Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Giáo trình phương pháp dạy học tiếng việt ở tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.41 MB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA SƯ PHẠM TIỂU HỌC - MẦM NON
========= o0o ========

GIÁO TRÌNH
(Lưu hành nội bộ)
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT Ở TIỂU HỌC
(Dành cho Cao đẳng Tiểu học hệ chính quy)

Tác giả: Nguyễn Thị Nga

Năm 2017
1


MỤC LỤC
CHUYÊN ĐỀ 1. DẠY HỌC TIẾNG VIỆT Ở LỚP GHÉP ................................4
1.1. Khái niệm, đặc điểm, yêu cầu về lớp ghép và dạy học lớp ghép ..............4
1.2. Môi trường dạy học lớp ghép ..................................................................8
1.3. Kế hoạch dạy học lớp ghép .....................................................................9
1.4. Tổ chức học sinh học tập theo nhóm lớp ghép.......................................14
1.5. Dạy học sinh cách học trong môi trường lớp ghép ................................20
CHUYÊN ĐỀ II: DẠY HỌC TIẾNG VIỆT THEO HƯỚNG TÍCH CỰC HOÁ
HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA NGƯỜI HỌC ................................................26
2.1.Những vấn đề chung ..............................................................................26
2.2. Những khái niệm liên quan đến thuật ngữ dạy học tích cực...................30
2.3.Một số phương pháp dạy học theo hướng tích cực .................................35
2.4. Những điều kiện cần thiết để thực hiện dạy học tích cực. .....................49
2.5. Mô hình trường học mới ở việt nam ......................................................51

2




LỜI NÓI ĐẦU
Bài giảng Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học theo chuyên đề dùng
để đào tạo sinh viên theo chương trình Cao đẳng Tiểu học hệ chính quy. Bài
giảng thiết kế theo định hướng tăng thực hành, giảm lý thuyết. Bài giảng gồm
các vấn đề cốt lõi về Phương pháp dạy học ở lớp ghép, Phương pháp tổ chức
hoạt động ngoại khóa trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Bài giảng nhằm giúp
cho sinh viên cơ sở khoa học để rèn luyện, nâng cao năng lực nghề nghiệp,
chuyên môn. Bài giảng 2 chuyên đề:
Chuyên đề 1: Phương pháp dạy học ở lớp ghép
Chuyên đề 2: Hoạt động ngoại khóa trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học
Tài liệu thiết kế theo chương trình chi tiết học phần, nhằm giúp sinh viên tích
cực hoá hoạt động, kích thích óc sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề. Trên
cơ sở bài giảng, Giảng viên hướng dẫn sinh viên tự giám sát và đánh giá kết
quả học tập. Cũng từ đó có thể sử dụng tích hợp nhiều hình thức tổ chức dạy
học và sử dụng các phương tiện dạy học khác nhau (tài liệu in, băng hình…)
giúp người học dễ nắm bắt tri thức và tạo được hứng thú học tập.
Tài liệu được biên soạn mới, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót
nhất định. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của
3


bạn đọc, đặc biệt là đội ngũ giảng viên, sinh viên và giáo viên tiểu học trong
tỉnh Quảng Bình. Xin trân trọng cảm ơn.

CHUYÊN ĐỀ 1. DẠY HỌC TIẾNG VIỆT Ở LỚP GHÉP
1.1. Khái niệm, đặc điểm, yêu cầu về lớp ghép và dạy học lớp ghép
* Khái niệm: Lớp ghép là một hình thức tổ chức dạy học trong đó có một giáo viên
cùng một lúc phải dạy nhiều nhóm học sinh thuộc nhiều trình độ khác nhau trong cùng

một phòng học.
*Đặc điểm: Lớp ghép được tổ chức ở những địa phương có địa hình hiểm trở, đi
lại khó khăn, dân cư phân tán, trẻ em ở các độ tuổi đi học có khó khăn.
Nằm trong hệ thống giáo dục tiểu học, lớp ghép có nhiệm vụ thực hiện mục tiêu
môn học cũng như nội dung cơ bản của chương trình tiếng Việt. Đặc điểm về hình
thức tổ chức dạy học ở lớp ghép đã tạo ra sự khác biệt về cấu trúc giờ học, tổ chức
hoạt động của giáo viên và học sinh trong lớp ghép so với lớp bình thường.
Lớp ghép là một loại hình đào tạo đặc thù thường được tổ chức ở những vùng
khó khăn với số lượng học sinh không đủ để mở lớp đơn hoặc số lượng học sinh mỗi
trình độ vừa ít lại vừa thiếu phòng học. Do đó, đòi hỏi giáo viên dạy học lớp ghép phải
là những giáo viên có nhiều kinh nghiệm, nhiệt tình, nỗ lực rất nhiều trong phương
pháp giảng dạy và đặc biệt là tâm huyết với nghề. Đồng thời, giáo viên dạy học lớp
ghép phải có những kĩ năng cần thiết để tổ chức dạy học lớp ghép:
- Nắm rõ đối tượng học sinh của các nhóm trình độ khác nhau từ đó giúp giáo
viên lựa chọn những phương pháp cũng như hình thức dạy học phù hợp.
- Xây dựng kế hoạch dạy học linh hoạt phù hợp theo từng tháng, từng tuần học
phù hợp với các nhóm trình độ.
Khi thực hiện kế hoạch dạy học, không bắt buộc giáo viên thực hiện chương
trình một cách máy móc, hình thức (như dạy đúng tuần, đúng tiết, đúng thời lượng của
mỗi tiết), quan trọng là thực hiện chương trình hợp lý, phù hợp với đối tượng học sinh

4


sao cho cuối năm học tất cả học sinh trong mỗi lớp đạt được yêu cầu chuẩn kiến thức,
kĩ năng được quy định Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào
tạo.
Khi sắp xếp kế hoạch dạy học cần lưu ý:
- Ghép những bài học kiến thức mới ở trình độ này với những bài ôn tập, luyện
tập, thực hành ở trình độ kia.

- Hạn chế ghép những môn học đánh giá bằng nhận xét với những môn học
đánh giá bằng điểm số.
- Đối với 2 môn Tiếng Việt và Toán, dạy học theo đúng nội dung chương trình
cho từng nhóm trình độ. Các môn còn lại có thể tổ chức dạy học chung cho các nhóm
trình độ khác nhau. Lựa chọn nội dung chương trình của nhóm trình độ thấp làm cơ
sở, nội dung chương trình của nhóm trình độ cao được xem là phần mở rộng.
Hình thức tổ chức dạy học lớp ghép ở Việt Nam có từ trước Cách mạng tháng
Tám nhưng thực sự phát triển từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Trong lớp
ghép học sinh ở các lứa tuổi và trình độ khác nhau, thuộc chương trình tiểu học nhưng
được học với một thầy hoặc một cô giáo. Nó góp phần giải quyết được vấn đề thiếu
giáo viên và phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000.
Chất lượng dạy học lớp ghép vẫn còn là vấn đề cần quan tâm. Có nhiều nguyên
nhân, nhưng nguyên nhân chính là: còn có một số hạn chế, khó khăn trong việc bố trí
phòng học, kế hoạch dạy học, kế hoạch bài học và số đông giáo viên vẫn giảng dạy
theo phương pháp truyền thống. Các nhóm học sinh được ngồi theo từng khu vực, thời
gian giáo viên trực tiếp làm việc với các nhóm trình độ học sinh chỉ chiếm 1/2, 1/3
thời gian thực học trong buổi. Có thể nói, các lớp ghép kiểu này về thực chất chưa
phải là hình thức dạy học lớp ghép hoặc chỉ thuần túy là lớp ghép.
Lớp ghép tồn tại ở nhiều quốc gia phát triển. Một mô hình giáo dục, một hình
thức dạy học tiến bộ mang tính nhân văn và hiện đại. Nhiều tài liệu về lớp ghép như :
“ Dạy lớp ghép và giáo dục những nhóm trẻ em thiệt thòi" ( tài liệu của APEID 1982) giới thiệu, kết quả nghiên cứu về những vấn đề lớp ghép của Ân Độ, Hàn Quốc,
Philipin, Xirilanca: "Dạy lớp ghép ở các trường Tiểu học- Một hướng dẫn về phương
pháp"(1988) giới thiệu về phương pháp dạy học lớp ghép ở các trường tiểu học của
các nước Malaixia, Nhật Bản, Ân Độ, Nê Pan.
Ở Việt Nam, từ kinh nghiệm thực tế cùng với việc tham khảo kinh nghiệm của
nước ngoài, cho thấy lớp ghép không phải là giải pháp tình thế mà tổ chức dạy học lớp
ghép được coi như một mô hình giáo dục.
Theo số liệu điều tra của Dự án năm 2004, tổng số lớp ghép tại 39 tỉnh là 6810
lớp.
Số giáo viên lớp ghép được bồi dưỡng 1474/ 211552 giáo viên (chiếm tỷ lệ:

0,7%).

5


Với yêu cầu của thực tiễn giáo dục vùng dân tộc và miền núi, cần thiết phải đổi
mới về quan niệm, phương pháp dạy học, tổ chức dạy lớp ghép.
*Lớp ghép là hình thức tổ chức giáo dục trong đó một giáo viên trong một
không gian với cùng một thời gian tổ chức giáo dục, dạy học cho nhiều nhóm học
sinh ở các trình độ, lứa tuổi khác nhau.
Từ khái niệm trên cho thấy:
Lớp ghép là một lớp học như các lớp học bình thường khác không phải do nhiều
lớp học hợp lại. Trong lớp ghép, mối quan hệ, những hoạt động của giáo viên và học
sinh thực hiện trong một thể thống nhất. Học sinh ở các trình độ khác nhau có quan hệ
chặt chẽ, không độc lập hoàn toàn.
Vì sao phải tổ chức lớp ghép?
- Là giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu quốc gia về phổ cập giáo
dục tiểu học đúng độ tuổi.
+ Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1990
+ Luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em 1991
+ Luật phổ cập giáo dục tiểu học 1991
+ Luật giáo dục năm 2005.
- Lớp ghép góp phần thực hiện xã hội hóa giáo dục.
- Lớp ghép còn nhằm giải quyết tình trạng thiếu lớp học, rút ngắn khoảng cách đến
trường cho trẻ em.
* Một số phương án ghép trong môn Tiếng Việt
Người ta có thể ghép các môn học khác nhau, nhưng ở đây, chúng ta chỉ bàn đến các
phương án ghép trong môn Tiếng Việt.
a. Những yếu tố quy định các hình thức ghép
Việc tạo ra những tổ hợp ghép như thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước hết do

những yêu cầu thực tế mà có những kiểu ghép: ghép đôi, ghép ba, ghép bốn… Riêng
kiểu ghép đôi, việc nghiên cứu đặc điểm của tâm lý lứa tuổi và những khó khăn của
giáo viên đứng lớp đã đưa ra kết luận ghép đôi kiểu lớp 1+ lớp 3; lớp 2+ lớp 4 tốt hơn
kiểu ghép lớp1+ lớp 2; lớp 3+ lớp 4. Kinh nghiệm cho thấy ghép đôi đồng môn trong
một giờ học tốt hơn ghép đôi khác môn vì tạo được điều kiện thuận lợi hơn cho cả
thầy lẫn trò.
Nội dung chương trình tiếng Việt tiểu học có cấu trúc đồng tâm: một số khái niệm
được đưa ra nhiều lần ở những lớp khác nhau. Học sinh chú ý đến những dấu hiệu
mới, dần dần mở ra toàn bộ nội dung khái niệm. Ví dụ: danh từ được dạy ở các lớp
2,3,4. Những bảng từ cung cấp cho các lớp có thể bao hàm nhau.
Ví dụ: chủ đề về đất nước được học ở lớp 2 và lớp 3. Một kiểu bài chính tả được
dạy ở nhiều lớp bằng những ngữ liệu khác nhau.

6


Nội dung tài liệu dạy học tiếng Việt cụ thể theo các tổ hợp ghép khác nhau là một
công việc đòi hỏi rất nhiều công sức và sự sáng tạo.
b.Phương án ghép cùng một phân môn
Các lớp con trong lớp ghép cùng học một phân môn như Tập đọc, Chính tả, Tập
viết, Từ ngữ, Ngữ pháp, Tập làm văn.
Trong lớp ghép này, giáo viên có thể sử dụng một bài dạy cho tất cả các lớp con
hoặc mỗi lớp con dạy một bài riêng. Ví dụ: tuần 3 dạy bài" Quà tặng" cho nhóm lớp 4
và dạy bài "Cùng vui chơi" cho nhóm lớp 3.
Thiết kế bài dạy cho lớp ghép hai trình độ cùng phân môn học : Từ ngữ- Ngữ pháp
ở lớp 2 và lớp 3:
Từ ngữ----------- Ngữ pháp
Lớp con A( nhóm lớp 2)
Lớp con B ( nhóm lớp 3)
- Học sinh làm bài tập củng cố

- Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm
kiến thức từ ngữ, ngữ pháp đã học.
hiểu bài mới trong sách giáo khoa.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh
- Học sinh làm bài tập ứng dụng kiến
tìm hiểu bài mới trong sách giáo khoa . thức đã học (trong phiếu hoặc vở bài
- Học sinh làm bài tập ứng dụng
tập).
kiến thức đã học( trong phiếu hoặc
- Nhận xét, đánh giá, giáo viên chữa
vở bài tập)
bài tập.
- Giáo viên chữa bài tập, nhận xét
- Học sinh ghi vào vở bài tập, chữa bài
*Chú ý: giáo viên cần thiết kế sao cho lớp nào cũng được hoạt động học tập.
Phương án ghép khác phân môn
Có thể thực hiện các cách ghép khác nhau ở lớp ghép hai trình độ. Ví dụ:
- Chính tả và Tập đọc.
- Tập viết và Tập làm văn.
- Chính tả và Tập viết.
- Từ ngữ- Ngữ pháp và Tập làm văn viết.
Sau đây là phương án ghép trình độ hai phân môn Tập đọc và Chính tả ( trí nhớ).
Lớp con A: Tập đọc (lớp 4)
Lớp con B: Chính tả (trí nhớ- Lớp 2)
- Giáo viên giới thiệu bài, đọc mẫu.
- Học sinh đọc thầm bài chính tả sẽ viết
- Học sinh tự đọc thầm. Học sinh
- Giáo viên hướng dẫn tập viết đúng
học khá, giỏi đọc ở nhóm.
các chữ khó.

- Học sinh đọc cá nhân , giáo viên -Học sinh tự ghi nhớ và viết bài chính
hướng dẫn học sinh đọc và trả lời
tả.
các câu hỏi tìm hiểu bài.
- Học sinh làm bài tập trong phiếu
- Giáo viên kiểm tra, chấm, chữa bài
hoặc vở bài tập. Luyện đọc theo nhóm.
Chính tả và hướng dẫn làm bài tập
chính tả.

7


1.2. Môi trường dạy học lớp ghép
- Môi trường học tập lớp ghép bao gồm môi trường vật chất và môi trường
tinh thần.
- Môi trường vật chất là toàn bộ không gian diễn ra quá trình dạy- học mà ở đó
có bảng, bàn, ghế, ánh sáng, âm thanh, không khí…
- Môi trường tinh thần gồm các mối quan hệ : giáo viên, học sinh, nhà trường,
gia đình, cộng đồng.
- Các yếu tố trong môi trường vật chất và môi trường tinh thần liên hệ chặt chẽ
với nhau trong môi trường học tập lớp ghép.
*Môi trường vật chất học tập lớp ghép bao gồm trong và ngoài lớp học, sự sắp xếp
những vật dụng tham gia tạo nên hoàn cảnh thuận lợi cho giáo viên và học sinh .
. Không gian; thời gian; ánh sáng; âm thanh
. Nhà trường; gia đình; cộng đồng.
* Không gian hoạt động của giáo viên và học sinh
- Bàn làm việc của giáo viên nên đặt ở vị trí thích hợp
- Bàn ghế học sinh sắp xếp hợp lý và linh hoạt tùy thuộc vào diện tích, không gian,
nhóm trình độ học sinh.

- Chỗ ngồi học sinh nên sắp xếp theo môn học, nhóm trình độ và chủ định của giáo
viên.
* Sắp xếp thiết bị, đồ dùng trong phòng học
a. Bảng: nên để ở vị trí mà học sinh dễ quan sát, giáo viên và học sinh sử dụng tối
đa diện tích của bảng.
b. Các mặt tường trong phòng học: lựa chọn vị trí thích hợp để trưng bày sơ đồ,
bảng biểu, bài viết, tranh ảnh hoặc tranh vẽ của học sinh.
c. Xây dựng các góc bộ môn:
- Góc Toán
- Góc Tiếng Việt
- Góc Tự nhiên và xã hội
- Góc các bộ môn khác.
* Vai trò của giáo viên
- Giáo viên phải linh hoạt trong việc sử dụng không gian phòng học.
- Giáo viên cũng là người hướng dẫn học sinh biết sử dụng không gian phòng học
hợp lý và khoa học.
- Hướng dẫn giảng dạy có chất lượng hiệu quả.
Do đặc điểm của mình, dạy học ở lớp ghép có yêu cầu cao hơn các lớp thường về thiết
bị và phương tiện dạy học. Lớp ghép phải có những phương tiện dạy học phong phú
để phát huy được hoạt động độc lập của học sinh.

8


Các lớp ghép đòi hỏi phải có phòng học đáp ứng các yêu cầu về diện tích, vệ sinh,
thẩm mỹ, cần có phương tiện dạy học . Chú ý là sách và tài liệu. Nên soạn thảo cho
học sinh lớp ghép sách riêng.
Các phương tiện hỗ trợ cho việc dạy học tiếng Việt, đặc biệt các phiếu, vở bài tập,
các trò chơi, bộ tranh ảnh minh họa dạy học. Các phương tiện hỗ trợ này có tác dụng
tăng cường hoạt động thực hành cho học sinh và tạo sự hấp dẫn cho giờ học tiếng Việt

ở lớp ghép.
Tất cả các phân môn của tiếng Việt đều có thể vận dụng các trò chơi gắn với bài học
1.3. Kế hoạch dạy học lớp ghép
1.3.1. Tầm quan trọng của lập kế hoạch bài học lớp ghép
- Kế hoạch bài học giúp giáo viên có ý thức rõ sẽ hướng dẫn học sinh học cái
gì, học vào thời gian nào, học như thế nào và biết tổ chức các hoạt động học tập phù
hợp để phát huy vai trò tích cực, chủ động của HS khi tham gia các hoạt động đó.
- Giúp GV tự tin, tập trung suy nghĩ những vấn đề chủ yếu trước khi tiến hành
quá trình dạy học, dự đoán, giải quyết những tình huống có thể xảy ra ở lớp học.
- Đòi hỏi GV phải suy nghĩ về đặc trưng môn học, mục tiêu bài học, phương
pháp dạy học, cách đánh giá, trình độ học sinh...
- Giúp GV làm chủ thời gian, giờ học, hướng dẫn quá trình dạy học thông qua
các hoạt động của người học.
- Khi không có kế hoạch bài học, GV sẽ không chủ động trong mọi hoạt động
trên lớp, và như vậy khó có thể đạt được mục tiêu bài học.
- Trong lớp ghép GV phải làm việc với 2 hoặc nhiều NTĐ, HS trong cùng một
khoảng thời gian, không gian nhất định, và thực hiện các hoạt động để đạt được mục
tiêu bài học đã đề ra cho mỗi NTĐ. Đây chính là điểm khác biệt của lớp ghép so với
lớp đơn và cũng chính là khó khăn của người GV dạy học LG.
- Cũng như kế hoạch bài học lớp đơn, kế hoạch bài học LG phải phản ánh được
mục tiêu của bài học, sự chuẩn bị đồ dùng dạy học của GV và HS, các hoạt động dạy
học... Tuy nhiên để các NTĐ có thể tiến hành quá trình dạy học một cách đồng bộ ,
không lãng phí thời gian, không có tình trạng “rỗi rãi” trong các NTĐ, kế hoạch bài
học LG phải được thiết kế như một bản kế hoạch hoạt động của GV và HS. Nó phản
ánh sự phối hợp nhịp nhàng giữa các hoạt động giúp GV tổ chức điều hành và kiểm
soát được các hoạt động của các NTĐ, hoạt động của nhóm học tập và hoạt động của
từng cá nhân.
- Trong LG khi GV làm việc với một NTĐ thì ở các NTĐ khác HS phải tự tiến
hành hoạt động học tập để giải quyết các nhiệm vụ do GV giao. Chính vì thế để HS tự
học tập có hiệu quả GV giao nhiệm vụ cho HS một cách rõ ràng, cụ thể, và hướng dẫn

HS học tập cá nhân hay theo nhóm, cách hợp tác với nhau để thực hiện nhiệm vụ.

9


- Lưu ý: Trong quá trình thực hiện bài học các hoạt động đã xây dựng trong kế hoạch
bài học không áp dụng một cách cứng nhắc mà hết sức linh hoạt, có những thay đổi so
với dự kiến để đáp ứng nhu cầu khả năng của HS, phù hợp với các tình huống nảy
sinh trong giờ học.
1.3.2. Sự khác nhau giữa xây dựng kế hoạch dạy học ở lớp ghép và lớp đơn.
Điểm giống nhau: Thực hiện các môn học trong một tuần theo PPCT chuẩn kiến thức
kĩ năng thái độ
Điểm khác nhau:
Dạy học lớp ghép
Dạy học lớp đơn
- Kế hoạch dạy học trong một tuần ở lớp ghép - Kế hoạch dạy học trong một tuần ở
là cho nhiều NTĐ khác nhau.
lớp đơn là cho một lớp. (Thời khóa
- Kế hoạch dạy học lớp ghép rất linh hoạt, có biểu)
tính sáng tạo và mang dấu ấn của mỗi cá
nhân. Giáo viên sẽ có nhiều cơ hội để sáng
tạo.
- Giáo viên không được thay đổi thứ
+ Giáo viên có thể thay đổi thứ tự các tiết tự các tiết dạy. Phải thực hiện theo
học trong ngày, các bài học trong tuần không đúng kế hoạch của nhà trường do nhà
theo kế hoạch dạy học chung của nhà trường, trường sắp xếp và mang tính ổn định
nhưng vẫn đảm bảo số tiết, số bài đã được trong một thời gian nhất định.
quy định trong tuần của quốc gia. Công việc
này được hoàn tất do chính giáo viên dạy lớp
ghép.

- Giáo viên thực hiện theo một kế
- Giáo viên dạy lớp ghép phải được trao hoạch dạy học chung do nhà trường
quyền chủ động và linh hoạt nhiều hơn nhằm quy định.
thích ứng với những đặc điểm và điều kiện cụ - Nhà trường có thể xây dựng kế
thể của từng lớp ghép.
hoạch dạy học cho giáo viên dạy.
- Giáo viên dạy lớp ghép phải tự xây dựng kế
hoạch dạy học. Không ai có thể thay thế giáo
viên dạy lớp ghép trong việc xây dựng kế
hoạch dạy học.
+ Giáo viên có thể tự xây dựng kế hoạch dạy
học dựa vào khả năng và điều kiện của mình.
+ Giáo viên sẽ không bị ai kiểm soát kế
hoạch dạy học của mình.
+ Giáo viên phải làm việc nhiều hơn, giáo
viên không biết và điều chỉnh được những sai
sót của mình trong việc xây dựng kế hoạch
dạy học.

10


Lưu ý:
- Xây dựng kế hoạch dạy học cho lớp ghép là công việc của người giáo viên dạy lớp
ghép, cần phải quan tâm thích đáng.
- Kế hoạch dạy học phù hợp giúp cho giáo viên chủ động bố trí thời gian, tổ chức dạy
học một cách hợp lí nhất, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của địa bàn lớp ghép và
phù hợp với năng lực, sở trường của mỗi giáo viên.
- Kế hoạch dạy học tốt cho phép giáo viên có thể sắp xếp những nội dung, phương
pháp và đồ dùng dạy học thích hợp với hoàn cảnh cụ thể.

- Mỗi lớp ghép có một kế hoạch dạy học riêng, kế hoạch dạy học phải được xây dựng
trước khi thực hiện ít nhất môt tuần và có thể điều chỉnh trong quá trình thực hiện.
1.3.3. Những căn cứ để xây dựng kế hoạch dạy học ở lớp ghép
- Chương trình TH, số tiết của mỗi môn học,
- Phân phối chương trình
- Chuẩn kiến thức kĩ năng từng môn học.
- Thời lượng một tiết học
- Quản lý và tổ chức dạy học LG,điều lệ trường TH,
- Trình độ HS, số nhóm trình độ trong lớp.
- Điều kiện cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học.
1.3.4.Xây dựng kế hoạch dạy học lớp ghép
* Cách sắp xếp các môn học ở LG
- Trong kế hoạch dạy học lớp ghép các môn học được sắp xếp (ghép ) với nhau
theo 3 cách sau :
+ Các nhóm trình độ khác nhau học các môn học khác nhau.
+ Các nhóm trình độ khác nhau học các bài học theo các phân môn của một
môn học.
+ Các nhóm trình độ học chung một môn học, nhưng các nhóm trình độ học
chung một môn học.
+ Các nhóm trình độ học chung một môn học, nhưng các nhóm trình độ khác
nhau phải đạt tới những mục đích, yêu cầu khác nhau.
* Các bước xây dựng kế hạch dạy học
- Liệt kê tổng số tiết học, số tiết học cho một môn học trong cả tuần đó, trình tự
các tiết học theo yêu cầu đối với mỗi nhóm trình độ trong LG của bạn.
- Lập kế hoạch dạy học cho một NTĐ trước. Trong khi lập kế hoạch cho mỗi
NTĐ cần lưu ý :
+ Những môn học đòi hỏi sự tập trung cao của học sinh nên được bố trí rải ra
các ngày trong tuần, tránh dồn dập tập trung trong một ngày .Những môn này cần
được sắp xếp vào những thời gian thích hợp, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của HS


11


Tiểu học trong một buổi học, ví dụ không nên sắp xếp môn Toán vào tiết cuối cùng
của một buổi học .
+ Những môn học, tiết học ngoài trời cần tính đặc điểm thời tiết của địa
phương.
- Xây dựng KHDH tiếp cho các TĐ còn lại.Trong khi sắp xếp ở những NTĐ
còn lại. Trong khi săp xếp ở những NTĐ sau này, cần lưu ý:
+ Đối chiếu với những môn học ,bài học đã xếp ở NTĐ trước, ghép những môn
học cần sự tập trung nhiều của HS như Tiếng Việt, Toán, với những môn học khác
như Mĩ thuật, Tự Nhiên và Xã hội….. ghép với những bài học mới với những giờ
luyện tập, thực hành.
+ Với những môn học như Thể dục có đặc thù là thường diễn ra ở ngoài lớp
học, hoặc phân môn hát nhạc không khí lớp học ở trạng thái “động” nên sắp xếp học
chung các môn nàu giữa các NTĐ để theo dõi hoặc hạn chế sự ảnh hưởng giữa các
NTĐ cùng học giờ thể dục hoặc cùng học giờ hát nhạc
- Rà soát lại toàn bộ kế hoạch dạy học đã lập và chỉnh sửa lại những chỗ chưa
phù hợp
* Kế hoạch dạy học đã lập phải đảm bảo
- Đầy đủ số tiết, môn học, bài học và các quy định về chuyên môn của Bộ giáo
dục và Đào tạo
- Thực thi, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người GV khi tổ chức các hoạt
động học tập trong LG, thể hiện một cách sắp xếp khoa học, hợp lý giữa các môn học,
bài học giữa các NTĐ trong LG.
- Phù hợp với cơ sở vật chất của lớp học, đồ dùng dạy học, đối tượng học sinh
và điều kiện tự nhiên, xã hội của địa bàn LG đóng.
Cách trình bày kế hoạch dạy học LG:
Thứ / ngày Tiết
Nhóm trình độ 1

Nhóm trình độ 2
Môn
Tên bài
Môn
Tên bài
Hai
1
……
2
3
Ba
1
…..
2
3
Lưu ý khi xây dựng kế hoạch dạy học
- Ghép bài học kiến thức mới với bài ôn tập, luyện tập, thực hành

12


- Ngoài hai môn Toán và Tiếng Việt, các môn còn lại có thể tổ chức dạy học
chung cho các nhóm trình độ khác nhau trên cơ sở coi trọng chương trình của nhóm
trình độ thấp chương trình của nhóm trình độ cao được xem là phần mở rộng.
- Hạn chế ghép những môn học đánh giá bằng nhận xét với những môn học
đánh giá bằng điểm số.
1.3.4. Thực hành xây dựng kế hoạch dạy học
Ví dụ :
KẾ HOẠCH DẠY HỌC TUẦN 2 (LỚP GHÉP 1 + 3)
Thứ

ngày
Thứ 2

Tiết

Nhóm trình độ 1
Môn
Tên bài

1

Đạo đức

2
3

T. việt
Toán

4

T. việt

1
2

Toán
T. việt

3


T. việt
Tự chọn

Nhóm trình độ 3
Môn
Tên bài

Em là học sinh lớp 1 Toán
(T2)
Dấu hỏi, dấu nặng Tập đọc
(T1)
Tập đọc
Luyện tập
Đạo đức
Dấu hỏi, dấu nặng
(T2)

Trừ các số có 3 chữ
số ( có nhớ 1 lần)
Kể chuyện: Ai có lỗi
Kể chuyện: Ai có lỗi
(tiếp)
Kính yêu Bác Hồ

Các số 1,2,3
Dấu huyền, dấu ngã
(T1)
Dấu huyền, dấu ngã
(T2)

Ôn tập các số 1, 2, 3

Luyện tập
Vẽ trang trí: Vẽ tiếp
họa tiết và vẽ màu
vào đường diềm
Vệ sinh hô hấp
Ôn tập các số có 3
chữ số

Thứ 3

4

Toán
Mỹ thuật
TNXH
Tự chọn

T4
1

Tập viết

2
3

Toán
Tập đọc


4

LTVC

Bài 6: be, bè, bé, bẽ, Tập viết
Ôn chữ hoa ă, â
bẹ (T1)
Tập đọc
Cô giáo tí hon
Luyện tập
Toán
Ôn tập các bảng
Bài 6: be, bè, bé, bẽ,
nhân
bẹ (T2)
Luyện từ Từ ngữ về thiếu nhi.
Mỹ thuật: Vẽ nét và câu
Ôn tập câu: Ai là gì?
thẳng

13


Thứ 5

1
2

T. việt
Toán


3

Âm nhạc
Tập viết

4
Thứ 6

1

Tập viết

2

Thể dục

3

Thủ công

4

SHL

Bài 7: Ê,V (T2)
Các số 1,2,3,4,5

Chính tả
Tập làm

văn
Ôn tập bài hát: Quê Toán
hương tươi đẹp
Thủ công
Tô các nét cơ bản
(T1)
Tập tô: e,b, bé
TNXH
Tập hợp hàng dọc, Toán
dóng hàng. Trò chơi
“Diệt các con vật có
hại”
Chính tả
Xé, dán hình chữ
nhật, hình tam giác
SHL
Nhận xét tuần 1

Ai có lỗi
Viết đơn
Ôn tập các bảng chia
Gấp tàu thủy hai ống
khói (T2)
Phòng bệnh đương
hô hấp
Luyện tập

Cô giáo tí hon
Nhận xét tuần 1


1.4. Tổ chức học sinh học tập theo nhóm lớp ghép
1.4.1.Vai trò của dạy học theo nhóm nhỏ ở LG
Dạy học nhóm nhỏ có vai trò đặc biệt quan trọng ở LG .
- Trước hết, khả năng làm việc của nhóm cao hơn khả năng thực hiện của từng HS
riêng lẻ do nó có thể khai thác sức mạnh và năng lực của một nhóm HS. Nếu nhóm
được lựa chọn và hình thành một cách có chủ đích, GV có thể giao cho HS cùng làm
những bài tập, những nhiệm vụ phức tạp hơn, lâu hơn và nhờ thế, GV có thể dành thời
gian để giải quyết trọn vẹn những nội dung giảng dạy cho NTĐ khác. Hơn nữa chính
mỗi thành viên của nhóm sẽ thấy lớn lên với kết quả chung của cả nhóm .
- Làm việc trong nhóm, HS có điều kiện để thảo luận với nhau về những thông tin
chia sẽ kinh nghiệm của mỗi người, do đó kiến thức mà các em đã thu nhận sẽ được
cọ xát và củng cố hơn; Các em được học cách suy nghĩ, lập luận và kết quả là các em
sẽ được trưởng thành hơn.
- Môi trường bạn bè dựa trên những mối quan hệ bình đẳng nếu HS được giao
những nhiệm vụ vừa sức trong nhóm, môi trường này sẽ là bước tập dượt thuận lợi để
các em mạnh dạn khẳng định mình, thêm tự tin vào khả năng của bản thân.
- Học tập cùng nhau trong các nhóm nhỏ, mỗi cá nhân có nhiệm vụ đóng góp vào
thành tích chung của cả nhóm sẽ thúc đẩy các em cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của
mình đồng thời các thành viên khác trong nhóm cũng theo dõi, quản lí công việc của
từng cá nhân để đảm bảo kết quả chung của cả nhóm. Quan trọng hơn vì thành tích
của nhóm các em sẽ quan tâm đến công việc của nhau, giúp đỡ nhau hoàn thành

14


nhiệm vụ chung. Qua những hoạt động nhóm, học sinh sẽ có kinh nghiệm giao
tiếp,các em trở nên mạnh dạn hơn, hoạt bát tự tin hơn.
Tóm lại, trong dạy học LG, việc tổ chức hoạt động nhóm cho HS được coi là một
phương pháp dạy học tích cực có hiệu quả. Song GV cần tránh sử dụng nhóm nhỏ một
cách hình thức hoặc lạm dụng một cách tùy tiện .

1.4.2. Quan hệ giữa giáo viên và học sinh trong dạy học theo nhóm nhỏ
a. Vai trò của việc dạy học theo nhóm
- Dạy học theo nhóm được xem như là phương pháp dạy học tích cực. Do đó, đòi
hỏi người dạy phải đảm nhiệm vai trò của người thiết kế và tổ chức quá trình học tập
chủ động, độc lập và tích cực cho người học.
+ Có thể hình dung vai trò của GV trong việc tổ chức học tập theo nhóm nhỏ như
người thiết kế ngôi nhà, còn HS là những người xây dựng tòa nhà đó.
+ Tuy nhiên, vai trò đó còn phụ thuộc rất nhiều vào các kĩ năng học tập theo nhóm
của HS.
- HS có thể tự phân công nhiệm vụ cho từng cá nhân trong nhóm.
- HS có thể tự quản lí các thành viên trong nhóm.
- HS có thể tự hợp tác làm việc, đôn đốc nhắc nhở nhau cùng làm việc.
- HS có thể gặp khó khăn, bất đồng giữa các thành viên trong nhóm.
GV là người thiết kế còn HS là người thi công công trình. Do đó,Gv phải:
* Lập kế hoạch để xây dựng dần cho HS những kĩ năng làm việc từ đơn giản đến phức
tạp để các em có khả năng làm việc trong nhóm tốt hơn.
* Phải thường xuyên kiểm nghiệm lại nhận thức của mình về khả năng của HS trong
các hoạt động nhóm.
=> Thực tế cho thấy nhóm học tập chỉ thực sự phát huy tác dụng giáo dục nếu HS
được GV giao cho việc giải quyết độc lập những nhiệm vụ của nhóm vừa với sức các
em.
- Với vai trò của người tổ chức, hướng dẫn cho các nhóm hoạt động, người GV cần
xác định:
+ Mục đích cần đạt tới, xây dựng nhiệm vụ cho các nhóm.
+ Hình thành các nhóm tương ứng với các nhiệm vụ, lựa chọn cách tiến hành tối ưu và
dự kiến thời gian thực hiện của các nhóm.
+ GV phải đưa ra những nhiệm vụ rõ ràng, gợi ý cách tiến hành và nêu rõ cách đánh
giá hoạt động của nhóm cũng như những trợ giúp khi các em cần.
+ GV làm nhiệm vụ quan sát hoạt động diễn ra trong các nhóm và có mặt ở nhóm nào
khi cần thiết phải giúp đỡ hay động viên, khuyến khích các em làm việc.

- Để giúp HS đạt được những kết quả thảo luận nhóm, GV cần tạo ra cơ hội để HS
hoạt động độc lập, tự tổ chức, phân công và quản lí các hoạt động trong nhóm của

15


mình mà không bị chi phối bởi những can thiệp của GV khi các em chưa thực sự cần
thiết. Khi giao phiếu học tập cho các nhóm, GV có thể gợi ý cho HS phân công nhiệm
vụ trong mỗi nhóm để hoạt động của các nhóm được sôi nổi và diễn ra liên tục. Kết
quả hoạt động của nhóm và của cá nhân cần được ghi nhận và đánh giá để nâng cao ý
thức trách nhiệm của HS.
- Với vai trò của người thi công, khi làm việc theo nhóm, HS được học hỏi lẫn
nhau. Từng thành viên trong nhóm được bộc lộ mình về những vấn đề mà nhóm đang
quan tâm. Các em được trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm về những vấn đề có liên quan
đến nhiệm vụ học tập của nhóm mình và của bạn. Thông qua hoạt động nhóm, năng
lực của cá nhân được phát huy tối đa.
1.4.3. Tổ chức dạy học theo nhóm nhỏ ở lớp ghép
Cách thành lập nhóm ở lớp ghép
Có rất nhiều cách khác nhau để thành lập các nhóm nhỏ, thông thường người ta
có 3 cách thành lập nhóm: Chia nhóm theo cách gọi số, theo biểu tượng và chia theo
màu sắc.
* Chia nhóm theo cách gọi số:
- Tuỳ theo mục đích của từng hoạt động, GV dự kiến số người trong mỗi nhómvà
số nhóm trong lớp để có cách chia thích hợp.
Ví dụ 1: Lớp có 20 HS, hoạt động cần tổ chức 5 nhóm, mỗi nhóm 4 người. Cáchlàm
như sau:
- Lần lượt cho HS đếm từ1 đến 5 và em tiếp theo lại đếm từ1 đến 5... cho đến
hết. GV thông báo em số 1 ngồi với em số 1, số 2 ngồi với số 2... em số 5 ngồi với em
số . Như vậy, muốn chia lớp thành bao nhiêu nhóm thì cho HS lần lượt đếm từ 1 đến
chữ số nhóm định chia. Sau đó cho những HS có cùng số ngồi vào một nhóm, ta sẽ

được số nhóm định chia.
* Chia nhóm theo biểu tượng:
Các loại hình học: (hình vuông, chữ nhật, tam giác, hình thoi...) hoặc các loài hoa
(hoa hồng, cúc, sen, dâm bụt...). Số loại hình, loại hoa... phụ thuộc vào số nhóm định
chia. Tuỳ theo mục đích của từng hoạt động mà chuẩn bị số phiếu của mỗi loại hình,
loại hoa...
Ví dụ 2: Lớp có 16 HS, muốn chia thành 4 nhóm thì chuẩn bị 4 loại hình (chữ
nhật, hình vuông, hình tam giác, hình tròn hoặc 4 loại hoa nào đó).
* Chia nhóm theo màu sắc
Cũng tương tự như cách chia trên, số giấy màu phát ra tuỳ thuộc vào số nhóm định
chia. Số phiếu mỗi màu chính là số người trong nhóm. Tuỳ theo mục tiêu của từng
hoạt động để có cách chia sao cho không mất nhiều thời gian. Ngoài ra, có nơi GV
còn chia nhóm bằng cách cho HS ngồi bàn trên quay xuống bàn dưới làm thành một

16


nhóm. Khi chia nhóm xong, phải đặt tên nhóm cho dễ gọi như nhóm 1, 2, 3 hoặc
nhóm hoa lan, hoa cúc...
Điều quan trọng là sau khi chia nhóm xong phải bầu nhóm trưởng để điều hànhcông
việc thảo luận của nhóm, thư kí để ghi lại ý kiến thảo luận của các bạn trongnhóm,
báo cáo viên để báo cáo trước lớp ý kiến thảo luận đã được thống nhất củanhóm và
cuối cùng là các thành viên, những người tích cực tham gia thảo luận đóng góp ý kiến
xây dựng thành báo cáo chung của nhóm.
Các kiểu nhóm học tập ở lớp ghép
* Nhóm cùng trình độ
Được thành lập từ những HS ở cùng một NTĐ. Dựa vào mục đích và đặc điểm của
từng hoạt động học tập mà GV chia các HS ở từng NTĐ thành những nhóm nhỏ từ 2
HS trở lên.
*Nhóm nhiều trình độ

Được thành lập từ những HS ở hai hay nhiều TĐ khác nhau. Tuỳ theo mục đích và
tính chất hoạt động cụ thể, người ta nhóm các HS ở nhiều TĐ khác nhau vào một
nhóm nhỏ để hoạt động cùng nhau. Nhóm nhiều TĐ thường được tổ chức nhằm giúp
cho HS học tập kinh nghiệm của nhau trong việc nghiên cứu và học tập một lĩnh vực
chung nào đó hoặc để các em lớp lớn có thể giúp các em lớp bé.
*Nhóm cùng năng lực, sở trường
Được thành lập từ các HS có những sở thích, say mê về một môn học hay hoạt động
nào đó trong cùng NTĐ hay khác NTĐ. Ví dụ như nhóm toán, vẽ, nhóm sáng tác thơ
văn… Hoạt động của các nhóm này được tổ chức như những câu lạc bộ nhỏ trong lớp
vừa để đáp ứng hứng thú và phát triển năng lực riêng của các em, vừa để đóng góp
cho các phong trào học tập của lớp.
*Nhóm hỗn hợp
Là nhóm không phân biệt giới tính, trình độ lứa tuổi (bao gồm HS các lớp 1, 2, 3, 4,
5) được thành lập để tổ chức các hoạt động giáo dục cho HS về “ Môi trườngan toàn
và phòng tránh tai nạn cho HS” hoặc về“Giáo dục kĩ năng sống”...
Trong LG còn có rất nhiều các kiểu nhóm nhỏ khác như: nhóm theo giới tính, nhóm
cùng độ tuổi v.v... Tuỳ từng hoạt động và những mục đích đặt ra mà GV có thể tạo
thành các nhóm khác nhau cho phù hợp. Ví dụ, khi giảng về một số chủ đề có tính
nhạy cảm về giới như vệ sinh em gái, giáo dục kĩ năng sống... GV có thể chia nhóm
gồm cả HS nam và nữ giúp cho HS nam hiểu biết về một số đặc điểm tâm, sinh lí của
các bạn HS gái, HS nam sẽ thông cảm, chia sẻvà giúp đỡ bạn gái của mình được nhiều
hơn. Tuy nhiên, đôi khi cũng phải thành lập các nhóm HS nữ riêng để các em có thể
cảm thấy thoải mái, cởi mở bày tỏ những suy nghĩ, kinh nghiệm của bản thân và gia
đình cho nhau.
Cách tạo nhóm

17


* Nhóm cặp đôi (2 người)

Đây là hình thức HS trao đổi với bạn ngồi đối diện hoặc ngồi cạnh nhau để giải
quyết tình huống do GV đặt ra hoặc sử dụng khi cho HS chấm, sửa bài cho nhau (bài
tập viết, chính tả...). Hình thức chia nhóm này thường được sử dụng ở những lớp đầu
cấp, nó phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lí lứa tuổi của các em trong buổi đầu đến
trường. Dần dần, GV có thể giao cho HS thực hiện những nhiệm vụ phức tạp hơn. Để
tổchức dạy học theo nhóm, trước hết GV cần lựa chọn một sốnội dung phù hợp đối
với nhóm HS làm việc độc lập. Thường những nội dung đểcho HS làm việc trong
nhóm phải có tính phức tạp nhất định để tất cả các em nhận thấy cần phải hợp sức
nhau cùng làm (những nhiệm vụ đơn giản sẽ không kích thích HS làm việc tập thể).
Sau đó, GV dự tính số lượng người cần thiết cho công việc đó trong một khoảng thời
gian nhất định (tương ứng với lượng thời gian GV dành đểlàm việc trực tiếp với NTĐ
khác trong LG).
* Mỗi nhóm nhỏ trong LG nên có từ 2 - 5 em
Ưu điểm của những nhóm này là gọn nhẹ, dễ dàng huy động toàn bộ thành viên vào
giải quyết các nhiệm vụ của nhóm. Còn nếu nhóm quá đông thì sẽ khó quản lí được
các hoạt động của nhóm. Những nhóm này thường được tổ chức để HS giải quyết các
bài tập tình huống hoặc bài tập vận dụng tri thức mới. Khi chia nhóm xong, GV nên
giao nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng cho từng nhóm. Cần nêu lên những yêu cầu về kết quả
cụ thể của cả nhóm cũng như của từng cá nhân, đây là khâu đặc biệt quan trọng bởi vì
nhiệm vụ giao cho nhóm và cách đánh giá kết quả sẽ quyết định mức độhợp tác, giúp
đỡ giữa các thành viên của nhóm trong quá trình hoạt động chung.
Trong hoạt động nhóm, nhiều khi các thành viên trong nhóm có thể được
giaonhiệm vụ để hoàn thành những công việc giống nhau, ví dụ như cùng làm những
bài tập rèn luyện kĩ năng đơn giản. Hình thức giao việc như thế khá đơn giản. Để sử
dụng hình thức giao việc này có hiệu quả, GV cần chú ý tạo ra những tương tác,
những mối quan hệ công việc liên đới giữa các thành viên trong nhóm với nhau: các
em cùng đọc trong nhóm, các bạn lắng nghe để góp ý, nhận xét và giúp bạn sửa lỗi
phát âm. Sau những hoạt động nhóm, GV cần chú ý ghi nhận, đánh giá hoạt động của
nhóm, có thể thông qua kiểm tra một cá nhân để khuyến khích các em có trách nhiệm
và quan tâm đến nhau.

* Tương tự như vậy, người ta xây dựng “nhóm xuất phát” và “nhóm chuyên sâu” để
áp dụng cho việc học bài mới hay tìm hiểu về một chủ đề mới.
- “Nhóm xuất phát” : là nhóm khởi điểm ban đầu được hình thành đểcác HS
cùngnhau thực hiện một nhiệm vụchung, cùng tìm hiểu về một chủ đề nào đó có tính
tổng thể. Trong nhóm sẽ phân công mỗi thành viên có trách nhiệm đối với một khía
cạnh hay một nội dung nhất định như thu thập thông tin, hiểu rõ nội dung và giải thích
cho các bạn trong nhóm cùng hiểu vềnội dung đó.

18


- “Nhóm chuyên sâu”: là nhóm các HS có cùng một nhiệm vụ như nhau được tậphợp
lại từ các nhóm xuất phát đểcùng tìm hiểu những thông tin vềmột khía cạnh hay một
nội dung nhất định. Các HS này sau khi cùng làm việc trong nhóm chuyên sâu để nắm
vững nội dung được phân công, sẽ trở về nhóm xuất phát (ban đầu) của mình để chia
sẻ với nhau về những thông tin họ đã thu hoạch được ở các nhóm chuyên sâu. Mỗi em
vừa có nhiệm vụ trình bày lại những thông tin mà các em đã thu hoạch đượctừ các
nhóm chuyên sâu của mình cho các bạn trong nhóm, vừa lắng nghe thông tin vềnhững
nội dung khác mà các bạn trong nhóm có trách nhiệm thu thập được từ cácnhóm
chuyên sâu khác giới thiệu lại trong nhóm. Kết quảlà mỗi người trong nhóm sẽcó
những hiểu biết đầy đủ về toàn bộ chủ đề hay toàn bộ các nội dung của bài học.
Ví dụ: Lớp học có 16 HS chia làm 4 nhóm, mỗi nhóm có 4 em. Nhiệm vụ chung của
nhóm xuất phát là: Quan sát cấu tạo của cây đậu, nhận xét chung về cấu tạo và sự phát
triển của nó. Các thành viên trong nhóm xuất phát được phân công như sau:
+ Một HS làm nhiệm vụ A: Quan sát bộ rễ
+ Một HS làm nhiệm vụ B: Quan sát thân
+ Một HS làm nhiệm vụ C: Quan sát lá
+ Một HS làm nhiệm vụ D: Quan sát hoa, quả
Nhóm chuyên sâu gồm những HS có nhiệm vụ nắm vững thông tin nhận đượctừ
nhóm xuất phát. Theo ví dụ trên sẽ có 4 nhóm chuyên sâu.

+ Tất cảcác em có nhiệm vụA của 4 nhóm xuất phát họp lại và trao đổi vềkết
quả bộ rễ của cây đậu.
+ Tất cả HS làm nhiệm vụ B của 4 nhóm xuất phát họp lại và trao đổi về kết quả
vềthân cây đậu.
Sau đó 4 thành viên của 4 nhóm chuyên sâu sẽ trở về nhóm xuất phát (nhóm ban đầu)
để cùng xây dựng một báo cáo chung về kết quả quan sát cấu tạo của câyđậu. Hình
thức này được mô tả ở sơ đồ sau:
SƠ ĐỒ NHÓM XUẤT PHÁT VÀ CHUYÊN SÂU
1 3
2 4
3 4
1 3
2 4

1 3
2 4
3 4
1 3
2 4

1 1
1 1

2 2
2 2
2 2

3
3


4 4
4 4
44

3
3

Các nhóm xuất phát
Các nhóm chuyên sâu
* Điều cần chú ý khi tổ chức dạy học theo nhóm:
• GV phải thiết kế được những nhiệm vụ phù hợp, sao cho mỗi HS đều có trách

19


nhiệm xây dựng kết quả chung của nhóm. Trong hoạt động nhóm cần đảm bảo tương
tác giữa các thành viên trong nhóm.
• GV cần chú ý công tác tổ chức quản lí hoạt động trong từng nhóm nhỏ để có
thể giúp đỡ, can thiệp khi cần.
• GV cần nắm vững nguyên tắc hoạt động nhóm để khuyến khích mọi HS tham
gia bình đẳng và tôn trọng nhau.
* Nguyên tắc tổ chức hoạt động nhóm;
- Các thanh viên trong nhóm phải hiểu rõ trách nhiệm của mình
- Các thanh viên trong nhóm phải lần lượt đmả nhiệm các vai trò khác nhau trong
nhóm
- Các thanh viên trong nhóm phải được trình bày ý kiến của mình
- Các thanh viên trong nhóm đầu được bình đẳng như nhau
- Khi thảo luận phải tập trung trao đổi, chia sẻ kình nghiệm về vấn đề được nêu ra.
- Phải tôn trọng ý kiến của nhau và đưa ra bàn bạc để quyết định vấn đề.
1.5. Dạy học sinh cách học trong môi trường lớp ghép

1.5.1. Yêu cầu cơ bản đối với HS trong học tập ở LG
- HS cần phải có trách nhiệm với việc học tập của mình và tự lựa chọn con đường học
tập phù hợp với mình, cần phải có tính sáng tao, độc lập và kiên trì theo đuổi mục đích
học tập đã đặt ra và cần phải quan tâm vào các hoạt động hay các nhiệm vụ mà không
cần dựa vào sự khuyến khích hay chỉ dẫn của người lớn
- Việc tự quản của HS trong học tập ở LG cần phải có tính kỉ luật, có khả năng tự
kiểm soát và quản lý học tập của mình. Mỗi HS phải biết xây dựng và chấp hành quy
định của lớp, tiết kiệm và giữ đúng thời gian đã định, đôn đốc, nhắc nhở nhau thực
hiện những quy định chung.
- Việc học tập và giúp đỡ của HS trong lớp cần phải có sự sắp xếp, giúp đỡ, hướng
dẫn của GV.
1.5.2. Nề nếp học tập của học sinh trong lớp ghép
Vai trò của giáo viên và hs trong việc xây dựng nền nếp.
- Nền nếp của 1 lớp học được xây dựng trên cơ sở những quy định trong từng lớp với
những hoạt động và những hành vi của mọi thành viên trong đó.
- Tạo cho lớp học 1 môi trường vật chất và tinh thần thuận lợi cho học sinh tập cũng
như những mối quan hệ giữa các cá nhân.
- Trong lớp ghép, nền nếp còn phải đảm bảo để các nhóm học sinh có những hoạt
động khác nhau không làm ảnh hưởng đến nhau và có thể phối hợp với nhau khi cần
thiết.
- Nền nếp còn tạo những điều kiện để cho những nhu cầu của các cá nhân trong lớp có
thể được đáp ứng mọi cách tốt nhất.

20


- GV và HS có vai trò cùng nhau xây dựng nhũng quy định chung để tạo nên nền nếp
riêng cho lớp học của mình và khi đã được thống nhất thì các thành viên cần tôn trọng
và chấp nhận nó, giáo viên và học sinh cần thống kê những đồ dùng, sách báo có trong
lớp và thảo luận nên để chúng ở đâu và dùng khi nào.

Ví dụ: Hộp bút của lớp đặt ở bàn giáo viên học sinh cần lấy bút viết thì tự giác lên bàn
giáo viên lấy.
- Mục đích của việc sắp xếp này là để mọi học sinh có thể tiếp cận các đồ dùng học
tập một cách thuận lợi nhất và không ảnh hưởng đến những người khác trong lớp.
1.5.3.Học tập độc lập của học sinh trong lớp ghép
Học tập độc lập của học sinh là một bộ phận quan trọng hợp thành hoạt động dạy học
trong LG bởi lẽ không phải lúc nào học cũng có cơ hội để tiếp xúc trực tiếp với giáo
viên do giáo viên có trách nhiệm với hai hay nhiều NTĐ.
* Những việc Giáo viên phải làm để duy trì học tập của cá nhân học sinh trong LG.
- Giáo viên cần tạo cần tạo ra cho học sinh có được hứng thú trong học tập và khuyến
khích các em có những ước mơ nguyện vọng được bay cao, bay xa với vốn kiến thức
của mình. Giáo viên cần tổ chức cho lớp học sao cho nó trở thành ngôi nhà thứ hai
thân thương đối với các em; cuộc sống sinh hoạt và học tập đối với các bạn và giáo
viên ở lớp mang lại cho các em niềmvui và hiểu biết mới.
- Giáo viên cần tập trung vào dạy trẻ biết cách xác định yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra
cho chúng trong nhiều trường hợp khác nhau. Điều đó gắn liền với những yêu cầu về
đọc, nghe và hiểu được ngôn ngữ. Khi trẻ hiểu được yêu cầu đặt ra cho mình, trẻ sẽ
định hướng hoạt động nhanh và phù hợp hơn.
- Đối với trẻ nhỏ, rất khó để duy trì một hoạt động cá nhân nào đó lâu dài vì các em
còn rất hiếu động.Việc thay đổi hình thái làm việc, lúc làm việc cá nhân, lúc theo
nhóm cặp đôi, lúc nhóm nhỏ sẽ phù hợp với các em hơn.
- Giáo viên cần chú ý của trẻ về thời gian mà trẻ có thể dùng trong một công việc nào
đó và những phương tiện, công cụ hay sự trợ giúp nào đó mà chúng có thể có khi cần.
- Giáo viên cần động viên các em tập trung vào nhiệm vụ đang làm và tìm ra những
cách giải quyết khác nhau cho một vấn đề. Giáo viên tránh giao việc cho các em quá
nhiều bài tương tự nhau vừa gây nhàm chán vừa không khuyến khích các em tìm tòi,
sáng tạo những cách đi mới.
- Giáo viên chú ý sử dụng những loại bài, những câu hỏi kích thích sự nghi vấn của
trẻ, đòi hỏi các em phải phát hiện vấn đề và biết đặt ra những câu hỏi để học. Rèn
luyện cho các em nhỏ biết làm việc một cách cẩn thận và biết phát hiện những vấn đề

sẽ là sự chuẩn bị tâm lý cho học tập và sang tạo.
- Giáo viên cần chú ý rèn luyện cho học sinh cách trình bày tường minh các công việc
của mình và biết cách biện luận cho công việc của mình. Giáo viên cần tạo điều kiện

21


để học sinh chứng minh tính đúng đắn trong cách thực hiện cũng như kết quả công
việc các em làm.
- Giáo viên cần huy động các học sinh vào công việc tự quản trong từng bàn, từng tổ
hay NTĐ.
- Giáo viên cần giúp học sinh biết đưa ra những nhận xét và đánh giá về thành tích học
tập của mình. Điều quan trọng là giúp trẻ biết rút ra những kinh nghiệm từ những bài
làm của mình. Giáo viên cần khuyến khích trẻ tìm ra được chỗ sai và thiếu sót của
mình khi giải quyết một bài tập hay nhiệm vụ học tập nào đó.
1.5.4. Tìm hiểu về học cùng bạn trong nhóm nhỏ
Mối quan hệ giữa các thành viên trong nhóm.
- Quan hệ kiểm tra lẫn nhau.
- Quan hệ hợp tác bình đẳng.
- Quan hệ bạn bè thân thiết.
- Quan hệ người lãnh đạo và người bị lãnh đạo.
Các mối quan hệ kể trên được diễn ra trong nhóm học tập và có ảnh hưởng đến
hoạt động của nhóm cũng như của cá nhân các thành viên trong nhóm.
- Thông qua hoạt động nhóm học sinh chủ động hơn trong quá trình học tập; các em
có điều kiện thảo luận về các thông tin, chia sẻ kinh nghiệm.
- Hoc sinh có nhiều cơ hội hơn để diễn đạt suy nghĩ, ý tưởng, mở rộng hiểu, suy nghĩ
và phát triển kỹ năng nói. Do đó, kiến thức mà các em đã thu nhận được cọ xát và
củng cố vững vàng hơn.
- Các em học them được cách suy nghĩ, lập luận của bạn.
- Quan hệ bình đẳng, thân ái giữa các thành viên trong nhóm là môi trường thuận lợi

để học sinh tập dượt, mạnh dạn bộc lộ và tự khẳng định mình, giúp học sinh thêm tự
tin trong học tập và tin vào chính mình.
- Học sinh có kinh nghiệm giao tiếp, khả năng nhận thức, kỹ năng tự đánh giá của học
sinh được bộc lộ và phát triển.
Như vậy, hoạt động cùng bạn trong nhóm nhỏ là một cách học rất tốt để các em
học được cách sống và cách làm việc cùng người khác.
* Trong lớp học, giáo viên có thể tổ chức các hình thức hoạt động với các yêu cầu
phức tạp dần để các em tập cách hoạt động chung cùng người khác.
- Những hoạt động cặp đôi với một bạn khác, cùng nhau học hay làm việc gì đó rồi
trao đổi với nhau là một cách được dùng phổ biến.
- Trong hoạt động cặp đôi, các em có thể học được cách thực hiện các công việc của
mình và nhắc nhở, đôn đốc bạn cùng thực hiện nhiệm vụ được giao.
Giáo viên cần tạo điều kiện để các em được chia sẻ, tâm sự với nhau, khuyến
khích các em quan tâm, động viên, giúp đỡ các bạn trong nhóm của mình. Qua đó các

22


em sẽ mạnh dạn hơn trong giao tiếp với nhiều người và có khả năng hòa hợp với
người khác.
* Những yêu cầu của học sinh khi làm việc trong nhóm.
Trách nhiệm cá nhân
- Nhận phân công của nhóm.
- Đề xuất ý kiến riêng.
- Thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Yêu cầu bạn giúp khi cần.

Trách nhiệm với các bạn, với nhóm
- Giúp bạn khi cần.
- Động viên nhắc nhở bạn.

- Lắng nghe ý kiến của người khác.
- Thừa nhận sự đóng góp của người khác.
- Góp ý cho công việc của bạn.
- Tiếp nhận các ý kiến khác.

- Trao đổi thông tin.
- Báo cáo công việc.
- Với những hoạt động trong nhóm được tổ chức, các em sẽ được tập dượt những kỹ
năng hợp tác cùng người khác: các em biết phân chia công việc chung và gánh vác
trách nhiệm của mình; các em biết quan tâm giúp đỡ nhau, biết tôn trọng và thừa nhận
giá trị của mình cũng như các bạn trong thành quả chung của nhóm.
- Khi tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh, giáo viên nên chú ý hướng đến giá trị
giáo dục đối với các em chứ không chỉ nhằm giải quyết một công việc cụ thể nào đó,
để giúp học sinh học cách học và cách sống.
1.5.5. Đặt câu hỏi trong nhóm nhỏ
* Vai trò của việc đặt câu hỏi trong học tập
- Biết cách đặt câu hỏi và hỏi đúng là một yếu tố quan trọng giúp học sinh tiến bộ
nhanh trong học tập.
- Khi học sinh đặt câu hỏi là khi các em thể hiện:
+ Sự khao khát hiểu biết, tìm tòi, khám phá .
+ Khả năng phát hiện vấn đề.
+ Tính tích cực tư duy, khả năng định hướng trong học tập. Chính vì vậy các em hiểu
biết sâu sắc và thu được nhiều kiến thức hơn.
- Trong học tập, việc đặt câu hỏi có vai trò là:
+ Tìm hiểu những điều các em chưa biết và các em muốn biết
+ Giúp các em hiểu rõ nhiệm vụ phải làm.
+ Giúp các em giải quyết những thắc mắc cần giải đáp.
+ Giúp các em thỏa mãn nhu cầu nhận thức vượt ra ngoài khuôn khổ của chương
trình.
- GV cần khuyến khích và tạo cơ hội để HS tự đặt câu hỏi. Điều này rất quan trọng để

các em mạnh dạn, tự tin nêu câu hỏi hay những thắc mắc của bản thân mình.
- Khi giao việc cho HS, GV cần gợi ý cho các em đặt câu hỏi để giúp các em hiểu rõ
hơn nhiệm vụ được giao

23


- Khi trình bày xong một vấn đề nào đó, GV có thể khuyến khích HS nêu câu hỏi bằng
cách hỏi HS các em đã hiểu chưa, còn vấn đề gì cần hỏi không?
- Khuyến khích HS nêu câu hỏi bằng những lời khích lệ
+ Hình như em có điều gì muốn hỏi cô và các bạn?
+ Cô và các bạn đang chờ ý kiến của em
+ Bạn nào sẽ phát biểu nào?
- Khi HS nêu câu hỏi, câu hỏi đó có thể đúng hoặc có thể không. Thái độ của GV là:
+ Trước câu hỏi đúng và hay cần khen ngợi
Ví dụ: Câu hỏi của em rất hay
Em phát hiện vấn đề rất đúng
+ Trước câu hỏi không đúng hoặc không hay, tuyệt đối GV không chê bai hay dè
bỉu
- Đôi khi HS có những câu hỏi làm GV phải lúng túng vì chưa trả lời được. Trong
trường hợp này, GV cần biết cách “hoãn binh” rồi tìm hiểu them và trả lời vào một dịp
khác, tránh trả lời cho qua chuyện
- Với những câu hỏi của HS nếu trả lời ngay sẽ ảnh hưởng tới thời gian của tiết học,
GV có thể hẹn HS sẽ trả lời vào dịp khác khi có điều kiện.
* Một số biện pháp phát triển kĩ năng đặt câu hỏi cho HS
- Giúp các em hiểu rõ câu hỏi hỏi ai? Nội dung gì? Ngời học có thể hỏi bản thân, hỏi
bạn và hỏi GV
+ Hỏi bản thân: Hs tự nêu ra câu hỏi và tự trả lời. Bản thân việc biết tự nêu ra câu
hỏi và tự tìm cách trả lời là một cách tốt cho việc rèn luyện tư duy, nếu giải đáp được
các câu hỏi là dấu hiệu các em đã hiểu bài.

+ Hỏi bạn: HS hỏi bạn khi học cùng nhau, đặc biệt là trong nhóm nhỏ khi người
học hỏi hoặc trả lời câu hỏi do các thành viên trong nhóm đặt ra, nó chứng tỏ nhóm
hoạt động rất tích cực và hiệu quả. GV cần lưu ý giúp HS biết lắng nghe và suy nghĩ
câu trả lời khi có bạn hỏi.
+ Hỏi thầy: Câu hỏi do HS đặt racho GV có thể được GV trả lời riêng cho HS đó
hoặc trả lời trước lớp, hoặc có thể đưa ra thảo luận trên lớp để các em tự tìm ra câu trả
lời, qua đó nâng cao vốn hiểu biết của bản thân.
- Tập đặt câu hỏi:
HS tập đặt câu hỏi từ một chủ đề cho trước hay một câu trả lời cho sẵn
Chẳng hạn: Đồ vật, nhân vật, địa điểm..
Ví dụ: Với đồ vật, HS có thể đặt rất nhiều câu hỏi:
+ Nó là gì?
+ Nó được làm bằng gì?
+ Ai làm ra nó?
+ Nó để làm gì?...

24


- Đặt câu hỏi về những gì được học
GV yêu cầu HS đặt câu hỏi tại lớp về câu chuyện đang học hay đang nghe
Ví dụ: + Nội dung câu chuyện nói về điều gì?
+ Trong truyện có những nhân vật nào?
+ Ý nghĩa của câu chuyện là gì?
- Giao bài tập về nhà cho HS tập đặt câu hỏi
+ GV đưa ra một bảng, trong đó một bên viết sẵn câu trả lời, yêu cầu HS viết
câu hỏi phù hợp.
- Trò chơi: Trò chơi là một hình thức dạy học mang lại hiệu quả cao, vừa giúp HS
củng cố kiến thức, vừa mang lại không khí vui vẻ cho lớp học
Ví dụ: Trò chơi: Đóng vai

HS chơi trò chơi đóng vai, các em đóng vai người phỏng vấn và người trả lời phỏng
vấn. Người trả lời phỏng vấn có thể là cô thầy, là bố mẹ hay nhân vật nào đó mà các
em chọn. sau đó các em chia sẻ với nhau cùng đánh giá xem ai có câu hỏi hay nhất.
1.5.6. Tìm hiểu cách giúp học sinh biết tự đánh giá
* Vai trò của việc tự đánh giá của HS trong học tập
- Tự đánh giá có vai trò rất quan trọng đối với bản thân mỗi người. Tự đánh giá giúp
mỗi người nhận thức đúng về bản thân, qua đó giúp họ ưng xử phù hợp trong công
việc cung như trong các mối quan hệ. Tuuy nhiên, công việc đánh giá hiên nay chủ
yếu là do GV thực hiện, HS ít có cơ hội tham gia đánh giá và tự đánh giá. Việc đổi
mới phương pháp đánh giá đòi hỏi chúng ta phải chú trọng hơn đến việc đánh giá và
tự đánh giá của bản thân học sinh. Việc tự đánh giá có tác dụng :
- Giúp học sinh nhận thức được nhưng mặt mạnh, mặt yếu, nhưng tiến bộ của bản
thân, trên cơ sở đó điều chỉnh hành vi cho phù hợp với các mục tiêu giáo dục mà nhà
trường mong muốn.
- Nâng cao trách nhiệm đối với việc học tập, tự tin vào bản thân.
- Rèn luyện thói quen và kĩ năng tự đánh giá.
* Việc tự đánh giá của HS phụ thuộc vào những yếu tố :
+ Khả năng và nề nếp học tập.
+ Khả năng thảo luận nhóm.
+ Hành vi tham gia làm việc giúp gia đình.
+ Thái độ trước hành vi của môi trường.
* Các biện pháp giúp phát triển kĩ năng tự đánh giá cho HS:
- Trong thực tế, có nhiều người đánh giá không đúng về bản thân. Hoặc quá cao (tự
cao tự đại) hoặc quá thấp (tự ti). Tự đánh giá phụ thuộc vào:
+ Đánh giá của người khác, của GV về bản thân HS.
+ Kĩ năng tự đánh giá.

25



×