Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

Tập bài giảng đạo đức học và giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 145 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

ThS. Chu Thị Diệp

TẬP BÀI GIẢNG

ĐẠO ĐỨC HỌC VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG

(Lưu hành nội bộ)

HÀ NỘI - NĂM 2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

ThS. CHU THỊ DIỆP

TẬP BÀI GIẢNG

ĐẠO ĐỨC HỌC VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG
(Tài liệu dùng cho hệ cử nhân
chuyên ngành giáo dục công dân)

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI GIỚI THIỆU


Đạo đức có vai trò to lớn trong đời sống xã hội của con người. Đạo đức là một
trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, tạo nên sự hài hòa và tiến bộ
xã hội. Con người muốn có cuộc sống tốt đẹp, bình an phải có sự tham gia của đạo
đức.
Để có hành vi đạo đức tốt đẹp, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ xã hội con
người phải có những tri thức đạo đức cơ bản làm định hướng cho hành vi và chủ thể
phải không ngừng tự giáo dục, rèn luyện mình. Để nâng cao nhận thức đạo đức và góp
phần nâng hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, chúng tôi biên soạn “Tập bài giảng
Đạo đức học và giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông”’
Tập bài giảng trình bày một cách khái quát các vấn đề về nguồn gốc, bản chất,
chức năng của đạo đức; đi sâu phân tích, làm rõ những phạm trù cơ bản của Đạo đức
học Mác – Lênin và những chuẩn mực đạo đức mới, đạo đức Cộng sản làm cơ sở cho
chủ thể đạo đức nhận thức đúng đắn những chuẩn mực, giá trị đạo đức trong xã hội từ
đó định hướng hành vi đạo đức của mình sao cho phù hợp với yêu cầu xã hội. Đối với
công tác giáo dục đạo đức nói chung Tập bài giảng hệ thống các phương pháp giáo
dục đạo đức. Tập bài giảng đi sâu phân tích về mục tiêu, nội dung, các hình thức và
phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở Việt Nam hiện nay.
Tập bài giảng Đạo đức học và giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông được
biên soạn trên cơ sở kế thừa, tiếp thu những giáo trình đã có của nhiều tác giả, những
kiến thức hiện nay. Chắc chắn trong quá trình biên soạn còn nhiều hạn chế, chúng tôi
mong nhân được sự góp ý quí báu của các độc giả và các bạn đồng nghiệp. Xin chân
thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2016


MỤC LỤC

Chương 1. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ ................................................................................ 4
CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC MÁC - LÊNIN...................................................................................... 4
1.1. Đạo đức và cấu trúc của đạo đức ..................................................................................... 4


1.1.1 Khái niệm đạo đức .......................................................................................... 4
1.1.2. Cấu trúc đạo đức ............................................................................................ 6
1.2. Đối tượng và nhiệm vụ của đạo đức học Mác - Lênin .................................................. 11

1.2.1. Đối tượng ..................................................................................................... 11
1.2.2. Nhiệm vụ....................................................................................................... 14
1.3. Phương pháp nghiên cứu của đạo đức học Mác - Lênin ............................................... 17
1.3.1. Một số nguyên tắc phương pháp nghiên cứu của đạo đức học Mác - Lênin .............. 18
1.3.2. Các phương pháp nghiên cứu đạo đức học ................................................................. 20
1.4. Các giai đoạn phát triển của đạo đức học ...................................................................... 20

1.4.1. Đạo đức học thời kỳ Hy Lạp cổ đại ............................................................. 20
1.4.2. Đạo đức học thời kỳ Phục hưng ................................................................... 25
1.4.3. Đạo đức học thế kỷ XVII - XVIII ................................................................. 27
1.4.4. Sự ra đời và phát triển của đạo đức học Mác – Lênin ................................ 29
Chương 2. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC .. 31
2.1. Nguồn gốc của đạo đức ................................................................................................. 31

2.1.1. Các quan niệm trước Mác về nguồn gốc của đạo đức ................................ 31
2.1.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc của đạo đức ............. 33
2.2. Bản chất của đạo đức ..................................................................................................... 34

2.2.1. Các quan niệm trước Mác về bản chất của đạo đức ................................... 34
2.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất của đạo đức ................ 35
2.3. Chức năng của đạo đức.................................................................................................. 37

2.3.1. Chức năng điều chỉnh hành vi ..................................................................... 37
2.3.2. Chức năng giáo dục ..................................................................................... 38
2.3.3. Chức năng nhận thức ................................................................................... 39

2.4. Vai trò của đạo đức ........................................................................................................ 40

2.4.1. Đạo đức là động lực phát triển của xã hội .................................................. 40
2.4.2. Đạo đức tạo nên sự hài hòa và tiến bộ xã hội ............................................. 41
2.5. Mối quan hệ giữa đạo đức với các hình thái ý thức xã hội khác ................................... 42

2.5.1. Mối quan hệ đạo đức với chính trị ............................................................... 42
2.5.2. Mối quan hệ giữa ý thức đạo đức với ý thức pháp quyền ............................ 43
2.5.3. Mối quan hệ đạo đức và tôn giáo ................................................................ 45
1


2.5.4. Mối quan hệ giữa đạo đức với nghệ thuật ................................................... 46
2.5.5. Mối quan hệ giữa đạo đức với khoa học ...................................................... 47
Chương 3. MỘT SỐ PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC ..................................... 50
3.1. Một số vấn đề chung về phạm trù đạo đức học ............................................................. 50

3.1.1. Quan niệm về phạm trù đạo đức học ........................................................... 50
3.1.2. Đặc điểm của phạm trù đạo đức .................................................................. 50
3.2. Một số phạm trù đạo đức học cơ bản ............................................................................ 51

3.2.1.Phạm trù lẽ sống (ý nghĩa cuộc sống)........................................................... 51
3.2.2.Phạm trù hạnh phúc ...................................................................................... 55
3.2.3. Phạm trù nghĩa vụ ........................................................................................ 58
3.2.4. Phạm trù lương tâm ..................................................................................... 59
3.2.5. Phạm trù thiện, ác ........................................................................................ 63
Chương 4. NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC ........... 67
4.1. Khái niệm truyền thống và những tiền đề, điều kiện hình thành đạo đức truyền thống
Việt Nam............................................................................................................................... 67


4.1.1.Truyền thống và đạo đức truyền thống ....................................................... 67
4.1.2. Những tiền đề, điều kiện cho việc hình thành đạo đức truyền thống Việt Nam 69
4.2. Chuẩn mực và một số chuẩn mực cơ bản của đạo đức truyền thống Việt Nam ........... 74

4.2.1. Một số vấn đề lý luận chung về chuẩn mực đạo đức truyền thống .............. 74
4.2.2 Một số chuẩn mực đạo đức truyền thống Việt Nam cơ bản .......................... 75
Chương 5. NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA ĐẠO ĐỨC MỚI ................................................. 91
5.1. Đạo đức mới và vai trò của đạo đức mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội 91

5.1.1. Khái niệm “đạo đức mới” ............................................................................ 91
5.1.2. Vai trò của đạo đức mới ............................................................................... 92
5.2. Nội dung của nguyên tắc đạo đức mới .......................................................................... 96

5.2.1. Chủ nghĩa tập thể là cơ sở của đạo đức mới ............................................... 96
5.2.2. Lao động tự giác sáng tạo ............................................................................ 97
5.2.3.Chủ nghĩa nhân đạo ...................................................................................... 99
5.2.4. Chủ nghĩa yêu nước kết hợp chủ nghĩa quốc tế vô sản ............................. 101
5.3. Quy luật hình thành đạo đức mới ................................................................................ 103

5.3.1. Đạo đức mới là sự phát triển tiếp theo của đạo đức giai cấp công nhân đã
được hình thành trong chế độ tư bản chủ nghĩa .................................................. 103
5.3.2. Đạo đức mới là kết quả tổng hợp của quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội104
6.3.4. Đạo đức mới là kết quả tổng hợp của quá trình rèn luyện và tự rèn luyện106
Chương 6. GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC ....................................................................................... 108
6.1. Khái niệm giáo dục đạo đức và nội dung giáo dục đạo đức ........................................ 108

6.1.1.Khái niệm và mục tiêu giáo dục đạo đức .................................................... 108
6.1.2. Nội dung giáo dục đạo đức ........................................................................ 109
2



6.2. Các hình thức giáo dục đạo đức cơ bản ....................................................................... 112

6.2.1.Giáo dục đạo đức thông qua lao động và hoạt động xã hội ....................... 112
6.2.2. Giáo dục đạo đức thông qua truyền đạt các tri thức đạo đức ................... 114
6.2.3. Giáo dục đạo đức thông qua tấm gương đạo đức ..................................... 114
6.2.4. Giáo dục đạo đức thông qua hình tượng nghệ thuật ................................. 115
6.3. Học tập đạo đức Hồ Chí Minh..................................................................................... 116

6.3.1. Vai trò của đạo đức Hồ Chí Minh .............................................................. 116
6.3.2. Một số nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh .. 117
Chương 7. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRONG
NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG .............................................................................................. 127
7.1. Phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông ............................................. 127

7.1.1. Khái niệm phương pháp giáo dục đạo đức ................................................ 127
7.1.2. Phân loại phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông .......... 127
7.2. Hoạt động giáo dục đạo đức ngoài giờ lên lớp, người giáo viên trong quá trình giáo dục
đạo đức ............................................................................................................................... 139
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 141

3


Chương 1. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ
CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC MÁC - LÊNIN
1.1. Đạo đức và cấu trúc của đạo đức
1.1.1 Khái niệm đạo đức
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức học đã
xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại.

Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos (moris) - lề thói (moralis
nghĩa là có liên quan với lề thói, đạo nghĩa). Còn “luân lý” được xem như đồng nghĩa
với "đạo đức" có gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos - lề thói, tập tục. Khi nói đến đạo đức
tức là nói đến những lề thói và tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và
người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày. Sau này người ta thường phân biệt hai
khái niệm: moral là đạo đức còn ethicos là đạo đức học.
Trong triết học phương Đông
Khổng Tử quan niệm đạo đức là đường đi lối lại, là quy luật. Đức được quan
niệm là luân thường mà con người phải tuân theo. Đạo đức được quan niệm là luân
thường đạo lý, là quan niệm về tốt, xấu, đúng sai. Con người phải làm theo cái đúng,
cái tốt, tránh những cái sai.
Kinh dịch lại cho rằng, đạo là con đường, là quy luật. Đức là mức độ tập trung
đạo ở con người, đức là năng lực của con người vận dụng cho đúng quy luật1. Không
có đạo thì cũng không có đức, vì nếu không học tập rèn luyện thì cũng không thể hình
thành được những phẩm chất cần thiết trong con người. Đức là kết quả của đạo.
Phương Tây, đạo đức theo tiếng Anh, tiếng Nga và nhiều ngôn ngữ khác, tuy
cách viết khác nhau, nhưng đều là moral, là những chuẩn mực chung nhằm điều chỉnh
hành vi của con người, sao cho tạo nên mối quan hệ hài hòa giữa con người với nhau
và giữa mỗi người với xã hội.
Ở Việt Nam hiện nay có một số quan niệm về đạo đức như sau:
Từ điển Tiếng Việt (Nxb Đà Nẵng 1997) khẳng định, đạo đức theo hai nghĩa:
1. Những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành
vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội.
2. Phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức
2
mà có .
Khi xem xét đạo đức là một hình thái ý thức xã hội lại có thể khẳng định: “Đạo
đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực
xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau
và quan hệ với xã hội. Chúng thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức

mạnh của dư luận xã hộ”3.
Trong cuốn sách “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn mực xã hội” tác
giả cho rằng: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm: những nguyên tắc, quy
tắc và chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với
lợi ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ xã hội, trong quan hệ người - người”4.
1

Quang Đạm: Nho giáo xưa và nay, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội,1999, tr. 21
Hoàng Phê (Chủ biên): Từ điển tiếng Việt Nxb Đà Nẵng 1997, tr.280.
3
Giáo trình Đạo đức học, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 8
4
Huỳnh Khái Vinh (Chủ biên): Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn mực xã hội, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nôi,2001, tr. 44.
2

4


Một tác giả khác lại cho rằng: “Đạo đức là một quan hệ xã hội có quy tắc, có
chuẩn mực, có đánh giá, có giá trị, nhưng nó không ghi thành văn bản pháp quy mà
thông thường là nếp sống, phong tục, tập quán do một cộng đồng nhất định tạo thành
khi chung sống với nhau. Các quan hệ đạo đức trong xã hội thường được điều chỉnh
bằng dư luận xã hội”1.
Qua các ý kiến trên chúng tôi có thể khẳng định, đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội, bao gồm hệ thống các quan điểm, quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực xã
hội để điều chỉnh hành vi và cách ứng xử của con người, được thực hiện bởi niềm tin,
trách nhiệm, lương tâm của mỗi cá nhân, bởi phong tục tập quán và dư luận xã hội,
đảm bảo hạnh phúc cho con người và tiến bộ xã hội; là một lĩnh vực hoạt động của
đời sống tinh thần xã hội.

Trong khái niệm trên đạo đức được xem xét với ba dấu hiệu đặc trưng nhất:
Thứ nhất, đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội nhằm phản ánh
tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống xã hội được thể hiện trong niềm tin, lý
tưởng, hệ thống các chuẩn mực trong phong tục, tập quán chuẩn mực trong phong tục,
tập quán, ý chí thể hiện lý tưởng đạo đức
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, trước khi sáng lập các thứ lý luận và ngyên tắc
bao gồm cả triết học và luân lý học, con người đã hoạt động, tức là đã sản xuất ra các
tư liệu vật chất cần thiết cho đời sống. Ý thức xã hội của con người là sự phản ánh tồn
tại xã hội của con người. Các hình thái ý thức xã hội khác nhau tuỳ theo phương thức
phản ánh tồn tại xã hội và tác động riêng biệt đối với đời sống xã hội. Đạo đức cũng
vậy, nó là hình thái ý thức xã hội phản ánh một lĩnh vực riêng biệt trong tồn tại xã hội
của con người. Và cũng như các quan điểm triết học, chính trị, nghệ thuật, tôn giáo,
đều mang tính chất của kiến trúc thượng tầng. Chế độ kinh tế - xã hội là nguồn gốc của
quan điểm về đạo đức con người. Các quan điểm này thay đổi theo cơ sở đã đẻ ra nó.
Sự phát sinh và phát triển của đạo đức, xét đến cùng là một quá trình do sự phát
triển của phương thức sản xuất quyết định.
Thứ hai, Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người.
Con người ngay từ khi sinh ra đã sống thành xã hội. Để đảm bảo sự tồn tại và
phát triển trong xã hội, con người phải điều chỉnh hành vi của mình sao cho tạo nên sự
phù hợp giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của xã hội. Tham gia vào điều chỉnh hành vi
của con người có nhiều lĩnh vực khác nhau như: kinh tế, chính trị, pháp luật, đạo
đức… Mỗi lĩnh vực có vai trò vị trí khác nhau trong điều chỉnh hành vi của con người
nhằm đảm bảo cho xã hội ổn định và phát triển. Kinh tế điều chỉnh hành vi của con
người thông qua lợi ích kinh tế. Pháp luật điều chỉnh hành vi của con người thông qua
hệ thống các quy chuẩn pháp luật, buộc người ta phải tuân theo, mang tính chất cưỡng
bức. Đạo đức dùng một hệ thống các nguyên tắc, các quy tắc, các chuẩn mực, tạo
thành những khuôn mẫu để mọi người noi theo. Đạo đức điều chỉnh hành vi của con
người bằng niềm tin, lý tưởng, bằng lương tâm, trách nhiệm, bằng dư luận xã hội. Đạo
đức điều chỉnh hành vi của con người mang tính tự giác, vừa nhẹ nhàng, vừa sâu sắc.
Thứ ba, Đạo đức là một hệ thống các giá trị

Các hiện tượng đạo đức thông thường biểu hiện dưới hình thức khẳng định,
hoặc là phủ định một lợi ích chính đáng, hoặc không chính đáng nào đó. Nghĩa là nó
bày tỏ sự tán thành hay phản đối trước thái độ hay hanh vi ứng xử của các cá nhân,
giữa cá nhân với cộng đồng trong một xã hội nhất định. Vì vậy, đạo đức là một nội
1

Vũ Trọng Dung (Chủ biên): Giáo trình Đạo đức học, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2005, tr.11.

5


dung hợp thành hệ thống giá trị xã hội. Sự hình thành phát triển và hoàn thiện hệ thống
giá trị đạo đức không tách rời sự phát triển và hoàn thiện của ý thức đạo đức và sự
điều chỉnh đạo đức.
1.1.2. Cấu trúc đạo đức
Đạo đức vận hành như một hệ thống tương đối độc lập của xã hội. Cơ chế của
nó được hình thành trên cơ sở liên hệ và tác động lẫn nhau của các yếu tố hợp thành
đạo đức. Khi phân tích cấu trúc của đạo đức người ta xem xét nó dưới nhiều góc độ.
Mỗi góc độ cho phép chúng ta nhìn ra một lớp cấu trúc xác định. Chẳng hạn: xét đạo
đức theo mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động thì hệ thống đạo đức hợp thành từ hai
yếu tố ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức.Nếu xét nó trong quan hệ giữa người và
người thì người ta nhìn ra quan hệ đạo đức. Nếu xét theo quan điểm về mối quan hệ
giữa cái chung với cái riêng, cái phổ biến với cái đặc thù và cái đơn nhất thì đạo đức
được tạo nên từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân.
1.1.1.1.Ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức
Ý thức đạo đức là ý thức về hệ thống những quy tắc, chuẩn mực hành vi đạo
đức phù hợp với những quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại bao gồm cảm xúc tình cảm
của con người, từ đó hình thành niềm tin, lý tưởng đạo đức của họ vào những điều tốt
đẹp, thông qua đó hướng dẫn hành động của con người sao cho phù hợp với những
yêu cầu chung của xã hội.

Ý thức đạo đức thể hiện ở 2 cấp độ: cảm tính và lý tính
Ở cấp độ cảm tính ý thức đạo đức biểu hiện ở tình cảm đạo đức. Tình cảm đạo
đức vừa thể hiện ra như là sự nhận thức, đánh giá các hiện tượng đạo đức trong xã hội,
vừa là sự biểu hiện thái độ của chủ thể đạo đức đối với hiện tượng đó.
Ví dụ: trước những điều thiện, những việc làm tốt trong cuộc sống con người tỏ
thái độ đồng tình ủng hộ, ngược lại trước những cái ác con người phản đối, trước
những bất hạnh của người khác con người có sự thương cảm, sẻ chia…
Tình cảm đạo đức của con người có xu hướng vươn đến cái thiện, là thái độ của
con người về hệ thống yêu cầu đạo đức, là cảm xúc cá nhân trước hành vi của người
khác hay hành vi của chính bản thân mình. Tình cảm đạo đức đó là điểm phân biệt
giữa con người với con vật. Nếu một người không còn day dứt lương tâm khi làm một
việc sai trái, không thấy xấu hổ khi không hoàn thành nghĩa vụ đạo đức thì sẽ rơi
xuống ở trình độ con vật và chỉ là con vật không hơn không kém.
Ở cấp độ lý tính, ý thức đạo đức gồm: tri thức đạo đức, chuẩn mực đạo đức và
tư tưởng đạo đức.
Tri thức đạo đức là tri thức của con người về phương diện đạo đức, được hình
thành qua quá trình học tập hay thông qua thực tiễn cuộc sống. Cũng như tri thức khác,
tri thức đạo đức gồm tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận. Tri thức kinh nghiệm là
những tri thức đạo đức thông thường mà bất cứ người nào cũng có thể hiểu như cái ác,
cái tốt, cái xấu, cách thức ứng xử đáp ứng yêu cầu thông thường của cuộc sống. Tri
thức đạo đức kinh nghiệm cần thiết trong cuộc sống nhằm điều chỉnh mối quan hệ
giữa người với người trong cuộc sống hàng ngày.
Ở trình độ lý luận tri thức đạo đức tồn tại dưới dạng những tư tưởng, khái niệm,
quan điểm, học thuyết…những tri thức đạo đức ở tầm lý luận được hình thành thông
qua học tập, nghiên cứu công phu của những nhà triết học, đạo đức học. Chúng ta
cũng cần phân biệt tri thức đạo đức và tri thức đạo đức học. Tri thức đạo đức là toàn
bộ hiểu biết của con người về đạo đức từ phong tục, tập quán, thói quen, cách ứng
6



xử… Tri thức đạo đức học chỉ là một phận của tri thức đạo đức, cụ thể hơn nó là thành
tố của đạo đức ở trình lý luận, là hệ thống những khái niệm, phạm trù, quy luật.
Chuẩn mực đạo đức là hệ thống qui tắc xác định mẫu hành vi đạo đức mà con
người phải tuân theo, nhằm khẳng định lợi ích xã hội, là cơ sở để xác định phương án
điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp với yêu cầu của xã hội. Nhờ chuẩn mực
đạo đức mà con người hành động theo những khuôn mẫu nhất định và những xu
hướng nhất định. Chuẩn mực đạo đức xác định mẫu hình con người phải theo trong
những tình huống cụ thể. Những chuẩn mực đạo đức bao gồm chuẩn mực khuyến
khích và chuẩn mực ngăn cấm. Chuẩn mực đạo đức là sự phản ánh tồn tại xã hội, vì
vậy tồn tại xã hội thay đổi thì những chuẩn mực đạo đức cũng thay đổi theo. Để chuẩn
mực đạo đức phát huy tác dụng trong cuộc sống, được nhân dân tiếp nhận biến thành
hiện thực trong đời sống, cần phải thường xuyên quan tâm, bổ sung, hoàn thiện những
chuẩn mực đạo đức xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, chúng cần quan tâm tới xây dựng
những chuẩn mực đạo đức phù hợp với những yêu cầu kinh tế thị trường, đặc biệt
những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp.
Lý tưởng đạo đức là tư tưởng về tương lai của của đạo đức với mức độ hoàn
thiện, hoàn mỹ. Nó bao gồm hệ thống các mục đích để đạt đến lý tưởng đạo đức cao
cả. Lý tưởng đạo đức cũng là một dạng chuẩn mực đạo đức nhưng không phải của
hiện tại mà là tương lai, thể hiện khát vọng của con người. Chuẩn mực đạo đức là
những yêu cầu cần thiết cho hiện tại còn lý tưởng đạo đức phản ánh xu thế phát triển
của xã hội, phản ánh khát vọng của con người. Giữa lý tưởng đạo đức và chuẩn mực
đạo đức có mối quan hệ khăng khít với nhau. Lý tưởng đạo đức định hướng cho chuẩn
mực đạo đức. Trên cơ sở lý tưởng đạo đức trong mỗi giai đoạn lịch sử con người xây
dựng những chuẩn mực đạo đức mọi người làm theo. Ngược lại, chuẩn mực đạo đức là
sự cụ thể hóa, từng bước biến lý tưởng đạo đức thành hiện thực cuộc sống. Nếu không
có một lý tưởng đạo đức đúng đắn cũng không thể xây dựng được chuẩn mực đạo đức
đúng đắn. Ngược lại nếu như những chuẩn mực đạo đức không đúng đắn hoặc không
được thực hiện thì những lý tưởng đạo đức cũng được không hiện thực hóa từng bước
trong cuộc sống.
Thực tiễn đạo đức là hoạt động của con người do ảnh hưởng của niềm tin, ý

thức đạo đức, là quá trình hiện thực hoá ý thức đạo đức trong cuộc sống.
Thực tiễn đạo đức đòi hỏi phải có hoạt động và hành vi, phải được thể hiện
thành hoạt động cụ thể của con người. Tuy nhiên không phải mọi hành vi của con
người đều được coi là thể hiện thực tiễn đạo đức. Hành vi đạo đức trước hết phải có
mục đích đạo đức. Mục đích của hành vi đạo đức phải góp phần làm tăng lợi ích xã
hội, thúc đẩy xã hội phát triển. Song cũng không phải mọi hành vi làm tăng lợi ích xã
hội đều được coi là hành vi đạo đức. Những hành vi lấy sự gia tăng lợi ích xã hội làm
phương tiện, nhưng để thực hiện những mục đích ngoài đạo đức cũng không được gọi
là hành vi đạo đức.
Mục đích của hành vi đạo đức phải phù hợp với những nguyên tắc, chuẩn mực
đạo đức trong mỗi thời kỳ lịch sử nhất định. Như vậy, thông thường ý thức đạo đức
đúng đắn là cơ sở cho hành vi đạo đức đúng đắn. Không có ý thức đạo đức đúng đắn
cũng không thể tạo ra hành vi đạo đức đúng đắn. Song đôi khi có người có ý thức đạo
đức đúng đắn, có quan niệm đúng về cái đúng, cái sai, cái thiện, cái ác… nhưng do lợi
ích cá nhân họ lại không có hành vi đạo đức đúng đắn. Ví dụ hiện nay nhiều người biết
lấn chiếm đất đai là sai, tham nhũng là sai, là trái đạo đức, nhưng vì lợi ích cá nhân che
7


mắt, họ vẫn nhắm mắt làm. Nhiều người biết đi trên xe buýt nhường ghế cho người
già, trẻ nhỏ là cần thiết, nhưng nhiều bạn trẻ cố tình làm ngơ, coi đó là chuyện của
người khác.
Thực tiễn đạo đức góp phần củng cố, phát triển, hoặc là suy giảm ý thức đạo
đức. Nếu trong đời sống những giá trị, những chuẩn mực đạo đức được tôn trọng sẽ
góp phần củng cố phát triển ý thức đạo đức. Ngược lại, khi những chuẩn mực đạo đức
xã hội không được tôn trọng thì sẽ làm cho ý thức đạo đức bị mờ nhạt.
Hiện nay ở Việt Nam tình trạng làm việc thiếu nghiêm túc diễn ra ở không ít cơ
quan, tham nhũng chưa được ngăn chặn, nên nhiều người quan niệm rằng, làm việc tốt
việc đúng ở nước ta hôm nay không phải dễ. Thật đau lòng trước thực trạng những
người làm việc tốt như: những chiến sĩ bắt cướp, những người thu dọn đinh do những kẻ

vô lương tâm rải ra đường, một cách không công để bớt đi những tai họa cho người khác
đã bị hành hung và bị đe dạo trừng phạt. Xã hội hội cần phải phê phán gay gắt những kẻ
vô lương tâm đó, phải có cơ chế bảo vệ những việc làm tốt. Nếu không làm được điều
đó sẽ là nguy cơ cho xã hội. Việc xấu không được ngăn chặn, việc tốt không được biểu
dương, bảo vệ thì những quan niệm “người ngay kẻ gian” vẫn hiện hữu trong xã hội; sự
bất an trong xã hội vẫn không được loại bỏ.
Ý thức đạo đức phải được thực hiện bằng hành động thì mới đem lại những lợi
ích xã hội và ngăn ngừa cái ác. Nếu không có thực tiễn đạo đức thì ý thức đạo đức
không đạt tới giá trị, sẽ rơi vào trừu tượng theo kiểu các giáo lý của tôn giáo.
1.1.2.2. Quan hệ đạo đức
Quan hệ đạo đức là hệ thống quan hệ xác định giữa con người với tự nhiên,
giữa con người với con người trên phương diện đạo đức. Trong xã hội có nhiều mối
quan hệ, quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ pháp luật, quan hệ đạo đức…Các
quan hệ trên nhằm điều chỉnh hành vi của con người phù hợp với yêu cầu chung của
xã hội. Quan hệ đạo đức bao gồm quan hệ giữa người này với người khác, quan hệ
mỗi người với cộng đồng, với xã hội.
Quan hệ đạo đức là quan hệ tinh thần, do vậy nó bị qui định bởi quan hệ kinh tế
và chịu sự chi phối bởi những quan hệ xã hội khác. Khi nghiên cứu quan hệ đạo đức
đòi hỏi phải thấy được những mối quan hệ đó. Một mặt thấy được vai trò quyết định
của những quan hệ kinh tế với quan hệ đạo đức, mặt khác thấy được tác động của quan
hệ đạo đức đối với những quan hệ khác.
Quan hệ đạo đức là quan hệ hai chiều. Một mặt mỗi cá nhân thấy được trách
nhiệm của mình đối với người khác, đối với xã hội như trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ
những lợi ích của cộng đồng, của người khác. Mặt khác xã hội có trách nhiệm bảo vệ
lợi ích chính đáng của mỗi cá nhân như: danh dự, nhân phẩm, tài sản, tôn trọng cá tính
của mỗi cá nhân.
Quan hệ đạo đức được tạo nên bởi 3 thành tố: chủ thể - đối tượng - liên hệ. Ví
dụ quan hệ giữa mỗi người với Tổ quốc, trong đó công dân là chủ thể, tổ quốc là đối
tượng, mối liên hệ là tinh thần yêu nước, ý thức tự cường dân tộc.
Quan hệ đạo đức được đặc trưng bởi tính tự giác, tự nguyện tính động cơ. Tính

tự giác, khi con người tham gia vào quan hệ đạo đức cần hiểu được trách nhiệm của
mình làm gì cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức chung của xã hội. Ví dụ cha mẹ nuôi
dưỡng, chăm sóc con cái một cách tự giác. Con cái nuôi dưỡng cha mẹ già là một sự tự
giác. Tuy nhiên để thực hiện được điều đó đòi hỏi con người phải có tri thức hiểu biết
về đạo đức, phải hiểu được chuẩn mực, những yêu cầu của nghĩa vụ đạo đức. Muốn có
8


những hiểu biết đó thì phải thực hiện giáo dục trách nhiệm, nghĩa vụ đạo đức đối với
mỗi người ngay từ nhỏ. Hoạt động giáo dục trách nhiệm nghĩa vụ đạo đức được thực
hiện qua giáo dục hàng ngày, cha mẹ phải thường xuyên giáo dục con cái đạo lý ở đời
và làm người. Mỗi người phải quan tâm tới người khác vì con người không thể sống
biệt lập. Hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình phải đặt trong quan hệ với hạnh phúc
xã hội. Song điều quan trọng trong giáo dục đạo đức là phải thông qua hoạt động thực
tiễn, bởi lẽ chỉ có từng trải trong thực tiễn cuộc sống con người mới hiểu sâu sắc
những triết lý răn dạy ở đời. Trong lao động sản xuất, trong chiến đấu con người phải
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Một mình con người trong nhiều trường hợp không thể tự
làm được, từ đó xuất hiện nhu cầu hợp tác giữa con người và con người.
Tính tự nguyện của quan hệ đạo đức biểu hiện ở nhu cầu và mong muốn của
con người có sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, mong muốn con người làm những cái
thiện chống lại những cái ác trong xã hội. Con người trong quá trình sống để chống
chọi với những tác động của tự nhiên như bão lụt, chống chọi với thú rừng con người
cần phải có sự liên kết giúp đỡ lẫn nhau mới tồn tại được.
Khi quan hệ đạo đức được tự nguyện, tự giác thực hiện thì chuẩn mực đạo đức
sẽ tự nhiên đi vào trong cuộc sống, trở thành động lực thúc đẩy con người hành động
tạo nên mối quan hệ tốt đẹp giữa người này với người khác. Cha mẹ tự giác chăm lo
nuôi dưỡng, giáo dục con cái, ngược lại con cái cũng tự giác quan tâm chăm sóc cha
mẹ. Những hành động đó xuất phát từ tâm, không ai bị bắt ép, không vì một lợi ích
nào khác. Nhưng cái lợi đem lại cho mọi người là mỗi người cảm thấy yên tâm trong
cộng đồng.

Quan hệ đạo đức xuất hiện trong mọi môi trường gia đình, nhà trường và xã
hội. Trong gia đình là quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi
dưỡng con cái khi còn nhỏ, tạo công ăn việc làm cho con cái; con cái có trách nhiệm
nuôi dưỡng chăm sóc cha mẹ khi cha mẹ già yếu, ốm đau bệnh tật. Vợ chồng có trách
nhiệm tôn trọng, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. Anh có trách nhiệm với em, chăm lo
cho em khi còn nhỏ, ngược lại em phải nghe lời anh.
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tác động mạnh mẽ đến mọi
mặt đời sống xã hội. Bên cạnh việc nâng cao năng suất lao động cải thiện đời sống
nhân dân thì cuộc cách mạng này cũng gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường, cạn kiệt
tài nguyên, sa mạc hóa...vì vậy đòi hỏi con người có một quan hệ đúng đắn với tự
nhiên. Trong khai thác tài nguyên thiên nhiên cần chú ý tái tạo những nguồn tài
nguyên đó. Ví dụ khai thác rừng cần trồng lại rừng. Thế hệ hôm nay cần có trách
nhiệm với thế hệ mai sau. Nguồn lợi thủy hải sản cũng phải được giữ gìn bảo vệ. Việc
khai thác đánh bắt thủy hải sản phải theo quy định chung, vừa vừa đảm bảo cho cuộc
sống của người dân hôm nay, vừa đảm bảo tái tạo, tiếp tục phát triển những nguồn lợi
đó phục vụ cho cuộc sống ngày mai, cho thế hệ mai sau.
Quan hệ đạo đức có sự gắn bó với mối quan hệ xã hội như quan hệ kinh tế,
quan hệ chính trị, quan hệ pháp luật. Nếu chúng ta xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp
giữa những người sản xuất với nhau, có niềm tin lẫn nhau, hợp tác và cạnh tranh với
nhau một cách lành mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế. Hoặc xây
dựng được quan hệ đạo đức tốt đẹp giữa những người sản xuất với những người tiêu
dùng, người sản xuất quan tâm tới nhu cầu của người tiêu dùng sẽ tạo điều kiện cho
sản xuất kinh doanh phát triển. Trong quan hệ chính trị cũng vậy, nếu Đảng, Nhà nước
chăm lo tới nhân dân, cán bộ gắn bó với nhân dân thì nhân dân sẽ hết lòng bảo vệ
Đảng, bảo vệ Nhà nước, thực hiện nghiêm túc mọi chủ trương chính sách của Đảng,
9


pháp luật của Nhà nước. Đó là sức mạnh vô địch để chúng ta vượt qua mọi khó khăn
thử thách. Nông dân và công nhân quan tâm tới nhau, gắn bó với nhau sẽ tạo nên khối

liên minh công nông vững chắc. Muốn thay đổi quan hệ đạo đức trong xã hội cần tạo
ra sự thay đổi nhiều quan hệ xã hội khác như: quan hệ kinh tế, chính trị, pháp luật.
1.1.2.3. Đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân
Đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân có quan hệ biện chứng với nhau. Đó là quan
hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng. Đạo đức xã hội là cái chung, đạo đức cá
nhân là cái riêng.
Đạo đức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội trong một cộng đồng nhất định như
một quốc gia, một dân tộc... là phương thức điều chỉnh hành vi đạo đức của mỗi cá
nhân trong cộng đồng sao cho phù hợp với yêu cầu của cộng đồng đó nhằm không
ngừng phát triển và hoàn thiện tồn tại xã hội.
Đạo đức xã hội hình thành trên cơ sở cộng đồng về lợi ích và hoạt động của cá
nhân thuộc về cộng đồng đó. Trong quá trình sống và làm việc cá nhân hình thành
những lợi ích chung đòi hỏi phải tuân theo. Nó tồn tại trong phong tục tập quán, trong
lối sống, trong chuẩn mực đạo đức như: tinh thần yêu nước, ý thức tự cường dân tộc,
lòng nhân ái, sự thủy chung… Ngoài những cái chung của một quốc gia, đất nước còn
những yêu cầu chuẩn mực ở một số dân tộc, một giai cấp, vì mỗi dân tộc, mỗi giai cấp
lại có những lợi ích riêng của cộng đồng đó.
Những chuẩn mực, những thang giá trị đạo đức xã hội, của cộng đồng hàng
ngày tác động đến từng cá nhân từ đó hình thành đạo đức của mỗi cá nhân. Tất nhiên ở
mỗi cá nhân khác nhau việc tiếp nhận những giá trị, những chuẩn mực đạo đức có mức
độ, cách thức khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào trình độ hiểu biết ý thức giác ngộ và
sự từng trải của mỗi cá nhân. Đương nhiên những cá nhân có tri thức phong phú, có sự
từng trải trong thực tiễn cuộc sống sẽ tiếp nhận những giá trị, những chuẩn mực đạo
đức để cá tính hóa chúng trở thành những phẩm chất đạo đức cá nhân.
Đạo đức cá nhân là đạo đức của từng cá nhân riêng lẻ, phản ánh và khẳng định
sự tồn tại của cá nhân như là sự thể hiện riêng rẽ về lợi ích và hoạt động của cá nhân
trong cộng đồng. Đạo đức cá nhân là nội tâm hóa những chuẩn mực, phong tục tập
quán thành thói quen, thành những hành vi đạo đức của mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân là
một nhân cách, có tri thức, có trình độ khác nhau, tính cách khác nhau do vậy việc tiếp
nhận những giá trị, những chuẩn mực đạo đức, lý tưởng đạo đức cũng có sự khác

nhau, và sự biểu hiện của đạo đức ra bên ngoài cũng khác nhau. Đạo đức cá nhân là vô
cùng đa dạng và phong phú. Cùng một chuẩn mực đạo đức, nhưng mỗi cá nhân lại có
cách thể hiện khác nhau.
Đạo đức cá nhân có những mức độ khác nhau:
Cấp độ hoạt động thực tiễn: ở cấp độ này, đạo đức cá nhân biểu hiện ở khả
năng và mức độ mà một chủ thể đạo đức có thể làm cho hành vi đạo đức có giá trị. Đó
là khả năng ứng xử của chủ thể đạo đức trước những tác động và yêu cầu của xã hội
sao cho phù hợp với những yêu cầu chuẩn mực đạo đức xã hội, ở việc tiếp nhận những
chuẩn mực đạo đức, biến chúng thành nhu cầu nội tâm, thành mong muốn, thành khát
vọng của chủ thể đạo đức.
Cấp độ tâm lý cảm xúc: cấp độ này của đạo đức cá nhân là toàn bộ nhu cầu tình cảm,
niềm tin, lý tưởng của mỗi cá nhân. Đó là những tri thức, những hiểu biết của cá nhân về
chuẩn mực đạo đức, thang giá trị đạo đức, là Ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ đạo đức trước
các mối quan hệ gia đình và xã hội. Trên cơ sở của Tri thức đạo đức, trước những yêu cầu của
10


xã hội mỗi cá nhân định hướng hành vi đạo đức và cách hành động của mình sao cho phù hợp
với yêu cầu đó. Trên cơ sở hiểu biết về chuẩn mực đạo đức, các quan hệ đạo đức cá nhân suy
nghĩ cần phải làm gì, cần hành động như thế nào? đạo đức cá nhân là vô cùng đa dạng phong
phú. Đạo Đức cá nhân bao gồm những chuẩn mực đạo đức xã hội và đặc tính cá nhân. Đạo
xã hội không bao gồm hết những nét độc đáo của cá nhân.
Đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân có sự gắn bó chặt chẽ với nhau, quan hệ với
nhau, tác động qua lại với nhau. Những chuẩn mực đạo đức, thang giá trị đạo đức, lý
tưởng đạo đức tác động vào từng cá nhân. Mỗi cá nhân từ thực tiễn cuộc sống, từ
những tri thức đạo đức có được, sẽ tiếp nhận những gì phù hợp vừa đảm bảo những
yêu cầu xã hội vừa thỏa mãn lợi ích cá nhân. Đạo đức cá nhân một khi đã hình thành
nó lại ảnh hưởng tới đạo đức xã hội, tác động trở lại đạo đức xã hội. Xã hội muốn tốt
mỗi cá nhân phải tốt. Chúng ta không thể hình dung được ở đâu có một xã hội tốt đẹp
mà trong đó lại bao gồm những con người vô lương tâm vô trách nhiệm, thờ ơ với số

phận những người khác. Tuy nhiên đạo đức xã hội không phải là tổng số đạo đức cá
nhân mà nó là những chuẩn mực, những yêu cầu phản ánh những lợi ích chung của xã
hội. Từ mối quan hệ nêu trên chúng ta phải phải chăm lo xây dựng những chuẩn mực,
lý tưởng đạo đức phù hợp với yêu cầu của mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi một giai cấp, mỗi
cộng đồng dân cư để định hướng hành động cá nhân. Mặt khác phải tăng cường tuyên
truyền, đẩy mạnh giáo dục đạo đức cho cá nhân để từ đó họ tiếp nhận những chuẩn
mực đạo đức xã hội biến thành nhu cầu nội tâm để cá nhân hành động sao cho đáp ứng
được yêu cầu xã hội. Nhiều cá nhân có đạo đức tốt, đạo đức xã hội sẽ tốt.Việt Nam
muốn xây dựng được một xã hội nhân văn, nhân đạo, con người sống yên vui từ trong
gia đình tới ngoài xã hội, không lo lắng mỗi khi ra đường, đòi hỏi mỗi gia đình phải
quan tâm giáo dục con cái trở thành những con ngoan trò giỏi, biết quan tâm tới người
khác, quan tâm tới số phận của người khác, sống có trách nhiệm với cuộc đời. Xã hội
phải tạo dư luận mạnh mẽ đấu tranh với những kẻ vô lương tâm, vô trách nhiệm với
gia đình và xã hội, những kẻ chỉ biết vui sướng trên bất hạnh, trên đau khổ của những
người khác, phê phán gay gắt lối sống thác loạn của một bộ phận thanh niên đang làm
hủy hoại những truyền thống đạo đức quý báu của dân tộc.
1.2. Đối tượng và nhiệm vụ của đạo đức học Mác - Lênin
1.2.1. Đối tượng
1.2.1.1. Những quan niệm trước Mác về đối tượng của đạo đức học
Trong lịch sử phát triển nhân loại, các thời kỳ khác nhau với thế giới quan khác
nhau, trình độ nhận thức khác nhau, đứng trên những lợi ích khác nhau, có những quan
niệm về đối tượng đạo đức khác nhau.
Những nhà triết học duy tâm khách quan từ Platon đến Hêghen nghiên cứu đạo
đức với pháp luật, với gia đình, nhà nước và công dân; gắn đạo đức với pháp luật với
trật tự thiên định của các tầng lớp xã hội. Platon cho rằng, con người ngay từ khi mới
sinh ra có linh hồn khác nhau cho nên thuộc các tầng lớp khác nhau. Trong xã hội cần
có những loại người khác nhau, làm những công việc khác nhau. Những nhà thông thái
triết học làm người lãnh đạo. Những chiến binh dũng cảm có trách nhiệm bảo vệ đất
nước. Nông dân thợ thủ công có trách nhiệm sản xuất ra thức ăn vật dùng để nuôi sống
xã hội. Nhà nước ra đời để đáp ứng yêu cầu đó. Theo quan niệm của Platon cần làm rõ

trách nhiệm của mỗi tầng lớp xã hội và mỗi tầng lớp cần hiểu được trách nhiệm của
mình để thực hiện. Các tầng lớp làm đúng trách nhiệm của mình thì xã hội sẽ ổn định.
Đạo đức học của những nhà thần học gắn liền với ý niệm về chúa. Theo quan
niệm này chúa hiện thân cho cái thiện, cho lẽ phải. Điều gì chúa muốn đó là đạo đức.
11


Theo quan điểm này, đạo đức cần đi sâu nghiên cứu hiểu được mong muốn, khát vọng
của chúa để làm theo.
Những nhà triết học duy tâm chủ quan lại cho rằng mệnh lệnh tuyệt đối, ý chí
tự do của con người là đối tượng nghiên cứu của đạo đức. Đạo đức học của Cantơ cố
chứng minh sự hòa giải giữa khoa học và tôn giáo, giữa trí thức và tín ngưỡng. Khoa
học dựa trên tri thức, hiểu biết của con người về những quy luật trong tự nhiên, trong
xã hội. Tôn giáo giữa trên niềm tin của con người vào những đấng siêu nhiên. Theo Cantơ
“chỉ có lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên lý và chuẩn mực đạo đức…Mệnh
lệnh tuyệt đối đòi hỏi mọi người thực hiện không phân biệt lứa tuổi, giới tính tầng lớp xã
hội”1.
Những nhà duy vật trước C.Mác coi đối tượng nghiên cứu của đạo đức học là
những quan hệ con người với con người trong ứng xử xã hội. Nghiên cứu cách ứng xử
trong gia đình, trong xã hội, ứng xử giữa cha mẹ và con cái, giữa anh em, bạn bè, vua
tôi…. Phoiơbắc nghiên cứu tình yêu vĩnh cửu như một tôn giáo. Ông đã ca ngợi tình
yêu, cho rằng tình yêu giữa con người với con người sẽ xóa bỏ được những bất hạnh,
những đau khổ, đưa con người tới hạnh phúc. Như vậy theo Phoiơbắc nhiệm vụ của đạo
đức học là đi tìm thứ tình yêu vĩnh cửu đó. Quan điểm của ông xóa nhòa sự khác biệt
giữa các tầng lớp trong xã hội không thấy đạo đức này sinh từ quan hệ kinh tế - xã hội.
1.2.1.2. Quan niệm chủ nghĩa Mác – Lênin về đối tượng của đạo đức học
C.Mác và Ph.Ănghen đã làm một cuộc cách mạng về tư duy đức. Dựa trên quan
điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử C.Mác và Ph.Ănghen đã tìm ra nguồn gốc
đạo đức là xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, gắn với lao động sản xuất và đấu tranh xã
hội. Đạo đức học Mác -Lênin đã thấy được mối liên hệ giữa đạo đức với các hình thái

ý thức xã hội khác.
Trong những tác phẩm: Gia đình thần thánh, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản,
Chống Đuyrinh... khi bác bỏ những quan điểm duy tâm coi đạo đức đứng trên và đứng
ngoài lịch sử, không gắn với điều kiện kinh tế xã hội C.Mác và Ph.Ănghen đã đặt ra
vấn đề, nghiên cứu đạo đức phải gắn với hiện thực đời sống xã hội, với lợi ích giai
cấp, lợi ích xã hội.
VI.Lênin đã tiếp thu tư tưởng đạo đức của C.Mác và Ph.Ănghen đã gắn đạo đức
với thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân, phục vụ đấu tranh của giai cấp công
nhân và những người lao động. Đạo đức học của VI. Lênin nghiên cứu đạo đức trong
phong tục tập quán, trong dư luận xã hội. VI. Lênin luôn luôn quan tâm chăm lo phát
triển đạo đức cộng sản, nêu lên những chuẩn mực đạo đức như lao động kỷ cương và kỷ
luật.
Từ từ cách tiếp cận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, đạo đức học Mác - Lênin khẳng định, đối tượng nghiên cứu của đạo đức học nguồn
gốc, quy luật phát triển của đời sống đạo đức, những phạm trù, quy luật, những chuẩn
mực đạo đức làm cơ sở cho con người suy nghĩ và hành động.
Vận dụng quan điểm trên, có thể nói đối tượng nghiên đạo đức học Mác Lênin là khoa học nghiên cứu tìm ra bản chất và quy luật hình thành phát triển của đời
sống đạo đức xã hội, đặc biệt là đạo đức của giai cấp công nhân, làm rõ cấu trúc, chức
năng, vai trò, nhiệm vụ của đạo đức trong đời sống xã hội.
Đạo đức học Mác - Lênin đã chỉ ra nguồn gốc của những hiện tượng đạo đức
trong xã hội là từ thực tiễn lao động, chiến đấu của quần chúng nhân dân, nảy sinh từ
1

Trần Hậu Kiêm: Tập bài giảng lịch sử đạo đức học, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.102

12


điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội mà con người đang sống. Các dân tộc khác
nhau sống trong những điều kiện khí hậu, thời tiết đất đai khác nhau có những quan

niệm đạo đức khác nhau.
Đạo đức học Mác - Lênin cho rằng, những chuẩn mực đạo đức, những phong tục tập
quán trong xã hội thường xuyên vận động và phát triển, vì điều kiện kinh tế xã hội luôn thay
đổi. Từ việc nghiên cứu như vậy, đạo đức học Mác - Lênin cũng chỉ ra, muốn thay đổi những
quan niệm đạo đức trong xã hội phải thay đổi điều kiện sống của con người.
Đạo đức học Mác - Lênin đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa đạo đức với các
hình thái ý thức xã hội khác như: chính trị, pháp luật, tôn giáo, nghệ thuật….
Nội dung đạo đức, những chuẩn mực đạo đức bị quy định bởi đường lối chính
trị, mục đích chính trị xong đến lượt nó lại phục vụ lợi ích chính trị, củng cố và phát
triển nền chính trị của một giai cấp nhất định. Cán bộ đảng viên tiên phong gương
mẫu, cán bộ công chức nhà nước có liêm khiết tạo ra niềm tin cho nhân dân sẽ trở
thành sức mạnh to lớn để củng cố nền chính trị một quốc gia.
Đạo đức và pháp luật đều nhằm điều chỉnh hành vi của con người. Chúng có
yêu cầu nhiệm vụ khác nhau, nhưng lại thường xuyên tác động tới nhau. Muốn thực
hiện tốt pháp luật trước hết phải có đạo đức tốt. Con người trước hết phải biết được
trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với người khác, đối với xã hội, từ đó mới có ý
thức tôn trọng kỷ cương pháp luật. Ngược lại, pháp luật thực hiện nghiêm minh là điều
kiện để củng cố, phát triển đạo đức. Việc làm tốt được động viên, việc làm xấu bị
trừng phạt thì những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp mới được củng cố và phát triển.
Đạo đức học Mác - Lênin đi sâu nghiên cứu đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân.
Đây là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Cái chung thì khái quát, sâu sắc, cái
riêng là đa dạng và phong phú.
Đạo đức học Mác - Lênin cho rằng, thành tố văn hóa có vai trò quan trọng
trong điều chỉnh hành vi của con người. Để trở thành đạo đức, các hoạt động sống,
sáng tạo của con người được kích thích bởi quan hệ vô hình, những quy tắc, những
chuẩn mực cho phép, không cho phép; nên làm hay không nên làm. Những điều đó trở
thành những ràng buộc, quy định hành vi ứng xử của con người trong xã hội. Một con
người có hiểu biết về quy tắc ứng xử đó, họ sẽ biết phải làm gì trong những điều kiện
cụ thể.
Chuẩn mực đạo đức có thể tạo ra phong tục, tập quán một cách tự giác của một

cộng đồng văn hóa nhất định, Các tập quán ít đòi hỏi một sự tuân thủ nghiêm ngặt, ví
dụ tập quán cầm dao úp tay hay ngửa tay khi gọt trái cây. Những tập quán không bị
ràng buộc về mặt đạo đức. Cầm úp hoặc ngửa tay khi cầm dao gọt trái cây không gặp
phải sự phản đối của cộng đồng.
Tập quán khi trở thành phong tục thì ứng xử về mặt đạo đức ở mức độ mạnh mẽ
hơn. Việc vi phạm phong tục sẽ gặp phải sự phản ứng của cộng đồng, vì phong tục là
những điều kiện sâu sắc gắn bó với những giá trị tinh thần của xã hội. Ví dụ phong tục
ma chay, cưới xin…. Nếu ai vi phạm những quy ước chung của cộng đồng sẽ bị mọi
người phê phán lên án.
Trong mỗi một nền văn hóa có nhiều hệ thống chuẩn mực cùng phát huy tác
dụng đang kết các hoạt động đạo đức của con người. Đó là hệ thống các chuẩn mực
trong lao động, trong ứng xử giao tiếp, trong tôn giáo…. Các chuẩn mực này có tính quy
định, tính cấm đoán và tính điều chỉnh. Ngoài chuẩn mực đạo đức trong xã hội còn
nhiều loại chuẩn mực khác nhau như: chuẩn mực pháp luật, chuẩn mực thẩm mỹ….
13


Chuẩn mực đạo đức là sự áp dụng cụ thể các giá trị đạo đức vào trong đời sống
xã hội. Giá trị đạo đức với tư cách là đối tượng của đạo đức học Mác - Lênin phải
thông qua đánh giá mà có. Giá trị đạo đức là những tư tưởng đạo đức bao quát được
tin tưởng mạnh mẽ chung cho mọi người về cái thiện, cái ác; cái gì là hợp lý, cái gì là
phi lý, cái gì là mong muốn, cái gì là không mong muốn.
Trong xã hội có nhiều giá trị như giá trị kinh tế, giá trị khoa học, kỹ thuật, giá
trị thẩm mỹ, giá trị đạo đức…. trong đó giá trị đạo đức là có tính người nhất, vì nó
mong muốn đưa lại những điều tốt đẹp cho con người.
Giá trị đạo đức có tính khái quát cao hơn chuẩn mực đạo đức, nó không quy
định cách ứng xử trong những trường hợp cụ thể của mỗi cá nhân đối với xã hội, mà
nó định hướng cho con người phải làm gì để những giá trị đó đi vào cuộc sống. Trong
cuộc sống có những giá trị đạo đức được sự hỗ trợ của một số chuẩn mực đạo đức. Ví
dụ giá trị đạo đức của nhân dân Việt Nam là tính cộng đồng được thể hiện trong chuẩn

mực đạo đức như đoàn kết và tình yêu thương con người.
Các chuẩn mực và giá trị đạo đức là hệ thống các quan hệ khách quan được quy
định bởi thực tiễn lịch sử và gắn với lợi ích xã hội, do vậy chúng mang tính lịch sử,
tính dân tộc và tính giai cấp. Các thời kỳ lịch sử khác nhau thì những giá trị và những
chuẩn mực đạo đức có sự khác nhau. Các dân tộc khác nhau có giá trị, chuẩn mực đạo
đức khác nhau thậm chí đối lập nhau. Các giai cấp khác nhau cũng có những giá trị và
chuẩn mực đạo đức khác nhau.
1.2.2. Nhiệm vụ
Cũng như bất cứ một khoa học nào khác, đạo đức Mác - Lênin có nhiệm vụ
nhận thức đối tượng và trên cơ sở nhận thức ấy góp phần biến đổi, cải tạo, đổi mới đối
tượng cho phù hợp với nhu cầu của tiến bộ xã hội.
Một là, phân tích và miêu tả đời sống đạo đức trong xã hội.
Đạo đức là lĩnh vực vô cùng rộng lớn, tồn tại trong mọi lĩnh vực đời sống xã
hội, trong gia đình và trong xã hội; trong chính trị, trong kinh tế, trong y tế, giáo dục
và trong nhiều lĩnh vực khác.
Trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, các thời kỳ lịch sử khác nhau,
các quan điểm đạo đức khác nhau có sự giải thích khác nhau về đạo đức. Cùng giải thích
quan hệ giữa con người với con người, đạo đức học tư sản giải thích theo hướng biện hộ
cho quan hệ bóc lột, lối sống cá nhân, họ giải thích “mỗi người hãy tự lo cho mình, chúa
lo cho tất cả” hay “người với người theo quan hệ một mất, một còn”. Các giai cấp thống
trị trong nhiều thời đại khác nhau cho rằng chỉ có người giàu mới có đạo đức, còn người
nghèo không có đạo đức. Vì vậy trong xã hội người giàu thống trị người nghèo là tất yếu
khách quan. Như vậy quan hệ giữa con người với con người trong các chế độ áp bức bóc
lột được giải thích nhằm bảo vệ cho chế độ áp bức bóc lột đó.
Ngược lại với những quan điểm đạo đức của giai cấp bóc lột trước đây, quan
niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin đã phân tích một cách khoa học mối quan hệ đạo đức
trong xã hội. Đạo đức học Mác - Lênin khẳng định đạo đức là sự phản ánh những quan
hệ kinh tế - xã hội. Do vậy trong xã hội có giai cấp với những lợi ích khác nhau có
những quan niệm đạo đức khác nhau. Giai cấp thống trị xây dựng những quan niệm
đạo đức nhằm bảo vệ chế độ chính trị đó, ngược lại giai cấp bị trị lại tạo dựng những

quan niệm đạo đức nhằm chống lại sự bất công, các bước đó. Xã hội được xây dựng
trên cơ sở áp bức bóc lột, thì những quan hệ đạo đức trong gia đình cũng được xây
dựng trên cơ sở thừa nhận sự bất bình đẳng giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng,
14


trong đó con cái phải tuyệt đối phục tùng cha mẹ, vợ phải tuyệt đối phục tùng chồng.
Đó đó là đạo lý trong chế độ phong kiến. Ai làm trái sẽ bị lên án. Trong chế độ xã hội
chủ nghĩa những quan hệ này là bình đẳng dựa trên cơ sở tình thương và trách nhiệm.
Đạo đức nảy sinh trong lao động sản xuất, trong đấu tranh xã hội. Trong quá
trình lao động sản xuất và đấu tranh xã hội, con người không thể hành động một mình
mà cần phải quan hệ với người khác. Điều đó nói lên con người có nhu cầu hợp tác,
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, từ đó nảy sinh quan hệ đạo đức, cần người khác giúp đỡ
mình. Mà muốn người khác giúp đỡ mình thì trước hết mình phải giúp đỡ người khác.
Các thời đại khác nhau, có trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau, do vậy
đạo đức, chính trị, văn học nghệ thuật cũng có sự khác nhau. Tuy nhiên đạo đức của xã
hội sau bao giờ cũng kế thừa những giá trị đạo đức của những xã hội trước đó. Trong
xã hội có giai cấp đối kháng, các giai cấp có lợi ích khác nhau, thì cũng diễn ra cuộc
đấu tranh giữa những quan niệm đạo đức. Nhiệm vụ của đạo đức học Mác - Lênin là
phải làm rõ xu hướng biến đổi của những quan niệm đạo đức đó. Ví dụ Việt Nam hiện
nay đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế, do vậy cũng đang tồn tại nhiều giai cấp,
tầng lớp xã hội khác nhau, trong đó đạo đức của giai cấp công nhân giữ vai trò thống
trị. Đạo đức của giai cấp công nhân ngày càng được củng cố và phát triển, đạo đức của
những người sản xuất nhỏ ngày càng giảm đi cùng với sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Đạo đức không tồn tại độc lập, mà tồn tại trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Điều đó được thể hiện trong thái độ lao động, trong ý thức đấu tranh, trong ứng xử
giữa con người với con người trong cuộc sống. Nhiệm vụ của đạo đức học Mác Lênin là phải phân định rõ góc độ mà đạo đức học nghiên cứu và làm rõ mối quan hệ
đạo đức với những ngành khoa học khác. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, chịu
sự chi phối của kinh tế, của những ngành khoa học khác, một số lĩnh vực khác, song

đạo đức cũng tác động tới các lĩnh vực khác. Đạo đức học Mác - Lênin có nhiệm vụ
phải làm rõ mối quan hệ này. Không thấy được những mối quan hệ đó chúng ta không
thể giải thích được nhiều hiện tượng đạo đức trong xã hội.
Hai là, đạo đức học Mác - Lênin góp phần vào việc hình thành phát triển đạo
đức mới, đạo đức của giai cấp công nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trước hết cần
có những con người xã hội chủ nghĩa”. Con người xã hội chủ nghĩa là người phải đi
đến hoàn toàn không có chủ nghĩa cá nhân. Trong đầu óc mọi người đều có sự đấu
tranh giữa cái thiện và cái ác, hoặc nói theo cách mới là sự đấu tranh giữa tư tưởng
cộng sản và tư tưởng cá nhân.
Như vậy muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, cần phải có những con
người xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa là những người mang phẩm chất
đạo đức của giai cấp công nhân, có lòng yêu nước nồng nàn, yêu chế độ xã hội chủ
nghĩa, có tinh thần đấu tranh chống áp bức bất công, là những con người có tinh thần
quốc tế xã hội chủ nghĩa, có tinh thần yêu thương đồng chí, đồng đội, yêu thương quần
chúng nhân dân, sống tình nghĩa trong gia đình, với cộng đồng và bạn bè.
Những phẩm chất đạo đức đó chỉ có thể được thông qua quá trình lao động sản
xuất, đấu tranh xã hội và trong giao tiếp hàng ngày. Để cho mỗi người có thể tiếp nhận
những tri thức, hình thành phẩm chất đạo đức cần xây dựng những chuẩn mực đạo đức
trong từng lĩnh vực.
Đạo đức trong lao động, đòi hỏi người lao động phải lao động có kỷ luật, có kỹ
15


thuật, có năng suất cao, lao động khẩn trương, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm nguyên
nhiên liệu, có tinh thần hợp tác trong lao động. Đây là những phẩm chất đạo đức
chung. Những chuẩn mực chung đó lại phải cụ thể hóa thành những chuẩn mực phù
hợp với từng ngành nghề, từng công việc. Phạm trù trung tâm trong đạo đức lao động
là nghĩa vụ xã hội. Mỗi người trong xã hội vừa với tư cách là chủ thể lao động, sản
xuất, vừa với tư cách là người tiêu dùng. Khi là người lao động sản xuất tạo ra những

sản phẩm có chất lượng, thì khi là người tiêu dùng mới được hưởng những sản phẩm
có chất lượng. Cần phải xây dựng lương tâm, trách nhiệm cho người lao động, Việt
Nam mới có điều kiện mở rộng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, mới giành thắng lợi trong cạnh tranh quốc tế.
Đạo đức học giao tiếp hướng tới các chuẩn mực về sự tôn trọng các giá trị đạo
đức và sự ứng xử tôn trọng lẫn nhau giữa con người và con người trong cuộc sống.
Trong ứng xử phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: “đối với mình phải nghiêm khắc,
đối với người phải khoan dung”. Điều đó có nghĩa đối với mỗi người luôn phải nghiêm
khắc với chính mình, phải thường xuyên học tập phấn phấn đấu vươn lên, luôn tự phê
bình, kịp thời rút ra những ưu khuyết điểm, để phát huy những ưu điểm và khắc phục
những hạn chế thiếu sót. Đối với người khác phải tôn trọng, phải đối xử bình đẳng,
phải kính trọng người già, yêu thương trẻ nhỏ, thân thiện với đồng chí, đồng nghiệp.
Phải luôn luôn tôn trọng người khác thể hiện trong lời nói và hành động. Phạm trù
trung tâm của đạo đức học giao tiếp là công bằng.
Đạo đức học giáo dục tập trung xây dựng các nguyên tắc đạo đức theo mục tiêu
và chuẩn mực xã hội chủ nghĩa và lý tưởng Cộng sản chủ nghĩa.
Học sinh, sinh viên các cấp học khác nhau có lứa tuổi, có trình độ khác nhau,
tâm lý khác nhau. Vì vậy việc giáo dục đạo đức phải có nội dung, chương trình phù
hợp. Cần phải làm rõ chương trình tiểu học, trung học, Đại học giáo dục cái gì? Việc
biên soạn nội dung giảng dạy đạo đức phải phù hợp với từng lứa tuổi. Cần phải tìm ra
phương pháp giáo dục có hiệu quả nhất, tránh những điều sáo rỗng.
Đạo đức học giáo dục cần kết hợp với 3 quá trình giáo dục: giáo dục, tự giáo
dục, giáo dục lại. Cần phải đẩy mạnh hoạt động giáo dục đạo đức từ trong gia đình tới
nhà trường và ngoài xã hội. Ba môi trường này có vai trò vị trí khác nhau, nhưng có
quan hệ gắn bó với nhau. Mỗi môi trường cần tìm ra những hình thức giáo dục sao cho
có hiệu quả, ba môi trường giáo dục này phải có sự đồng tâm nhất trí phối hợp hành
động, tránh tình trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược.
Tự giáo dục có vai trò quan trọng trong giáo dục đạo đức. Để thực hiện tượng
giáo dục tốt cần đưa con người tham gia quá trình học tập, lao động và đấu tranh xã
hội, có nghĩa là phải tạo ra môi trường xã hội để con người phấn đấu rèn luyện. Chỉ

trong môi trường xã hội, trong quan hệ với những người khác mỗi con người mới tự
nhận thức được chính mình, hiểu được khả năng của mình trong quan hệ so sánh với
những người khác. Chỉ qua khó khăn, thử thách, qua thực tế cuộc sống con người mới
có hiểu biết những giá trị cuộc sống và tự nhận thức được mình, từ đó mà rèn luyện
phấn đấu.
Giáo dục lại là một yêu cầu khách quan, vì cuộc sống luôn luôn vận động và
biến đổi. Nhất là trong thời đại khoa học công nghệ hiện nay. Tri thức ngày một đổi
mới, có những vấn đề hôm nay là đúng, là phù hợp, nhưng cuộc sống thay đổi đến
mức ngày mai chưa chắc còn đúng và phù hợp. Hơn nữa những yếu tố bên ngoài luôn
luôn tác động tới mỗi người do vậy, nếu không tự nhận thức, không giáo dục lại, kiến
thức của chúng ta có thể lạc hậu so với cuộc sống.
16


Trong việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ, cho mọi người dân, hiệu
quả của nó phụ thuộc rất lớn vào sự nêu gương của người lãnh đạo trong quản lý, của
người thầy, người cô, của các bậc phụ huynh.
Hiện nay Việt Nam cần gắn giáo dục đạo đức với cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Cần làm rõ những tác động tiêu cực và tích cực của cơ chế thị trường đến
đạo đức xã hội để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của nó.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn xác lập mối quan
hệ đạo đức mà ở đó cá nhân phải có trách nhiệm xã hội, con người phải trung thực,
phải tuân thủ những quy luật kinh tế thị trường, làm ăn trung thực. Đạo Đức học ở Việt
Nam hiện nay phải xác lập cho được những chuẩn mực đạo đức phù hợp với nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong xu hướng không ngừng mở rộng quan
hệ quốc tế, vừa kế thừa giá trị của đạo đức dân tộc, vừa tiếp thu có chọn lọc tinh hoa
đạo đức của các dân tộc khác.
Ba là, đạo đức học Mác - Lênin có nhiệm vụ đấu tranh chống lại những quan
niệm đạo đức không phù hợp.
Trong xã hội Việt Nam thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư

bản chủ nghĩa đang tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, do vậy tồn tại nhiều giai cấp
tầng lớp khác nhau. Đã tồn tại nhiều giai cấp tầng lớp khác nhau đương nhiên tồn tại
nhiều quan niệm đạo đức, bao gồm đạo đức của giai cấp công nhân với những yêu cầu
chuẩn mực như: yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa; lao động cần cù, có năng suất
cao, chất lượng tốt; có ý thức kỷ luật; có tinh thần đoàn kết.... Bên cạnh đó trong xã
hội Việt Nam hiện nay đang tồn tại những quan niệm đạo đức của những người sản
xuất nhỏ với lối sống “trọng tình hơn trọng lý”, lối sống khép kín, lối sống tự ti, ghen
ghét đố kỵ… Những điều đó đang ảnh hưởng tới lao động sản xuất, tới xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc Việt Nam hiện nay, cần phải đấu tranh khắc phục.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bên cạnh những mặt
tích cực, trong xã hội cũng đang nảy sinh nhiều tiêu cực cần phải đấu tranh loại bỏ như
lối sống thực dụng, ca ngợi đồng tiền quá mức, coi thường luân thường đạo lý, vì lợi
nhuận người ta sẵn sàng làm hàng giả hàng nhái.
Nhiệm vụ đạo đức học là phải phân tích làm rõ những cơ sở kinh tế - xã hội,
tâm lý này sinh những quan điểm trên, trên cơ sở đó tìm ra những biện pháp khắc
phục, làm cho đạo đức của giai cấp công nhân ngày càng lan rộng và phát huy mạnh
mẽ trong xã hội. Muốn khắc phục những quan niệm đạo đức không đúng, cần tạo ra
những điều kiện kinh tế xã hội để xóa bỏ những quan niệm sai lầm đó là phải từng
bước xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặt khác cần phải định hướng dư luận đấu tranh
phê phán những quan niệm sai lầm đó.
1.3. Phương pháp nghiên cứu của đạo đức học Mác - Lênin
Mỗi ngành khoa học có phương pháp nghiên cứu riêng của nó. Tuy nhiên
phương pháp nghiên cứu và phương pháp luận nghiên cứu lại gắn với thế giới quan
khác nhau.
Phương pháp tiếp cận với đạo đức của chủ nghĩa Mác – Lênin là một giai đoạn
trong sự phát triển của đạo đức học. Phương pháp tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa Mác
- Lênin của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, xem đạo đức
như một hiện tượng xã hội, là một hình thái ý thức xã hội, do điều kiện kinh tế - xã hội
qui định và có mối quan hệ với các hình thái ý thức xã hội khác, luôn luôn vận động và

biến đổi, có tính thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp. Trong phương pháp tiếp cận
17


đạo đức của chủ nghĩa Mác – Lênin có các nguyên tắc, các quan điểm cho phép nghiên
cứu đạo đức một cách khoa học, đúng đắn, làm rõ được bản chất, những tác động đến
đời sống đạo đức trong xã hội, cho phép giải thích một cách đúng đắn những hiện
tượng đạo đức trong xã hội.
1.3.1. Một số nguyên tắc phương pháp nghiên cứu của đạo đức học Mác - Lênin
1.3.1.1. Nguyên tắc phương pháp luận về mối quan hệ biện chứng giữa cái phổ
biến cái đặc thù và cái đơn nhất
Đối tượng nghiên cứu của đạo đức học Mác – Lênin là các chuẩn mực, các giá
trị, các thang giá trị, các quan hệ đạo đức. Các giai đoạn lịch sử khác nhau, các dân tộc
khác nhau có những quan niệm đạo đức, các chuẩn mực đạo đức, các thang giá trị đạo
đức khác nhau.
Tuy các thời kỳ lịch sử khác nhau, các dân tộc khác nhau, nhưng nhìn chung
con người đều ưa cái thiện, ghét cái ác. Mỗi dân tộc, mỗi giai cấp trong các thời kỳ
lịch sử khác nhau lại có những quan niệm đạo đức khác nhau.
Trong một dân tộc lại có những chuẩn mực chung. Ví dụ những chuẩn mực đạo
đức của con người Việt Nam là đoàn kết, yêu nước, cần cù… Song mỗi thời kỳ lịch sử
quan niệm yêu nước lại có những nét riêng. Trong mỗi một dân tộc lại có nhiều giai
cấp. Các giai cấp có lợi ích riêng, do vậy có những biểu hiện khác nhau trong các
chuẩn mực đạo đức. Cùng một chuẩn mức đạo đức nhưng các ngành nghề, công việc
khác nhau cũng có sự khác nhau. Ví dụ, cùng là lòng yêu nước nhưng biểu hiện giữa
người chiến sĩ công an và bác sĩ là khác nhau. Do vậy khi nghiên cứu đạo đức cần
quán triệt nguyên tắc về mối quan hệ biện chứng giữa cái phổ biến, cái đặc thù và cái
đơn nhất. Có nghiên cứu như vậy mới tránh được giáo điều mày móc, mới hiểu được
bản chất của các hiện tượng đạo đức, đồng thời thấy được tính đa dạng phong phú của
những biểu hiện đạo đức ở trong xã hội.
1.3.1.2.. Nguyên tắc phương pháp luận về mối quan hệ biện chứng giữa phương

pháp diễn dịch và phương pháp qui nạp
Phương pháp diễn dịch là đi từ các khái niệm, phạm trù đạo đức học, trong quá tình
nghiên cứu đòi hỏi phải thấy được sự biểu hiện đa dạng của nó trong cuộc sống, trong
lao động sản xuất, trong đấu tranh xã hội, tránh giáo điều mày móc.
Trong một xã hội có nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Mỗi giai
cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau, do vậy những biểu hiện trong những phạm
trù đạo đức trong các ngành nghề có sự khác nhau. Mỗi con người có những tính cách
khác nhau, do vậy biểu hiện đạo đức có sự khác nhau. Từ tính đa dạng trong những
quan niệm đạo đức như vậy, đòi hỏi đạo đức học phải khái quát thành những khái
niệm, phạm trù, qui luật đạo đức và rút ra bản chất của những hiện tượng đạo đức
trong xã hội.
Đạo đức là một phạm trù lịch sử, nó phát sinh, tồn tại và phát triển trong một
giai đoạn lịch sử nhất định. Do đó quan niệm về đạo đức trong lịch sử phải được xem
như nấc thang có giá trị nhất định của xã hội loài người. Nó luôn luôn bị phủ định, lọc
bỏ, kế thừa, phát triển không ngừng với sự tiến bộ xã hội nói chung. Mỗi hiện tượng
đạo đức hiện thực đều có cội nguồn từ cơ sở quá khứ, truyền thống lịch sử; đông thời
đạo đức hiện tại là để phát triển trong tương lai như là quá trình phủ định biện chứng.
Vì thế phương pháp lích sử, so sánh giúp ta thấy được cái logic bản chất hiện tượng
đạo đức trong tiến trình lịch sử xã hội.
Như vậy, phương pháp diễn dịch và qui nạp cho phép chúng ta nghiên cứu các
hiện tượng đạo đức từ cái “trừu tượng đến cụ thể và ngược lại”. Tính khái quát của
18


những khái niệm, phạm trù đạo đức học phải dựa vào thực tiễn cuộc sống, phải xuất
phát từ quá trình lao động, chiến đấu và giao tiếp hàng ngày của quần chúng nhân dân.
Khi xem xét các phạm trù, khái niệm, qui luật của đạo đức phải đặt trong hoàn cảnh cụ
thể, gắn với từng thời kỳ lịch sử, từng dân tộc, từng ngành nghề, từng biểu hiện cụ thể.
1.3.1.3. Nguyên tắc phương pháp luận về mối quan hệ giữa cái lịch sử và cái logic
Phương pháp lịch sử là khi nghiên cứu các quan hệ đạo đức, các chuẩn mực đạo

đức phải đặt trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội do
tồn tại xã hội qui định. Các thời kỳ lịch sử khác nhau có trình độ phát triển kinh tế - xã
hội khác nhau, do vậy những quan niệm về thiện ác cũng khác nhau thậm chí đối lập
nhau. Vì vậy chỉ trên cơ sở nghiên cứu một cách cụ thể những điều kiện tự nhiên, khí
hậu, điều kiện kinh tế - xã hội của các dân tộc các quốc gia mới có thể giải thích đúng
đắn những phong tục, tập quán, những chuẩn mực đạo đức được hình thành ở các dân
tộc, các quốc gia.
Các quan hệ đạo đức có logic nội tại của nó. Đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội, một mặt chịu sự qui định của tồn tại xã hội, mặt khác tác động trở lại tồn tại xã
hội; đồng thời đạo đức cũng có quan hệ tác động qua lại với các hình thái ý thức xã hội
khác. Để nghiên cứu các hiện tượng đạo đức, các quan hệ đạo đức một cách đúng đắn,
cần phải có sự kết hợp giữa phương pháp logic và phương pháp lich sử. Từ quan hệ
đạo đức, từ những sự kiện, hiện tượng đạo đức cần phải khái quát thành các qui luật,
các phạm trù đạo đức. Việc khái quát các phạm trù, qui luật, các chuẩn mực đạo đức
cần phải dựa trên cơ sở các hiện tượng đạo đức trong lịch sử, tránh tư biện rút ra từ
đầu óc con người, xa rời thực tiễn cuộc sống.
1.3.1.4. Nguyên tắc gắn lý luận với thực tiễn
Lý luận là sự khái quát thực tiễn khác quan, nên sâu sắc phản ánh bản chất của
những hiện tượng đạo đức trong xã hội.
Gắn lý luận với thực tiễn đòi hỏi phải gắn những phạm trù, qui luật, chuẩn mực
đạo đức với thực tiễn lao động sản xuất, thực tiễn đấu tranh chống lại thiên nhiên khắc
nghiệt, chóng lại áp bức bóc lột của quần chúng nhân dân. Cùng một phạm trù đạo
đức, cùng một chuẩn mực đạo đức nhưng sự biểu hiện của chúng trong những điều
kiện hoàn cảnh khác nhau có sự khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Phương pháp gắn lý luận với thực tiễn giúp chúng ta tránh được bệnh giáo điều
máy móc. Vận dụng quan điểm này, khi xem xét các giá trị đạo đức truyền thống Việt
Nam cần gắn với thực tiễn đấu tranh chống lại thiên nhiên khắc nghiệt và chống lại
giặc ngoại xâm của dân tộc.
Để nghiên cứu đạo đức một cách đúng đắn, khoa học bên cạnh các phương
pháp nêu trên, chúng ta cần có quan điểm toàn diện, hệ thống, quan điểm phát triển.

Nghiên cứu một hiện tượng đạo đức trong xã hội phải xét tới tất cả các yếu tố từ kinh
tế tới chính trị, văn hóa, thực thi pháp luật… xét cả các yếu tố chủ quan, khách quan,
yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài. Có như vậy mới giải thích và đánh giá đúng đắn
các hiện tượng đạo đức trong xã hội. bên cạnh đó việc nghiên cứu đạo đức không chỉ
thấy cái hiện tượng mà phải nhìn nhận xu hướng vận động và phát triển của nó trong
tương lai. Ví dụ, hiện nay đạo đức xã hội ở Việt Nam bên cạnh những tiến bộ đạo đức
như tính năng động, quyết đoán, bình đẳng hơn trước đây, thì vẫn còn nhiều lĩnh vực
đạo đức bị xuống cấp như lối sống thực dụng, lối sống ích kỷ, sự bàng quan… có xu
hướng phát triển trong một bộ phận dân cư. Nhưng chúng ta tin tưởng rằng, cùng với
quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật, quá tình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước thì những tiêu cực dần dần được khắc phục.
19


1.3.2. Các phương pháp nghiên cứu đạo đức học
Đạo đức học có mối quan hệ khăng khít với nhiều khoa học khác như: Xã hội
học, Dân tộc học, Tâm lý học…cho nên nghiên cứu đạo đức học cần vận dụng tổng
hợp các phương pháp nghiên cứu của nhiều ngành khoa học để nghiên cứu đạo đức. Vì
vậy nghiên cứu đạo đức học cần sử dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu cơ bản
sau đây.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Đó là những phương pháp sưu tầm,
đọc, phân tích tài liệu của các khoa học có liên quan để tổng hợp, khái quát những nét
chung và nét đặc thù về hình thái đạo đức trong các giai đoạn khác nhau (từ quá khứ
đến hiện tại và tương lai). Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận cung cấp cho đạo
đức học số liệu, sự kiện phong phú, đa dạng về những giá trị đạo đức ẩn chứa trong
những khoa học khác. Bởi vì quan hệ đạo đức không biểu hiện như một quan hệ riêng
lẻ thuần túy mà nó tiềm ẩn trong các quan hệ xã hội như: quan hệ kinh tế, quan hệ dân
tộc, quan hệ pháp luật, quan hệ gia đình…
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Đời sống đạo đức, giá trị đạo đức
được con người sáng tạo ra không chỉ tồn tại trong ý thức, tư tưởng, mà cuối cùng phải

được hiện thực hóa trong đời sống thực tiễn của con người ở những giới hạn, thời gian,
không gian cụ thể. Do đó, đạo đức học nhất thiết phải vận dụng phương pháp nghiên
cứu thực tiễn, nghĩa là tìm cách tiếp cận với đối tượng, tiếp cận với thực tế đang
thường xuyên vận động, biến đổi không ngừng để phát hiện ra bản chất, tính chất đặc
thù, tính qui luật trong quá trình phát sinh, phát triển của đạo đức. Và cũng thông qua
thực tiễn để kiểm định tính đúng đắn, tính khoa học của các giá trị đạo đức phổ biến
trong điều kiện, lịch sử xã hội khác nhau.
1.4. Các giai đoạn phát triển của đạo đức học
1.4.1. Đạo đức học thời kỳ Hy Lạp cổ đại
Thời kỳ cổ đại là cái nôi của toàn bộ văn hóa châu Âu sau này. Chính ở đây đã
sinh ra một loạt quan điểm triết học, đạo đức học, chính trị học, luật học, mà sau đó sẽ
còn trải qua con đường lịch sử lâu dài. Thời cổ đại như hiện tượng văn hóa đặc thù
xuất hiện trên cơ sở các nhà nước - thị thành Hy Lạp cổ đại có cơ sở xã hội là chế độ
chiếm hữu nô lệ. Đạo đức học cổ đại xuất hiện như là ranh giới của phương thức lĩnh
hội thế giới về tinh thần mới xuất hiện trong thời cổ đại là triết học. Triết học ở đây chỉ
vừa mới thoát thai từ lòng sâu của các quan niệm thần thoại, định hình những khái
niệm chung đầu tiên, giải phóng tư duy khỏi sự hoang đường vốn đặc trưng cho thần
thoại - sự hoà quyện bất phân các hình tượng hư ảo, các truyền thuyết, biểu trưng nghệ
thuật. Các nhà triết học đầu tiên: Talét, Anaximen, Anaximan... quan tâm trước hết
đến những vấn đề về thế giới, cơ sở đầu tiên của nó. Đó là các nhà triết học tự nhiên
mong muốn biết được cơ sở nền tảng của các sự vật, lúc này họ còn chưa quan tâm
đến con người như vốn có.
*Đặc điểm của đạo đức học Hy Lạp cổ đại
Thứ nhất, sự đối kháng đạo đức trong xã hội giữa giai cấp chiếm hữu nô lệ và
người nô lệ. Chủ nô có đặc quyền đặc lợi và họ đã sử dụng người lao động như một
công cụ. Họ cho rằng người nô lệ là hạng người thấp hèn, không có phẩm hạnh. Đó
chính là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh đối kháng giai cấp giữa chủ nô và
nô lệ, người giàu và người nghèo, người có đức hạnh là người vô lương tâm. Từ đó
dẫn đến hình thành những quy tắc đạo đức thích hợp với từng tầng lớp người trong xã
hội, tất nhiên quy tắc đạo đức đó khó phù hợp với ý muốn của giai cấp thống trị là chủ

nô.
20


Sự mâu thuẫn của hai hình thái đạo đức nêu trên thể hiện sự đối kháng trong
một quá trình phát triển văn hóa nhân loại. Nếu trong xã hội công xã nguyên thủy, ý
thức và hành vi đạo đức của con người thể hiện một cách tự nhiên trong quan hệ giữa
con người với con người, thì trong xã hội chiếm hữu nô lệ, quy trình độ tư duy nhận
thức đã phát triển cao hơn, nhưng sự đối lập trong quan hệ người người, giữa chủ nợ
và nô lệ, trên và dưới, giàu và nghèo, mệnh lệnh và phục tùng... ngày càng rõ rệt. Sự
hình thành hai hệ thống đạo đức khác nhau, hai quan niệm, hai lý tưởng đạo đức đối
lập nhau.
Thứ hai, nội dung phẩm hạnh trong đạo đức của tầng lớp chủ nô. Họ quan
niệm rằng: chế độ nô lệ là vĩnh cửu, đó là luận điểm nhằm duy trì sự áp bức bóc lột
ngày càng khốc liệt hơn của chủ nô đối với người nô lệ.
Đạo đức của giai cấp thống trị lúc bấy giờ là thứ đạo đức phản tiến bộ, phản
ánh những thói hư tật xấu như: lòng tham, thèm khát tiền bạc, cuộc sống xa hoa trụy
lạc, lừa đảo, hiếu danh, độc ác... Nhiều nhà thơ nhà văn lúc bấy giờ đã lên án những
thói hư tật xấu ấy.
Như vậy, đạo đức cổ đại đã đưa đến những quan niệm nhân đạo về sứ mệnh
của con người và về ý nghĩa cuộc sống của nó. Mặc dù trong thời đại đó vẫn còn sự
tách biệt giữa các nguyên tắc có tính tuyên ngôn với những phẩm hạnh nhưng việc đưa
ra yêu cầu bình đẳng trước nguyên tắc đạo đức và sự khẳng định phẩm giá của mỗi cá
nhân đã chứng tỏ bước tiến lớn lao trong sự phát triển của tư tưởng đạo đức thời kỳ
này.
*Nội dung cơ bản
Đạo đức học Hy Lạp cổ đại đã chú ý đến vận mệnh của con người như một học
thuyết. Người có phẩm hạnh là người biết phân biệt những hành vi trong các mối quan
hệ xã hội và các tiêu chuẩn của nó như cái thật và cái giả, cái đúng và cái sai, cái thiện
và cái ác... Vấn đề phẩm hạnh trong xã hội Hy Lạp cổ đại được hiểu như một thuộc

tính đặc biệt thể hiện sự vươn tới hoàn thiện của tính cách con người. Nó đòi hỏi mỗi
cá nhân cần có những hành vi tốt đẹp trong quan hệ giao tiếp giữa người với người
Có thể thấy các nhà tư tưởng đã khái quát bốn phẩm hạnh cơ bản của thời kỳ
này đó là: sự điều độ trong đời sống, lòng dũng cảm, có trí thông minh và có sự công
tâm. Tuy nhiên, về nội dung, bốn phẩm hạnh trên có mang tính giai cấp nhằm bảo vệ
giai cấp thống trị..
Thứ hai, quan điểm đạo đức học Hy Lạp cổ đại còn được phát triển trên cơ sở
tổ chức đời sống chính trị xã hội. Họ cho rằng cá nhân chỉ có thể phát triển các năng
lực của mình và đạt đến sự hoàn thiện đạo đức khi người đó với tư cách là một công
dân, một thành viên của xã hội. Nhưng trong thực tế xã hội chiếm hữu nô lệ, cấu trúc
quốc gia hết sức xa lạ với các cá nhân của nó. Các cá nhân, trong đó có các công dân
tự do đã mất hết khả năng tự tổ chức cuộc sống riêng của mình một cách tự giác và tự
chủ.
*Quan điểm của một số nhà đạo đức học tiêu biểu
Xocrat (469 - 399 TCN), là nhà triết học đạo đức đầu tiên trong lịch sử châu
Âu đặt nền móng cho đường hướng khai sáng - duy lý trong đạo đức học muộn hơn
sau này.
Xocrat xuất phát từ việc coi phúc lợi (điều tốt) là thoả mãn, hài lòng, còn cái ác
là khổ đau. Mỗi người đều hướng đến tiện lợi và hạnh phúc, cố trránh tất cả những cái
xấu đối với mình. Tuy nhiên, người ta thường mắc sai lầm và thay vì có sự hài lòng
mong đợi và niềm vui thì lại thu được toàn những điều khó chịu. Để không nhầm lẫn,
21


thì cần phải biết rất rõ thế nào là hài lòng thực sự. Chỉ có tri thức về những con đường
đáng tin cậy dẫn đến hạnh phúc mới giúp không bị chệch hướng. Như vậy, đường đến
hạnh phúc (thường đồng nhất với cái thiện, cái đức) là tri thức. Tri thức về đường dẫn
đến đức cũng chính là đức. Hơn thế tri thức đó cần phải được chính con người thâu
nhận trong tiến trình kiếm tìm căng thẳng, chứ không nên coi là chuẩn giản đơn được
vay mượn tuỳ tiện từ truyền thống. Ai tự đi đến tri thức, sẽ thừa sức đối lại những ý

kiến giả dối của những người khác, thậm chí ngay cả khi họ rất nhiều và rất có thế lực.
Như vậy, một mặt, Xocrat kiên quyết bảo vệ tính độc lập của cá nhân trước dư luận và
tập tục xã hội, mặt khác, lại mở đường cho các tư tưởng vô chính phủ trong đạo đức
học bất chấp các quy định xã hội.
Nhìn ra bốn phía, Xocrat thấy quanh ông đạo đức quá tồi tệ: người ta ganh đua
giành quyền lực, vinh quang, khát khao thoả mãn những ham muốn thô bỉ. Xocrat cho
rằng, tất cả những cái đó chứng tỏ, đồng bào của ông không hiểu, thế nào là tốt thực
sự, thế nào đức. Nhưng thông thái và đạo đức thực chất là thống nhất với nhau, và vì
thế Ông có lời kêu gọi quan trọng cho con người: “Hãy tự biết mình!”. Người ta không
đủ sức nhận thức tự nhiên, đó là việc của Chúa, nhưng họ tiếp cận được tri thức khác,
quan trọng hơn - tri thức về cái tốt riêng của mình. Cần phải hướng đến nó. Xocrat cho
rằng, ông cầu khẩn giúp đồng bào mình cái quý giá nhất đối với họ. Phương pháp tìm
kiếm cái tốt chân chính bằng đối thoại của ông cần phải thúc đẩy việc chỉnh sửa ý thức
đạo đức.
Xocrat nêu ra luận điểm nghịch lý rằng, người cố ý tạo ra cái ác (nếu việc đó là
có thể) còn tốt hơn kẻ thực hiện cái ác vì dốt nát. Kẻ vô thức sa ngã vào cái ác, không
phân biệt được nó với cái thiện và do vậy, không thể trở thành người có đức. Còn kẻ
cố tình chọn lựa cái ác, thì ít ra cũng biết thế nào là thiện, và vì thế có khả năng đi con
đường chính nghĩa. Nhưng vấn đề chính là ở đó, theo Xocrat, con người không tự hại
mình, vì thế mà không thể có cái ác định trước.
Xocrat hoàn toàn tin tưởng rằng, đức, mà rất cần phải nhận thức, mang tính có ý
nghĩa chung khách quan. Vì thế cả cuộc đời ông đi tìm khái niệm dũng cảm, công
bằng... Vì việc đó Xocrat phủ nhận quan niệm về đức vốn có ở những người đối thoại
với ông, và giúp họ định hình cái nhìn mới mà rồi sẽ lại phải chịu sự kiểm tra phê
phán. Tất cả các đối thoại của Xocrat đều đưa những người trò chuyện đến chỗ, không
ai lĩnh hội được chân lý đạo đức và nó cần phải được tìm tòi không mệt mỏi: “Tôi thừa
biết là tôi không biết gì”. Khi cố hiểu chân lý đạo đức tối cao, Xocrat cho rằng, linh
hồn quan trọng hơn thể xác. Ông cố gắng làm cho những người đối thoại và bạn bè của
mình trở thành những kẻ thực sự đạo đức và hy vọng đạt tới điều đó, làm thay đổi
phương thức tư duy của họ.

Arixtốt (384 – 322 TCN) sinh ra ở Xtaghir, là người hệ thống hoá đạo đức học
cổ đại. Đó là tác giả viết hàng loạt tác phẩm để đời, ông thực sự có bộ óc bách khoa
thư. Chính thuật ngữ “đạo đức học” cũng được Arixtốt đưa vào. Ông là người phân
loại các khái niệm đạo đức, xác định ranh giới của chúng, phân định các khía cạnh lý
luận và thực tiễn của đạo đức học, định hình những vấn đề chính của nó. “Đạo đức học
Nikoma”, “Đạo đức học Edemôv”. “Đạo đức học lớn” đều là các công trình của ông.
Arixtốt cho rằng, đạo đức học là khoa học ứng dụng thực tiễn, là một biến thể
của chính trị. Nếu khoa học cho ta biết, các vật là gì, thì đạo đức học dạy ta phải ứng
xử với chúng thế nào. Đối tượng mà nó tìm kiếm là cái thiện như mục đích tối cao của
con người, vì thế chức năng quan trọng nhất của nó là khu biệt cái thiện và cái ác.
Khoa học dựa trên lý tính, còn đạo đức thì vừa trên phần lý tính, vừa trên phần không
phải lý tính của tâm hồn, đạo đức học, như là môn khoa học thực tiễn, cần phải tính
22


×