Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự việt nam (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.41 KB, 39 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG NGỌC DINH

MẶT KHÁCH QUAN CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG NGỌC DINH

MẶT KHÁCH QUAN CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐỖ ĐỨC HỒNG HÀ

HÀ NỘI - 2016



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Hoàng Ngọc Dinh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

PGS

: Phó giáo sư


PLHS

: Pháp luật hình sự

QĐHP

: Quyết định hình phạt

Nxb

: Nhà xuất bản

TAND

: Tòa án nhân dân

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MẶT KHÁCH QUAN
CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM ................................................................................................................... 10
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định mặt khách quan của các tội
xâm phạm sở hữu .............................................................................................. 10
1.1.1. Khái niệm mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu........................ 10
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu mặt khách quan của các tội xâm phạm sở
hữu ....................................................................................................................... 17
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của những quy định về mặt khách
quan của các tội xâm phạm sở hữu ................................................................. 20
1.2.1. Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước năm 1985 ..................... 21
1.2.2. Từ khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời cho đến nay ....................................... 25
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ MẶT KHÁCH QUAN
CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG .............................. Error! Boo
2.1. Thực trạng quy định về mặt khách quan của các tội xâm phạm sở

hữu trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành ............................................. Error! Boo
2.1.1. Thực trạng quy định về hành vi nguy hiểm cho xã hội của các tội xâm

phạm sở hữu ........................................................................................................ Error! Bo
2.1.2. Thực trạng quy định về hậu quả nguy hiểm cho xã hội của các tội xâm

phạm sở hữu ........................................................................................................ Error! Bo
2.1.3. Thực trạng quy định về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả


nguy hiểm cho xã hội của các tội xâm phạm sở hữu .......................................... Error! Bo


2.1.4. Thực trạng quy định về các dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan của

các tội xâm phạm sở hữu..................................................................................... Error! Bo
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về mặt khách quan của các tội xâm

phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành ............................. Error! Boo
2.2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về hành vi nguy hiểm cho xã hội của

các tội xâm phạm sở hữu..................................................................................... Error! Bo
2.2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về hậu quả nguy hiểm cho xã hội của

các tội xâm phạm sở hữu..................................................................................... Error! Bo
2.2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi

và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của các tội xâm phạm sở hữu ........................ Error! Bo
2.2.4. Thực tiễn áp dụng các quy định về các dấu hiệu khác thuộc mặt khách

quan của các tội xâm phạm sở hữu ..................................................................... Error! Bo

CHƢƠNG 3: ...................................................................................................... Error! Boo
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ MẶT KHÁCH QUAN CỦA CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHÁC BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY

ĐỊNH NÀY ......................................................................................................... Error! Boo
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện quy định về mặt khách quan của các

tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự Việt Nam và bảo đảm áp

dụng đúng các quy định này ............................................................................ Error! Boo
3.2. Hoàn thiện quy định về mặt khách quan của các tội xâm phạm sở

hữu trong Bộ luật hình sự Việt Nam ............................................................... Error! Boo
3.3. Một số giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng quy định về mặt khách

quan của các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự Việt Nam .......... Error! Boo

KẾT LUẬN ........................................................................................................ Error! Boo
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 27


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Từ khi giành được độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa cho đến nay, Nhà nước luôn quan tâm đến việc xây dựng và phát triển
nền kinh tế đất nước, đồng thời chú ý xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật để bảo vệ nền độc lập, dân chủ của đất nước, trong đó rất quan tâm, chú
trọng đến vấn đề bảo vệ các quyền của con người, của công dân và pháp luật
hình sự nhằm xử lý các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ, quyền sở hữu của
công dân. Trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta
đều có các chủ trương, đường lối, chính sách cụ thể nhằm bảo vệ nền độc lập,
dân chủ, bảo vệ chế độ, an ninh chính trị quốc gia và phát triển kinh tế - văn
hóa - xã hội của đất nước trong đó có vấn đề bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng thời kỳ.
Trước diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm hiện nay. Trong thời
gian qua, Nhà nước ta đã đề ra nhiều biện pháp nhằm đấu tranh đẩy lùi các
loại tội phạm, đặc biệt là các tội xâm phạm sở hữu. Qua đó, tình hình tội

phạm và trật tự trị an ở nước ta cơ bản được giữ vững và từng bước được
khống chế. Mặc dù đã có sự phối hợp đồng bộ của cả hệ thống chính quyền
và các cơ quan tư pháp, các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc đấu tranh
phòng chống tội phạm nhưng tỷ lệ tội phạm xâm phạm sở hữu vẫn ở mức cao
so với các loại tội phạm khác.
Định tội danh, quyết định hình phạt là hoạt động trọng tâm, cốt lõi
trong quá trình bảo vệ pháp luật. Nếu việc dịnh tội danh và quyết định hình
phạt đúng sẽ mang lại những hiệu quả tích cực, ngược lại định tội danh và
quyết định hình phạt sai sẽ để lại nhiều hậu quả tiêu cực về mặt xã hội, giảm

1


lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp nói riêng và các cơ quan
chính quyền nói chung.
Mặc dù trong thời gian qua, đã có những đóng góp đáng kể vào công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm xâm phạm sở hữu thông qua hoạt động
xét xử, định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu
nhưng không hẳn hoạt động xét xử, định tội danh và quyết định hình phạt nói
chung, định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu
nói riêng đã hoàn thiện và đạt kết quả cao nhất. Thực tế cho thấy, trong thời
gian qua việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm
sở hữu của Tòa án các cấp còn tồn tại nhiều vi phạm, sai lầm; định tội danh và
quyết định hình phạt còn có sự tùy tiện, thiếu thống nhất, làm ảnh chung tới
kết quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, làm giảm lòng tin của quần chúng
nhân dân và ảnh hưởng tới hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm nói chung, tội xâm phạm sở hữu nói riêng.
Yêu cầu cấp thiết đề ra là các chính sách hình sự luôn phải có sự thay
đổi, phát triển phù hợp, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội
của đất nước và bảo đảm tôn trọng giá trị con người và các quyền công dân

của họ không bị xâm phạm. Chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta
trong đấu tranh với các tội phạm nói chung, các tội xâm phạm quyền tự do,
dân chủ, quyền sở hữu của công dân nói riêng nó có ý nghĩa quan trọng, góp
phần bảo đảm giữ vững nền an ninh - chính trị quốc gia, tạo điều kiện ổn định
trật tự xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước, ngăn ngừa các nguy cơ
bất ổn, khủng hoảng về an ninh, chính trị và sự phá hoại của các thế lực thù
địch; nhất là trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang chủ trương xây dựng
Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân, vì dân, đòi
hỏi phải có một nền dân chủ cao, trong đó mọi quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân phải được tôn trọng và bảo đảm thực thi, không bị xâm phạm. Để

2


luật hình sự ngày càng làm tốt hơn nhiệm vụ của mình, việc hoàn thiện Bộ
luật hình sự (BLHS) là một đòi hỏi tất yếu khách quan.
BLHS năm 1999 hiện hành tuy đã có những bước phát triển vượt bậc
so với văn bản Pháp luật hình sự trước nó, nhưng do sự thay đổi nhanh chóng
của kinh tế - xã hội, sự hội nhập quốc tế mạnh mẽ, đòi hỏi gắt gao của cải
cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền nên không tránh khỏi những
bất cập hạn chế, thiếu sót cần sớm được hoàn thiện. Đối với các tội xâm phạm
sở hữu, thực tiễn đấu tranh đã đặt ra nhiều vấn đề về làm rõ những đặc trưng
pháp lý của các tội danh, phạm vi của các tội xâm phạm sở hữu – và đặc biệt
trong đó, nghiên cứu mặt khách quan của các tội phạm này chiếm một vị trí
quan trọng. Tuy nhiên, quá trình đấu tranh gặp không ít khó khăn vì hiểu sai
lệch bản chất về hành vi, hậu quả cũng như mối quan hệ nhân quả giữa chúng;
điều này khiến thực tiễn xác định tội phạm, định tội danh và quyết định hình
phạt còn chưa thống nhất và có nhiều điểm bất cập dẫn đến hiện tượng bỏ lọt
tội phạm hoặc xử oan người vô tội.
Xuất phát từ những lý do như đã nêu trên, người viết đã chọn đề tài

“Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong Luật hình sự Việt
Nam” với mong muốn góp phần hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật
hình sự, nhằm đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn, đặc biệt là
giai đoạn đất nước ta đang trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân và vì dân.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mặt khách quan với tư cách là dấu hiệu pháp lý quan trọng của cấu
thành tội phạm của các tội trong chương các tội xâm phạm sở hữu đã được để
cập trong giáo trình về Luật hình sự tại nhiều cơ sở đào tạo luật ở nước ta. Có
thể kể đến Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập I) của Trường đại học Luật
Hà Nội (NXB Công an nhân dân). Đặc biệt là cuốn Giáo trình Luật hình sự

3


Việt Nam, phần các tội phạm của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội do
GS. TSKH Lê Cảm chủ biên, đã thể hiện đậm nét những vấn đề cơ bản nhất
của mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu. PGS.TS. Nguyễn Ngọc
Chí có nghiên cứu “Đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu”_Viện Nhà nước
và pháp luật, số 2/1998, tr 50 – 57. Tiếp đó là trong những cuốn Bình luận
khoa học về Bộ luật hình sự (phần các tội phạm) của Nguyễn Mai Bộ, Phùng
Thế Vắc, Nguyễn Đức Mai, ThS. Phạm Thanh Bình, ThS. Nguyễn Sĩ Đại,
Nxb Công an nhân dân, 2001.
Ở góc độ luận văn thạc sĩ, ba công trình: “ Hành vi nguy hiểm cho xã
hội với tư cách là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm” của
tác giả Nguyễn Thị Ngọc Linh, bảo vệ thành công năm 2010 tại Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội; tác giả Lê Phương Thùy với đề tài “Mặt khách
quan của tội phạm với tư cách là một yếu tố cấu thành tội phạm”, bảo vệ
thành công năm 2011 tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội và đề tài “Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về mặt khách quan của tội phạm trong luật hình

sự Việt Nam” của tác giả Hoàng Nam Khánh, bảo vệ thành công năm 2014 tại
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội cũng đã đề cập đến mặt khách quan của
các tội xâm phạm sở hữu trong tổng thể nghiên cứu mặt khách quan của tội
phạm nói chung.
Liên quan đến tài liệu nghiên cứu vấn đề mặt khách quan của các tội
xâm phạm sở hữu còn được đề cập trong trong một số tài liệu chuyên khảo
như: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí về "Trách nhiệm hình sự đối với các tội
xâm phạm sở hữu"; GS. TS. Trịnh Quốc Toản, "Yếu tố chức vụ, quyền hạn
trong các tội xâm phạm sở hữu"; "Một số vấn đề đồng phạm trong các tội xâm
phạm sở hữu"
Tuy nhiên, trong các công trình trên, các tác giả chỉ đề cập đến mặt khách
quan của các tội xâm phạm sở hữu một cách khái quát dưới góc độ luật hình sự

4


hay tội phạm học. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở
nước ta đã có một số công trình, tài liệu nghiên cứu cơ bản và trực diện về mặt
khách quan và về các tội xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, do nền kinh tế - xã hội
không ngừng vận động và biến đổi, thời gian qua số vụ án xâm phạm sở hữu luôn
chiếm tỷ lệ cao, trong đó việc định tội danh và quyết định hình phạt của trên thực
tế còn rất nhiều vi phạm, sai lầm gây bức xúc trong dư luận quần chúng, làm giảm
lòng tin đối với pháp luật và chính sách của Đảng và Nhà nước. Những nghiên
cứu về vấn đề mặt khách quan và các tội xâm phạm sở hữu vẫn nằm ở phạm vi lý
luận, khái quát chưa chỉ rõ những tồn tại, vi phạm cụ thể ở trong những phạm vi
không gian và thời gian khác nhau.
Hiện nay, có thể khẳng định, chưa có công trình nào nghiên cứu về
mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu một cách độc lập, có hệ thống,
toàn diện từ lịch sử vấn đề đến quy định của pháp luật thực định và thực tiễn
áp dụng cũng như đồng thời từ các góc độ luật hình sự để từ đó đề ra các biện

pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả đấu tranh chống và phòng
ngừa đối với mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu ở cấp độ luận văn
thạc sỹ luật học dưới góc độ luật hình sự. Do đó, điểm mới về mặt khoa học
của đề tài là lần đầu tiên trong khoa học luật hình sự đề cập đến riêng tội
phạm này dưới góc độ một luận văn thạc sĩ luật học.
Như vậy, tổng quan tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho
phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Mặt khách quan của các tội xâm
phạm sở hữu trong Luật hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết,
vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề về mặt khách quan
của tội phạm và các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm. Bên cạnh đó

5


đi sâu nghiên cứu về mặt khách quan và các yếu tố thuộc mặt khách quan của
các tội xâm phạm sở hữu trong Luật hình sự Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và những yếu
tố thuộc mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, những quy định của
pháp luật hình sự được cụ thể hóa trong các điều luật về tội phạm và hình phạt
trong Bộ luật hình sự hiện hành. Ngoài ra, luận văn còn nghiên cứu các dấu
hiệu thuộc mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong thực tiễn xét
xử và đề xuất việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự có liên quan
như các chế định về tội phạm, hình phạt, cấu thành tội phạm… trên cơ sở
những nghiên cứu về mặt khách quan của nhóm tội xâm phạm sở hữu.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
4.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn

Mục đích nghiên cứu là làm rõ những vấn đề chung về mặt khách quan
của các tội xâm phạm sở hữu và thực trạng việc quy định mặt khách quan của
các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự Việt Nam: khái niệm mặt khách
quan, các tội xâm phạm sở hữu, mặt khách quan của các tội xâm phạm sở
hữu, làm rõ tình hình thực tế việc quy định mặt khách quan đối với các tội
xâm phạm sở hữu trong giai đoạn 2006 - 2015, đồng thời phân tích làm rõ
những vi phạm, sai lầm, xung quanh việc định tội danh và quyết định hình
phạt đối với nhóm tội này, từ đó chỉ ra nguyên nhân của những vi phạm, sai
lầm. Thông qua đó đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định về mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự Việt
Nam.
Nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về nội dung, bản chất của mặt
khách quan và các yếu tố thuộc mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu.
Ngoài ra, luận văn còn nghiên cứu về vai trò của các yếu tố đó đối với một số

6


hoạt động thực tiễn pháp lý như định tội danh, quyết định hình phạt cũng như
xây dựng khái niệm khoa học về tội phạm trong luật hình sự.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu về mặt khách quan và các yếu tố
thuộc mặt khách quan của tội phạm và của các tội xâm phạm sở hữu trên
phương diện lý luận chung và trong các quy định của pháp luật hình sự hiện
hành. Qua đó, nghiên cứu, phân tích, đánh giá cơ sở khoa học và cơ sở pháp
lý của việc xây dựng các chế định khác về tội phạm, chỉ ra những điểm chưa
hợp lý, chưa hoàn thiện của các quy định đó để đề xuất việc chỉnh sửa và
hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật hình sự trong
thực tiễn.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận của đề tài
Cơ sở lý luận của đề tài này là các thành tựu của các chuyên ngành
khoa học pháp lý như: Luật hình sự, luật Tố tụng hình sự, tội phạm học trong
các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài đăng trên tạp chí của
các nhà khoa học – luật gia Việt Nam.
Ngoài ra, để góp phần phân tích khoa học nhằm làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận và vai trò của mặt khách quan trong thực tiễn xác định tội phạm,
định tội danh và quyết định hình phạt, luận văn còn nghiên cứu nhiều văn bản
pháp luật cũng như những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo thực tiễn
xét xử trong các văn bản thuộc lĩnh vực pháp luật hình sự do Tòa án nhân dân
tối cao và các cơ quan bảo vệ pháp luật ban hành.
5.2. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở phương pháp luận của: Chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa
duy vật biện chứng, phép biện chứng duy vật cuả chủ nghĩa Mác – Lênin để

7


nghiên cứu sâu về những vấn đề tương ứng dưới các luận điểm tư tưởng về
xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, củng cố pháp chế, tính tối
thượng của pháp luật và bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền tự do của công
dân bằng hệ thống tư pháp hình sự ở Việt Nam với tính chất là các giá trị xã
hội cao quý nhất của loài người và của nền văn minh nhân loại đã được thừa
nhận chung.
Bên cạnh đó trong quá trình nghiên cứu tác giả còn sử dụng đồng bộ
các phương pháp khoa học như: phương pháp phân tích, phương pháp logic,
phương pháp thống kê hình sự, phương pháp tổng hợp, phương pháp đối
chiếu, phương pháp so sánh, phương pháp chứng minh, ..v.v. Trong đó đặc
biệt coi trọng các phương pháp hệ thống, lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê, khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học…để rút ra những kết luận, đề

xuất phù hợp nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự có liên quan
đến mặt khách quan của tội phạm.
6. Đóng góp mới của đề tài.
Thông qua việc nghiên cứu về mặt khách quan của tội phạm, cụ thể là
của các tội xâm phạm sở hữu một cách toàn diện và đầy đủ, đặc biệt là nghiên
cứu về ý nghĩa và vai trò của các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm
đối với các chế định pháp luật hình sự như tội phạm, phân loại tội phạm, hình
phạt, định tội danh, quyết định hình phạt, luận văn góp phần làm sáng tỏ các
nội dung thuộc mặt khách quan trên cơ sở lý luận và thực tiễn pháp lý, thông
qua đó hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự. Trên cơ sở phân tích,
làm sáng tỏ khái niệm về mặt khách quan và các yếu tố thuộc mặt khách quan
của tội phạm cụ thể là các tội xâm phạm sở hữu về mặt lý luận, luận văn cũng
góp phần đánh giá tính chính xác và căn cứ khoa học của quy định về tội
phạm và hình phạt trong Bộ luật hình sự hiện hành, thông qua đó đề xuất sửa
đổi và hoàn thiện những quy định này theo hướng đầy đủ và thống nhất.

8


7. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn này là tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập và nghiên
cứu khoa học đối với học viên chuyên ngành tư pháp hình sự.
Nội dung luận văn sẽ có ý nghĩa thiết thực, bổ ích, cần thiết khi tìm
hiểu về những dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm nói chung và của
các tội xâm phạm sở hữu nói riêng.
Những kiến nghị khoa học trong luận văn sắp tới sẽ được sử dụng trong
việc pháp điển hóa luật hình sự của Nhà nước, đồng thời đóng góp có ý nghĩa
thiết thực cho các cán bộ áp dụng pháp luật trong việc phát hiện kịp thời và
xử lý nhanh chóng, công minh các hành vi phạm tội theo đúng quy định của
pháp luật, nhằm bảo vệ vững chắc các quyền tự do của công dân với phương

châm “không bỏ lọt kẻ phạm tội, tránh làm oan người vô tội”.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về mặt khách quan của các tội xâm
phạm sở hữu trong Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng quy định về mặt khách quan của các tội xâm
phạm sở hữu trong Luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Hoàn thiện quy định về mặt khách quan của các tội xâm
phạm sở hữu trong Luật hình sự Việt Nam và một số giải pháp khác đảo đảm
áp dụng đúng các quy định này.

9


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MẶT KHÁCH QUAN CỦA CÁC
TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định mặt khách quan của
các tội xâm phạm sở hữu
1.1.1. Khái niệm mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu
Khái niệm mặt khách quan
Tội phạm là hiện tượng tiêu cực tồn tại trong mọi quốc gia. Nó cũng là
hành vi của con người nhưng hành vi đó có những đặc trưng riêng. Tất cả
những đặc trưng cơ bản của tội phạm và những chế định liên quan đều được
quy định trong pháp luật hình sự của mỗi nước. Căn cứ vào đó, chúng ta xác
định được hành vi nào bị coi là tội phạm và phải chịu chế tài tương ứng do
pháp luật quy định. Ở Việt Nam, tội phạm được luật hình sự quy định là hành
vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hay vô ý. Sự tồn tại của con người

trong thế giới khách quan được biểu hiện bằng hoạt động đối với môi trường
xung quanh và thông qua hành vi. Hành vi đó luôn chứa đựng cái “tôi” của
chủ thể, đó chính là mặt chủ quan. Để nhận thức về hành vi và chủ thể thực
hiện hành vi ấy, phải thông qua những diễn biến và biểu hiện bên ngoài, hay
nói cách khác phải thông qua mặt khách quan. Chính vì vậy, khi nghiên cứu
về tội phạm, một vấn đề được đặt ra đó là bên cạnh khái niệm được quy định
trong luật thì những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, những gì diễn ra trong
thế giới khách quan, đã được con người nhận thức như thế nào, vai trò của
những yếu tố đó trong tổng thể các yếu tố của cấu thành tội phạm được thể
hiện ra sao? Bởi xét đến cùng, thì hành vi phạm tội là thể thống nhất giữa các
yếu tố khách quan và chủ quan, giữa những diễn biến tâm lý bên trong của

10


người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và những biểu hiện diễn ra bên
ngoài mà ta có thể nhận biết trực tiếp bằng các giác quan. Mặt khách quan và
chủ quan của tội phạm có liên hệ chặt chẽ với nhau, bên cạnh việc nghiên cứu
mặt chủ quan, thì việc nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm với tư cách là
một yếu tố cấu thành tội phạm là cần thiết vì tội phạm thể hiện một cách rõ
nét nhất các yếu tố của nó thông qua mặt khách quan, những diễn biến bên
ngoài mà con người nhận thức được không phụ thuộc vào ý thức của chủ thể.
Bất kỳ tội phạm nào xảy ra trong thực tế khách quan cũng đều có những biểu
hiện diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài mà con người có thể nhận biết trực tiếp
được. [19; tr 185]
Mặt khách quan là một yếu tố quan trọng của tội phạm, tính nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm do tất cả các yếu tố của cấu thành tội phạm quyết
định nhưng nếu phân tích từng yếu tố ta thấy chỉ khi nào người phạm tội thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì thái độ chủ quan của họ mới có ý nghĩa
về hình sự, khách thể mới bị xâm phạm hoặc bị đe dọa xâm phạm.

Hiện nay, có nhiều cách diễn đạt khác nhau về mặt khách quan của tội
phạm:
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm
những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách
quan [26, tr.91].
Theo đó, những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài mà con người
có thể trực tiếp nhận biết được là: Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội;
hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
và hậu quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công
cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội…)
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của sự xâm hại nguy
hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự,

11


tức là sự thể hiện cách xử sự có tính chất tội phạm trong thực tế khách quan
[19,tr.344].
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm đối lập với
mặt chủ quan là mặt bên trong của tội phạm, nhưng nó không nằm ngoài tội
phạm mà nó là một mặt của cấu thành tội phạm, nó là những biểu hiện khách
quan mà bằng những giác quan của con người chúng ta có thể nhận biết được
như: nhìn thấy được, nghe thấy được…
Hay tương tự như vậy:
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại
bên ngoài của tội phạm… Là một trong bốn yếu tố của tội phạm, một mặt
trong thể thống nhất với mặt chủ quan của hành vi phạm tội. Những biểu hiện
của mặt khách quan của tội phạm là hành vi, hậu quả nguy hiểm cho xã hội,
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả đó cũng như các điều kiện bên
ngoài khác như công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa

điểm…
Trong đó, biểu hiện hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản nhất của
mặt khách quan được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Những
biểu hiện khác chỉ được phản ánh trong một số cấu thành tội phạm [40, tr.7778].
Như vậy, mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau về định nghĩa mặt
khách quan của tội phạm, nhưng nhìn chung quan điểm về mặt khách quan
của tội phạm là đồng nhất giữa các nhà nghiên cứu:
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao
gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới
khách quan hay nói cách khác đó là sự thể hiện cách xử sự có tính chất tội
phạm trong thực tế khách quan.
Các tội xâm phạm sở hữu

12


Quan hệ sở hữu là một loại quan hệ giữa người với người trong quá
trình chiếm hữu những của cải vật chất trong xã hội. Nó ra đời cùng với các
hoạt động kinh tế và được luật hóa thành “quyền sở hữu” khi xuất hiện Nhà
nước và pháp luật. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Hiến
pháp năm 2013 và Bộ luật dân sự 2005 thì quyền sở hữu là quyền cơ bản của
công dân, bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài
sản. Các quyền này được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. [55, tr 145]
Điều 182 Bộ luật dân sự quy định: "Quyền chiếm hữu là quyền của chủ
sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối
tài sản thuộc sở hữu của mình. Người không phải là chủ sở hữu cũng có
quyền chiếm hữu tài sản trong trường hợp được chủ sở hữu chuyển giao hoặc
do pháp luật quy định" [52].
Điều 192 Bộ luật dân sự cũng quy định: "Quyền sử dụng là quyền của
chủ sở hữu khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. " [52]. Đối

với những người không phải là chủ sở hữu cũng có quyền sử dụng tài sản
trong các trường hợp được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng hoặc do
pháp luật quy định.
Quyền định đoạt được quy định tại Điều 195 Bộ luật dân sự là "quyền
của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác
hoặc từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản" [52], như chủ sở
hữu có quyền tự mình bán, trao đổi, cho tặng, cho vay để thừa kế, từ bỏ hoặc
thực hiện các hình thức định đoạt khác đối với quyền sở hữu.
Ba quyền trên hợp thành quyền sở hữu đối với tài sản - Đây là quyền
quan trọng được pháp luật bảo vệ, được Nhà nước ta tôn trọng và bảo vệ,
Điều 51 Hiến pháp 2013 quy định:

13


Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo.
Quyền sở hữu ở đây là sở hữu về tài sản chứ không phải là sở hữu công
nghiệp hay sở hữu trí tuệ. Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi nguy hiểm cho
xã hội xâm phạm đến quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản hoặc xâm
phạm vào một trong ba quyền nói trên.
Theo đó, ta có khái niệm sau: Các tội xâm phạm sở hữu là những hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại chương XIV Bộ luật hình sự, có lỗi,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá
nhân.
Các tội xâm phạm sở hữu quy định trong chương XIV Bộ luật hình sự
1999 là các tội được sát nhập từ các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa
quy định tại chương IV và các tội xâm phạm sở hữu công dân quy định tại

chương VI Bộ luật hình sự 1985. Với 13 tội danh phản ánh đúng bản chất của
tên chương là các tội xâm phạm sở hữu. Căn cứ vào tính chất và đặc điểm của
hành vi phạm tội, có thể phân chia các tội xâm phạm sở hữu thành hai loại:
Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ Điều 133 đến Điều 140
và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt, từ Điều 141 đến
Điều 145 Bộ luật hình sự.
- Nhóm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt bao gồm: Tội
cướp tài sản - Điều 133; Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản - Điều 134; Tội
cưỡng đoạt tài sản - Điều 135; Tội cướp giật tài sản - Điều 136; Tội công
nhiên chiếm đoạt tài sản - Điều 137; Tội trộm cắp tài sản - Điều 138; Tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản - Điều 139; Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
- Điều 140.

14


- Nhóm các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt bao
gồm: Tội chiếm giữ trái phép tài sản – Điều 141; Tội sử dụng trái phép tài sản
– Điều 142; Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản – Điều 143; Tội thiếu
trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước – Điều 144;
Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản – Điều 145.
Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu
- Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt:
Đặc trưng ở dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả tác hại.
Bằng hành vi chiếm đoạt với các thủ đoạn khác nhau, các tội này có cùng đặc
điểm là xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác và cùng được thực
hiện bằng hành động. [30; tr. 30]
Hành vi chiếm đoạt tài sản: được hiểu là người phạm tội cố ý chuyển
dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác
thành tài sản của mình. Hành vi chiếm đoạt được thực hiện bằng nhiều

phương pháp, thủ đoạn khác nhau nhưng tất cả mọi hành vi chiếm đoạt đều
thực hiện bằng phương pháp chủ động tích cực (phương pháp hành động),
biến tài sản của người khác thành tài sản của mình.
Theo đó, đặc điểm của hành vi chiếm đoạt là bằng hành vi dùng vũ lực,
đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc những hành vi khác làm cho chủ sở
hữu bị tê liệt về ý chí (không nhận biết được sự việc xảy ra) hoặc làm tê liệt
khả năng chống cự (biết sự việc xảy ra nhưng không có khả năng phản kháng)
làm cho chủ sở hữu mất đi khả năng thực hiện quyền sở hữu của mình. Xét về
mặt pháp lý, đây là hành vi chiếm đoạt bất hợp pháp nên dù rằng chủ sở hữu
mất đi khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng hay định đoạt của mình
nhưng họ không mất đi quyền sở hữu đối với tài sản. Hành vi chiếm đoạt bắt
đầu và kết thúc tùy thuộc vào tính chất tài sản và thủ đoạn chiếm đoạt. Nếu
trong quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt, nếu người phạm tội thay đổi từ

15


hình thức chiếm đoạt này sang hình thức chiếm đoạt khác để có được tài sản
thì xuất hiện khả năng chuyển hóa hình thức chiếm đoạt từ tội này sang tội
khác. Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt tài sản phải còn
nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu, phải có chủ sở hữu cụ thể với các quyết
định có tính chất pháp lý thể hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản. [55; tr. 59]
Tất cả các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đều được thể
hiện với hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức được tài sản
đang thuộc sự quản lý của chủ sở hữu khác nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi
chiếm đoạt nhằm mục đích biến tài sản của người khác thành của mình.
Hậu quả: Hậu quả của các tội xâm phạm sở hữu gây ra chủ yếu là thiệt
hại về tài sản. Đây là thước đo để đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội. Tuy vậy, "dấu hiệu hậu quả không phải là

yếu tố bắt buộc ở đa số các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt" [13,
tr.63], chẳng hạn như các tội quy định tại các Điều 133 - Tội cướp tài sản,
Điều 134 - Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, Điều 135 - Tội cưỡng đoạt
tài sản. Đây là những tội có cấu thành hình thức, nghĩa là dấu hiệu về mặt
khách quan của các tội phạm này chỉ bao gồm một yếu tố là hành vi phạm tội
mà không bao gồm hậu quả của tội phạm và mối quan hệ nhân quả giữa hành
vi và hậu quả.
- Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm
đoạt:
Gồm hành vi chiếm giữ trái phép tài sản: là hành vi chiếm tài sản của
chủ thể đã mất khả năng thực tế quản lý tài sản; Hành vi sử dụng trái phép tài
sản: là trường hợp xâm phạm quyền sử dụng tài sản một cách trái phép, khai
thác giá trị sử dụng của tài sản mà không được phép của chủ tài sản; Hành vi
hủy hoại, làm hư hỏng tài sản, làm mất một phần hoặc toàn bộ giá trị tài sản.

16


Một trong những nguyên tắc quan trọng được thể hiện trong khái niệm
các tội xâm phạm sở hữu đó là “nguyên tắc hành vi”, tội phạm phải là hành vi
của con người. Hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu thực chất thể hiện chính
bản chất của con người, là sự tồn tại của chính con người đó trong hiện thực
khách quan. Để có thể nhận thức về hành vi và chủ thể của hành vi đó, cần
thiết phải xem xét tổng thể các yếu tố được biểu hiện ra bên ngoài, hay nói
cách khác đó chính là mặt khách quan của các tội phạm xâm phạm sở hữu.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm chung về mặt khách
quan của các tội xâm phạm sở hữu như sau: Mặt khách quan của các tội xâm
phạm sở hữu là những biểu hiện của các tội xâm phạm sở hữu diễn ra hoặc
tồn tại bên ngoài thế giới khách quan.
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu mặt khách quan của các tội xâm

phạm sở hữu
Xác định mặt khách quan là một vấn đề hết sức quan trọng, là giai đoạn
cơ bản trong quá trình xác định tội danh. Tất cả những việc làm từ khởi tố,
điều tra, truy tố suy cho cùng là nhằm phục vụ cho việc định tội được chính
xác.
Trong trường hợp định tội không chính xác sẽ dẫn đến kết án sai,
không phù hợp với sự thật khách quan của vụ án, xử lý oan người vô tội, để
lọt tội phạm, xử nhẹ hoặc nặng hơn so với tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội. Việc xử lý thiếu chính xác như thế sẽ xâm phạm đến quyền
và lợi ích của công dân, làm giảm uy tín của các cơ quan tư pháp, vi phạm
pháp chế, ảnh hưởng không nhỏ đến công cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm. [30; tr. 23]
Các dấu hiệu bắt buộc của mặt khách quan của tội phạm là dấu hiệu của
cấu thành tội phạm, mà những dấu hiệu này có ý nghĩa quan trọng trong định
tội. Trong trường hợp cấu thành vật chất thì dấu hiệu bắt buộc của mặt khách

17


quan bao gồm: hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm và mối quan hệ giữa
hành vi và hậu quả xảy ra.
Những dấu hiệu không bắt buộc của mặt khách quan của tội phạm là
những tình tiết không đặc trưng cho tất cả các tội phạm nên chúng không
được coi là dấu hiệu bắt buộc của bất kỳ cấu thành tội phạm nào. Thời gian,
địa điểm, hoàn cảnh, công cụ và phương tiện thực hiện tội phạm, các dấu hiệu
này có ý nghĩa khác nhau đối với việc giải quyết một vụ án hình sự. Đối với
một số tội phạm, các dấu hiệu này là các yếu tố định tội danh; đối với các
trường hợp khác đó là dấu hiệu định khung hình phạt; Nếu không thuộc hai
trường hợp trên thì các dấu hiệu không bắt buộc có ý nghĩa trong việc quyết
định hình phạt. Bởi dù ít hay nhiều thì các tình tiết này luôn luôn tác động đến

tính nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Trong cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm sở hữu, các yếu tố
thuộc mặt khách quan có ý nghĩa không giống nhau. Hành vi nguy hiểm cho
xã hội là dấu hiệu bắt buộc và được quy định trong tất cả các cấu thành tội
phạm, không có hành vi thì không có cấu thành tội phạm và cũng không thể
có tội phạm. Các dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan có thể là dấu hiệu định
tội hoặc là dấu hiệu định khung hình phạt.
Như vậy, có thể thấy, hành vi khách quan của các tội xâm phạm sở hữu
bao gồm nhiều dấu hiệu khác nhau với ý nghĩa là dấu hiệu bắt buộc, không có
hành vi khách quan thì không có cấu thành tội phạm. Các nội dung biểu hiện
khác thuộc mặt khách quan được quy định trong các cấu thành tội phạm có
thể là dấu hiệu định tội (dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản) hoặc là dấu
hiệu định khung (dấu hiệu của cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc cấu thành
tội phạm giảm nhẹ). Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan có ý nghĩa thực tiễn
quan trọng. Việc nghiên cứu mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu có
ý nghĩa trước hết đối với việc định tội, việc xác định hành vi của một người

18


có cấu thành tội phạm cụ thể hay không thường bắt đầu từ việc nghiên cứu
mặt khách quan. Căn cứ vào những biểu hiện như hành vi được chủ thể thực
hiện và một số nội dung biểu hiện khác, người ta biết được tội phạm đã xảy
ra, các tình tiết, diễn biến của vụ án, xác định được đó là tội gì trong số các tội
xâm phạm sở hữu được quy định trong Bộ luật hình sự. Do vậy, mặt khách
quan của các tội xâm phạm sở hữu có ý nghĩa trước hết đối với việc định tội.
“Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu nếu xác
định đúng thì sẽ giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án phân biệt
đúng từng tội phạm cụ thể trên cơ sở các dấu hiệu cơ bản và điển hình nhất
được nhà làm luật ghi nhận với tính chất là các dấu hiệu bắt buộc tại điều

(khoản) tương ứng trong Phần các tội phạm cụ thể là chương Các tội xâm
phạm sở hữu của Bộ luật hình sự”[29, tr35].
Cũng giống như ý nghĩa của việc nghiên cứu mặt khách quan của tội
phạm nói chung. Ngoài ý nghĩa trong việc định tội, các dấu hiệu thuộc mặt
khách quan của các tội xâm phạm sở hữu còn có ý nghĩa trong việc định
khung hình phạt. Trong nhiều trường hợp, các dấu hiệu thuộc mặt khách quan
được phản ánh là dấu hiệu định khung trong cấu thành tội phạm tăng nặng của
một số tội phạm. Mặt khách quan còn có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội, xác định lỗi, đánh giá mức độ lỗi, mức độ
trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi. Ngoài ra, thông qua mặt
khách quan, có thể xác định các yếu tố khác của cấu thành tội phạm như mặt
chủ quan, chủ thể và khách thể của tội phạm.
Về mặt cấu trúc, các tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự
thường chỉ là sự mô tả cơ bản về những dấu hiệu thuộc về khách thể và mặt
khách quan, đôi khi tội phạm cụ thể được mô tả đơn giản đến mức chỉ nêu ra
tên tội phạm mà không kèm theo bất cứ một sự mô tả nào, ví như Điều 136
quy định tội cướp giật tài sản hay Điều 138 quy định tội trộm cắp tài sản.

19


×