Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Bài giảng tâm lý học đại cương dành cho sinh viên đh giáo dục mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (15.08 MB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA SP TIỂU HỌC – MẦM NON

BÀI GIẢNG
(Lưu hành nội bộ)

TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
(Dành cho sinh viên ngành ĐHGD Mầm non)

Tác giả: Nguyễn Thị Thùy Vân
Nguyễn Thị Diễm Hằng

1


MỤC LỤC
Trang
CHƯƠNG 1. TÂM LÝ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC ....................................................4
1.1. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ, VỊ TRÍ VÀ Ý NGHĨA CỦA TÂM LÝ HỌC ...............4
1.2. BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG, PHÂN LOẠI CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ............8
1.3. CÁC NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÂM LÝ .................11
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI CỦA TÂM LÝ NGƯỜI.....................15
2.1. CƠ SỞ TỰ NHIÊN ................................................................................................15
2.2. CƠ SỞ XÃ HỘI .....................................................................................................18
CHƯƠNG 3. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ, Ý THỨC ..................22
3.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ...................................................22
3.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN Ý THỨC...................................................23
CHƯƠNG 4. NHẬN THỨC CẢM TÍNH.....................................................................27
4.1. CẢM GIÁC ...........................................................................................................27
4.2. TRI GIÁC ..............................................................................................................29
CHƯƠNG 5. NHẬN THỨC LÝ TÍNH..........................................................................33


5.1. TƯ DUY................................................................................................................33
5.2. TƯỞNG TƯỢNG ..................................................................................................37
CHƯƠNG 6 . TRÍ NHỚ VÀ NGÔN NGỮ ....................................................................40
6.1. TRÍ NHỚ ...............................................................................................................40
6.1. NGÔN NGỮ..........................................................................................................40
CHƯƠNG 7. NHÂN CÁCH VÀ SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH ...........................47
7.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ NHÂN CÁCH .............................................................47
7.2. CẤU TRÚC CỦA NHÂN CÁCH ..........................................................................49
7.3. CÁC THUỘC TÍNH TÂM LÝ CỦA NHÂN CÁCH..............................................49
7.4. CÁC PHẨM CHẤT TÂM LÝ CỦA NHÂN CÁCH ..............................................54
7.5. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH...........................................61
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................................................64

2


LỜI NÓI ĐẦU
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kĩ thuật, cũng như xu thế toàn
cầu hóa, tâm lý học ngày càng phát triển và thâm nhập vào thực tiễn của mọi
lĩnh vực của hoạt động sống con người. Xuất phát từ yêu cầu của công tác
đào tạo sinh viên chuyên ngành mầm non ở trường Đại học Quảng Bình hiện
nay chúng tôi biên soạn bài giảng Tâm lý học đại cương. Trong quá trình biên
soạn các tác giả đã kế thừa những thành tựu ở trong nước cũng như thế giới
để nội dung mang tính cập nhật. Mặc dù, các tác giả đã có nhiều tâm huyết
nhưng không thể tránh khỏi thiếu sót mong nhận được góp ý của độc giả.
Xin chân thành cảm ơn!

3



CHƯƠNG 1. TÂM LÝ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
1.1. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ, VỊ TRÍ VÀ Ý NGHĨA CỦA TÂM LÝ HỌC
1.1.1. Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển tâm lý học
1.1.1.1. Những tư tưởng tâm lý học cổ đại
Loài người xuất hiện trên trái đất khoảng 10 vạn năm trước đây. Lúc đó con người đã
có trí khôn, có lý trí tuy còn mới sơ khai, mông muội.
Trong các di chỉ của người nguyên thủy người ta thấy những bằng chứng chứng tỏ đã
có những quan niệm về cuộc sống của "hồn ", "phách" sau cái chết của thể xác.
Khổng Tử (551 - 479 TCN) đã nói đến chữ "tâm" của con người là "nhân, trí, dũng", về
sau học trò của ông đã nêu thành "nhân, lễ, nghĩa, trí, tín".
Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Xocrat (469 - 399 TCN) đã có câu châm ngôn nổi tiếng:
"Hãy tự biết mình". Đây là một định hướng có giá trị lớn cho tâm lý học: con người có thể
tự hiểu biết mình, tự nhận thức, tự ý thức về cái ta.
Người đầu tiên "Bàn về tâm hồn" là Arixtot (384 - 322 TCN), ông cho rằng tâm hồn
gắn liền với thể xác, tâm hồn có 3 loại:
- Tâm hồn thực vật (“tâm hồn dinh dưỡng”): thực hiện chức năng dinh dưỡng, có chung cả
người và động vật.
- Tâm hồn động vật (“tâm hồn cảm giác”): thực hiện chức năng cảm giác, vận động, có
chung cả người và động vật.
- Tâm hồn trí tuệ (“tâm hồn suy nghĩ”): chỉ có ở con người
Đối lập với quan điểm của nhà triết học duy tâm cổ đại Platon (428 - 348 TCN), Arixtôt
cho rằng: tâm hồn là cái có trước, thực tại có sau, tâm hồn do thượng đế sinh ra, tâm hồn trí
tuệ nằm trong đầu và chỉ có ở giai cấp chủ nô, tâm hồn dũng cảm nằm ở ngực và chỉ có ở
tầng lớp quý tộc, tâm hồn khát vọng nằm ở bụng và chỉ có ở tầng lớp nô lệ.
Đối lập với quan điểm duy tâm thời cổ đại về tâm hồn là quan điểm của các nhà triết
học duy vật (Talet, Anaximen, Heraclit, Đêmocrit...) cho rằng: tâm lý, tâm hồn cũng như
vạn vật đều được cấu tạo từ vật chất như: nước, lửa, không khí, đất hay tâm hồn do nguyên
tử cấu thành, trong đó “nguyên tử lửa” là nhân tố tạo nên tâm lý. Đây chính là cơ sở thuyết
ngũ hành coi kim, mộc, thủy, hỏa, thổ tạo nên vạn vật trong đó có cả tâm hồn.
Các quan điểm duy tâm và duy vật luôn đấu tranh mãnh liệt xung quanh mối quan hệ

vật chất và tinh thần, vật chất và tâm lý.
1.1.1.2. Những tư tưởng tâm lý học từ nửa đầu thế kỷ XIX trở về trước
- Thuyết nhị nguyên: đại diện là R.Đêcac (1596 - 1650) cho rằng: vật chất và tinh thần
hai thực thể song song tồn tại. Coi cơ thể con người phản xạ như một chiếc máy còn bản
thể tinh thần, tâm lý con người thì không thể biết được. Song, Đêcac đã đặt cơ sở đầu tiên
cho việc tìm ra cơ chế phản xạ trong hoạt động tâm lý.
- Sang thế kỷ thứ XVIII, tâm lý học bắt đầu có tên gọi. Nhà triết học Đức Vôn - Phơ đã
chia nhân chủng học thành hai thứ khoa học: một là khoa học về cơ thể, hai là tâm lý học.
- Vào thế kỷ XVII - XIX cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và duy vật xoay quanh
mối quan hệ giữa tâm và vật.
+ Các nhà triết học duy tâm chủ quan như: Beccơli (1685 - 1753); E.Makhơ (1838 1916) cho rằng: Thế giới không có thực mà chỉ là “phức hợp các cảm giác chủ quan” của
con người, còn D.Hium (1711 - 1776) coi thế giới chỉ là những “kinh nghiệm chủ quan”.
Học thuyết duy tâm phát triển cao thể hiện ở “ý niệm tuyệt đối” của Hêghen.
+ Thế kỷ XVII- XIX, các nhà triết học và tâm lý học phương Tây đã phát triển chủ
nghĩa duy vật lên một bước cao hơn: Spinoda (1632 - 1667) coi tất cả vật chất đều có tư
duy, Lametri (1709 - 1751) thừ nhận chỉ có cơ thể mới có cảm giác. Còn Canbanic (1557 1808) lại cho rằng não tiết ra tư tưởng như gan tiết ra mật.
4


+ L.Phơbach (1804 - 1872) khẳng định: tinh thần, tâm lý không thể tách rời khỏi não
người, nó là sản vật của thứ vật chất phát triển tới mức độ cao là bộ não.
Đến nửa đầu thế kỷ XIX có rất nhiều điều kiện để tâm lý học trưởng thành, tự tách
mình ra khỏi mối quan hệ phụ thuộc chặt chẽ của tâm lý học vào triết học với tư cách tâm
lý học là một bộ phận, một chuyên ngành của triết học.
1.1.1.3. Tâm lý học trở thành một khoa học độc lập
Từ đầu thế kỷ XIX trở đi, nền sản xuất phát triển mạnh, thúc đẩy sự tiến bộ phát triển
khoa học kỹ thuật, tạo điều kiện cho tâm lý học trở thành khoa học độc lập. Trong đó phải
kể tới những thành tựu: Thuyết tiến hoá của S.Đacwin; Thuyết tâm sinh lý học giác quan
của Hemhôn; Tâm vật lý học cuả Phécne và Vêbe, tâm lý học phát sinh phát triển của
Gantôn (Anh); Các công trình nghiên cứu tâm thần học của Bác sỹ Sáccô (Pháp).

Năm 1879 nhà tâm lý học Đức V.Wundt (1832 - 1920) đã thành lập
phòng thí nghiệm tâm lý học đâu tiên trên thế giới ở Laixic (Đức) và một
năm sau nó đã trở thành viện tâm lý học đầu tiên trên thế giới, xuất bản
các tạp chí tâm lý học. Sự kiện này đánh dấu tâm lý trở thành một khoa
học độc lập.
(V.Wundt)

Để góp phần tấn công vào chủ nghĩa duy tâm, đầu thế kỷ XX các dòng phái tâm lý học
lần lượt ra đời đã đánh dấu những bước ngoặt phát triển quan trọng của tâm lý học.
1.1.2. Các quan điểm cơ bản trong tâm lý học hiện đại
1.1.2.1. Tâm lý học hành vi
Do nhà tâm lý học Mỹ J.Watsơn (1878 - 1858) sáng lập. Theo ông, tâm lý
học không mô tả, giảng giải các trạng thái ý thức mà chỉ nghiên cứu hành
vi của cơ thể. Ở con người cũng như động vật, hành vi là tổng số các cử
động bên ngoài nảy sinh ở cơ thể nhằm đáp lại một kích thích nào đó.
Toàn bộ hành vi, phản ứng của cơ thể nhằm đáp lại kích thích ngoại giới
đều thể hiện bằng công thức:
S
R
(J.Watsơn)
(Kích thích)
(Phản ứng)
Với công thức trên, Watson đã nêu lên một quan điểm tiến bộ trong tâm lý học đó là coi
hành vi là do ngoại cảnh quyết định, hành vi có thể quan sát được, nghiên cứu được một
cách khách quan, từ đó có thể điều khiển hành vi theo phương pháp “thử - sai”. Tuy nhiên,
sai lầm của thuyết hành vi là đã quan niệm một cách cơ học, máy móc về hành vi, đem
đánh đồng hành vi con người với con vật, coi hành vi chỉ là những phản ứng máy móc
nhằm đáp lại kích thích ngoại giới giúp cơ thể thích nghi với môi trường xung quanh. Chủ
nghĩa hành vi đã đồng nhất phản ứng với nội dung tâm lý bên trong làm mất tính chủ thể,
tính xã hội của tâm lý con người.

Về sau những nhà hành vi mới (Tolmen, skinner...) có đưa vào công thức S- R những
“biến số trung gian” như: nhu cầu, trạng thái chờ đón, kinh nghiệm sống hoặc hành vi tạo
tác nhằm đáp lại những kích thích có lợi cho cơ thể nhưng chủ nghĩa hành vi vẫn mang
tính máy móc, thực dụng như thuyết hành vi cổ điển của Watson.
1.1.2.2. Tâm lý học Gestalt (tâm lý học cấu trúc)
Ra đời gắn với tên tuổi của các nhà tâm lý học Đức như: Vecthaimơ
(1880 - 1943); Côlơ (1887- 1967); Côpca (1886 - 1947). Họ đi sâu nghiên
cứu các quy luật về tính ổn định, tính trọn vẹn của tri giác, quy luật “bừng
sáng” của tư duy. Trên cơ sở thực nghiệm, các nhà tâm lý học Gestalt đã
khẳng định các quy luật của tri giác, tư duy và tâm lý con người do cấu
trúc tiền định của não quyết định, họ đã bỏ qua vai trò vốn kinh nghiệm
(M.Kurt Kaffka)
sống, kinh nghiệm xã hội lịch sử.
5


1.1.2.3. Tâm lý học phân tâm (Phân tâm học)
Do S.Freud (1859 - 1939)- một bác sĩ người Áo sáng lập. Ông tách con
người ra thành 3 khối:
- Cái ấy (Id): bao gồm các bản năng vô thức như: ăn uống, tình dục, tự vệ
trong đó bản năng tính dục giữ vai trò quyết định toàn bộ đời sống tâm lý
và hành vi. Id tồn tại theo nguyên tắc thỏa mãn và đòi hỏi.
(S.Freud)
- Cái tôi (Ego): con người đời thường có ý thức tồn tại theo nguyên tắc
hiện thực (là cái tôi giả hiệu, cái tôi bề ngoài của cá nhân bên trong "cái ấy")
- Cái siêu tôi (Super Ego): là cái siêu phàm, “cái tôi lý tưởng” không bao giờ vươn tới
được, tồn tại theo nguyên tắc kiểm duyệt, chèn ép.
Freud đã đề cao yếu tố vô thức bản năng quyết định tất cả, phủ định ý thức, phủ nhận
bản chất xã hội lịch sử của tâm lý người. Đồng nhất tâm lý với sinh lý, sinh vật hoá tâm lý
con người

1.1.2. 4. Tâm lý học nhân văn
Do C. Rogers (1902-1987) và H. Maslow sáng lập. Hai ông cho rằng: Bản
chất con người vốn tốt đẹp, có lòng vị tha, có tiềm năng kỳ diệu.
Maslow đã nêu lên 5 mức độ nhu cầu cơ bản của con người xếp theo thứ
tự từ thấp đến cao (tháp nhu cầu):
(C. Rogers )

- Nhu cầu sinh lý cơ bản
- Nhu cầu an toàn
- Nhu cầu quan hệ xã hội
- Nhu cầu được kính nể, ngưỡng mộ
- Nhu cầu phát huy bản ngã, thành đạt.
(H. Maslow )

C. Rogers cho rằng con người cần đối xử với nhau cởi mở và tế nhị, thông cảm và chia
sẻ. Tâm lý học cần giúp con người tìm được bản ngã đích thực của mình để sống thoải mái,
hồn nhiên và sáng tạo. Tuy nhiên, tâm lý học nhân văn đề cao những cảm nghiệm, thế
nghiệm chủ quan của mỗi người, tách con người khỏi các mối quan hệ xã hội, chỉ chú ý
đến mặt nhân văn trừu tượng trong con người vì thế thiếu vắng con người trong hoạt động
thực tiễn.
1.1.2.5. Tâm lý học nhận thức
Do J. Piaget (Thuỵ Sĩ) và G. Bruner (Mỹ) sáng lập. Tâm lý học nhận thức coi hoạt động
nhận thức là đối tượng nghiên cứu của mình. Họ nghiên cứu tâm lý, nhận thức của con
người trong mối quan hệ với môi trường, với cơ thể và với não bộ.

J. Piaget

Họ đã phát hiện ra nhiều sự kiện khoa học có giá trị về nhận thức, khả
năng tri giác, trí nhớ, ngôn ngữ, tư duy... của con người, xây dựng được
nhiều phương pháp nghiên cứu tâm lí học. Song dòng phái này cũng có

những mặt hạn chế: coi nhận thức của con người là sự nỗ lực ý chí để đưa
ra sự thay đổi vốn tri thức và cấu trúc trí tuệ của chủ thể, nhằm cân bằng,
thích nghi với thế giới, chưa thấy hết ý nghĩa tích cực, ý nghĩa thực tiễn
của hoạt động nhận thức cải tạo thế giới và bản thân.

6


1.1.2.6. Tâm lý học hoạt động
Do các nhà tâm lý học Xô Viết như: L.X.Vưgôtxki (1896- 1934),
A.N.Lêônchiev (1903- 1979), A.R.Luria (1902- 1977) sáng lập. Đay là
dòng phái tâm lý học lấy triết học Mác - Lênin làm cơ sở lý luận và
phương pháp luận. Coi tâm lý là sự phản ánh khách quan vào não người,
tâm lý mang tính chủ thể và có bản chất xã hội lịch sử, tâm lý được hình
thành, phát triển, thể hiện trong hoạt động và các mối quan hệ giao lưu
L.X.Vưgôtxki
của con người trong xã hội. Vì thế, tâm lý học Mácxít còn gọi là “tâm lý
học hoạt động”.
Tóm lại, thế giới tâm lý của con người vô cùng diệu kỳ và phong phú, được loài người
quan tâm nghiên cứu cùng với lịch sử hình thành và phát triển nhân loại. Từ những tư
tưởng đầu tiên sơ khai về hiện tượng tâm lý, tâm lý học đã hình thành và phát triển không
ngừng và ngày càng giữ một vị trí quan trọng trong nhóm các khoa học về con người. Đây
là một khoa học có ý nghĩa to lớn trong công việc phát huy nhân tố con người trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.1.3. Đối tượng của tâm lý học
1.1.3.1. Đặc điểm của tâm lý học so với các khoa học khác
Tâm lý học là một khoa học chuyên nghiên cứu các hiện tượng tâm lý gần gũi, gắn bó
với đời sống con người. Từ những hiện tượng tâm lý đơn giản như cảm giác âm thanh đến
những hiện tượng tâm lý phức tạp hơn như: trí nhớ, tư duy, tưởng tượng, tình cảm, ý chí, ý
thức, nhân cách... Các hiện tâm lý dù ở dạng hiện thực hay tiềm năng, cụ thể hay trừu

tượng, đều hoà quyện đan xen vào nhau khó tách bạch ra được, song dù nó trừu tượng đến
đâu cũng được bộc lộ thể hiện qua hành vi, cử chỉ, cách nói năng, đi đứng của con người từ
đó ta có thể nhận thức được nó.
Tâm lý học là nơi hội tụ nhiều khoa học nghiên cứu về con người. Nó là khoa học trung
gian giữa tự nhiên - xã hội và triết học... Đối tượng nghiên cứu là những hiện tượng tinh
thần, nhưng nó không tồn tại lơ lửng, trừu tượng, phi vật chất mà nó gắn liền với hiện
tượng sinh lý thần kinh, cũng như các quá trình sinh lý hoá khác trên não và được thể hiện
qua hệ thống một hành vi hoạt động của con người. Mặt khác, tâm lý có nội dung bản chất
xã hội lịch sử và bị chế ước bởi các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, mang tính xã hội
lịch sử. Tâm lý học là sự hội tụ, giao thoa của nhiều khoa học, nó là bông hoa lưỡng tính, sự
phát triển tâm lý học là sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc thành tựu của các khoa học khác nhau.
Tâm lý học là một bộ môn khoa học cơ bản trong hệ thống các khoa học về con người.
Nó là một bộ phận nghiệp vụ, tham gia vào qúa trình giáo dục đào tạo con người, nhằm
hình thành nhân cách con người. Ngoài ra còn tham gia vào các lĩnh vực hoạt động xã hội
khác như: văn học nghệ thuật, quân sự, pháp lý, y học, thương mại, quản lý xã hội, công
tác chính trị, tự giáo dục, tự rèn luyện...
1.1.3.2. Đối tượng của tâm lý học
Theo quan điểm duy vật biện chứng, thế giới luôn vận động biến đổi không ngừng. Mỗi
khoa học nghiên cứu một dạng vận động của thế giới: Khoa học tự nhiên nghiên cứu các
dạng vận động của thế giới tự nhiên, khoa học xã hội nghiên cứu các dạng vận động của xã
hội. Có những khoa học nghiên cứu các dạng vận động chuyển tiếp, trung gian từ dạng vận
động này sang dạng vận động khác (cơ- vật lý học, hoá- sinh học, lý- sinh học, sinh - tâm
lý học...). Trong đó, tâm lý học nghiên cứu dạng vận động chuyển tiếp từ vận động sinh vật
sang vận động xã hội, từ thế giới khách quan vào não người sinh ra hiện tượng tâm lý với
tư cách là một hiện tượng tinh thần.
Như vậy, đối tượng của tâm lý học là các hiện tượng tâm lý người với tư cách là một
hiện tượng tinh thần do thế giới khách quan tác động vào não con người sinh ra (gọi chung
7



là các hoạt động tâm lý). Tâm lý học nghiên cứu sự hình thành, vận hành và phát triển của
hoạt động tâm lý.
1.1.4. Nhiệm vụ của tâm lý học
- Nhiệm vụ cơ bản của tâm lý nghiên cứu bản chất hoạt động của tâm lý, các quy luật
nảy sinh và phát triển tâm lý, cơ chế diễn biến và thể hiện tâm lý, quy luật về mối quan hệ
giữa các hiện tượng tâm lý, cụ thể là nghiên cứu:
+ Những yếu tố khách quan, chủ quan nào đã tạo ra tâm lý người;
+ Cơ chế hình thành, biểu hiện của hoạt động tâm lý;
+ Tâm lý của con người hoạt động như thế nào?
+ Chức năng, vai trò của tâm lý đối với hoạt động của con người.
- Có thể nêu lên các nhiệm vụ cụ thể của tâm lý học như sau:
+ Nghiên cứu bản chất của hoạt động tâm lý cả về mặt số lượng và chất lượng;
+ Phát hiện các quy luật hình thành, phát triển tâm lý;
+ Tìm ra cơ chế của các hiện tượng tâm lý;
Trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu, tâm lý học đưa ra những giải pháp hữu hiệu cho
việc hình thành, phát triển tâm lý, sử dụng tâm lý trong nhân tố con người có hiệu quả
nhất. Để thực hiện các nhiệm vụ nói trên, tâm lý học phải liên kết, phối hợp chặt chẽ với
nhiều khoa học khác.
1.1.5. Vị trí, ý nghĩa của tâm lý học
1.1.5.1. Vị trí của tâm lý học
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học. Mỗi khoa học nghiên cứu một
mặt nào đó của con người. Trong đó tâm lý học chiếm một vị trí đặc biệt. Nó là trung tâm
của 3 khoa học: tự nhiên - xã hội - triết học.
Triết học cung cấp cơ sở lý luận và phương pháp luận chỉ đạo tâm lý học (những
nguyên tắc, phương hướng chung). Ngược lại, tâm lý học làm cho triết học phong phú hơn.
Tâm lý học quan hệ chặt chẽ với khoa học tự nhiên: giải phẫu sinh lý người, hoạt động
thần kinh cấp cao là cơ sở tự nhiên của các hiện tượng tâm lý. Các thành tựu của sinh vật
học, di truyền học, tiến hoá luận...đã góp phần làm sáng tỏ nguồn gốc, bản chất tâm lý người.
Tâm lý học quan hệ hữu cơ với khoa học xã hội và nhân văn, công nghệ... Ngược lại,
những thành tựu tâm lý học được ứng dụng vào các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, pháp

luật, y học, nghệ thuật, giáo dục... Tâm lý học là cơ sở cho khoa học giáo dục, thực chất
quá trình giáo dục là quá trình hiện thực hoá nội dung tâm lý cần hình thành và phát triển ở
con người.
1.1.5.2. Ý nghĩa của tâm lý học
Tâm lý học có ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn: Góp phần tích cực vào việc
đấu tranh chống lại các quan điểm phản khoa học về tâm lý con người. Trực tiếp phục vụ
sự nghiệp giáo dục. Nó giúp giải thích một cách khoa học những hiện tượng tâm lý xảy ra
trong bản thân mình, người khác, trong cộng đồng xã hội. Nó là cơ sở cho việc tự rèn luyện,
hoàn thiện nhân cách và xây dựng mối quan hệ giao lưu, quan hệ liên nhân cách, quan hệ xã
hội. Ngoài ra, tâm lý học còn có ý nghĩa thực tiễn đối với nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.2. BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG, PHÂN LOẠI CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ
1.2.1. Bản chất của hiện tượng tâm lý theo quan điểm duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử
Theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: Tâm lý con người là chức năng
của bộ não, là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não thông qua chủ thể mỗi người.
Tâm lý người có bản chất xã hội và mang tính lịch sử.
1.2.1.1. Tâm lý là chức năng của não
8


Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật chất có trước, tinh thần, tâm lý có sau, song
không phải ở đâu có vật chất thì ở đó có tâm lý, dù hiện tượng tâm lý đơn giản đến các
hiện tượng tâm lý phức tạp bậc cao đều thực hiện thông qua chức năng của bộ não ngườithứ vật chất đặc biệt, có tổ chức cao nhất. “Tâm lý, ý thức... là sản phẩm của vật chất có tổ
chức cao, là chức năng của khối vật chất đặc biệt phức tạp là não người” (V.I.Lênin).
Hình ảnh tâm lý có được là do hiện thực khách quan tác động vào giác quan rồi chuyển
lên não. Não hoạt động theo cơ chế phản xạ, từ đó sinh ra các hiện tượng tâm lý. Trong đó
vai trò của phản xạ có điều kiện là cơ sở sinh lý của các hiện tượng tâm lý. Hoạt động phản
xạ có điều kiện giúp cơ thể thích ứng với môi trường luôn thay đổi.
Sự hình thành và thể hiện tâm lý người chịu sự chi phối chặt chẽ của sự tác động qua lại
giữa hai hệ thống tín hiệu, trong đó hệ thống tín hiệu thứ nhất là cơ sở của hoạt động trực

quan cảm tính, cảm xúc, còn hệ thống tín hiệu thứ hai là cơ sở sinh lý của tư duy, ngôn
ngữ, ý thức, tình cảm và các chức năng tâm lý cấp cao của con người.
Tóm lại, các hiện tượng tâm lý người có cơ sở sinh lý là hệ thống chức năng thần kinh cơ
động của não bộ, tâm lý là chức năng của não, tâm lý có cơ chế phản xạ của não.
1.2.2.2. Tâm lý là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ
thể
Tâm lý người không phải do lực lượng siêu nhiên nào đó sinh ra, cũng không phải do não
“tiết ra” mà là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não thông qua “lăng kính chủ quan”.
- Thế giới khách quan tồn tại bằng các thuộc tính không gian, thời gian và luôn vận
động. Phản ánh là thuộc tính chung của mọi sự vật hiện tượng đang vận động, đó là sự tác
động qua lại giữa hệ thống này lên hệ thống khác, kết quả là để lại "dấu vết" (hình ảnh)
trên cả hai hệ thống.
Sự phản ánh đó diễn ra từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hoá lẫn nhau, từ phản
ánh cơ, lý, hoá, sinh đến phản ánh xã hội, trong đó có sự phản ánh tâm lý.
- Phản ánh tâm lý là một loại phản ánh đặc biệt:
+ Tâm lý là hình ảnh tinh thần (tâm lý) do thế giới khách quan tác động vào não - tổ
chức cao nhất của vật chất mà có. Chỉ có hệ thân kinh và não người mới có khả năng nhận
tác động của hiện thực khách quan, tạo ra trên não hình ảnh tinh thần chứa đựng trong dấu
vết vật chất. C.Mác đã nói: Tinh thần, tư tưởng, tâm lý... chẳng qua là vật chất được
chuyển vào trong đầu óc, biến đổi trong đó mà có.
+ Phản ánh tâm lý tạo ra “hình ảnh tâm lý” như một bản sao về thế giới, là kết quả của
quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào não, song hình ảnh tâm lý khác về chất so với
các hình ảnh cơ, lý, hoá, sinh... ở chỗ:
 Hình ảnh tâm lý mang tính sinh động, sáng tạo hơn (sự khác nhau giữa quyển sách
trước gương với quyển sách trong đầu một người biết chữ).
 Hình ảnh tâm lý mang tính chủ thể, mang đậm màu sắc cá nhân (hay nhóm người)
mang hình ảnh tâm lý đó. Nói cách khác, hình ảnh tâm lí là hình ảnh chủ quan về hiện thực
khách quan. Mỗi chủ thể khi tạo ra hình ảnh tâm lý về thế giới đã đưa vốn hiểu biết, kinh
nghiệm, cái riêng của mình (nhu cầu, hứng thú, xu hướng, năng lực, phẩm chất...) vào
trong hình ảnh đó làm cho nó mang đậm màu sắc chủ quan. Nghĩa là, hình ảnh tâm lý mỗi

cá nhân (hay nhóm người) phản ánh thế giới khách quan thông qua “lăng kính chủ quan”
của mình.
- Tính chủ thể trong phản ánh tâm lý thể hiện ở chỗ:
+ Cùng nhận sự tác động của thế giới về cùng một hiện thực khách quan nhưng ở những
chủ thể khác nhau xuất hiện những hình ảnh tâm lý với những mức độ, sắc thái khác nhau.
9


+ Cũng có khi cùng một hiện thực khách quan tác động vào một chủ thể nhưng ở các
thời điểm khác nhau, hoàn cảnh, trạng thái cơ thể, tinh thần khác nhau có thể sẽ cho ra mức
độ biểu hiện và sắc thái tâm lý khác nhau ở chủ thể ấy.
Tâm lý người này khác với người kia do nhiều yếu tố chi phối: mỗi người có những đặc
điểm riêng về cơ thể, giác quan, hệ thần kinh và não bộ. Mỗi người có hoàn cảnh sống
khác nhau, điều kiện giáo dục không như nhau và đặc biệt là mỗi cá nhân thể hiện mức độ
tích cực hoạt động, tích cực giao lưu khác nhau trong cuộc sống.
Từ luận điểm nêu trên, có thể rút ra một số kết luận thực tiễn sau:
- Tâm lý người có nguồn gốc từ thế giới khách quan, vì thế khi nghiên cứu cũng như khi
hình thành, cải tạo tâm lý phải nghiên cứu hoàn cảnh con người sống và hoạt động.
- Tâm lý người mang tính chủ thể, vì vậy trong dạy học, giáo dục, quản lý con người
phải chú ý đến nguyên tắc sát đối tượng.
- Tâm lý là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp, vì thế phải tổ chức hoạt động và giao
tiếp để nghiên cứu sự hình thành và phát triển tâm lý người.
1.2.1.3. Tâm lí người mang bản chất xã hội, lịch sử
Tâm lí người khác xa về chất so với tâm lí động vật đó là có bản chất xã hội lịch sử.
- Trước hết tâm lí người có nguồn gốc là thế giới khách quan. Trong thế giới khách
quan các hiện tượng tự nhiên, xã hội đều ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí, trong đó phần
xã hội (các mối quan hệ kinh tế, văn hóa xã hội, đạo đức, pháp luật...) đặc biệt quan hệ con
người với con người có ý nghĩa quyết định tâm lí người. Trên thực tế, nếu con người thoát
li khỏi xã hội, quan hệ người - người thì tâm lý sẽ mất bản tính người (trường hợp trẻ bị lạc
sống cùng động vật).

- Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp của con người với tư cách là chủ
thể tích cực, chủ động, sáng tạo trong các mối quan hệ xã hội. Con người vừa là một thực
thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội. Ngay cả phần tự nhiên ở con người như đặc điểm
cơ thể, giác quan, hệ thần kinh, não bộ ... cũng được xã hội hoá ở mức độ cao nhất. “Sự
hình thành năm giác quan người là công việc của toàn bộ xã hội lịch sử...”(Ăngghen). Vì
thế tâm lý con người mang đầy đủ dấu ấn xã hội lịch sử.
- Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả quá trình lĩnh hội, tiếp thu vốn kinh nghiệm lịch sử,
nền văn hoá xã hội loài người...biến thành cái riêng của mỗi người thông qua hoạt động,
giao tiếp trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo, hoạt động và mối quan hệ giao tiếp của con
người trong xã hội có tính quyết định.
- Tâm lý của mỗi con người hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự phát triển
của lịch sử cá nhân, lịch sử dân tộc và cộng đồng xã hội. Tâm lý của mỗi con người chịu sự
chế ước bởi lịch sử của cá nhân và cộng đồng.
Từ những luận điểm trên cần chú ý nghiên cứu môi trường xã hội, các quan hệ xã hội
để hình thành và phát triển tâm lý, cần tổ chức có hiệu quả hoạt động đa dạng ở từng giai
đoạn lứa tuổi khác nhau giúp cho con người lĩnh hội nền văn hoá xã hội để hình thành và
phát triển tâm lý.
Tóm lại, khi xem xét bản chất hiện tượng tâm lý người, có thể phân tích trên 3 phương
diện:
- Về cơ chế: Tâm lý diễn ra theo cơ chế phản xạ của não.
- Về nội dung: Tâm lý là sự phản ánh thế giới khách quan thông qua lăng kính chủ quan
(chủ thể).
- Về bản chất: Tâm lý có bản chất xã hội và mang tính lịch sử.
1.2.2. Chức năng của tâm lý
Tâm lý giữ vai trò quan trọng trong đời sống con người. Nó điều hành mọi hoạt động,
hành vi của con người, nó tác động trở lại hiện thực bằng tính năng động sáng tạo của nó.
10


- Tâm lý có chức năng chung là định hướng cho mọi hoạt động thông qua hệ thống

động cơ, mục đích của hoạt động, hướng hoạt động vào mục đích đã được xác định.
- Tâm lý là động lực thôi thúc, lôi cuốn con người hoạt động, khắc phục mọi khó khăn
vươn tới mục đích đề ra.
- Tâm lý điều khiển, kiểm tra quá trình hoạt động bằng chương trình, kế hoạch, phương
pháp, phương thức tiến hành hoạt động, làm cho hoạt động con người trở nên có ý thức,
đem lại hiệu quả nhất định.
- Tâm lý giúp con người điều chỉnh hoạt động cho phù hợp với mục tiêu đã xác định,
với điều kiện và hoàn cảnh thực tế cho phép.
Tóm lại, nhờ các chức năng trên mà tâm lý giúp con người không những thích ứng với
hoàn cảnh khách quan mà còn nhận thức, cải tạo và sáng tạo thế giới và chính trong quá
trình đó con người cũng nhận thức, cải tạo chính bản thân mình.
1.2.3. Phân loại hiện tượng tâm lý
1.2.3.1. Cách phân loại phổ biến
Phân loại các hiện tượng tâm lý theo thời gian tồn tại và vị trí tương đối của chúng
trong nhân cách. Theo cách phân loại này, các hiện tượng tâm lý có ba loại chính: các quá
trình tâm lý, các trạng thái tâm lý và các thuộc tính tâm lý.
- Các quá trình tâm lý là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối
ngắn, có mở đầu, diễn biến, kết thúc tương đối rõ ràng. Người ta thường phân biệt ba quá
trình tâm lý:
+ Quá trình nhận thức, gồm: cảm giác, tri giác, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy.
+ Quá trình cảm xúc biểu thị sự vui mừng hay tức giận, dễ chịu, khó chịu, nhiệt tình
hay thờ ơ...
+ Quá trình hành động ý chí
- Các trạng thái tâm lý là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối dài,
việc mở đầu và kết thúc không rõ ràng, như: chú ý, tâm trạng...
- Các thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định, khó hình thành
và khó mất đi, tạo thành những nét riêng của nhân cách. Người ta thường nói tới bốn nhóm
thuộc tính tâm lý cá nhân, như: xu hướng, tính cách, khí chất và năng lực.
Có thể biểu diễn mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lý bằng sơ đồ sau:
Tâm lý

Các quá
trình tâm lý

Các trạng
thái tâm lý

Các thuộc
tính tâm lý

1.2.3.2. Các cách phân loại khác
- Các hiện tượng tâm lý có ý thức và chưa được ý thức;
- Hiện tượng tâm lý sống động (thể hiện trong hành vi, hoạt động) và hiện tượng tâm lý
tiềm tàng (tích đọng trong sản phẩm của hoạt động).
- Cũng có thể phân biệt hiện tượng tâm lý của cá nhân với hiện tượng tâm lý xã hội
(phong tục, tập quán, định hình xã hội, tin đồn, dư luận xã hội, tâm trạng xã hội, "mốt"...).
Như vậy, thế giới tâm lý của con người vô cùng đa dạng và phức tạp. Các hiện tượng tâm
lý có nhiều mức độ, cấp độ khác nhau, có quan hệ đan xen vào nhau, chuyển hoá cho nhau.
1.3. CÁC NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÂM LÝ
1.3.1. Các nguyên tắc phương pháp luận
1.3.1.1. Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng
11


Nguyên tắc này khẳng định tâm lý có nguồn gốc là thế giới khách quan tác động vào bộ
não con người thông qua "lăng kính chủ quan" của mỗi người. Tâm lý định hướng, điều
khiển, điều chỉnh hoạt động, hành vi của con người tác động trở lại thế giới, trong đó yếu
tố xã hội là quan trọng nhất. Do đó khi nghiên cứu tâm lý người cần thấm nhuần nguyên
tắc quyết định luận duy vật biện chứng.
1.3.1.2. Nguyên tắc thống nhất tâm lý, ý thức, nhân cách với hoạt động
Hoạt động là phương thức hình thành, phát triển và thể hiện tâm lý, ý thức, nhân cách,

đồng thời tâm lý, ý thức, nhân cách là cái điều hành hoạt động. Vì thế chúng thống nhất
với nhau. Nguyên tắc này cũng khẳng định tâm lý luôn luôn vận động và phát triển. Cần
phải nghiên cứu tâm lý trong sự vận động của nó, nghiên cứu tâm lý qua sự diễn biến, cũng
như qua sản phẩm của hoạt động.
1.3.1.3. Nguyên tắc phải nghiên cứu các hiện tượng tâm lý trong mối quan hệ giữa
chúng với nhau và trong mối liên hệ giữa chúng với các loại hiện tượng khác.
Các hiện tượng tâm lý không tồn tại một cách biệt lập mà chúng có quan hệ chặt chẽ
với nhau, bổ sung cho nhau, chuyển hoá lẫn nhau, đồng thời chúng còn chi phối và chịu sự
chi phối của các hiện tượng khác.
1.3.1.4. Nguyên tắc phải nghiên cứu tâm lý của một con người cụ thể, của một nhóm
người cụ thể, chứ không nghiên cứu tâm lý một cách chung chung, nghiên cứu tâm lý ở
một con người trừu tượng, một cộng đồng trừu tượng.
1.3.2. Các phương pháp nghiên cứu tâm lý
1.3.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp nghiên cứu những biểu hiện bên ngoài của tâm lý con người
(hành vi, cử chỉ, nét mặt, lời nói, dáng điệu vv..) diễn ra trong điều kiện sinh hoạt tự nhiên,
bình thường của họ để từ đó rút ra kết luận.
- Quan sát là loại tri giác có chủ định, cho phép chúng ta thu được nhiều tài liệu cụ thể,
sinh động, trực quan, khách quan trong các điều kiện tự nhiên của con người.
- Quan sát có nhiều hình thức: quan sát toàn diện, quan sát bộ phận, quan sát có trọng
điểm, quan sát trực tiếp hay gián tiếp và tự quan sát.
- Muốn quan sát có hiệu quả cao cần chú ý:
+ Xác định mục đích, nội dung, kế hoạch quan sát.
+ Chuẩn bị chu đáo về mọi mặt.
+ Tiến hành quan sát một cách cẩn thận, có hệ thống.
+ Ghi chép một cách khách quan và rút ra những nhận xét trung thực.
- Ưu điểm của phương pháp quan sát là sẽ cho ta thu được các tài liệu cụ thể, khách
quan, các thông tin thô. Tuy nhiên, nó phụ thuộc khá lớn vào người tiến hành quan sát
(trình độ, kinh nghiệm, tính trạng sức khoẻ ...), dễ dẫn đến suy diễn, nhận định chủ quan..
Phương pháp này sẽ tốn nhiều thời gian và công sức. Đối với các biểu hiện tâm lý sâu kín

(niềm tin, lý tưởng, thói quen, nguyện vọng vv..) rất khó có thể quan sát được.
1.3.2.2. Phương pháp trò chuyện (đàm thoại)
Trò chuyện là phương pháp nghiên cứu tâm lý con người thông qua việc trò chuyện
chân tình, cởi mở với họ, nêu ra các câu hỏi và dựa vào câu trả lời của họ nhằm thu thập
thông tin về vấn đề nghiên cứu.
- Ưu điểm của phương pháp này là cho phép đi sâu nghiên cứu nội tâm con người mà ít
tốn kém. Tuy nhiên, nó lệ thuộc khá lớn vào kinh nghiệm và khả năng tiếp xúc của người
nghiên cứu, dễ xẩy ra việc lồng ý chủ quan của người nghiên cứu qua trao đổi. Hơn nữa
không phải đối tượng nào cũng dễ dàng chấp nhận lối nghiên cứu này. Dễ đưa đến những
nhận định chủ quan.
- Có thể đàm thoại trực tiếp hay gián tiếp, hỏi thẳng hoặc hỏi đường vòng.
- Khi đàm thoại muốn thu được tài liệu tốt nên:
+ Xác định rõ mục đích yêu cầu (vấn đề cần tìm hiểu).
+ Tìm hiểu thông tin về đối tượng.
+ Có kế hoạch chủ động “lái hướng câu chuyện”.
12


+ Cần linh hoạt, khéo léo tế nhị khi lái hướng câu chuyện, vừa giữ được lôgíc tự nhiên
vừa đáp ứng yêu cầu nghiên cứu.
+ Tạo không khí tâm lý tự nhiên, gần gũi, cởi mở, chân thành..
1.3.2.3. Phương pháp điều tra
Điều tra là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lượng lớn đối
tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về một vấn đề nào đó.
- Có thể trả lời miệng (phỏng vấn) hoặc bằng viết gọi là Ankét (enquete). Câu hỏi dùng
trong điều tra có thể bằng câu hỏi đóng hoặc câu hỏi mở.
- Dùng phương pháp điều tra có thể trong một thời gian ngắn thu thập được một số ý
kiến của nhiều người nhưng là ý kiến chủ quan. Để có tài liệu tương đối chính xác phải
điều tra nhiều lần và cần soạn kỹ bản hướng dẫn điều tra viên theo yêu cầu cụ thể.
- Ưu điểm của phương pháp này là thu thông tin khá nhanh và nhiều. Đảm bảo tự do tư

tưởng cho người được hỏi, nhưng cần có sự hợp tác và trách nhiệm cao của người trả lời để
thông tin được chính xác và khách quan.
- Để phương pháp này đạt được hiệu quả cao khi sử dụng cần:
+ Câu hỏi phải rõ ràng, dễ hiểu phù hợp với trình độ của đối tượng được nghiên cứu.
+ Soạn kỹ bản hướng dẫn điều tra viên- người sẽ phổ biến câu hỏi điều tra cho các đối tượng
+ Khi xử lý số liệu cần dùng phương pháp toán xác suất thống kê để tránh sự sai sót.
1.3.2.4. Phương pháp thực nghiệm
Thực nghiệm là phương pháp tác động vào đối tượng một cách chủ động trong những
điều kiện đã được khống chế để gây ra ở đối tượng những biểu hiện cần nghiên cứu, có thể
lặp đi lặp lại nhiều lần đo đạc định lượng, định tính một cách khách quan.
- Thường có hai loại thực nghiệm:
+ Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm: được thực hiện dưới điều kiện khống chế một
cách nghiêm khắc các ảnh hưởng bên ngoài, chủ động tạo ra những điều kiện làm nẩy sinh
nội dung tâm lý cần nghiên cứu.
+ Thực nghiệm tự nhiên: được tiến hành trong điều kiện bình thường của cuộc sống.
Ngoài ra, tuỳ theo mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu mà người ta phân biệt thực nghiệm
tự nhiên lại được phân thành hai loại:
 Thực nghiệm nhận định: là thực nghiệm nhằm xác định thực trạng vấn đề nghiên
cứu ở một thời điểm cụ thể.
 Thực nghiệm hình thành: ở loại thực nghiệm này người nghiên cứu tiến hành các tác
động giáo dục, rèn luyện nhằm hình thành một phẩm chất tâm lý nào đó ở đối tượng thực
nghiệm (nghiệm thể).
- Yêu cầu:
+ Lựa chọn đối tượng tiêu biểu để thực nghiệm.
+ Phải xây dựng giả thuyết tốt.
+ Phải thực nghiệm nhiều lần và tách yếu tố tất nhiên - ngẫu nhiên.
+ Phối hợp với các phương pháp khác.
1.3.2.5. Phương pháp trắc nghiệm (Test)
Test là một phép thử để đo lường tâm lý, đã được chuẩn hoá trên một số lượng người là
đại diện tiêu biểu.

- Ngày nay có rất nhiều loại Test khác nhau để xác định các loại phẩm chất tâm lý,
sinh lý của con người, như: khả năng trí tuệ, năng lực, trí nhớ, độ nhạy cảm của các giác
quan, đời sống tình cảm…
- Ưu điểm của Test là có khả năng làm cho hiện tượng tâm lý cần đo trực tiếp bộc lộ
qua hành động giải bài tập Test, tiến hành tương đối đơn giản bằng giấy bút, tranh vẽ, lượng
hoá và chuẩn hoá chỉ tiêu tâm lý cần đo. Tuy nhiên, Test cũng có những hạn chế như: khó
soạn một bộ test đảm bảo tính chuẩn hoá, hoàn chỉnh. Test chủ yếu là cho ta biết kết quả, ít
bộc lộ qúa trình suy nghĩ của nghiệm thể để đi đến kết quả. Vì thế, cần sử dụng Test như là
một trong các phương pháp chẩn đoán tâm lý con người ở một thời điểm nhất định.
13


- Yêu cầu: Khi soạn thảo bộ Test phải đảm bảo tính chuẩn hoá, phải bảo đảm 4 phần:
văn bản Test; hướng dẫn quy trình tiến hành; hướng dẫn đánh giá; bản chuẩn hóa.
1.3.2.6. Phương pháp phân tích sản phẩm
Phân tích sản phẩm hoạt động là phương pháp dựa vào các kết quả, sản phẩm (vật chất,
tinh thần) hoạt động của đối tượng nghiên cứu để tìm ra đặc điểm, tính chất những hoạt
động của chủ thể trong quá trình tạo ra sản phẩm vì trong sản phẩm bao giờ cũng để lại
“dấu ấn” tâm lý, ý thức, nhân cách của chủ thể.
- Phương pháp này có ưu điểm là dễ thực hiện, vì sản phẩm của con người dễ dàng có
thể lấy ra để quan sát và đánh giá, hơn nữa lại có thể cùng một lúc sử dụng để nghiên cứu
nhiều người. Nhưng nó có nhược điểm là người nghiên cứu phải giỏi nghiệp vụ mới đưa ra
các kết luận chính xác.
- Yêu cầu khi sử dụng phương pháp này:
+ Cần thu thập nhiều sản phẩm khác nhau.
+ Phân loại sản phẩm (sản phẩm chính, sản phẩm ngẫu nhiên...)
+ Nghiên cứu lịch sử quá trình tạo ra sản phẩm.
+ Phân tích tìm ra bản chất.
1.3.2.7. Phương pháp nghiên cứu tiểu sử cá nhân
Đây là phương pháp nghiên cứu tâm lý gián tiếp thông qua hồ sơ, tiểu sử hoạt động của

đối tượng nghiên cứu để chẩn đoán những đặc điểm tâm lý của họ.
- Phương pháp này nó có ưu điểm là dễ thực hiện, nhưng lại có nhược điểm là cần phải
quản lý tốt hồ sơ, đồng thời lý lịch theo mẫu định sẵn chỉ có thể phản ánh một cách tổng
quát theo một số nội dung nhất định nên khó phát hiện yếu tố tâm lý sâu sắc của họ.
Tóm lại, các phương pháp nghiên cứu tâm lý khá phong phú. Mỗi phương pháp đều có
những ưu điểm và hạn chế nhất định. Vì vậy, muốn nghiên cứu một chức năng tâm lý một
cách khoa học cần:
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu thích hợp với vấn đề nghiên cứu;
- Sử dụng phối hợp và đồng bộ các phương pháp nghiên cứu để đem lại kết quả khoa
học toàn diện.
Câu hỏi ôn tập và thảo luận
1. Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu tâm lý học là gì ?
2. Phân tích bản chất hiện tượng tâm lý người và rút ra bài học sư phạm.
Thảo lụân: - Tại sao nói tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não
người thông qua chủ thể ? Bài học sư phạm rút ra từ luận điểm này là gì ?
- Chứng minh tâm lý người mang bản chất xã hội, lịch sử. Từ đó rút ra
những kết luận cần thiết.
Thực hành: Hướng dẫn sinh viên thực hiện các bài tập trong sách thực hành.

14


CHƯƠNG 2. CƠ SỞ TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI CỦA TÂM LÝ NGƯỜI
Con người là một thực thể sinh vật - xã hội và văn hoá. Do đó cần nghiên cứu, tiếp cận
con người trên cả ba mặt: sinh vật - tâm lý - xã hội. Muốn giải thích đời sống tâm lý của
con người một cách khoa học và duy vật cần phải hiểu biết cơ sở tự nhiên (cơ sở vật chất,
cơ sở sinh lý) và cơ sở xã hội của nó.
2.1. CƠ SỞ TỰ NHIÊN
Bàn về cơ sở tự nhiên của tâm lý con người có nhiều vấn đề cần nghiên cứu, ở đây
chúng ta chủ yếu chỉ giới hạn ở một số mối quan hệ giữa di truyền, bộ não, phản xạ có điều

kiện và hệ thống tín hiệu thứ hai với tâm lý.
2.1.1. Não và tâm lý
Mối liên hệ giữa não và tâm lý là một trong những vấn đề cơ bản trong việc lý giải cơ
sở tự nhiên, cơ sở vật chất của hiện tượng tâm lý người. Song, xung quanh mối liên hệ giữa
tâm lý và não cũng có nhiều quan điểm khác nhau:
- Quan điểm tâm lý vật lý song song: ngay từ thời R.Đêcac với quan điểm nhị nguyên,
các đại biểu của tâm lý học kinh nghiệm chủ nghĩa coi quá trình sinh lý và tâm lý thường
song song diễn ra trong não người, không phụ thuộc vào nhau, trong đó tâm lý được coi là
hiện tượng phụ.
- Quan điểm đồng nhất tâm lý với sinh lý: đại biểu của chủ nghĩa duy vật tầm thường
Đức (Bucsơne, Phôxtơ, Môlêsôt) cho rằng: tư tưởng do não tiết ra giống như mật do gan
tiết ra.
- Quan điểm duy vật: coi tâm lý và sinh lý có quan hệ chặt chẽ với nhau, tâm lý có cơ sở
vật chất là hoạt động của não bộ, nhưng tâm lý không song song hay đồng nhất với sinh lý.
Phơbach (1804 - 1872) - nhà triết học duy vật trước Mác đã khẳng định: tinh thần, ý
thức không thể tách rời ra khỏi não người, nó là sản vật của vật chất đã được phát triển tới
mức độ cao nhất là bộ não. V.I. Lênin đã chỉ ra rằng: "Tâm lý là cơ năng của cái phần nhỏ
đặc biệt phức tạp của vật chất mà ta gọi là bộ não của con người". Tất nhiên tâm lý và sinh
lý không đồng nhất với nhau. Ph.Ăngghen cũng đã từng viết: "Chắc hẳn đến một lúc nào
đó qua con đường thực nghiệm, chúng ta "sẽ quy" được tư duy thành những vận động phân
tử và hoá học ở trong óc, nhưng điều đó có bao quát được bản chất của tư duy chăng?".
Các nhà tâm lý học khoa học đã chỉ ra rằng, tâm lý là chức năng của não: bộ não nhận
tác động của thế giới dưới tác các dạng xung động thần kinh cùng những biến đổi lý hoá ở
từng nơron, từng xinap, các trung khu thần kinh ở bộ phận dưới vỏ và vỏ não, làm cho não
hoạt động theo quy luật, tạo nên hiện tượng tâm lý này hay hiện tượng tâm lý kia theo cơ
chế phản xạ (nội dung là tâm lý nhưng có cơ chế là phản xạ sinh lý của não).
Cấu tạo của não bao gồm
- Hành tủy ( nối liền tủy sống )
- Cầu não (ở giữa não tủy và hành tủy)
- Não giữa (gồm hai cuống đại não và bốn củ não sinh tư)

- Não trung gian (gồm mấu não, hai đồi thị)
- Tiểu não ( nằm phía sau trụ não, dưới các bán cầu đại não)
- Bán cầu đại não (vỏ não và các hạch dưới vỏ)
Như vậy, tâm lý là kết quả của hệ thống chức năng những hoạt động phản xạ của não,
cùng với quá trình sinh lý não, hiện tượng tâm lý thực hiện chức năng định hướng, điều
chỉnh, điều khiển hành vi của con người.
2.1.2. Vấn đề định khu chức năng tâm lý trong não
Đây là vấn đề hết sức phức tạp, từ trước đến nay có nhiều quan điểm khác nhau:
Theo quan điểm duy vật biện chứng (tâm lý học hoạt động) khẳng định: Trên vỏ não có
nhiều miền (vùng, thùy), mỗi miền là cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm lý tương ứng.
15


Tuy nhiên, mỗi quá trình tâm lý xảy ra là do sự phối hợp của nhiều miền trên vỏ não. Một
hiện tượng tâm lý xẩy ra, nhất là các hiện tượng tâm lý phức tạp, bao giờ cũng có nhiều
trung khu, nhiều miền tham gia tạo thành hiện tượng đó. Tùy theo hiện tượng tâm lý khác
nhau mà các trung khu thần kinh cũng được tạo thành khác nhau - nghĩa là hệ thống trung
khu thần kinh luôn luôn thay đổi. Sự hoạt động dựa trên nguyên tắc “phân công” kết hợp
với nguyên tắc “nhịp nhàng” như vậy tạo nên một hệ thống mà các nhà sinh lý học, tâm lý
học Nga (A.R.Luria, P.K.Anokhin...) gọi đó là hệ thống chức năng cơ động.
1. Vùng thị giác;

2. Vùng thính giác;

3. Vùng vị giác;
4. Vùng cảm giác cơ thể;
5. Vùng vận động;
6. vùng viết ngôn ngữ;
7. Vùng nói ngôn ngữ; 8. Vùng nghe hiểu tiếng nói;
9. Vùng nhìn hiểu chữ viết.


2.1.3. Phản xạ có điều kiện và tâm lý
- Toàn bộ hoạt động của não là họat động phản xạ. Vào thế kỷ thứ XVII, R.Đêcac là
người đầu tiên nêu ra khái niệm "phản xạ" và dùng phản xạ để giải thích hoạt động tâm lý.
Tuy nhiên, Đêcac chỉ mới nói đến hoạt động vô thức gắn với phản xạ.
- I.M.Xêtrênôv - nhà sinh lý học Nga đã mở rộng nguyên tắc phản xạ đến toàn bộ hoạt
động của não. Năm 1863, ông viết: "tất cả các hiện tượng tâm lý, kể cả có ý thức lẫn vô
thức, về nguồn gốc đều là phản xạ". Theo ông phản xạ có 3 khâu chủ yếu:
+ Khâu đầu tiên là quá trình nhận kích thích bên ngoài, biến thành hưng phấn theo
đường hướng tâm dẫn truyền vào não;
+ Khâu giữa là quá trình thần kinh trên não và tạo ra hoạt động tâm lý;
+ Khâu kết thúc dẫn truyền hưng phấn từ trung ương theo đường li tâm (dẫn ra) gây
nên phản ứng của cơ thể.
- I.P.Pavlôv kế tục sự nghiệp của I.M.Xêtrênôv, qua nhiều năm thực nghiệm đã sáng
lập ra học thuyết phản xạ có điều kiện - cơ sở sinh lý của hiện tượng tâm lý.
Thí nghiệm của I.P.Pavlôv:
- Bật đèn, cho thức ăn => tiết nước bọt
(thực hiện nhiều lần)
- Bật đèn => tiết nước bọt (đã thành lập
phản xạ có điều kiện với ánh đèn).

- Đặc điểm của phản xạ có điều kiện:
+ Phản xạ có điều kiện là phản xạ tự tạo trong đời sống từng cá thể để thích ứng với
môi trường luôn luôn thay đổi, là cơ sở sinh lý của hoạt động tâm lý.
+ Cơ sở giải phẫu sinh lý của phản xạ có điều kiện là vỏ não và hoạt động bình thường
của vỏ não.
+ Quá trình diễn biến của phản xạ có điều kiện là quá trình thành lập đường liên hệ thần
kinh tạm thời giữa trung khu nhận kích thích có điều kiện và đại diện của trung khu trực
tiếp thực hiện phản xạ không điều kiện.
+ Phản xạ có điều kiện thành lập với kích thích bất kỳ, đặc biệt ở người, tiếng nói là

một loại kích thích đặc biệt có thể lập bất cứ một phản xạ có điều kiện nào.
+ Phản xạ có điều kiện báo hiệu gián tiếp kích thích không điều kiện sẽ tác động vào cơ thể.
Tất cả các hiện tượng tâm lý đều có cơ sở sinh lý là phản xạ có điều kiện. Hoạt động
phản xạ có điều kiện giúp cơ thể thích ứng với môi trường luôn thay đổi.
16


2.1.4. Quy luật hoạt động thần kinh cấp cao
2.1.4.1. Quy luật hoạt động theo hệ thống
Trong điều kiện tự nhiên của đời sống, các kích thích không tác động một cách riêng lẻ,
mà chúng thường tạo thành một tổ hợp kích thích đồng thời hoặc nối tiếp đến cơ thể. Mặt
khác, cơ thể cũng không phản ứng một cách riêng lẻ mà phản ứng một cách tổ hợp với các
kích thích đó. Như vậy, hoạt động tổng hợp của vỏ não cho phép hợp nhất những kích
thích riêng lẻ hay không riêng lẻ thành một hệ thống. Các hoạt động phản xạ có điều kiện
kế tiếp nhau theo một thứ tự nhất định, tạo nên hệ thống định hình động lực của vỏ não,
làm cho trong não khi có một phản xạ nào đó xảy ra thì kéo theo các phản xạ khác cũng
xảy ra.
2.1.4.2. Quy luật lan toả và tập trung
Hưng phấn và ức chế là hai trạng thái cơ bản của thần kinh (Hưng phấn là hiện tượng
hoạt hoá tổ chức sống khi có kích thích tác động, đây là quá trình giúp hệ thần kinh thực
hiện chức năng tăng độ mạnh của một hay nhiều phản xạ. Ức chế là quá trình hoạt động
thần kinh nhằm làm mất hoặc yếu hưng tính của tế bào thần kinh, nói cách khác nó giúp
kìm hãm hoặc làm mất đi một hay một số phản xạ). Khi trên vỏ não có một điểm (vùng)
nào đó hưng phấn hoặc ức chế, thì nó sẽ không dừng lại ở điểm ấy mà lan tỏa ra các điểm,
vùng khác (gọi là lan tỏa). Sau đó, trong điều kiện bình thường, chúng tập trung lại một
điểm nhất định. Hai quá trình này diễn ra nối tiếp nhau trong một trung khu thần kinh. Nhờ
đó mà hình thành một hệ thống chức năng các phản xạ có điều kiện..
2.1.4.3. Quy luật cảm ứng qua lại
Hai quá trình thần kinh cơ bản luôn ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau, tạo nên qui
luật cảm ứng qua lại. Có bốn loại cảm ứng:

- Cảm ứng qua lại đồng thời: diễn ra giữa nhiều trung khu, hưng phấn ở điểm này gây
nên ức chế ở điểm kia và ngược lại.
- Cảm ứng qua lại tiếp diễn: tại một trung khu (một điểm hay vùng) nào đó vừa có hưng
phấn, sau đó có thể chuyển sang ức chế ở chính trung khu ấy.
- Cảm ứng dương tính: đó là hiện tượng hưng phấn làm cho ức chế sâu hơn và ngược
lại ức chế làm hưng phấn mạnh hơn.
- Cảm ứng âm tính: hưng phấn gây nên ức chế, ức chế làm giảm hưng phấn.
2.1.4.4. Quy luật phụ thuộc vào cường độ kích thích
Trong trạng thái, điều kiện bình thường của vỏ não thì độ lớn của phản ứng tỉ lệ thuận
với cường độ kích thích. Ở người, quy luật này có tính tương đối vì phản ứng của con
người không chỉ phụ thuộc vào cường độ kích thích mà còn phụ thuộc vào chủ thể (tâm
sinh lý...). Mặt khác, trong trường hợp vỏ não chuyển từ trạng thái hưng phấn sang ức chế
thì sự phản ứng còn tuỳ thuộc vào mức độ ức chế nông hay sâu của vỏ não.
Tóm lại, các qui luật cơ bản của hoạt động thần kinh cấp cao có quan hệ với nhau, chi
phối lẫn nhau, ảnh hưởng đến sự hình thành, diễn biến và biểu hiện hoạt động tâm lý của
con người.
2.1.5. Hai hệ thống tín hiệu
2.1.5.1. Hệ thống tín hiệu thứ nhất: ở động vật chỉ có tín hiệu thứ nhất, bao gồm
những tín hiệu do các sự vật, hiện tượng khách quan và các thuộc tính của chúng tác động
vào giác quan và não gây ra. Hệ thống tín hiệu này là cơ sở của hoạt động cảm tính, trực
quan, tư duy cụ thể và xúc cảm cơ thể ở cả người và động vật.
2.1.5.2. Hệ thống tín hiệu thứ hai: đó là các tín hiệu ngôn ngữ, chỉ có ở người, nó là tín
hiệu của tín hiệu, là cơ sở sinh lý của tư duy ngôn ngữ, tư duy trừu tượng, ý thức, tình cảm...
Hai hệ thống tín hiệu có quan hệ chặt chẽ với nhau, hệ thống tín hiệu thứ nhất là cơ sở,
tiền đề cho hệ thống tín hiệu thứ hai. Ngược lại, hệ thống tín hiệu thứ hai làm cho con
người nhận thức rõ hơn bản chất của sự vật hiện tượng so với hệ thống tín hiệu thứ nhất.
2.1.6. Các kiểu thần kinh cấp cao
Căn cứ vào độ mạnh của quá trình thần kinh thể hiện ở cường độ vận động của hưng
phấn ức chế mạnh hoặc yếu. Sự cân bằng của hai quá trình thần kinh cũng như tính linh
17



hoạt của hai quá trình thần kinh (tốc độ chuyển hóa) giữa hưng phấn và ức chế mà ta có 4
kiểu thần kinh chung cho cả người và động vật:
- Kiểu thần kinh mạnh, cân bằng, linh hoạt
- Kiểu thần kinh mạnh, cân bằng không linh hoạt
- Kiểu thần kinh mạnh, không cân bằng.
- Kiểu thần kinh yếu.
Ngoài ra ở người còn có 3 kiểu thần kinh:
- Kiểu "Nghệ sĩ" loài người này ưu thế hoạt động thuộc về tín hiệu một
- Kiểu "Tri thức" ưu thế hoạt động thuộc về tín hiệu hai.
- Kiểu "Trung gian" cả hai hệ thống một và hai tương đương nhau.
2.2. CƠ SỞ XÃ HỘI
2.2.1. Quan hệ xã hội, nền văn hoá xã hội và tâm lý con người
2.2.1.1. Thuyết tiến hoá thực chứng luận của G.Spenxơ
Con người không chỉ tồn tại trong môi trường tự nhiên mà còn tồn tại trong môi trường
xã hội, sau khi chuyển biến thành người, các qui luật và cơ chế thích nghi của động vật kể
cả cơ chế tự tạo trong kinh nghiệm cá thể cũng không thay đổi (theo quan điểm này họ đề
cao yếu tố sinh học, hạ thấp vai trò yếu tố xã hội).
2.2.1.2. Quan điểm xã hội học
Coi xã hội tạo ra bản chất người, con người là một tồn tại “giao lưu” chứ không phải là
một tồn tại xã hội hành động và quá trình “xã hội hoá” cá thể là quá trình giao lưu ngôn
ngữ, giao lưu tinh thần giữa người này với người khác để lĩnh hội “biểu tượng xã hội”, các
tập tục, lề thói... tạo ra “hành vi xã hội”. Đây là quan điểm tiến bộ, đã đề cao vai trò xã hội.
2.2.1.3. Quan điểm duy vật biện chứng
Chủ nghĩa Mác đã khẳng định: Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất con người, “... bản
chất con người không phải là cái gì trừu tượng, tồn tại đối với từng cá nhân riêng biệt,
trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Qui
luật cơ bản chi phối sự phát triển xã hội loài người là quan hệ sản xuất phải phù hợp với
lực lượng sản xuất chứ không phải quy luật chọn lọc tự nhiên. Hoạt động tâm lý của con

người chịu sự tác động của qui luật xã hội, trong đó giáo dục giữ vai trò quan trọng nhất.
Chỉ có sống và hoạt động trong xã hội con người mới thực hiện được chức năng phản ánh
tâm lý.
Cơ chế chủ yếu của sự phát triển tâm lý của con người là cơ chế lĩnh hội nền văn hoá
xã hội. Đặc điểm cơ bản của qúa trình lĩnh hội là nó tạo ra ở con người những chức năng
tâm lý mới, những năng lực mới. Qúa trình lĩnh hội là quá trình tái tạo những thuộc tính,
những năng lực của loài người thành những thuộc tính, năng lực của cá thể mỗi người, hay
nói khác, thông qua cơ chế lĩnh hội mà con người tổng hoà các mối quan hệ xã hội, nền
văn hoá xã hội thành bản chất người, tâm lý con người.
2.2.2. Hoạt động và tâm lý
2.2.2.1. Khái niệm chung về hoạt động
a. Hoạt động là gì?
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về hoạt động tuỳ theo góc độ xem xét:
- Dưới góc độ triết học, hoạt động là phương thức tồn tại của con người trong thế giới
- Dưới góc độ sinh học, hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh và cơ bắp của
con người khi tác động vào hiện thực khách quan, nhằm thoã mãn những nhu cầu vật chất
và tinh thần của mình.
- Dưới góc độ tâm lý học, hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người với
thế giới (khách quan) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới (khách thể) lẫn về phía con
người (chủ thể).
Trong mối quan hệ đó có hai quá trình diễn ra đồng thời bổ sung cho nhau.
+ Quá trình đối tượng hoá chủ thể: Là quá trình chủ thể chuyển năng lực của mình
thành sản phẩm của hoạt động hay nói cách khác: tâm lý con người được bộc lộ được
khách quan hoá trong quá trình tạo ra sản phẩm (còn gọi là quá trình xuất tâm).
18


+ Quá trình chủ thể hoá đối tượng: Khi hoạt động, con người chuyển từ phía khách thể
vào bản thân mình những quy luật, bản chất của thế giới để tạo nên tâm lý, ý thức nhân
cách (gọi là quá trình nhập tâm).

Như vậy, bằng hoạt động con người đã tạo ra sản phẩm cho thế giới vừa tạo ra tâm lý
của mình (“sản phẩm kép”). Nói cách khác, tâm lý được bộc lộ, hình thành và phát triển
trong hoạt động.
b. Đặc điểm của hoạt động
- Hoạt động bao giờ cũng là “hoạt động có đối tượng”: Đối tượng hoạt động là cái mà
con người cần làm ra, cần chiếm lĩnh. Đó là động cơ luôn thúc đẩy con người hoạt động
nhằm tác động vào khách thể để làm thay đổi, biến nó thành sản phẩm. Đồng thời, tiếp
nhận ở đối tượng chuyển vào đầu óc mình, tạo nên cấu tạo tâm lý mới, năng lực mới cho
bản thân.
- Hoạt động bao giờ cũng có chủ thể: hoạt động do chủ thể thực hiện (có thể một hoặc
nhiều người).
- Hoạt động bao giờ cũng có tính mục đích: mục đích của hoạt động là làm biến đổi thế
giới (khách thể) và biến đổi bản thân chủ thể. Tính mục đích gắn liền với tính đối tượng và
bị chế ước bởi nội dung xã hội.
- Hoạt động vận hành theo nguyên tắc gián tiếp: trong hoạt động, con người gián tiếp
tác động đến khách thể qua hình ảnh tâm lý trong đầu, phương tiện ngôn ngữ, công cụ lao
động. Như vậy, công cụ tâm lý, ngôn ngữ và công cụ lao động giữ chức năng trung gian
giữa chủ thể - khách thể tạo nên tính gián tiếp của hoạt động.
2.2.2.2. Các loại hoạt động
Có nhiều cách phân loại khác nhau:
- Xét về phương diện cá thể, có: hoạt động học tập, vui chơi, lao động xã hội.
- Xét về phương diện sản phẩm, có: hoạt động thực tiễn, hoạt động lý luận.
- Căn cứ vào tính chất, có: hoạt động biến đổi, hoạt động nhận thức, hoạt động định
hướng giá trị và hoạt động giao lưu.
2.2.2.3. Cấu trúc hoạt động
Theo quan điểm của N.A.Lêônchiev, hoạt động có cấu trức vĩ mô bao gồm sáu thành tố
có mối quan hệ biện chứng với nhau, chia thành hai dãy:
Dãy thứ nhất (về phía chủ thể): hoạt động - hành động - thao tác. Ba thành tố này thuộc
các đơn vị thao tác (mặt kỹ thuật của hoạt động).
Dãy thứ hai (về phía khách thể): động cơ - mục đích - điều kiện. Ba thành tố này tạo

nên nội dung đối tượng (mặt tâm lý của họat động).
Trong mỗi hoạt động được thực hiện bởi nhiều hành động, trong mỗi hành động được
thực hiện bởi những thao tác, động tác khác nhau, bản thân thao tác, động tác không có
mục đích riêng mà nó chỉ là điều kiện, phương tiện, để thực hiện các hành động, hoạt động.
Đối diện với hoạt động có động cơ (mục đích chung), đối diện với hành động có mục đích
(riêng). Đối diện với thao tác là phương tiện, điều kiện. Các điều kiện bảo đảm để thực
hiện mục đích của các hành động nhằm thực hiện mục đích chung (động cơ) của hoạt
động. Kết quả hoạt động tạo ra sản phẩm (cả về phía khách thể lẫn chủ thể) và được thực
hiện trong môi trường tự nhiên, xã hội nhất định.
Sơ đồ cấu trúc hoạt động
Chủ thể
(dòng các hoạt động)
Khách thể
Hoạt động

Động cơ (mục đích chung)

Hành động

Mục đích (riêng)

Thao tác

Phương tiện (điều kiện)
19


Sản phẩm
2.3. Giao tiếp và tâm lý
2.3.1. Khái niệm

Giao tiếp là mối quan hệ giữa con người với con người, là sự tiếp xúc tâm lý giữa người
với người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, cảm xúc, tri giác lẫn
nhau, ảnh hưởng, tác động qua lại với nhau.
Giao tiếp xác lập, vận hành các mối quan hệ người - người, hiện thực hoá các quan hệ
xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác..
Mối quan hệ giao tiếp giữa con người với con người có thể xẩy ra với các hình thức sau
đây: - Giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân
- Giao tiếp giữa cá nhân với nhóm
- Giao tiếp giữa nhóm với nhóm, giữa nhóm với cộng đồng.
2.3.2. Chức năng của giao tiếp
Trong giao tiếp, những người tham gia đều là chủ thể, do vậy họ có tác động và ảnh
hưởng lẫn nhau.
- Chức năng thông tin: Qua giao tiếp, con người trao đổi, truyền đạt tri thức, kinh
nghiệm với nhau. Mỗi cá nhân vừa là nguồn phát thông tin vừa là nơi tiếp nhận thông tin.
Thu nhận và xử lý thông tin là một con đường quan trọng để phát triển nhân cách.
- Chức năng cảm xúc: Giao tiếp không chỉ bộc lộ cảm xúc mà còn tạo ra những ấn
tượng, những cảm xúc mới giữa các chủ thể. Vì vậy, giao tiếp là một trong những con
đường hình thành tình cảm của con người.
- Chức năng nhận thức và đánh giá lẫn nhau: Trong giao tiếp, mỗi chủ thể tự bộc lộ
quan điểm, tư tưởng, thái độ, thói quen... của mình, do đó các chủ thể có thể nhận thức
được về nhau, làm cơ sở đánh giá lẫn nhau và tự đánh giá bản thân mình.
- Chức năng điều chỉnh hành vi: Trên cơ sở nhận thức và đánh giá lẫn nhau, tự đánh giá
mà mỗi chủ thể có khả năng tự điều chỉnh hành vi của mình cũng như có thể tác động đến
động cơ, mục đích, quá trình ra quyết định và hành động của chủ thể khác.
- Chức năng phối hợp hành động: Nhờ giao tiếp, con người có thể phối hợp hoạt động
để cùng nhau giải quyết nhiệm vụ nào đó nhằm đạt tới mục tiêu chung. Đây là chức năng
giao tiếp phục vụ các nhu cầu chung của xã hội hay một nhóm người.
2.3.3. Các loại giao tiếp
Có nhiều cách phân loại dựa trên những góc độ khác nhau:
- Căn cứ vào phương tiện, có: giao tiếp vật chất; giao tiếp ngôn ngữ và giao tiếp bằng

tín hiệu phi ngôn ngữ.
- Căn cứ vào khoảng cách, có: giao tiếp trực tiếp (mặt đối mặt) và giao tiếp gián tiếp
(qua phương tiện trung gian).
- Căn cứ vào qui cách, có: giao tiếp chính thức (theo quy định, thể chế, chức trách) và
giao tiếp không chính thức (tự do).
2.4. Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động giao tiếp
2.4.1. Quan hệ giao tiếp và hoạt động
Có nhiều quan điểm khác nhau:
- Giao tiếp là một dạng đặc biệt của hoạt động, nó cũng diễn ra bằng các hành động
thao tác, sử dụng các phương tiện khác nhau nhằm đạt mục đích, thoả mãn nhu cầu cụ thể
và được thúc đẩy bởi những động cơ...
- Hoạt động - giao tiếp là hai phạm trù đồng đẳng, phản ánh hai loại quan hệ của con
người đối với thế giới. Hoạt động được hiểu là quan hệ với đối tượng là vật thể, giao tiếp là
quan hệ với con người. Hoạt động và giao tiếp có quan hệ qua lại với nhau trong đời sống
con người.
+ Có trường hợp, giao tiếp là điều kiện để hoạt động.
20


+ Có trường hợp, hoạt động là điều kiện để con người thực hiện mối quan hệ giao tiếp
giữa con người với con người.
2.4.2. Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động giao tiếp
Tâm lý người có nguồn góc từ bên ngoài, từ thế giới khách quan chuyển vào não người
bằng chính hoạt động người đó.Trong thế giới đó, các quan hệ xã hội, nền văn hoá xã hội
quyết định tâm lý người.
Tâm lý người là kinh nghiệm lịch sử xã hội chuyển thành kinh nghiệm bản thân thông
qua hoạt động, giao tiếp trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo.
Tâm lý là sản phẩm hoạt động, giao tiếp. Hoạt động, giao tiếp và mối quan hệ giữa
chúng là quy luật tổng quát hình thành, biểu lộ tâm lý người.
Có thể khái quat thành sơ đồ sau:

Xã hội (các quan hệ
XH, nền văn hoá XH)

Giao tiếp
Đối tượng của giao tiếp

Con người- chủ thể (tâm
lý- ý thức- nhân cách)

Đối tượng của hoạt động
Hoạt động

Câu hỏi ôn tập và thảo luận
1. Phân tích cơ sở tự nhiên và cơ sở xã hội của tâm lý người
2. Tại sao nói tâm lý là sản phẩm hoạt động và giao lưu ?
Thảo luận: - Các quy luật hoạt động thần kinh cấp cao.
- Hoạt động là gì? Tại sao nói hoạt động tạo ra “sản phẩm kép”? Lấy ví dụ thực tiễn để
minh hoạ cho 2 quá trình xuất tâm và nhập tâm của hoạt động.
- Lấy ví dụ về một hoạt động cụ thể để phân tích cấu trúc của hoạt động.
- Giao tiếp là gì? Phân tích các chức năng của giao tiếp và cho ví dụ cụ thể về các loại
giao tiếp.
Thực hành: Hướng dẫn sinh viên thực hiện các bài tập trong sách thực hành.

21


CHƯƠNG 3. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ, Ý THỨC
3.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ
3.1.1. Sự hình thành tâm lý về phương diện loài người
3.1.1.1. Tiêu chuẩn xác định sự nảy sinh tâm lý

Xét trong lịch sử tiến hoá sinh vật, những sinh vật bậc thấp có tế bào thần kinh nằm rải
rác khắp cơ thể có khả năng đáp lại các tác động bên ngoài có ảnh hưởng trực tiếp đến sự
tồn tại và phát triển của cơ thể, gọi là tính chịu kích thích (ví dụ: cơ thể đơn bào do có tính
chịu kích thích nên vận động di chuyển về phía ánh sáng hoặc nhiệt độ cao hơn). Đây là cơ
sở đầu tiên cho tính cảm ứng, nhạy cảm xuất hiện.
Trên cơ sở tính chịu kích thích bắt đầu xuất hiện hệ thần kinh mấu hạch đã giúp cơ thể
có khả năng đáp lại kích thích có ảnh hưởng trực tiếp lẫn gián tiếp đối với sự tồn tại của
cơ thể mà tính cảm ứng (nhạy cảm) xuất hiện (ví dụ: ếch phản ứng với kích thích gián tiếp
thông qua màu vàng hoa mướp, nhện giăng luới bắt mồi, con cóc vồ đớp que diêm có hình
thù giống như con sâu mà nó quen ăn, que diêm gỗ chỉ báo hiệu tín hiệu cho con cóc về
một thức ăn quen thuộc). Tính nhạy cảm được coi là mầm mống đầu tiên của tâm lý. Hiện
tượng tâm lý đầu tiên là cảm giác, từ hiện tượng tâm lý đơn giản nhất này dần dần phát
triển lên thành các hiện tượng tâm lý khác phức tạp hơn.
3.1.1.2. Các thời kỳ phát triển tâm lý
a. Xét theo mức độ phản ánh.
- Thời kỳ cảm giác: Đây là thời kỳ đầu tiên của sự phát triển tâm lý ở những động vật
không xương sống, có khả năng trả lời kích thích riêng lẻ (gọi là cảm giác).
- Thời kỳ tri giác: Bắt đầu xuất hiện ở loài cá. Hệ thần kinh hình ống với tuỷ sống và
vỏ não giúp động vật có khả năng đáp lại một tổ hợp kích thích ngoại giới (gọi là tri giác).
- Thời kỳ tư duy:
+ Tư duy bằng tay: Có ở động vật bậc cao (vượn oxtralopitec) cách đây khoảng hơn 10
triệu năm, vỏ não phát triển trùm lên các phần khác của não, con vật đã biết dùng "bàn tay"
để sờ mó, lắp ráp, giải quyết các tình huống cụ thể trước mắt.
+ Tư duy ngôn ngữ: Đây là loại tư duy chỉ có ở người, giúp con người nhận thức được
bản chất, quy luật của thế giới. Nhờ có loại tư duy này mà hoạt động của con người có tính
mục đích, tính kế hoạch cao nhất, hoàn chỉnh nhất, giúp con người không chỉ nhận thức,
cải tạo thế giới mà còn nhận thức và sáng tạo chính bản thân mình.
b. Xét theo nguồn gốc nảy sinh.
- Thời kỳ bản năng: Bản năng là hành vi bẩm sinh, mang tính di truyền có cơ sở là
những phản xạ không điều kiện. Nhằm thoả mãn nhu cầu có tính thuần tuý của cơ thể.

Nhưng bản năng của con người khác xa về chất so với bản năng của con vật “bản năng của
con người là bản năng có ý thức´ (C.Mác). Bản năng của con người có sự tham gia của tư
duy, mang tính xã hội và mang đặc điểm lịch sử loài người.
- Thời kỳ kỹ xảo: Kĩ xảo là hành vi mới tự tạo do lặp đi lặp lại nhiều lần trở thành định
hình trong não động vật. So với bản năng, hành vi kỹ xảo có tính mềm dẻo và khả năng
biến đổi lớn hơn.
- Thời kỳ hành vi trí tuệ: Là kết quả của luyện tập, do cá thể tự tạo trong đời sống.
Hành vi trí tuệ động vật nhằm giải quyết tình huống cụ thể liên quan thoả mãn nhu cầu sinh
vật của cơ thể, hành vi trí tuệ con người nảy sinh trong hoạt động nhằm nhận thức bản
chất, các mối quan hệ có tính quy luật, nhằm thích ứng và cải tạo thế giới khách quan, gắn
liền với ngôn ngữ, là hành vi có ý thức.
3.1.2. Sự hình thành tâm lý về phương diện cá nhân
3.1.2.1. Thế nào là sự phát triển tâm lý (về phương diện cá thể)
Theo nguyên lý chung của mọi sự phát triển trong thế giới, sự phát triển tâm lý trải qua
nhiều giai đoạn khác. Đó là quá trình chuyển đổi liên tục từ cấp độ này sang cấp độ khác, ở
mỗi cấp độ lứa tuổi, sự phát triển tâm lý đạt tới một chất lượng mới và diễn ra theo quy
22


luật đặc thù. Sự phát triển tâm lý đạt tới một chất lượng mới và diễn ra theo quy luật đặc
thù gắn liền sự phát triển hoạt động trong đó hoạt động chủ đạo đóng vai trò quan trọng
trong sự phát triển.
Mỗi giai đoạn lứa tuổi có một hoạt động chủ đạo :
- Tuổi sơ sinh là hoạt động giao lưu cảm xúc trực tiếp với người lớn.
- Tuổi nhà trẻ là hoạt động với đồ vật
- Tuổi mẫu giáo là hoạt động vui chơi
- Học tập là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi học sinh
- Lao động và hoạt động xã hội là hoạt dộng chủ đạo của lứa tuổi thanh niên và người
trưởng thành.
Các hoạt động chủ đạo có tác dụng quyết định chủ yếu nhất đối với sự hình thành

những nát đặc trưng và cơ bản cho mỗi giai đoạn (thời kỳ, lứa tuổi), đồng thời nó quy định
tính chất của các hoạt động khác.
3.1.2.2. Các giai đoạn phát triển tâm lý theo lứa tuổi
- Giai đoạn tuổi sơ sinh và hài nhi: 0 -> 12 tháng.
- Giai đoạn trước tuổi học: 1 -> 6 tuổi.
- Giai đoạn tuổi đi học: 6 -> 25 tuổi.
- Giai đoạn tuổi trưởng thành: 25 -> 55, 60 tuổi
- Giai đoạn tuổi già: > 60 tuổi.
3.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN Ý THỨC
3.2.1. Khái niệm chung về ý thức
3.2.1.1. Khái niệm
Theo nghĩa rộng, ý thức được dùng đồng nghĩa với tinh thần, tư tưởng... (ý thức tổ chức
kỷ luật, tinh thần dân chủ...)
Theo nghĩa hẹp, khái niệm ý thức được dùng để chỉ một cấp độ đặc biệt trong tâm lý
con người.
Ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở người, phản ánh bằng ngôn ngữ,
là khả năng hiểu được các tri thức mà con người đã tiếp thu được (phản ánh của phản ánh,
tri thức về tri thức, hiểu biết của hiểu biết).
3.2.1.2. Các thuộc tính cơ bản ý thức
- Ý thức thể hiện năng lực nhận thức cao nhất của con người về thế giới:
+ Nhận thức cái bản chất, khái quát bằng ngôn ngữ.
+ Dự kiến trước kế hoạch hành vi, kết quả và làm cho hành vi mang tính chủ định.
- Ý thức thể hiện thái độ của con người đối với thế giới: Ý thức không chỉ là nhận thức
sâu sắc của con người về thế giới mà còn thể hiện thái độ của con người đối với nó.
- Ý thức thể hiện năng lực điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người: Trên cơ sở
nhận thức bản chất khái quát và tỏ rõ thái độ với thế giới, ý thức điều khiển, điều chỉnh
hành vi của con người đạt được mục đích đã đề ra. Vì thế, ý thức có khả năng sáng tạo.
- Khả năng tự ý thức: Con người không chỉ nhận thức thế giới mà ở mức độ cao hơn là
khả năng tự nhận thức về mình, tự xác định thái độ đối với bản thân, tự điều khiển, điều
chỉnh và hoàn thiện mình.

3.2.1.3. Cấu trúc của ý thức
Trong ý thức có 3 mặt thống nhất hữu cơ với nhau, điều khiển hoạt động có ý thức của
con người:
- Mặt nhận thức:
+ Quá trình nhận thức cảm tính mang lại những tài liệu đầu tiên cho ý thức, là tầng bậc
thấp của ý thức.
+ Quá trình nhận thức lý tính là bậc tiếp theo trong mặt nhận thức của ý thức, đem lại
cho con người những hiểu biết bản chất, khái quát về hiện thực khách quan. Đây chính là
nội dung cơ bản, là hạt nhân của ý thức, giúp con người hình dung ra trước kết quả của
hoạt động và hoạch định kế hoạch hành vi.
23


- Mặt thái độ của ý thức: Nói lên thái độ lựa chọn, thái độ cảm xúc, thái độ đánh giá
của chủ thể đối với thế giới.
- Mặt năng động của ý thức: Thể hiện ở khả năng điều khiển, điều chỉnh mọi hoạt
động của con người, đó là quá trình con người vận dụng những hiểu biết và tỏ thái độ của
mình nhằm thích nghi, cải tạo thế giới và cả biến cả bản thân. Mặt khác, ý thức nảy sinh và
phát triển trong hoạt động, cấu trúc của hoạt động quy định cấu trúc của ý thức. Vì thế, nhu
cầu, động cơ, hứng thú, ý chí... đều có vị trí nhất định trong cấu trúc của ý thức.
3.2.2. Sự hình thành và phát triển ý thức
3.2.2.1. Sự hình thành ý thức của con người (xét về phương diện loài)
Chủ nghĩa Mác đã chỉ rõ: Trước hết là lao động, sau lao động và đồng thời với lao động
là ngôn ngữ, đó là hai động lực chủ yếu đã biến bộ não vượn thành bộ óc con người, đây
cũng chính là hai yếu tố tạo nên sự hình thành ý thức con người.
a. Vai trò lao động đối với sự hình thành phát triển ý thức
Điều khác biệt giữa người với vật (người kiến trúc sư với con ong, người thợ dệt với
con nhện) là trước khi lao động con người đã hình dung ra trước mô hình cái cần làm và
cách làm ra cái đó trên cơ sở huy động toàn bộ vốn hiểu biết, năng lực trí tuệ của mình, từ
đó con người có ý thức về cái mà mình sẽ làm ra.

Trong lao động con người phải chế tạo và sử dụng các công cụ lao động, tiến hành các
thao tác và hành động lao động tác động vào đối tượng tạo ra sản phẩm. Ý thức của con
người được hình thành, phát triển và thể hiện trong quá trình lao động .
Kết thúc quá trình lao động, con người có ý thức đối chiếu sản phẩm con người làm ra
với mô hình tâm lý của sản phẩm đã hình dung ra trước để đánh giá hoàn thiện sản phẩm đó
Tóm lại, ý thức được hình thành, phát triển và biểu hiện trong quá trình lao động thống
nhất với quá trình lao động và sản phẩm lao động do mình làm ra.
b. Vai trò của ngôn ngữ và giao tiếp đối với sự hình thành ý thức
Nhờ có ngôn ngữ ra đời cùng với lao động mà con người có công cụ để xây dựng, hình
dung ra mô hình tâm lý của sản phẩm. Hoạt động ngôn ngữ giúp con người ý thức về việc
sử dụng công cụ lao động, tiến hành hệ thống các thao tác lao động để làm ra sản phẩm.
Ngôn ngữ cũng giúp con người phân tích, đối chiếu, đánh giá sản phẩm mà mình làm ra
Hoạt động lao động là hoạt động tập thể mang tính xã hội. Trong lao động nhờ ngôn
ngữ và giao tiếp mà con người thông báo trao đổi thông tin với nhau, phối hợp tác động với
nhau để cùng làm ra sản phẩm. Nhờ có ngôn ngữ và giao tiếp mà con người ý thức về bản
thân mình, ý thức được người khác (biết mình, biết người), ý thức được hình thành phát
triển song song với sự phát triển xã hội.
3.2.2.2. Sự hình thành ý thức và tự ý thức của cá nhân
a. Ý thức được hình thành trong hoạt động và được thể hiện trong sản phẩm hoạt động
của cá nhân: Trong hoạt động, cá nhân đem vốn kinh nghiệm, năng lực cá nhân, hưúng
thú, nguyện vọng... của mình thể hiện trong quá trình tạo ra sản phẩm. Đồng thời, qua sản
phẩm hoạt động mà con người thu đựơc mọi giá trị cho bản thân tạo nên tâm lý - ý thức –
nhân cách.
b. Ý thức cá nhân được hình thành trong mối quan hệ giao tiếp của con người với
người khác, với xã hội: Trong giao tiếp con người đối chiếu mình với người khác, với
chuẩn mực đạo đức xã hội để có ý thức về người khác và ý thức về chính bản thân mình.
c. Ý thức cá nhân được hình thành bằng con đường tiếp thu nền văn hoá xã hội, ý thức
xã hội: Thông qua các hoạt động đa dạng, bằng con đường dạy học, giáo dục và giao tiếp
trong quan hệ xã hội, từ đó cá nhân tiếp thu, lĩnh hội các chuẩn mực, giá trị xã hội để hình
thành ý thức cá nhân.

d. Ý thức cá nhân được hình thành bằng con đường tự nhận thức, tự đánh giá, tự phân
tích hành vi của mình: Trên cơ sở đối chiếu mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, tự
giáo dục, tự hoàn thiện bản thân mà cá nhân có ý thức về bản thân mình (ý thức bản ngã tự ý thức).
3.2.2.3. Các cấp độ ý thức
24


a. Cấp độ chưa ý thức (vô thức)
Hàng ngày có những hiện tượng tâm lý chưa có ý thức diễn ra chi phối hoạt động của
con người (mộng du, say rượu, người bị thôi miên, người bị động kinh...). Hiện tượng tâm
lý không có ý thức (vô thức) này khác xa với từ “vô ý thức” mà ta vấn dùng (vô ý thức tổ
chức kỷ luật...). Ở đây, người vô ý thức thể hiện sự thiếu ý thức tôn trọng tổ chức, tôn
trọng kỷ luật, quy định chung của tập thể.
Vô thức là hiện tượng tâm lý ở tầng bậc chưa ý thức - nơi mà ý thức không thực hiện
được chức năng của mình (điều khiển, điều chỉnh...). Nó bao gồm những hiện tượng tâm lý
khác nhau ở tầng không (chưa) ý thức:
- Vô thức ở tầng bản năng (dinh dưỡng, tự vệ, sinh dục) tiềm tàng, mang tính bẩm
sinh, di truyền
- Vô thức còn bao gồm những hiện tượng tâm lý dưới ngưỡng ý thức (tiền ý thức)
- Hiện tượng tâm thế: Là hiện tượng tâm lý dưới ý thức, hướng tâm lý sẵn sàng chờ
đợi, tiếp nhận một điều gì đó, ảnh hưởng đến tính linh hoạt và tính ổn định của hoạt động.
Cũng có lúc phát triển xâm nhập cả vào tầng ý thức.
- Có những hiện tượng tâm lý vốn là có ý thức nhưng do lặp đi lặp lại nhiều lần
chuyển thành dưới ý thức. Chẳng hạn một số kĩ xảo, thói quen trở thành “tiềm thức”, một
dạng tiềm tàng sâu lắng của ý thức. Tiềm thức thường trực chỉ đạo hành động, lời nói, suy
nghĩ... của một người tới mức không cần ý thức tham gia.
b. Cấp độ ý thức và tự ý thức
- Ở cấp độ ý thức, con người nhận thức, tỏ thái độ có chủ tâm và dự kiến trước hành vi
của mình làm cho hành vi có ý thức.
- Tự ý thức là mức độ phát triển cao của ý thức, biểu hiện ở các mặt sau:

+ Cá nhân tự nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến bên trong, cũng như vị thế
bản thân và các quan hệ xã hội;
+ Có thái độ đối với bản thân, tự nhận xét, đánh giá;
+ Tự điều khiển, điều chỉnh hành vi theo mục đích tự giác;
+ Tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân.
c. Ý thức nhóm và ý thức tập thể
Trong mối quan hệ giao tiếp và hoạt động, ý thức cá nhân sẽ phát triển dần đến cấp độ
ý thức nhóm, tập thể, xã hội (ví dụ: ý thức về gia đình, ý thức về dòng họ, ý thức nghề
nghiệp, ý thức dân tộc...). Ý thức xã hội thường được biểu hiện trong cuộc sống bằng
những hành động vì tập thể, cộng đồng, xã hội.
Tóm lại, các cấp độ ý thức luôn tác động chuyển hoá bổ sung cho nhau tạo nên sức
mạnh của ý thức, ý thức thống nhất với hoạt động, hình thành phát triển và thể hiện trong
hoạt động, nó chỉ đạo điều khiển điều chỉnh mọi hoạt động làm cho hoạt động có ý thức.
3.2.2.4. Chú ý- điều kiện của hoạt động có ý thức
a. Khái niệm
Chú ý là sự tập trung của ý thức vào một hay một nhóm sự vật hiện tượng để định
hướng hoạt động, bảo đảm điều kiện thần kinh - tâm lý cần thiết cho hoạt động tiến hành
có hiệu quả.
Chú ý được xem như là một trạng thái tâm lý luôn “đi kèm” với các hoạt động tâm lý
khác, giúp chúng hoạt động có hiệu quả (ví dụ: chăm chú nghe, lắng tai nghe, tập trung... là
biểu hiện của chú ý). Chú ý không có đối tượng riêng, đối tượng của nó chính là đối tượng
của hoạt động tâm lý mà nó đi kèm. Vì thế, chú ý được xem là phông, nền, điều kiện của
hoạt động có ý thức.
b. Phân loại chú ý
* Chú ý không chủ định
Là loại chú ý không có mục đích tự giác, không cần sự nỗ lực của bản thân, chủ yếu do
tác động kích thích bên ngoài gây nên, phụ thuộc vào đặc điểm của vật kích thích như:
- Độ mới lạ của vật kích thích;
- Cường độ kích thích;
25



×