳng đường Đại Cồ Việt và Trần
Khát Chân cho đến Ô Đồng Mác lại gặp sông Hồng, có độ dài 30km. La Thành thời Lý là
vòng thành khép kín chủ yếu theo địa hình tự nhiên, thành bằng đất ngoài thành là sông
Hồng, sông Tô Lịch và nhiều đầm hồ.
Vòng thành Trong được xây đắp bắt đầu từ khi Lý Công Uẩn định đô kéo dài mấy
chục năm sau. Thành chủ yếu được đắp bằng đất ngoài có hào bao quanh. Thành mở 4
cửa lớn là Tường Phù ở phiá Đông, Quảng Phúc ở phía Tây, Đại Hưng ở phía Nam, Diệu
Đức ở phía Bắc. Về cơ bản thành nằm trên địa bàn quận Ba Đình ngày nay. Nằm phía
trong thành Trong là Hoàng thành - nơi làm việc của triều đình và nơi ở của vua.
Trong Kinh thành, bao bọc bên ngoài Hoàng thành là khu vực các phố phường của
nhân dân và quan lại ở. Trong Hoàng thành lại có một khu vực gọi là Cấm thành, có
tường xây kiên cố, lính gác nghiêm ngặt là nơi vua cùng các hoàng hậu, cung tần ở. Vị trí
trung tâm và quan trọng nhất là điện Càn Nguyên, nơi vua và triều thần hội họp, bàn việc
chính sự.
Đặc biệt kiến trúc Hoàng thành được tiến hành theo một quy hoạch lớn, hoành tráng.
Nơi đây xây dựng hàng loạt cung điện lỗng lẫy. Chỗ làm việc của vua có điện Càn
Nguyên, điện Tập Hiền, điện Giảng Võ. Chỗ vua nghĩ ngơi có điện Long An, điện Long
Thụy. Nơi phi tần ở thì có cung Thuý Hoá, cung Long Thuỵ.
Nhà Lý là một triều đại sùng Phật, vì thế chùa tháp được xây dựng khá nhiều. Đó là
các chùa Hưng Thiên, Vạn Tuế, Diên Hựu (Một Cột)… Chùa Thiên phật được xây dựng
rất rộng, lớn đủ bày 1000 pho tượng và có chỗ để mở hội. Năm 1054 nhà Lý đổi tên nước
thành Đại Việt.

2.2 Nhà Trần (1225 - 1399)
Nhà Lý tồn tại 215 năm (từ 1010 đến 1225), truyền được 8 đời vua. Đầu thế kỷ XIII
nhà Lý suy yếu, đất nước rối loạn, họ Trần giúp nhà Lý dựng lại triều chính, đàn áp các

thế lực chống đối rồi thâu tóm mọi quyền hành và cuối cùng bức Lý Chiêu Hoàng
nhường ngôi cho Trần Cảnh. Nhà Trần thành lập và tồn tại 175 năm truyền được 12 đời
vua. Dưới thời Lý - Trần quốc gia phong kiến Đại Việt phát triển mạnh mẽ về mọi mặt,
bộ máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền được xây dựng và hoàn thiện dần mang
tính chính quy; khối đoàn kết dân tộc được củng cố. Hai nhà Lý, Trần đã đánh bại 4 cuộc
chiến tranh xâm lược của các triều đại phong kiến phương Bắc (1 lần chống Tống, 3 lần
chống Mông - Nguyên) đó là chưa kể các cuộc chiến tranh chống Chămpa ở phía Nam.
17


Với thắng lợi vẻ vang trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, nền độc lập được
bảo vệ và củng cố, cương giới ở phía Bắc được giữ vững, phía Nam được mở rộng.

2.2.1 Xây dựng và củng cố nhà nƣớc quân chủ trung ƣơng tập quyền
(quân chủ quí tộc) thời Lý - Trần
2.2.1.1 Tổ chức chính quyền
a. Chính quyền trung ương
Nhà nước Lý - Trần được tổ chức theo mô hình nhà nước Quân chủ trung ương
tập quyền (còn được gọi là nhà nước quân chủ quý tộc).
Tính chất quân chủ tập quyền được thể hiện rõ, ngay từ khi mới lên ngôi Lý Thái
Tổ đã tiến hành xây dựng một bộ máy chính quyền nhằm tập trung quyền hành vào tay
hoàng đế. Vua nắm cả vương quyền (sở hữu toàn bộ thần dân và ruộng đất, định đoạt mọi
vấn đề quan trọng) lẫn thần quyền (vua xưng là thiên tử - con trời chỉ có vua mới được
quyền làm lễ tế trời). Vua chỉ đứng dưới Ngọc Hoàng thượng đế - còn đứng trên tất cả
các thần linh trong nước, có quyền phong thần và lập miếu bắt nhân dân phải thờ cúng.
Ngôi vua được thực hiện theo chế độ thế tập - cha truyền con nối.
Giúp vua trị nước có bộ máy quan lại gồm nhiều cấp bậc. Dưới vua có các chức:
đứng đầu bách quan là Thái sư, Thái phó, Thái bảo (tam thái) dưới là Thái uý nắm giữ
việc chính trị, quân sự trong nước về sau chức này là Tể tướng. Tiếp đến là các chức Tư
không, Thiếu phó, Thiếu bảo, Thiếu uý (phụ trách cấm quân), Nội điện Đô tri sự, Ngoại

điện Đô tri sự, Kiểm hiệu bình chương sự. Để giúp vua quản lý mọi mặt của đất nước còn
có các cơ quan chuyên trách như Trung thư sảnh, Khu mật sứ, Ngự sử đài, Hành khiển,
Thượng thư sảnh, Nội thị sảnh, Đình uý, Hàn lâm học sĩ.
Thời Lý chế độ lương bổng chưa được đặt định. Riêng quan coi hình ngục từ năm
1067 được cấp bỗng hàng năm theo chế độ. Các quan Đô hộ phủ sĩ sư mỗi người mỗi
năm được cấp 50 quan tiền, 100 bó lúa và cả muối mọi thứ. Với Ngục lại mỗi người 20
quan tiền và 100 bó lúa để nuôi đức liên khiết.
Các thân vương, công thần được cấp Thái ấp các quan võ cao cấp được cấp thực
hộ. Đây là biểu hiện của tính chất Quân chủ quý tộc. Mặt khác con bình dân nếu đỗ đạt
vẫn không được bổ dụng làm quan. Ví dụ: Nguyễn Phi Khanh thời Trần đỗ Thái học sinh
tương đương Tiến sĩ nhưng nhà Trần không sử dụng.
+ Quan chế Thời Lý quan lại được tuyển lựa chủ yếu theo chế độ Nhiệm tử và
tuyển cử. (Chế độ Nniệm tử là quan lại nếu được Tập ấm thì con mới được làm quan). Về
sau có thêm chế độ khoa cử để tuyển lựa quan lại song không thật phổ biến. Năm 1075,
nhà Lý cho mở khoa thi Minh kinh bác học và Nho học tam trường. Thời nhà Trần tuy
18


vẫn duy trì hình thức tuyển lựa qua khoa cử (tuy thế những người xuất thân bình dân vẫn
không được bổ dụng). Tất cả các chức vụ trong triều đều giao cho vương hầu, quý tộc
nắm giữ. Nhà Trần còn đặt ra quy định “nội tộc hôn” để bảo vệ quyền lợi của dòng họ
(con cái họ Trần chỉ được lấy người trong họ). Năm 1097, nhà Lý cho biên soạn và ban
hành Hội điển quy định phép tổ chức bộ máy quan lại. Các quan có nhiều công lao động
ban Thực ấp và Thực phong Nhà nước cho phép quan lại cấp cao, quý tộc quyền thu tô
thuế (phong đất không phong người). Thực ấp chỉ có danh không có thật nhằm khẳng
định công lao của người được phong. Sang thời Trần tổ chức bộ máy quan lại ở trung
ương được hoàn thiện hơn. Nhà Trần đặt ra chế độ Thái thượng hoàng, các vua sớm
truyền ngôi cho con trai trưởng (Hoàng thái tử) và cùng với vua (con) trông coi chính sự.
Trong triều đình đứng đầu các quan là các chức tam Thái (Thái sư, Thái phó, Thái bảo).
Chức Thái uý đổi thành Tả hữu Tướng quốc Bình chương sự. Giúp việc cho Tướng quốc

có thêm các chức Hành khiển nằm trong cơ quan Mật viện, bên võ có cái chức: Phiêu kỵ
tướng quân, Đại tướng, Đô tướng, Tướng quân; Lúc có chiến tranh đặt thêm chức Tiết
chế tổng chỉ huy toàn quân.
Nhìn chung bộ máy quan lại ở trung ương thời Lý - Trần cấu trúc theo 3 cấp: trung
ương, hành chính trung gian, hành chính cơ sở, thời Trần có tính quy cũ hơn, bộ máy
được hoàn thiện thêm một bước.
b. Chính quyền địa phương
Năm 1010, Lý Thái Tổ đổi 10 đạo thời Đinh - Lê thành 24 lộ và phủ. Một số châu,
trại đổi làm phủ, các vùng xa gọi là châu; dưới lộ phủ có huyện, hương. Ở các châu đặt
các chức Tri châu, Thông phán, Tổng quản để trông coi. Các châu biên giới đặt chức
Châu mục đứng đầu, ở phủ có các chức Tri phủ, Tri phủ sự, Phán phủ sự phụ trách.
Nhà Trần đổi 24 lộ và phủ thời Lý làm 12 Lộ (1442). Dưới lộ là phủ, châu, huyện,
xã. Đứng đầu lộ là An phủ sứ, ở các phủ là Tri phủ, Trấn phủ rồi đến các viên chức
Thông phán, Thiêm phán, Tào, Vận lệnh… Châu do Chuyển vận sứ, Thông phán quản lý,
ở huyện do Lệnh uý, Chủ bạ coi giữ. Chế độ Xã quan có các viên Đại tư xã (từ ngũ phẩm
trở lên - xã to) và Tiểu tư xã (từ lục phẩm trở xuống - xã nhỏ); dưới đại tiểu tư xã có chức
Xã trưởng, Xã giám giúp việc sổ sách.
Nhà Trần còn đặt thêm cơ quan phụ trách về dòng họ nhà vua gọi là Tông chính
phủ. Năm 1230, nhà Trần ban hành bộ “Thông chế ” gồm 20 quyển lại cho soạn sách
“Quốc triền thường lễ ” ghi chép công việc lễ nghi của triều đình. Nhà Trần thực hiện chế
độ ban phong thái ấp cho vương hầu, tôn thất; họ được quyền lập phủ đệ riêng.
19


c. Quân đội
Nhà nước Lý - Trần đều chủ trương xây dựng lực lượng quốc phòng vững mạnh,
tổ chức quân đội có quy cũ, chặt chẽ, thi hành chính sách “Ngụ binh ư nông”. Thời Lý
quân đội gồm có: Quân triều đình (Cấm quân còn gọi là Thiên tử quân) bảo vệ triều
đình.ở địa phương có Lộ quân hay Sương quân lấy các hoàng nam (đinh nam từ 18 tuổi
trở lên) ở các lộ, phủ. Trong làng xã còn có dân binh, hương binh. Quân đội triều đình có

kỹ luật nghiêm minh, huấn luyện chu đáo. Khu Giảng Võ đường phía Tây kinh thành
Thăng Long là nơi huấn luyện giảng dạy về quân sự cho tướng lĩnh và binh lính. Trần
Quốc Tuấn đã biên soạn 2 cuốn sách giáo khoa làm tài liệu học tập cho tướng lĩnh(Binh
thư yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư ).
Trong thời chiến nhà Trần con cho phép các vương hầu được mộ dân làm gia
thuộc gia đồng lập thành đội quân riêng gọi là quân đội Vương hầu. Đội quân này cùng
các đội dân binh của các dân tộc miền núi đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của các
cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phương Bắc.
d. Luật pháp
Thời Đinh - Lê, nhà nước chưa có luật pháp thành văn. Thời Lý, năm 1040 Lý
Thái Tông xuống chiếu: “Từ nay về sau phàm nhân dân trong nước, cứ có việc kiện tụng
thì giao cho Thái tử xét xử trước khi trình lên vua quyết định”. Năm 1042 nhà Lý sai
Trung thư san định luật lệnh chấn chỉnh cho thích dụng với thời thế, làm thành sách gọi
là “Hình thư”. Đây là bộ luật thành văn được biết đến đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
Năm 1230, nhà Trần cho ban hành bộ “Thông chế ” gồm 20 quyển lại cho soạn sách
Quốc triều thường lễ nhờ đó việc quản lý, cai trị đất nước thời Lý - Trần có quy chế rõ
ràng đây là một bước tiến so với thời Khúc - Ngô - Đinh -Tiền Lê.
Năm 1241, nhà Trần cho biên soạn bộ Hoàng triều đại điển và khảo đính bộ
Hình luật để ban hành. Pháp luật thời Lý - Trần mang tính chất đẳng cấp phong kiến, bảo
vệ hoàng cung, trừng trị nặng tội mưu phản, cho tầng lớp quý tộc được chuộc tội bằng
tiền. Mặt khác luật pháp cũng bảo vệ trật tự xã hội, chống hà lạm thuế má, giải quyết các
vấn đề tranh chấp, cầm chuộc, mua bán ruộng đất, đảm bảo sức kéo cho nông nghiệp. Ở
các làng xã vẫn tồn tại luật tục (tập quán pháp) được mọi thành viên tuân theo.
Nét đặc sắc của pháp luật thời Lý - Trần là tinh thần pháp trị ngày càng được đề cao
nhưng cái gốc của đạo trị nước là nhân đức vẫn được chú trọng trong thực thi pháp luật.
2.2.1.2 Chính sách đối với các dân tộc thiểu số miền núi
Mặc dù nhà nước Lý - Trần được xây dựng theo chế độ Quân chủ chuyên chế trung
ương tập quyền, nhưng ở các vùng xa nhất là ở miền núi, ảnh hưởng của chính quyền vẫn
20



chưa sâu đậm. Chính quyền trên thực tế vẫn nằm trong tay tầng lớp thống trị người địa
phương đó là các tù trưởng của các sách, động theo chế độ cha truyền con nối. Do đó, các
nhà Lý - Trần đều thi hành chính sách “vừa cương, vừa nhu” một mặt gả công chúa cho
các tù trưởng để kết thân ràng buộc họ. Mặt khác thì sẵn sàng đem quân đàn áp nếu các tù
trưởng có ý chống lại triều đình. Nhờ chính sách vừa mềm dẽo vừa kiên quyết này mà
các vương triều Lý, Trần đã buộc các tù trưởng quy phục. Nhân dân miền núi đã góp
nhiều công sức cho công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
2.2.1.2 Chính sách đối ngoại

a) Đối với các vƣơng triều phong kiến phƣơng Bắc
Các vương triều Lý - Trần đều thi hành chính sách ngoại giao chủ động giao hảo,
do đó quan hệ Lý - Tống trong 60 năm đầu triều Lý nhìn chung tốt đẹp. Hàng năm nhà
Lý đều có cống phẩm, khi vua mới lên ngôi thì xin nhà Tống phong vương. Vua Tống
sẵn sàng nhận Cống phẩm và phong vương cho các vua Lý. Đến đầu thập kỷ 70 của thế
kỷ XI, khi Vương An Thạch lên làm Tể tướng nhà Tống bị bọn quan lại ở vùng Hoa Nam
xúi dục; mặt khác để giải quyết mâu thuẫn nội bộ triều đình và sự uy hiếp của 2 nước
Liêu, Hạ phía Bắc, nhà Tống đã phá vỡ quan hệ hoà hiếu giữa hai nước gây thành cuộc
chiến tranh xâm lược. Do đó quan hệ Lý, Tống căng thẳng trong một thời gian.
Sau khi kháng chiến thắng lợi, nhà Lý vẫn chủ động nối lại giao hảo như cũ. Nhà
Lý vẫn giữ mối quan hệ thân thuộc (nhận tước mệnh, chịu nộp cống) tranh thủ mở rộng
quan hệ buôn bán, nhưng trong vấn đề biên giới giữa 2 nước, nhà Lý cương quyết không
chịu nhường một mảnh đất, một người dân. Xem thêm Trương Hữu Quýnh - Nguyễn
Đức Nghinh: Lịch sử Việt Nam thế kỷ X - 1427, quyển 1 - tập II (sách bồi dưỡng giáo
viên Nxb GD - 1977 - trang 62, 63).
Thời Trần, nhà Trần tiếp tục giữa mối quan hệ hoà hiếu với nhà Tống và cùng kiên
trì thi hành chính sách ngoại giao chủ động tích cực khéo léo nhưng kiến quyết. Khi nhà
Mông-Nguyên lớn mạnh họ âm mưu thôn tính Đại Việt làm bàn đạp tấn công các nước
khác thì quan hệ giữa nhà Trần với nhà Mông- Nguyên trở nên căng thẳng nhà Trần phải
3 lần tổ chức kháng chiến chống xâm lược. Quan hệ Trần- Mông, Nguyên thường xuyên

căng thẳng do nhà Mông- Nguyên luôn áp đặt các điều kiện hết sức ngang ngược và nước
lớn đòi Đại Việt phải thần phục. Tuy nhiên nhà Trần đã kiên quyết khước từ những yêu
sách phi lý và xúc phạm đến chủ quyền của Đại Việt.
b) Đối với Champa
Trong những năm đầu triều Lý, quan hệ Việt - Chăm tương đối tốt đẹp, nhưng do
chính sách giao hảo với các láng giềng của vua Chămpa nhìn chung là hiếu chiến nên
21


quan hệ Việt - Chăm trở nên căng thẳng. Quân Chăm nhiều lần kéo vào quấy phá vùng
biên cảnh của Đại Việt. Do đó, các vua Lý phải huy động quân đội đánh trả. Các năm
1028, 1044, 1069 các vua Lý phải đích thân đưa quân đánh thẳng vào lãnh thổ Chămpa
để trừng trị. Một số vua Chăm bí mật liên kết và dựa vào nhà Tống để phối hợp đánh Đại
Việt, nhà Lý buộc phải đem quân đánh dẹp. Năm 1069, quân Lý dưới sự chỉ huy của Lý
Thường Kiệt đánh thẳng vào kinh đô Chămpa bắt được vua Chăm là Chế Củ, để được tha
tội chết Chế Củ buộc phải cắt đất 3 châu (Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh) cho nhà Lý để
chuộc tội. Sau chiến thắng này, biên giới Việt - Chăm tạm yên một thời gian, các vua
Chăm phải thần phục Đại - Việt. Năm 1003 quân Chăm lại tiến sang đòi lại đất 3 châu đã
mất. Năm 1004 Lý Thường Kiệt đã đánh bại quân Chăm, buộc vua Chăm phải thần phục
và triều cống đều đặn. Từ 1129 đến đầu thế kỷ XIII quan hệ Việt - Chăm có phần phức
tạp hơn vì Chăm phải chịu sức ép của Chân Lạp ở phía Nam. Có năm Chân Lạp lôi kéo
cả người Chăm cùng ra cướp phá Đại Việt ở Nghệ An.
Thời Trần quan hệ Việt - Chăm trước năm 1258 nhìn chung vẫn phức tạp do các
hành động cướp phá của Chămpa. Từ 1258 đến đầu thế kỷ XIV quan hệ Việt - Chăm là
hoà hiếu hữu nghị do 2 nước đã đoàn kết cùng nhau chống quân xâm lược Mông Nguyên. Sau thắng lợi của các cuộc kháng chiến, quan hệ Việt - Chăm phát triển thành
láng giềng tốt và là thông gia. Năm 1304, vua Trần gả công chúa Huyền Trân cho vua
Chăm là Chế Mân. Vua Chăm đã cắt 2 châu Ô và Ri (Quảng Trị và Thừa Thiên) cho Đại
Việt làm sính lễ cưới Huyền Trân. Cuối thời Trần quan hệ Việt - Chăm lại trở nên căng
thẳng do Chăm pa thường xuyên cho quân cướp phá lãnh thổ Đại Việt hòng giành lại
những vùng đã mất. Ở thập kỷ 70 (1371, 1376, 1369) Cham pa 3 lần mang quân đánh ra

tận kinh đô Thăng Long cướp phá rồi rút về. Các vua Trần ở thời kỳ này bất lực và nhà
Trần suy yếu dần. Qua các cuộc chiến tranh với người Chăm và diệt trừ Dương Nhật Lễ,
Hồ Quý Ly nắm được quyền lực về quân sự, tạo uy thế để dần dần nắm chính quyền.

2.3 Xây dựng và phát triển kinh tế độc lập tự chủ
2.3.1 Nông nghiệp
Ruộng đất là bộ phận hết sức quan trọng của sản xuất nông nghiệp, tình hình
ruộng đất thời Lý - Trần diễn biến như thế nào ? Các nhà nước Lý - Trần đã có những
chính sách gì để quản lý ruộng đất và phát triển nông nghiệp ?
a. Tình hình ruộng đất thời Lý - Trần
Thời Lý - Trần về danh nghĩa ruộng đất thuộc quyền sở hữu tối cao của Nhà nước
còn trên thực tế thì bao gồm 2 hình thức sở hữu chính là ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước
22


và ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân.
+ Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước gồm:
- Ruộng quốc khố: Ruộng của Nhà nước, hoa lợi thu về dự trữ trong kho của triều
đình để dùng riêng cho vua và hoàng cung. Ruộng này do phạm nhân cày cấy được gọi là
Cảo điều nhi hay Cảo điền hoành. Đến thời Trần loại ruộng Quốc khố vẫn tồn tại.
- Ruộng Sơn Lăng: Hoa lợi dùng vào việc cúng giỗ, tu bổ lăng tẩm dòng họ nhà vua.
Ruộng của nhà Lý ở châu Cổ Pháp (Từ Sơn - Bắc Ninh). Thời nhà Trần các vua được
chôn ở nhiều nơi nên ruộng Sơn Lăng có ở nhiều nơi như ở hương Tức Mặc (Nam Định),
Thái Đường, Thâm Động (Thái Bình); Yên Sinh (Quảng Ninh). Tổng diện tích ruộng Sơn
Lăng, Quốc Khố nhìn chung không lớn lắm nên không có tác động đáng kể đến sự phát
triển của chế độ ruộng đất nói chung.
- Ruộng Tịch điền: Ruộng Tịch điền thường được duy trì ở những nơi mà các triều
đại trước đã chọn như ở Đọi Sơn, Bàn Hải. Ruộng này để vua làm lễ cày ruộng đầu
xuân; hoa lợi thu về cho nhà vua.
- Ruộng đồn điền: Từ thời Lý, nhà nước cho tù binh và dân bị tù tội đi khai hoang

lập làng, lập đồn điền. Thời Trần nhà nước bắt đầu thực hiện chính sách đồn điền. Năm
1344 nhà Trần cho đặt các chức Chánh, Phó Đồn điền sứ ở ty Khuyến nông chuyên mộ
dân khai hoang.
- Ruộng đất công làng xã: Đây là bộ phận lớn nhất tuy về danh nghĩa là của nhà nước
nhưng trên thực tế do làng xã trực tiếp quản lý và phân phối cho nông dân. Nó có tên
“quan điền”. Nhà nước có quyền lấy để bán, cấp cho quan lại nhưng việc phân chia ruộng
công làng xã là do các làng đảm nhận. Nhà nước đặt ra chế độ tô thuế cho ruộng đất công
làng xã. Dân đinh được chia ruộng này phải chịu mọi nghĩa vụ đối với nhà nước (nộp tô
thuế, đi sưu dịch cho nhà nước), ngoài ra dân đinh còn phải nộp một phần hoa lợi cho
làng xã chi dùng vào các công việc của làng xã. Đây cũng là cơ sở để nhà nước thực hiện
chính sách “ngụ binh ư nông”. Mức tô thuế được nhà Trần quy định vào năm 1242 là:
“nhân đinh có ruộng đất công từ 1- 2 mẫu thì nộp 1 quan tiền, có 3- 4 mẫu thì nộp 2 quan
tiền, từ 5 mẫu trở lên nộp 3 quan tiền, tô ruộng mỗi năm một mẫu nộp 100 thăng thóc”.
- Ruộng Thang Mộc ấp: Là ruộng vua ban cho vương hầu, quý tộc, quan lại cao cấp
để lấy hoa lợi làm quà biếu khi vào kinh dự nghi lễ Nhà nước. Người được phong chỉ thu
tô còn ruộng thuộc quyền sở hữu của nhà nước.
- Ruộng Thái ấp (vẫn là sở hữu nhà nước). Đây là hình thức vua Trần cấp bỗng lộc
cho vương hầu quý tộc. Chủ Thái ấp ngoài quyền thu tô thì còn được quyền chi phối thân
thể những người cày ruộng này biến họ thành nông nô, nô tỳ, lộ ông. Người dân trong
23


Thái ấp bị lệ thuộc vào chủ Thái ấp, bị biến thành, nông nô, nô tỳ. Ruộng Thái ấp nhà
Trần chỉ phong cho người họ Trần (tôn thất). Đây là một biểu hiện của nhà nước Quân
chủ quý tộc. Nhìn chung quy mô thái ấp thời Trần không lớn khoảng 1 - 2 làng. Việc xây
dựng dinh thự của các vương hầu ở thái ấp như là biến nó thành một làng riêng của người
chủ thái ấp. Chủ thái ấp chỉ sở hữu một đời sau khi người chủ chết thì ruộng đất lại thuộc
về làng xã.
+ Ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân.
Thời Trần, bộ phận ruộng đất tư phát triển một bước cao hơn thời Lý. Một số chính

sách, biện pháp của nhà Trần đã thể hiện sự phát triển này: Năm 1247 do sự phát triển
của việc mua bán tranh chấp ruộng đất, nhà Trần quy định rõ việc điềm chỉ lên các giấy
tờ, văn khế mua bán ruộng đất, của cải của tư nhân. Năm 1248, khi tiến hành đắp đê, Nhà
nước phải quy định nếu đắp vào ruộng của dân thì phải bù tiền. Năm 1254 nhà Trần thực
hiện chủ trương bán ruộng quan cho dân làm ruộng tư với giá 1 diện 5 quan.
Cuối thời Trần, hiện tượng mua bán ruộng đất phát triển mạnh, đã có trường hợp
làm giấy tờ giả mạo, Trần Minh Tông đã xuống chiếu trừng phạt những hiện tượng này.
Ruộng đất tư hữu gồm các loại sau:
- Ruộng đất tư hữu của địa chủ: Chế độ sở hữu lớn về ruộng đất ra đời từ những thế
kỷ trước thời Lý - Trần. Sang thời Trần nó phát triển một bước cao hơn. Trong cuộc
kháng chiến chống Mông - Nguyên đời Trần, nhà Trần đã kêu gọi nhà giàu nộp thóc để
cung cấp quân lương. Có phú ông ở Nghệ An ruộng liền trăm mẫu. Các cung tần, mỹ nữ
của vua củng nhờ có ruộng phong cấp mà tích luỹ gia tăng của cải, mua thêm ruộng đất
trở thành địa chủ, nhiều quan lại quý tộc cũng mua thêm nhiều ruộng đất.
- Ruộng đất tư hữu của nông dân: Bộ phận ruộng đất sở hữu nhỏ của nông dân có từ
lâu và chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Việc khẩn hoang mở rộng diện tích
canh tác hay xây dựng làng mới tạo điều kiện phát triển chế độ sở hữu nhỏ này.Một số
văn bia cho biết việc cúng ruộng vào chùa của nông dân từ 1 - 5 sào, đó là sở hữu nhỏ
của nông dân và một số người không phải quan chức. Thời Trần chế độ sở hữu nhỏ của
nông dân trở thành phổ biến.
- Ruộng nhà chùa: Do sự sùng Phật của các triều đại Lý - Trần nhân dân cũng rất tôn
sùng Phật giáo, do đó mà các tầng lớp cư dân đều cúng ruộng cho nhà chùa. Nhà chùa sở
hữu nhiều ruộng đất cũng bóc lột nông dân, do đó cũng trở thành địa chủ lớn. Sư Huyền
Quang được vua Trần Minh Tông bán cho tới 150 mẫu 5 sào làm tự điền. Chùa Thánh Ân
ở Gia Lương (Bắc Ninh) được các vua Trần cúng tặng nhiều ruộng đất và nô tỳ (khoảng
2760 mẫu với hàng ngàn nô tỳ). Thời Trần ruộng nhà Chùa chiếm một diện tích đáng kể,
24


góp phần quan trọng vào sự phát triển của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất nói chung

và sự phân hoá hàng ngũ nông dân. Tuy nhiên sự phát triển của chùa chiền đã dẫn đến
việc thu hút đông đảo dân đinh trốn việc quan đi ở chùa, theo Lê Văn Hưu thì “thời Trần
dân quá nữa là sư sải”.
b. Các chính sách khuyến nông của nhà nước
Các vua Lý - Trần khi lên ngôi thường ban chiếu Khuyến nông, lệnh cho những
người đào vong phải trở về bản quán nhận ruộng để sản xuất. Các vua Lý - Trần vẫn duy
trì việc cày ruộng tịch điền. Hằng năm nhiều lần đích thân nhà vua đi xem cấy, gặt để
khuyến khích sản xuất. Những năm hạn hán, thiệt hại, bảo lụt mất mùa vua tự thân đi cầu
đảo, giảm thuế, mở kho phát chẩn, cho dân nợ thuế…
Nhà nước áp dụng chính sách “ngụ binh ư nông” trong quân đội để đảm bảo sức
lao động nông nghiệp. Pháp luật thời Lý - Trần nghiêm cấm và trừng trị nặng tôi giết
trộm trâu bò.
Nhà Trần (năm 1228) đặt cơ quan Hà đê chánh phó sứ phụ trách việc sửa đắp đê
điều ở các lộ phủ để ngăn lũ, làm thuỷ lợi và trị thuỷ. Các chính sách trên có tác dụng
thúc đẩy nông nghiệp phát triển.
Công tác thủy lợi: Năm 1077, nhà Lý ra lệnh đắp đê sông Như Nguyệt. Năm 1108,
lại cho đắp đê Cơ Xá (đê sông Hồng). Đê hữu ngạn sông Chu được đắp vào đời Lý Nhân
Tông. Năm 1029, Lý Thái Tông cho đào sông Đản Nãi (Yên Định - Thanh Hoá); năm
1051, Lý Thánh Tông cho đào kênh Lãm (Yên Mộ - Ninh Bình). Năm 1192, nhà Lý cho
khơi rộng thêm sông Tô Lịch. Nhờ những chính sách tích cực nói trên đời sống nhân dân
ổn định, kinh tế nông nghiệp có bước phát triển..
Thời Trần, việc xây dựng các công trình thuỷ nông được nhà nước đặc biệt chú ý. Ở
Thanh Hoá, Nghệ An có nhiều công trình thuỷ nông: năm 1231, vua Trần Thái Tông sai
Nguyễn Bang Cốc đào kênh từ Thanh Hoá đến Diễn Châu (Nghệ An). Năm 1248, vua
Nhân Tông sai đào sông Mã, sông Lê.
Chính sách khuyến nông của nhà nước đã có tác dụng quan trọng thúc đẩy kinh tế
nông nghiệp phát triển. Nhiều năm được mùa, đời sống nhân dân ổn định giúp cho các
vương triều Lý, Trần tạo được tiềm lực quốc gia vững mạnh, đảm bảo cho các cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm thắng lợi. Dưới thời Lý, có các năm được mùa lớn như:
1030, 1044, 1079, 1120, 1123, 1131. Thời Trần năm 1291, sứ giả nhà Nguyên sang nước

ta cũng cho biết: “Giao Chỉ một năm lúa chín tới 4 lần”. Nhà thơ Bùi Công Quán ca ngợi:
“Đứng mãi nào hay chiều đã muộn
Khắp đồng lúa chín tựa mây xanh”
25


×