Tải bản đầy đủ (.pdf) (219 trang)

Tập bài giảng lịch sử ngoại giao việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 219 trang )

fBỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

ThS. Nguyễn Thùy Linh

TẬP BÀI GIẢNG

LỊCH SỬ NGOẠI GIAO VIỆT NAM

(Lưu hành nội bộ)
HÀ NỘI – NĂM 2017


ThS. Nguyễn Thùy Linh

TẬP BÀI GIẢNG

LỊCH SỬ NGOẠI GIAO VIỆT NAM

(Tài liệu dùng cho hệ sư phạm Lịch sử)
HÀ NỘI – NĂM 2017


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Chương 1: NGOẠI GIAO VIỆT NAM TỪ THỜI KỲ PHONG KIẾN ĐỘC
LẬP TỚI CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (1945).................................................. 8
1.1. Ngoại giao thời Ngô – Đinh – Tiền Lê..................................................................... 8
1.1.1. Thời Ngô – Đinh ............................................................................................... 8
1.1.2. Thời Tiền Lê.................................................................................................... 10


1.2. Ngoại giao thời Lý – Trần – Hồ ............................................................................. 14
1.2.1. Thời Lý ............................................................................................................ 14
1.2.1.1. Ngoại giao với nhà Tống ....................................................................... 14
1.2.1.2. Ngoại giao với Champa......................................................................... 18
1.2.2. Thời Trần......................................................................................................... 19
1.2.2.1. Ngoại giao với phong kiến Trung Hoa .................................................. 19
1.2.2.2. Ngoại giao với Champa ........................................................................ 27
1.2.3. Ngoại giao thời Hồ .......................................................................................... 29
1.3. Ngoại giao thời Lê .................................................................................................. 31
1.3.1. Ngoại giao giành độc lập trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ............................. 31
1.3.2. Ngoại giao thời Lê........................................................................................... 45
1.3.2.1. Ngoại giao với Trung Hoa .................................................................... 45
1.3.2.2. Ngoại giao với Ai Lao ........................................................................... 45
1.3.2.3. Ngoại giao với Champa......................................................................... 45
1.3.2.4. Ngoại giao với các nước khác ............................................................... 47
1.4. Ngoại giao thời Tây Sơn......................................................................................... 47
1.5. Ngoại giao thời Nguyễn ........................................................................................ 48
1.5.1. Ngoại giao thời Gia Long................................................................................ 48
1.5.1.1. Ngoại giao với Trung Hoa .................................................................... 48
1.5.1.2. Ngoại giao với Xiêm .............................................................................. 49
1.5.1.3. Ngoại giao với Chân Lạp ...................................................................... 49
1.5.1.4. Ngoại giao với các nước phương Tây ................................................... 49
1.5.2. Ngoại giao thời Minh Mạng ............................................................................ 50
1.5.2.1. Ngoại giao với Xiêm .............................................................................. 50
1.5.2.2. Ngoại giao với Vạn Tượng .................................................................... 50
1.5.2.3. Ngoại giao với Trung Hoa .................................................................... 50
1.5.2.4. Ngoại giao với các nước phương Tây ................................................... 51
1.5.3. Ngoại giao thời Thiệu Trị................................................................................ 53
1.5.3.1. Ngoại giao với Trung Hoa .................................................................... 53
1.5.3.2. Ngoại giao với Cao Miên ...................................................................... 53

1.5.3.3. Ngoại giao với các nước phương Tây: ................................................. 53
1.5.4. Ngoại giao thời Tự Đức .................................................................................. 55
1.5.5. Ngoại giao từ năm 1883 đến năm 1884 .......................................................... 61


Chương 2. NGOẠI GIAO VIỆT NAM THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG
PHÁP (1946 – 1954) ........................................................................................... 64
2.1. Thời kỳ bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng 1945 – 1946 ......................... 64
2.1.1. Bối cảnh Việt Nam sau cách mạng tháng Tám (1945) ................................... 64
2.1.2. Sách lược ngoại giao hịa hỗn của Đảng ....................................................... 64
2.1.3. Ý nghĩa của sách lược ngoại giao hịa hỗn ................................................... 72
2.2. Thời kỳ từ sau hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) đến toàn quốc kháng chiến
(19/12/1946) .................................................................................................................. 74
2.3. Thời kỳ toàn quốc kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954) ................................... 78
2.3.1. Giai đoạn 1946 – 1949. ................................................................................... 78
2.3.2. Giai đoạn 1950 – 1953. ................................................................................... 87
2.3.3. Đấu tranh ngoại giao tại hội nghị Giơnevơ năm 1954 về chấm dứt chiến tranh
lập lại hịa bình ở Đơng Dương. ................................................................................... 93
2.3.3.1. Hồn cảnh ........................................................................................... 93
2.3.3.2. Hội nghị Giơnevơ về Đơng Dương ....................................................... 96

Chương 3. NGOẠI GIAO VIỆT NAM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
CỨU NƯỚC (1954 – 1975) .............................................................................. 106
3.1. Đấu tranh ngoại giao giai đoạn 1954 – 1968........................................................ 106
3.1.1. Tình hình Việt Nam sau hiệp định Giơnevơ ................................................. 106
3.1.2. Nhiệm vụ mới của dân tộc ............................................................................ 107
3.1.3. Đấu tranh ngoại giao sau hiệp định Giơnevơ ................................................ 108
3.1.4. Ngoại giao Việt Nam từ năm 1960 đến 1968 ............................................... 113
3.2. Đấu tranh ngoại giao từ 1968 đến 1972 ............................................................... 119
3.3. Hiệp định Paris năm 1973 .................................................................................... 137


Chương 4. NGOẠI GIAO VIỆT NAM TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2015 ..... 142
4.1. Ngoại giao Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1985 ............................................... 142
4.1.1. Bối cảnh thế giới và Việt Nam sau năm 1975 .............................................. 142
4.1.2. Chủ trương đường lối đối ngoại của Đảng.................................................... 142
4.1.3. Kết quả của việc thực hiện đường lối đối ngoại sau năm 1975 .................... 143
4.2. Ngoại giao Việt Nam từ 1986 đến 2015 ............................................................... 145
4.2.1. Những biến đổi mới của thế giới................................................................... 145
4.2.2. Q trình xây dựng và hồn chỉnh đường lối đối ngoại thời kỳ Đổi mới ..... 147
4.2.3. Những kết quả nổi bật của ngoại giao từ năm 1986 đến năm 2015 .............. 163
4.2.3.1. Bình thường hóa và phát triển quan hệ hữu nghị với Trung Quốc .... 163
4.2.3.2. Đấu tranh phá bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ với Mỹ .......... 174
4.2.3.3. Cải thiện quan hệ với các nước Đông Nam Á và gia nhập ASEAN ... 183

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 206
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 210


LỜI NÓI ĐẦU
Xưa nay, truyền thống ngoại giao của Việt Nam là hòa hiếu, “đem đại nghĩa
thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”. Chiến tranh là bất đắc dĩ, bởi khơng
cịn con đường nào khác bảo vệ tồn vẹn lãnh thổ. Tuy nhiên, sau những cuộc chiến
tranh ấy, vượt qua những mất mát đau thương, trên một tinh thần hòa hảo, khoan dung,
Việt Nam lại mềm dẻo thực hiện chính sách ngoại giao tích cực và thân thiện.
Có thể nói, ngoại giao Việt Nam là hồn của dân tộc, nó phản ảnh tính cách của
dân tộc, đó là cách ứng xử khéo léo, tinh tế, linh hoạt nhưng vẫn cứng rắn vì mục tiêu
bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc.
Xưa kia, vua Hùng đã từng cử sứ thần vượt đường xa vạn dặm, đem chim quý
biếu Chu Thành vương để tỏ lòng hòa hiếu. Vua Chu đã đáp lại bằng việc tặng lại sứ
giả năm cỗ xe có kim chỉ nam để về nước khỏi lạc phương hướng. Tiếc thay, sau đó,

đất nước trải qua cuộc xâm lược của quân Tần rồi đến nghìn năm bị các triều đại
phương Bắc đơ hộ.
Trải dài thời kì phong kiến, Việt Nam bước vào kỉ nguyên độc lập và phát triển
quốc gia, bên cạnh nền bang giao hòa hảo với các quốc gia láng giềng, là việc thực
hiện chính sách ngoại giao cứng rắn và quyết liệt để đối phó với các cuộc xâm lược từ
thế lực bên ngoài. Đấu tranh quân sự luôn kết hợp với đấu tranh ngoại giao. Nền ngoại
giao không chỉ đơn thuần là ngoại giao hịa bình mà cịn mang đậm tính chiến đấu. Sự
kết hợp đó nhằm giữ vững nền độc lập, chủ quyền cho dân tộc.
Tới đầu thế kỉ XIX, khi các nước phương Tây đang lăm le dịm ngó và sau đó là
xâm lược đất nước, ngoại giao “đóng cửa” đã khiến dân tộc Việt bị cô lập trước họng
súng phương Tây. Ngoại giao mất đi sự tự chủ, phụ thuộc vào thực dân Pháp. Cuộc
đấu tranh của nhân dân Việt Nam khơng chỉ đơn thuần là cuộc đấu tranh địi độc lập
dân tộc, đòi quyền tự do dân chủ mà còn là đấu tranh để vươn ra thế giới bên ngoài.
Cuộc đấu tranh giành độc lập kéo dài. Sự chuyển biến bắt đầu từ năm 1930 với
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tiếp đó, 15 năm vận động, Cách mạng tháng
Tám thắng lợi, đưa đến sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đây, Việt
Nam sánh ngang với các cường quốc năm châu trên thế giới.
Sau năm 1945, sự chuyển mình của ngoại giao gắn với vận mệnh dân tộc, phối
hợp với đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự trong các cuộc chiến tranh chống xâm
lược và mở cửa hội nhập với thế giới. Để nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế, đường lối hay chính sách của một quốc gia bao giờ cũng gồm hai mặt: Đối nội
và đối ngoại. Đường lối đó trước hết xác định bởi tính chất của chế độ kinh tế, xã hội,
của quốc gia. V.I. Lênin nói: "Những cội rễ sâu xa nhất của chính sách đối nội lẫn đối
ngoại của nhà nước chúng ta đều có lợi ích kinh tế, địa vị kinh tế của giai cấp thống
trị ở nước ta quyết định. Những luận điểm đó vốn là cơ sở tồn bộ của thế giới quan
của những người Mácxit... đã được kinh nghiệm chứng thực"1. Hai mặt đó gắn bó chặt
chẽ với nhau, tạo thành một thể thống nhất vì chính trị là mối quan hệ giữa các giai
cấp và dân tộc trong quốc gia và quan hệ giữa giai cấp, dân tộc trên trường quốc tế.
Song, từng quốc gia lại thi hành chính sách thống nhất để thực hiện những lợi ích
chiến lược của giai cấp cầm quyền ở trong nước và tạo điều kiện tốt nhất thực hiện lợi

ích ấy trên trường quốc tế. Chính sách đối ngoại thống nhất với chính sách đối nội ở
nội dung giai cấp, xuất xứ và phương hướng. Nói cách khác, chính sách đối nội và đối
1

Lênin (V.I) (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Maxcơva, trang 403-404.

5


ngoại của một quốc gia đều giải quyết một nhiệm vụ bảo vệ, duy trì hệ thống quan hệ
kinh tế - xã hội hiện hành ở quốc gia đó. Lênin thường nhấn mạnh: Đem tách chính
sách đối ngoại ra khỏi chính trị nói chung, hay hơn nữa, đem đối lập chính sách đối
nội, đó là tư tưởng hồn tồn sai lầm, không Macxit, không khoa học. Trong mối liên
hệ trên, vai trị quyết định thuộc về chính trị đối nội, vì nó gắn trực tiếp, sâu sắc hơn
với cơ sở hạ tầng kinh tế như V.I.Lênin đã khẳng định: "Chính trị là biểu hiện tập
trung của kinh tế".
Chính trị đối nội quyết định nội dung, phương hướng chính trị đối ngoại, đặt
yêu cầu cho chính trị đối ngoại. Tuy nhiên, chính trị đối ngoại có tính độc lập nhất
định và tác động trở lại chính trị đối nội. Chính sách đối ngoại bao gồm mục đích, lợi
ích của một quốc gia, phương pháp hoạt động của nó trên trường quốc tế. Phương
pháp giải quyết các nhiệm vụ đối nội bằng cách Nhà nước nắm quyền lực chính trong
xã hội. Điều đó khơng thể áp dụng được trên lĩnh vực đối ngoại. Trên sân khấu quốc tế
khơng có một trung tâm quyền lực thống nhất, trái lại, sự tồn tại các hoạt động của
nhiều Nhà nước mà về nguyên tắc thì các nhà nước này đều có quyền bình đẳng với
nhau. Quan hệ giữa các nhà nước này với nhau được thực hiện thông qua các cuộc đấu
tranh thương lượng, thông qua các hiệp định, thoả hiệp song phương hoặc đa phương.
Mục đích và lợi ích của một quốc gia trong quan hệ quốc tế được thực hiện trước tiên
thông qua quan hệ chính thức giữa các Chính phủ, nhưng đồng thời cũng thực hiện
thông qua quan hệ kinh tế và văn hố dưới sự bảo trợ của Chính phủ cũng như của các
cơng ty, đồn thể quần chúng, các tổ chức phi Chính phủ... Cuối cùng được thực hiện

thơng qua việc sử dụng lực lượng vũ trang. Lực lượng vũ trang này tuỳ thuộc vào tính
chất giai cấp của nhà nước và chính sách đối ngoại mang tính chất mục đích xâm lược
hay tự vệ. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, từ xưa, ông cha ta đã đánh giá cao vai trò
của ngoại giao, đã kết hợp hết sức tài tình giữa đấu tranh qn sự, chính trị với ngoại
giao. Tiêu biểu là vua Lê Đại Hành trong kháng chiến chống Tống; nhà Trần trong ba
lần kháng chiến chống quân Nguyên; đặc biệt là Lê Lợi, Nguyễn Trãi trong cuộc
kháng chiến chống Minh. Trải qua quá trình đấu tranh lâu dài chống giặc ngoại xâm,
ông cha ta đã đúc kết nên nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong cơng tác ngoại
giao, đó là: Kiên quyết giữ vững độc lập trong mọi tình huống, đặt lợi ích dân tộc lên
trên hết, giữ vững nguyên tắc: "Dĩ bất biến, ứng vạn biến", "biết mình, biết người" để
đưa ra mục tiêu chính sách kịp thời. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc mối
quan hệ biện chứng giữa chính sách đối nội và đối ngoại, đánh giá cao vị trí, vai trò
đối ngoại, vai trò của nhân dân quốc tế, nhân tố bên ngoài đối với cuộc đấu tranh giành
độc lập, bảo vệ, xây dựng Tổ quốc. Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, tư tưởng
của Người về đường lối cách mạng Việt Nam, bao gồm cả lĩnh vực đối nội và đối
ngoại đã dần dần hình thành, phát triển. Trong cuốn sách: "Phép dùng binh của Tôn
Tử", Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Đánh hơn trăm trận, không phải là giỏi nhất. Giỏi
nhất là không đánh mà quân địch phải thua. Cho nên dùng binh giỏi nhất là đánh bằng
mưu. Thứ hai là đánh bằng ngoại giao. Thứ ba là đánh bằng binh. Điều này nói lên
rằng, vào giai đoạn quyết định của cách mạng, ngoại giao phải là một mặt trận quan
trọng ngang với đấu tranh chính trị và đấu tranh qn sự. Trong q trình kháng chiến
chống chiến tranh xâm lược của đế quốc, đấu tranh ngoại giao kết hợp với đấu tranh
quân sự nhằm mục tiêu cuối cùng là đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù, trong đó đấu
tranh quân sự là quyết định, đấu tranh ngoại giao phục vụ cho đấu tranh quân sự, cho
phát triển lực lượng và phát huy thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói: "Thực
lực như cái chiêng, ngoại giao như cái tiếng, chiêng có to thì tiếng mới lớn". Nền
ngoại giao hiện đại của Việt Nam chính thức ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước
6



dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á mà người đặt nền móng là Hồ Chí Minh.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngoại giao trở thành "một mặt trận quan
trọng có ý nghĩa chiến lược và dưới sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động ngoại giao đã
gắn liền với các giai đoạn phát triển của cách mạng. Ngoại giao ln thể hiện là vũ
khí bảo vệ và phát huy thành quả, là một mặt trận đấu tranh góp phần tích cực giành
và bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, xây dựng và phát triển đất nước"2.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của đấu tranh ngoại giao trong đấu tranh cách mạng,
Đảng và Nhà nước ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đẩy mạnh
hoạt động đối ngoại.
Phương thức ngoại giao được biểu hiện đa dạng, bao gồm: ngoại giao nhà nước,
ngoại giao nhân dân, ngoại giao song phương, đa phương, ngoại giao phòng ngừa,
ngoại giao của các tổ chức phi chính phủ,… Tuy nhiên, trong khn khổ nội dung của
Tập bài giảng, tác giả tập trung khai thác khía cạnh ngoại giao nhà nước của Việt Nam
từ thời phong kiến độc lập đến năm 2015.
Đã có nhiều cơng trình viết về ngoại giao Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử.
Dựa trên các cơng trình của các tác giả đi trước, tập bài giảng “Lịch sử ngoại giao Việt
Nam” dưới đây khái quát những nét nổi bật và hệ thống nền ngoại giao Việt Nam từ
những năm đầu của nền phong kiến độc lập cho đến thời kì đổi mới. Mặc dù đã rất cố
gắng, nhưng tập bài giảng vẫn cịn nhiều hạn chế, thiếu xót, tác giả rất mong nhận
được sự góp ý của người đọc để chỉnh sửa, bổ sung cho tập bài giảng hoàn thiện hơn!

2

Vũ Dương Huân (2001), Công tác đối ngoại với sự nghiệp cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước và giữ nước, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, trang
336.

7



Chương 1: NGOẠI GIAO VIỆT NAM TỪ THỜI KỲ PHONG KIẾN
ĐỘC LẬP TỚI CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (1945)
1.1. Ngoại giao thời Ngô – Đinh – Tiền Lê
1.1.1. Thời Ngô - Đinh
Sau khi đánh thắng quân Nam Hán, đầu năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua,
cầm quyền trị nước, bỏ danh hiệu tiết độ sứ, dứt khoát cắt đứt quan hệ lệ thuộc các
vương quyền phương Bắc. Ngô Quyền lập triều đình, đặt trăm quan, sau này sách sử
ghi là Ngơ Vương. Về đối ngoại, Ngô Quyền không giao thiệp với Nam Hán mà Ngô
Quyền vừa đánh cho đại bại và cũng không liên hệ với nước nào trong "Ngũ đại thập
quốc" lúc ấy. Nhưng Ngô Quyền cho phép những người Trung Quốc chạy loạn được
sang sinh cơ lập nghiệp ở lãnh thổ do mình cai quản. Ngơ Quyền cũng tiếp nhận
những tướng sĩ Trung Quốc bị thất bại trong nội chiến xin sang trú ngụ ở nước ta. Một
số tướng sĩ Trung Quốc được Ngô Quyền thu dung cho làm việc tại triều hoặc tại các
địa phương.
Ngô Quyền làm vua được 6 năm thì mất. Theo quy định thì con Ngô Quyền lên
nối ngôi cha, nhưng em vợ Ngô Quyền là Dương Tam Kha cướp ngôi vua. Dương
Tam Kha làm vua được 6 năm. Tới năm 950, con của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn
cùng một số tướng cũ của Ngô Quyền nổi lên đánh úp, bắt được Dương Tam Kha.
Năm sau (951), Ngô Xương Văn lên ngôi vua lấy hiệu là Nam Tấn Vương. Nhưng nạn
sứ quân cát cứ các địa phương vẫn khơng xóa bỏ được mà ngày càng tăng. Trước tình
hình trong nước rối ren, sợ nước ngồi xâm lược, năm 954 Ngơ Xương Văn cho sứ
sang giao hảo với Nam Hán . Vua Nam Hán lúc ấy là Lưu Thanh cho ngay sứ sang
nhận ta là phiên thần, lại phong chức tiết độ sứ cho Ngô Xương Văn, âm mưu kiếm cớ
xâm nhập tiến tới chiếm đóng nước ta. Được tin ấy, Ngơ Văn Xương cho ngay người
đi sang chặn sứ Nam Hán lại trước khi tới biên giới, và dọa sứ Nam Hán rằng: giặc
biển đương làm loạn, đường đi rất khó, đừng sang mà chết. Sứ Nam Hán hoảng sợ
quay về. Mộng bành trướng của Nam Hán tới đây chấm dứt.
Ở nước ta, tình trạng sứ quân cát cứ kéo dài hơn 20 năm. Một trong thủ lĩnh 12
sứ quân là Đinh Bộ Lĩnh3 đánh tan các sứ quân khác, thống nhất được đất nước. Năm
968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua. Khác với Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh lập hẳn một

triều đại, lên ngơi hồng đế, xưng là Minh Hồng đế, đặt mình ngang hàng với các
hoàng đế Trung Hoa.
Về quan hệ ngoại giao với phong kiến Trung Hoa thì từ thời Ngơ đã khơng có.
Khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngơi vua, quan hệ ngoại giao với phong kiến Trung Hoa cũng
chưa đặt ra ngay, vì Trung Hoa chưa chấm dứt được nạn “Ngũ đại thập quốc". Ở nước
ta, trong khi Đinh Bộ Lĩnh tiến hành thống nhất đất nước thì Triệu Khng Dận ở
Trung Hoa cũng nổi lên dẹp loạn "Ngũ đại thập quốc". Năm 960, Triệu Khuông Dận
diệt được nhà Hậu Chu - một triều đại cuối cùng của "Ngũ đại", nhưng cịn "thập
quốc". Triệu Khng Dận lập nên triều Tống và tiếp tục thanh toán "thập quốc”.
Năm 970, Tống Thái Tổ (tức Triệu Khng Dận) tiến qn xuống phía nam
đánh Nam Hán. Năm 971, Nam Hán bị diệt. Từ đấy biên giới Tống sát với nước ta.
Tống đặt quan hệ giao hảo với nước ta, chưa có ý đồ gì khác, vì Trung Hoa chưa thống
nhất, Tống cịn phải lo đối phó với một số nước "thập quốc” ở phía bắc và phía đơng.
3

Đinh Bộ Lĩnh là con của Đinh Công Trứ - một người bạn chiến đấu của Ngô Quyền, từ thời hai người còn là
tướng thân cận của Dương Đình Nghệ.

8


Cho nên quan hệ buổi đầu giữa hai nước là hịa bình hữu nghị. Có điều đặc biệt trong
đường lối, phong cách ngoại giao của Đinh Tiên Hồng là ơng vẫn làm vua, vẫn cầm
quyền trị nước, nhưng trong các văn bản quan hệ ngoại giao thì Đinh Tiên Hồng lại
cho con trai là Đinh Liễn đứng tên, tức là ông cho con ông ra mặt giao thiệp với hoàng
đế nhà Tống. Thái độ đó của Đinh Tiên Hồng, triều Tống khơng bằng lịng.
Tới năm 979, nhà Tống diệt được nước cuối cùng trong “thập quốc" là nhà Bắc
Hán ở phía bắc, thống nhất được Trung Hoa rộng lớn. Do đấy, nhà Tống lúc này quân
đông thế mạnh. Trong khi đó ở ta, cũng năm 979 vua Đinh Tiên Hồng và con lớn là
Đinh Liễn đều bị cận thần sát hại. Đinh Tồn mới 5 tuổi lên nối ngơi, vua Tống âm

mưu chuyện xâm lược nước ta. Quan hệ ngoại giao giữa nước ta và nhà Tống trở nên
xấu.
Khoảng những tháng đầu năm 980, viên quan Tống coi Ung Châu (tức miền
Quảng Tây bây giờ) báo cáo về triều đình Tống tình hình sau: An Nam quận vương và
con là Liễn đều bị giết, nước đã gần mất, có thể nhân lúc này đem quân địa phương
đánh lấy được, nếu bỏ lúc này không mưu sự sợ mất cơ hội...
Tống triều vội nắm lấy cơ hội. Sang tháng 8, vua Tống hạ lệnh cho các tướng
Hầu Nhân Bảo, Tơn Tồn Hưng, Khích Thủ Tuấn (có sách viết là Hác Thủ Tuấn.),
Trần Khâm Tộ, Thôi Lượng, Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn... "họp quân bốn mặt,
hẹn ngày cùng sang xâm lược". Khí thế quân Tống rất mạnh.
Tháng 9, vua Tống cho đem thư sang hăm dọa nướcta, coi như một tối hậu thư.
Đây là một văn kiện ngoại giao của kẻ xâm lược mà sử sách nước ta lần đâu tiên ghi
lại. Đó là một văn kiện khá dài, lời lẽ rất thơ bạo, hống hách. Có những đoạn viết:
Nay thành triều ta, lịng nhân trùm mn nước; cơ nghiệp thái bình kể cũng đã
thịnh, điều lễ phân phong đã sắp sửa làm, muốn ngươi đến chầu cho ta được vui khỏe,
mà ngươi khỏi cái tủi áp mặt vào góc nhà để làm rầy cho ta, khiến ta phải dùng đến kế
chặt xác băm xương, làm cỏ nước người, lúc ấy hối sao kịp. . .
Người có theo về khơng? Chớ rước lấy tội lỗi. Ta đương chỉnh bị xe ngựa, quân
lính, sắp sửu các thứ chiêng trống, nếu quy thuận thì ta tha cho, nếu trái lệnh thì ta
quyết đánh. Theo hay không, lành hay dữ, tự người nghĩ lấy.
Đe dọa ngoại giao như thế này không phải là một việc làm ngẫu nhiên mà là
quốc sách của kẻ bành trướng, một bước mở đầu của chiến tranh xâm lược. Binh thư
tối cổ và tối ưu của đường lối chiến tranh xâm lược rất coi trọng biện pháp "phạt
giao"4(Binh pháp Tôn Tử. Thiên thứ ba: Mưu công).
Nhưng nhà Tống đe dọa nước ta vơ ích. Qn dân ta quyết khơng đầu hàng và
sẵn sàng vũ lực bảo vệ đất nước. Lúc này trong nước, vua Đinh tuy còn nhỏ, nhưng có
Thập đạo tướng qn Lê Hồn làm nhiếp chính, giữ chức Phó vương, trơng nom mọi
việc qn việc dân. Khi được tin nhà Tống chuẩn bị ra quân xâm lược nước ta, Thập
đạo tướng quân Lê Hoàn cử tướng Phạm Cự Lạng làm Đại tướng quân để điều động
quân sĩ và định kế hoạch ra quân đánh địch.

Trước khi lên đường dẹp giặc, Đại tướng quân Phạm Cự Lạng cùng các tướng
lĩnh quyết định làm một cuộc đảo chính vì lợi ích của nhà nước. Trong một buổi triều

4

"Phạt giao” có nghĩa là đánh bằng ngoại giao, tức là dùng ngoại giao để đe dọa, nạt nộ, lừa gạt người để bắt
người phải hàng phục, phải cống nạp, phải chịu sự thống trị của mình. "Phạt giao" thành cơng thì khỏi phải vũ
trang xâm lược. “Phạt giao" dù khơng hồn tồn được như ý muốn thì cũng làm cho kẻ bị đe dọa phải e sợ, giảm
sút tinh thần chiến đấu, khiến kẻ xâm lược đánh cướp nước người được dễ dàng, nhanh chóng.

9


đình đương họp, Phạm Cự Lạng cùng các tướng lĩnh nhung phục oai nghiêm, đem
quân tiến thẳng vào triều. Tại giữa điện đình, Phạm Cự Lạng nói với mọi người:
Nay chúa thượng trẻ thơ, chúng ta dù hết sức liều chết chống kẻ địch bên ngồi,
mong lập được chút cơng thì ai biết cho. Chi bằng trước hãy tơn Thập đạo tướng quân
làm Thiên tử, rồi sau sẽ đem quân đi đánh giặc thì hơn.
Trăm quan tại triều và Dương Thái Hậu mẹ vua nhỏ Đinh Tồn đều “vui lịng
quy phục".
Tháng 4 năm 981, cuộc kháng chiến chống nhà Tống xâm lược bắt đầu. Quân
Tống theo ba đường đánh sang ta. Một đường bộ vào Lạng Sơn (Có tài liệu viết đạo
quân bộ vào theo cửa ải Thông Quốc ở Quảng Ninh ngày nay). Một đường thủy theo
ven biển vào sông Bạch Đằng. Một đường thủy thứ hai vào Tây Kết. Nhưng trên cả ba
đường hành quân, giặc đều bị quân ta đánh cho bại trận.
Đạo bộ binh tiên phong của giặc đi tới Chi Lăng thì bị quân ta tiêu diệt hoàn
toàn. Chủ tướng quân tiên phong là Hầu Nhân Bảo bị quân ta bắt và giết chết. Đạo bộ
binh đi sau khiếp sợ, quay đầu chạy về nước. Đạo thủy quân của giặc vào sông Bạch
Đằng bị quân ta đánh bật ra, tan vỡ gần hết. Tướng thủy quân của giặc phải đem tàn
quân chạy về Quảng Châu. Đạo thủy quân thứ hai của Tống bị quân ta đánh cho đại

bại ở Tây Kết; quân sĩ “chết đến quá nửa, thây chất đầy đồng". Hai tướng giặc là
Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân bị quân ta bắt sống. Với trận Tây Kết, cuộc
kháng chiến chống Tống lần thứ nhất kết thúc. Quân ta đại thắng. Các tướng Tống
chạy về nước đều bị vua Tống hành tội và giết chết. Chỉ có một tướng thốt tội xử tử,
nhưng bị giáng chức.
Cuộc chiến tranh xâm lược bị thất bại rất lớn là một đòn vào âm mưu xâm lược
nhà Tống, khiến gần 100 năm sau, nhà Tống nhiều lần muốn xâm lược nước ta mà
khơng dám tính đến việc đem qn sang đánh. Khơng những thế, nhà Tống cịn phải
nhượng bộ trước thái độ ngoại giao cứng rắn của Lê Hoàn và e dè cả trong quan hệ đối
ngoại với con Lê Hoàn là Lê Long Đĩnh.
1.1.2. Thời Tiền Lê
Người "vác núi lật biển" (phụ sơn đảo hải - Tống sử) là danh hiệu người Tống
dùng để chỉ Lê Hoàn từ sau khi họ thua về quân sự. Về ngoại giao, Lê Hồn cũng rất
khơn khéo và cứng rắn, nên người Tống càng e ngại, dè dặt. Họ nhìn nhận Lê Hoàn
như một nhân vật thật sự kiên cường, dũng mãnh, khơng biết sợ là gì, có thể làm
những việc kinh thiên động địa. Đúng là Lê Hoàn giỏi về nhiều mặt: giỏi quân sự, giỏi
nội trị, mà ngoại giao cũng rất giỏi.
Riêng về ngoại giao, trong quan hệ với nhà Tống, Lê Hồn thực hiện một chính
sách vừa mềm dẻo vừa cứng rắn; mềm dẻo để giữ vững hòa hảo giữa hai nước, nhưng
cứng rắn để hạn chế những thái độ hống hách, nước lớn của nhà Tống.
Sau khi đánh thắng quân Tống, Lê Hoàn chủ động cho sứ sang Tống. Trong
thời gian từ năm 982 đến 985, sứ thần hai nước, nước ta và Tống thường qua lại,
nhưng Lê Hồn khơng đả động gì đến việc trả tù binh cho Tống. Mãi tới năm 986, tức
5 năm sau khi chiến tranh kết thúc, Lê Hoàn mới chấp nhận giải quyết vấn đề tù binh
và báo cho nhà Tống biết.
Cuối năm 986, vua Tống cho hai quan văn là Lý Nhược Chuyết và Lý Giác
sang nước ta để nhận tù binh và mang sắc vua Tống phong Lê Hồn chức "Tiết độ sứ”.
Sắc phong này chỉ có ý nghĩa là nhà Tống phải chính thức thừa nhận Lê Hoàn là người
cầm quyền trị nước của ta và chịu từ bỏ mưu đồ xâm lược nước ta. Trên thực tế, Lê
10



Hoàn vẫn là hoàng đế của một nước độc lập, không phải tiết độ sứ của một địa phương
nào của Tống.
Lê Hoàn trao trả cho Tống những binh sĩ và hai tướng Tống bị bắt tại trận là
Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân.
Năm sau (987), vua Tống lại cho Lý Giác sang sứ nước ta, sử không ghi rõ là
sang về việc gì. Lý Giác là một văn thần, học vấn rộng, thơ văn giỏi. Lần này, muốn
để cho sứ Tống thấy nước ta là một nước thi thư, có văn hiến, có nhiều nhân tài, nhiều
trí thức, nên Lê Hoàn cử một nhà sư là Đỗ Thuận tham gia tiếp sứ. Thời Ngô, Đinh,
Lê, Lý, các nhà sư là tầng lớp có học thức nhiều hơn cả. Sư Đỗ Thuận giả làm một
người "nhà đò" chở thuyền đi theo đồn thuyền lên đón sứ Tống tại chùa Sách, ở hạ
lưu sơng Thương. Đồn sứ nhà Tống đi đường bộ từ biên giới tới chùa Sách thì xuống
thuyền đi đường thủy vào kinh thành Hoa Lư.
Đồn đón sứ của ta bố trí cho Lý Giác đi trên chiếc thuyền có nhà sư Đỗ Thuận
mang danh chủ thuyền, cùng một vài quan lại của ta tham dự vào việc thù tiếp Lý Giác
trên dọc đường đi.
Có một buổi Đỗ Thuận cầm chèo đưa thuyền đi, Lý Giác đứng ở mạn thuyền,
ngắm cảnh trời mây, sơng nước, nhìn thấy hai con ngỗng bơi lội dưới sông liền ngâm
hai câu thơ:
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha.
Lái đò Đỗ Thuận ngâm tiếp theo ngay:
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba.
Dịch:
(Ngỗng ngỗng, hai con ngỗng .
Ngửa mặt nhìn chân trời
Nước xanh phơ lơng trắng
Chèo hồng đẩy sóng xanh).

Bốn câu của hai người hợp thành một bài thơ hay. Lý Giác rất khâm phục.
Khơng phải chỉ khâm phục vì thấy một người lái thuyền biết làm thơ, họa thơ, ứng đối
nhanh, mà cịn khâm phục vì thấy mình ngâm hai câu có sẵn trong một bài thơ tứ tuyệt
của một nhà thơ nổi tiếng thời Đường là Lạc Tân Vương và thay đổi một vài chữ cho
hợp với cảnh vật lúc ấy, vậy mà người lái thuyền Đại Việt ngâm tiếp ngay hai câu, lại
chính cũng là hai câu cuối bài thơ của Lạc Tân Vương, và cũng thay đổi vài chữ cho
thích hợp.
Bài thơ của Lạc Tân Vương là:
Nga, nga, nga
Khúc hạng hướng thiên ca
Bạch mao phù lục thủy
Hồng chúy bát thanh ba
Dịch:
(Ngỗng, ngỗng, ngỗng
Nghếch cổ lên trời kêu
11


Lơng trắng phơ nước biếc
Chân hồng quẫy sóng xanh)
Bốn câu thơ của Lý Giác và Đỗ Thuận hợp lại là:
Nga nga lưỡng nga nga
Ngường diện hướng thiên nha
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba
Dịch:
(Ngỗng ngỗng, hai con ngỗng .
Ngửa mặt nhìn chân trời
Nước xanh phơ lơng trắng
Chèo hồng đẩy sóng xanh).

Lý Giác rất khâm phục người lái đị thơng minh, un bác, và qua tài trí của
người lái đị, Lý Giác rất khâm phục trình độ văn hiến và tài năng của nhân dân ta.
Như thế là việc nhà sư Đỗ Thuận chèo thuyền tiếp sứ đã đạt được mục đích của Lê
Hồn.
Khi tới Hoa Lư, Lý Giác làm một bài thơ gửi tặng người lái đò thi sĩ. Trong bài
thơ có câu "Thiên ngoại hữu thiên ửng viễn chiếu” (Ngồi trời lại có trời soi nữa), có ý
nói: ngồi vị thiên tử của nhà Tống cịn có vị thiên tử nữa ở Đại Việt. Sử cũ ghi rằng
"Nhà sư Đỗ Thuận đem thơ này dâng vua. Vua đưa cho nhà sư Ngơ Khng Việt xem.
Khng Việt nói: "Thơ này có ý tơn trọng bệ hạ khơng khác gì vua Tống ".
Khi Lý Giác trở về nước, vào triều từ biệt Lê Hoàn, sử ghi "Lý Giác lạy ra về”.
Đây là trường hợp hiếm có. Sứ thần phương Bắc sang nước ta, thường cậy mình
là người thay mặt thiên tử, thiên triều, coi mình như ngang hàng vua, nên rất ngạo
nghễ, hống hách, có khi bắt bẻ cả vua, nói gì đến lạy. Vậy mà sứ Tống đã lạy vua Lê
Hồn khi ra về vì Lý Giác rất mực khâm phục và tơn q Lê Hồn.
Năm 990, vua Tống lại cho một đoàn sứ giả sang nước ta, mang chiếu thư của
vua Tống phong thêm cho Lê Hoàn hai chữ “Đác tiến". Việc chỉ có thế mà nhà Tống
phái một đoàn sứ giả đi, đứng đầu là Tống Cảo chánh sứ và Vương Thế Tác phó sứ.
Hai viên chánh, phó sứ này tỏ ra ngạo mạn, hống hách. Chúng báo sang là ta phải cho
thuyền sang đón chúng tại Liêu Châu (thuộc Quảng Đông). Để giữ giao hảo giữa hai
nước, Lê Hồn cho một tướng đem chín thuyền to và 300 quân sang Liêu Châu đón sứ.
Thuyền đón sứ đi khoảng một tháng mới tới trạm tiếp sứ của ta đặt ở gần kinh
thành Hoa Lư. Từ trạm tiếp sứ, sứ Tống nhìn ra thấy dưới sơng thuyền chiến san sát,
quân sĩ ta đương chèo thuyền, đánh chiêng trống, hò reo tập trận. Bên sườn núi gần
kinh thành, cờ xí, khí giới rợp trời, quân sĩ binh phục sặc sỡ, đi lại tấp nập. Đây là một
cách uy hiếp tinh thần sứ Tống ngay khi chúng mới tới.
Công việc của sứ là đem một chiếu thư của vua Tống tới vua nướcta. Theo lễ
nghi ngoại giao phong kiến, khi nhận chiếu thư của thiên tử nước lớn, vua nước ta phải
lạy bức chiếu thư đó. Nhưng nhận chiếu thư của vua Tống, Lê Hồn khơng lạy, sứ
Tống cũng đành chịu.
Mở tiệc chiêu đãi sứ thần nhà Tống, Lê Hoàn cho đặt yến tiệc tại bãi biển, để

chủ và khách vừa ăn yến, vừa liên hoan múa hát, lấy trò bắt cá làm vui. Tổ chức chiêu
đãi như thế là rất trọng thể, nhưng lại rất bất tiện khó xử cho sứ, ăn mất ngon. Vì trong
12


khi yến tiệc, Lê Hoàn tuy là vua, nhưng tự cởi mũ áo, bỏ giày, đi chân không lội xuống
nước đâm cá. Các quan dự tiệc cũng cởi đai, mũ, đi chân khơng lội xuống nước tham
gia trị đâm cá như Lê Hồn. Mỗi khi có người đâm trúng cá thì mọi người hị reo nhảy
múa. Sứ nhà Tống tại bàn tiệc trở nên lúng túng, không dám làm theo. Trong khi ăn
uống, Lê Hoàn thường tự hát để mời rượu các sứ thần. Sứ nhà Tống đón cốc rượu mà
không hát đáp lại được nên rất ngượng ngùng, không ăn uống được.
Sau bữa tiệt ở bãi biển, một hôm Lê Hoàn cho người khiêng một con trăn lớn,
dài vài trượng đến sứ quán, nói với sứ nhà Tống: Nếu ăn được, sẽ cho làm cỗ để mời.
Sứ khiếp sợ, khơng dám nhận. Một buổi khác, Lê Hồn cho dắt hai con hổ tới sứ quán
để cho sứ thần vui chơi. Sứ càng sợ, không dám nhận.
Khi Tống Cảo, Vương Thổ Tác xin phép về nước, Lê Hoàn bảo thẳng vào mặt
sứ: Sau này có quốc thư thì nên để giao nhận ngay ở đầu địa giới, không phiền sứ thần
đến đây nữa.
Khi về tới nước, bọn Tống Cảo phải tâu đúng như thế với vua Tống. Vua Tống
bằng long.
5 năm sau (tức năm 995), tại miền biên giới giữa nước ta và nước Tống, đơi khi
có những cuộc xung đột vũ trang nhỏ do quân địa phương gây nên. Theo báo cáo của
quan lại nhà Tống ở Quảng Tây, Liêm Châu là Trương Quan, Vệ Chiêu Tiểu gửi vua
Tống thì ta đã cho hơn 100 thuyền chiến sang đánh cướp trấn Như Hồng thuộc Khâm
Châu, gần biên giới nước ta, rồi lại cho hơn 5.000 hương binh đánh sang đất Ung Châu
(Quảng Tây). Khơng rõ đó là những sự việc có thật hay quan lại nhà Tống ở vùng biên
giới có ý vu cáo để gây chuyện với nước ta. Nhưng vua Tống bỏ qua những lời tâu ấy,
không muốn có điều gì bất hịa với nước ta. Sau đó, bọn Trương Quan, vệ Chiêu Tiểu
lại tâu dối vua Tống là vua Lê Hồn đã bị mất ngơi, phải chạy ra hải đảo làm nghề
cướp biển và cũng đã chết rồi. Vua Tống phải cho người đi dò xét xem hư thực thế nào

thì thấy khơng đúng sự thật. Vua Tống cho đem hành tội bọn Trương Quan, Vệ Chiêu
Tiểu. Vệ Chiêu Tiểu bị xứ chém; Trương Quan sợ, phát bệnh mà chết. Sau đó, vua
Tống cho Lý Nhược Chuyết sang sứ nước ta, mang chiếu thư và đai ngọc tặng vua Lê
Hoàn mong nước ta vẫn giữ quan hệ láng giềng tốt.
Lê Hoàn nhận chiếu thư và đai ngọc một cách bình đẳng với thiên tử nhà Tống,
chứ không làm lễ phiên thần.
Năm 997, theo yêu cầu của Lê Hồn, vua mới cửa nhà Tống là Tống Chân
Tơng phải hạ lệnh không cho sứ sang Việt Nam, mỗi khi có gì đưa sang Việt Nam thì
chỉ cho quan đem đến biên giới rồi báo sang ta; ta cho người lên biên giới nhận. Từ
đây cho tới khi Lê Hồn mất, đơi khi chỉ có sứ nước ta sang Tống mà khơng có sứ
Tống sang nước ta.
Đây là một thắng lợi ngoại giao tỏ rõ sức mạnh của dân tộc ta vào thời kỳ Lê
Hoàn làm vua và ưu thế của người Việt trong quan hệ đối ngoại thời đó. Đối với nhà
Tống, quan hệ hịa hảo giữa hai nước vẫn giữ vững, nhưng chỉ mình sang nước người
mà người khơng được sang nước mình, chấm dứt mọi hành động hống hách, hạch sách
của sứ Tống đối với nước ta.
Năm 1005 Lê Hoàn mất, miếu hiệu là Đại Hành Hoàng đế, sách sử thường viết
là Lê Đại Hành. Cuối năm 1005, Lê Long Đĩnh lên nối ngôi, nhưng chưa đặt quan hệ
với nhà Tống ngay, vì sau khi Lê Hồn qua đời, vua chúa nhà Tống mưu tính đánh
cướp nước ta.

13


Vua Tống cho viên tri châu Quảng Châu là Lăng Sách và viên an phủ sứ miền
biển là Thiệu Việp tìm hiểu tình hình và chuẩn bị kế hoạch xâm lược nước ta. Sau hơn
một năm liệu định phương lược, tháng 7 năm 1006, bọn Lăng Sách tâu lên vua Tống
xin đem quân đánh nước ta và khẳng định: Nếu triều đình chuẩn y, xin lấy binh ở các
châu Quảng Nam và cho thêm 5.000 quân tinh nhuệ ở Kinh Hồ, theo hai đường thủy
bộ cùng tiến thì lập tức bình định được.

Nhưng vua Tống khơng dám quyết. Sức mạnh của dân tộc ta thời Lê Hoàn trị
nước vẫn làm cho vua Tống lo lắng. Vì vậy, nhà Tống và nước ta tiếp tục giao hảo.
Năm 1007 Lê Long Đĩnh cho sứ sang biếu vua Tống một tê ngưu và đề nghị mấy điều:
1. Vua Tống cho vua ta một bộ áo giáp, mũ trụ trang sức bằng vàng.
2. Để người Việt Nam sang buôn bán tại Ung Châu (ngày nay là Nam Ninh).
Vua Tống nhận lời tặng áo giáp, mũ trụ cho Lê Long Đĩnh và nhận để người
Việt sang buôn bán tại Liêm Châu và trấn Như Hồng. Về con tê ngưu, vua Tống không
muốn nhận, lấy lý do là tê ngưu từ xa đến, không hợp thủy thổ, muốn trả lại, nhưng vì
giữ hịa hiếu, vua Tống để sứ nước ta về rồi mới cho đem con tê ngưu thả ra bãi biển.
1.2. Ngoại giao thời Lý – Trần – Hồ
1.2.1. Thời Lý
1.2.1.1. Ngoại giao với nhà Tống
Năm 1010, nhà Lý thay nhà Lê lên cầm quyền nước ta. Lý Thái Tổ cho sứ sang
giao hảo với nhà Tống. Triều thần nhà Tống có ý muốn từ chối, khơng nhận quan hệ
với triều Lý, tức là có ý muốn kiếm chuyện với nước ta. Nhưng vua Tống do dự, nên
nhà Tống vẫn tiếp nhận sứ ta. Tuy vậy, nhà Tống không thật tâm giao hảo vẫn để cho
quan quân vùng biên giới thường xuyên lấn chiếm, cướp đất, cướp người, cướp của,
nhiều cuộc giao tranh xảy ra tại biên giới.
Năm 1014, một cuộc xung đột tương đối lớn xảy ra. Hai viên tướng nhà Tống là
Dương Trương Huệ và Đồn Kính Chi đem 20 vạn qn Hạc Thác (là thổ dân vùng Tả
giang, Hữu giang, Quảng Tây), tiến sang đánh cướp vùng Cao Bằng. Vua Lý Thái Tổ
cho quân lên đánh. Giặc tan ngay, hơn một vạn giặc chết tại trận. Quân ta bắt sống rất
nhiều quân giặc và ngựa của chúng. Sau trận đánh này, vua Lý cho đem một trăm con
ngựa trong số ngựa bắt được của giặc sang biếu vua Tống, vừa cố giữ giao hảo, vừa
gián tiếp cảnh cáo trìêu đình Tống về những vụ xâm lấn mà quân Tống gây ra. Vua
Tống hạ lệnh cho quan lại các địa phương phải đón tiếp sứ nước ta thật chu đáo và
chính vua Tống cũng tiếp sứ ta rất trọng hậu.
Năm 1028, nhà Tống lại cho quân cướp phá vùng châu Lạng. Thủ lĩnh người
Tày vùng châu Lạng là Thân Thừa Quí đem quân đánh đuổi giặc sang tận đất Tống,
giết tướng Tống và bắt nhiều quân Tống. Viên quan Tống coi Ung Châu phải cầu hịa,

khi đó Thân Thừa Q mới rút qn về .
Năm 1034, quan lại nhà Tống dụ dỗ bọn Trần Công Vĩnh ở vùng biên giới đem
600 dân chạy sang theo Tống. Vua Lý Thái Tổ cho hơn một nghìn quân sang đất Tống
đuổi bắt. Thấy quân ta sang, vua Tống sợ chiến tranh xảy ra, phải hạ lệnh cho quan lại
địa phương trả lại ta bọn Trần Công Vĩnh và hơn 600 dân.
Năm 1050, viên quan Tống ở Ung Châu dụ dỗ bọn tù trưởng ở châu Tô Mậu
của ta đem hơn ba nghìn dân sang với Tống và Tống cho đưa cả vào thành Ung Châu.
Vua Lý Thái Tơng cương quyết địi lại Vua Tống buộc phải cho đem trả tất cả hơn ba
nghìn người mà bọn quan lại nhà Tống đã dụ dỗ .
14


Năm 1059, quan lại nhà Tống lại dụ dỗ một số dân vùng châu Lạng sang Tống.
Thân Thiệu Thái là phò mã nhà Lý, cai quản vùng châu Lạng, được lệnh triều đình đưa
qn lên vùng biên giới địi nhà Tống trả lại dân. Tướng Tống ở Ung Châu là Tống Sĩ
Nghiêu đem quân đánh sang châu Lạng, bị quân ta do Thân Thiệu Thái chỉ huy đánh
cho đại bại. Tướng giặc Tống Sĩ Nghiêu phải đem tàn quân chạy về nước. Tướng nước
ta đưa quân vào đất Tống giết chết Tống Sĩ Nghiêu. Triều đình Tống cho viên quan coi
Quế Châu là Tiêu Cố đem quân xuống tăng viện cho vùng Ung Châu, cùng viên quan
coi Ung Châu là Tiêu Chú và các tướng Tống ở Ung Châu phải quyết chiến, đánh lui
kỳ được quân ta. Quân ta lại từ biên giới tiến thêm sang. Cả Ung Châu náo động. Các
tướng Tống phải xin thêm 3.000 quân thiện chiến ở Kinh Hồ xuống cứu viện.
Thân Thiệu Thái vẫn rầm rộ tiến quân lên Ung Châu, bắt sống tại trận viên chỉ
huy quân Tống là Dương Bảo Tài và nhiều quân giặc, trâu, ngựa...
Triều đình Tống hoảng sợ, Vua Tống cách chức hai viên quan coi Quế Châu và
Ung Châu là Tiêu Cố và Tiêu Chú, cho một viên triều thần là Dư Tĩnh làm an phủ sứ
đem thêm quân xuống Ung Châu cùng các tướng Tống tại đây lo tính việc bảo vệ Ung
Châu. Vua Lý cho quân tăng viện sang đất Tống. Thanh thế quân ta trên đất Tống càng
mạnh. Các tướng Tống ở Ung Châu bất lực. Triều đình Tống phải xin thương lượng
với ta. Các tướng Tống ở Ung Châu là bọn Dư Tĩnh, Lý Sự Trung phải chủ động nhận

lỗi với ta rằng những cuộc xung đột ở biên giới là do các tướng Tống ở biên giới gây
ra, đề nghị ta cử người cùng thương lượng giải hịa.
Thấy nhà Tống khơng cịn hống hách, phải xin lỗi cầu hịa, triều đình nhà Lý
chấp nhận thương lượng, lệnh cho Thân Thiệu Thái đem quân về, cho đại học sĩ Phí
Gia Hựu sang Tống hội thương.
Trong cuộc thương lượng, tướng Tống là Dư Tĩnh đề nghị ta trả lại tướng
Dương Bảo Tài và các binh sĩ nhà Tống bị ta bắt. Dư Tĩnh được lệnh vua Tống đem
nhiều tiền bạc tặng Phí Gia Hựu để mong được như ý. Nhưng đề nghị của Tống không
được chấp nhận. Bên ta chỉ đồng ý không đưa quân vào đất Tống, nhưng cương quyết
giam giữ trừng trị bọn Dương Bảo Tài, để trả đũa việc nhà Tống dụ dỗ, lừa bắt dân ta
ở vùng biên giới. Nhà Tống đành phải chịu.
Năm 1062, quan lại nhà Tống lại dụ dỗ người Tày là Nơng Tơn Đán ở phía tây
bắc Cao Bằng đem dân, nhường đất, theo về Tống. Nhà Tống lấy vùng đất ấy đặt
thành châu Thuận An và bổ dụng cha con Nông Tôn Đán làm quan của nhà Tống.
Không chịu mất đất mất dân, vua Lý Thánh Tông cho phị mã Lê Thuận Tơn, người
dân tộc thiểu số là châu mục châu Phong đi sứ sang Tống đòi đất, đòi dân. Nhà Tống
buộc lòng phải trả ta vùng đất ấy, nhưng không trả dân và giữ cha con Nông Tôn Đán
làm quan cho Tống. Ta không cho sứ đi đòi nữa, nhưng cho quân đi đánh đồn, lấy lại
tất cả những vùng đất ở biên giới đã bị lấn chiếm; nhà Tống đành chịu.
Nhưng trong những năm sau đó, quan hệ với nhà Tống ngày càng căng thẳng.
Cuối năm 1073, quan lại nhà Tống lại dụ dỗ Nông Thiện Mỹ, một thủ lĩnh vùng gần
Thất Khê (Cao Bằng ngày nay) đem 700 dân chạy sang theo Tống. Đầu năm 1075,
triều đình nhà Lý viết thư sang triều đình Tống địi Tống trả lại ta Nơng Thiện Mỹ và
700 dân, Tống không trả lời. Bởi lẽ nhà Tống chuẩn bị xâm lược nước ta và Quảng
Tây là trung tâm chuẩn bị chiến tranh. Triều đình Tống dồn nhiều tiền của, cơng sức,
binh lính, qn trang, qn dụng cho Quảng Tây.
Triều đình nhà Lý và danh tướng Lý Thường Kiệt quyết đánh trước, phá tan
những căn cứ chuẩn bị chiến tranh của nhà Tống ở Quảng Tây và Quảng Đông. Chỉ có
thế mới xóa bỏ được ý đồ xâm lược của Tống.
15



Trước khi tiến quân vào đất Tống, Lý Thường Kiệt cho truyền “Lệ bố" đi khắp
miền Quảng Đông, Quảng Tây5.
Lệ bố của Lý Thường Kiệt truyền đi, được nhân dân Tống hoan nghênh. Cho
nên khi quân Lý Thường Kiệt tiến vào nội địa Tống, người dân Tống không hoang
mang, không sợ chạy, không chống đối cuộc hành quân của ta.
Sau khi đã truyền lệ bố đi các nơi và biết chắc dân Tống không phản đối cuộc
hành quân của ta, quân ta từ nhiều ngả tiến vào đất Tống.
Quân ta chiến thắng liên tiếp, lần lượt tiêu diệt hơn 10 căn cứ quân sự của Tống
ở Quảng Tây. Cuộc hành quân của ta trên đất Tống làm cho triều đình nhà Tống hoang
mang lúng túng và quân tướng Tống ở miền nam nước Tống thua thiệt nghiêm trọng.
Sau khi hạ thành Ung Châu và giành nhiều thắng lợi lớn trên đất Tống, Lý
Thường Kiệt rút quân về nước. Mùa thu năm 1076, sau khi đem quân từ Quảng Tây
về, Lý Thường Kiệt cho đắp ở bờ sông Cầu một khúc đê cao như bức thành đất, dài
gần 7 vạn bước (khoảng 30 kilơmét), chạy dài từ bến đị sơng Như Nguyệt tới chân núi
Nham Biền. Bên ngồi đê, đóng cọc tre mấy lớp để làm giậu, giữ lấy chân đê . Toàn
bộ khúc đê cao này là một chiến lũy kiên cố để chặn đánh địch, không cho chúng qua
sông Cầu tiến vào Thăng Long.
Những ngày đầu năm 1077, tướng Tống là Quách Quỳ đem đại quân vượt biên
giới tiến sang ta. Sau 10 ngày hành quân rất chật vật, ngày 18 tháng 1 năm 1077, quân
Tống mới tới bờ bắc sơng Cầu, nhưng khơng sang được vì khơng có thuyền.
Đối diện với quân Tống bên bờ bắc là phòng tuyến kiên cố của ta ở bên bờ nam
và có đại qn ta đóng ngay tại phịng tuyến.
Qn Tống nửa đêm bắc cầu phao qua sông, đánh sang bờ nam. Quân ta kiên
quyết chống lại. Giữa lúc chiến sự diễn ra quyết liệt, Lý Thường Kiệt cho đọc bài thơ
khích lệ tướng sĩ:
Nam quốc sơn hà, Nam đế cư
Tiệt nhiên đinh phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

5

"Lệ bố": "Lệ" là để ngỏ, “bố” là bố cáo. Lệ bố là những tờ hịch nói cơng khai cho dân chúng biết. Nội

dung các lệ bố nhằm mấy điều:
1. Nói rõ mục đích cuộc hành qn của ta khơng phải là để cướp nước hại dân.
2. Vạch rõ những sai trái, ngang ngược của triều đình nhà Tống và quan lại Tống đối với nước ta.
3. Kể tội tể tướng Tống là Vương An Thạch và triều đình Tống đã dùng “tân pháp” để đàn áp, bóc lột
nhân dân Tống.
4. Nêu cao ý nghĩa cuộc hành quân của ta khơng phải chỉ vì lợi ích của ta mà cịn vì lợi ích của nhân
dân Tống.
Có lệ bố viết cụ thể:
"… Nay bản chức vâng lệnh Quốc vương, chỉ đường Bắc tiến, muốn dẹp tan làn sóng yêu nghiệt, làm
phân rõ đất đai nhưng không phân biệt dân chúng....
… Ta nay ra binh cứu dân khỏi nơi chìm đắm. Hịch văn truyền đi để mọi người biết. . . "
Có lệ bố nêu lý do cuộc hành quân của ta:
"Có những dân làm phản trốn sang Tống. Các quan Tống dung nạp và giấu đi. Ta đã cho sứ sang tố
giác các việc ấy, quan coi Quế Châu không chịu trả lời. Ta lại sai sứ vượt biển sang tố cáo với Quảng Châu,
quan coi Quảng Châu cũng không chịu báo. Vì thế, quân ta tới đuổi bắt nhưng dân trốn ấy...”.

16


Nhữ đẳng hành kham thủ bại hư.
Dịch là:
Sông núi nước Nam, Nam đế ở
Điều này sách trời đã ghi rõ
Giặc càn sao vẫn sang xâm phạm
Bay phải chịu đòn thất bại to
Được động viên, quân ta đánh càng mạnh. Quân giặc thiệt hại rất nặng. Sau trận

đánh này, quân Tống bị quân ta vây chặt ở bờ bắc sông Cầu trong 40 ngày liền. Quân
Tống sang Đại Việt 10 vạn, bị chết 8 vạn, chỉ còn 2 vạn; 20 vạn phu cũng chết một
nửa, 1 vạn ngựa thì cịn hơn 3 nghìn. Lương ăn cũng đã cạn. Quân Tống ở thế không
thể tiếp tục chiến tranh được nữa.
Biết quân Tống đã cùng đường, Lý Thường Kiệt mở đường cho giặc: "Dùng
biện sĩ để bàn hịa, khiến tướng giặc phải bng vũ khí, quân ta đỡ tốn xương máu mà
giữ yên xã tắc” và đưa tin: "Rút quân về thì giao hảo".
Tướng Tống là Quách Quỳ buộc phải nhận lời Lý Thường Kiệt, xin rút quân về
nước. Tuy đình chiến, nhưng quân Tống vẫn sợ; mấy vạn người nửa đêm ù té chạy
khỏi chiến trường, không dám để quân ta biết. Thấy thế, qn ta khơng truy kích, để
cho qn Tống rút chạy an toàn.
Thế nhưng, dọc đường chạy về nước, chỉ huy quân Tống để một số tướng sĩ ở
lại chiếm giữ mấy châu vùng biên giới của nước ta. Biết vậy, nhưng nhà Lý không cho
quân đuổi theo đánh chiếm lại ngay. Ta chủ trương để cho đạo quân Tống xâm lược
rút về nước, chấm dứt chiến tranh, sau sẽ thu hồi những vùng đất giặc còn giữ bằng
đàm phán ngoại giao kết hợp với uy hiếp quân sự.
Khi quân Tống đã rút đi, Lý Thường Kiệt cho quân lên thu hồi bốn châu vùng
biên giới mà quân Tống cịn chiếm đóng. Thấy qn ta tới, qn Tống ở đây cũng rút
hết. Riêng châu Quảng Nguyên (Cao Bằng) có nhiều mỏ vàng, mỏ bạc, nhà Tống
không muốn trả. Lý Thường Kiệt một mặt cho quân đóng uy hiếp bên ngoài Quảng
Nguyên, phao tin sẽ đánh vào Quảng Nguyên, một mặt cùng triều đình cho sứ sang
Tống đàm phán. Đầu năm 1078, một sứ bộ của nhà Lý do Đào Tôn Nguyên dẫn đầu
đem 5 con voi tặng vua Tống và đòi lại châu Quảng Nguyên.
Tháng 10 năm 1078, sứ bộ Đào Tôn Nguyên tới Kinh đô nhà Tống, vào gặp vua
Tống. Vua Tống nhận lời trả lại châu Quảng Nguyên cho Đại Việt khi Đại Việt trả lại
cho nhà Tống những tù binh ta đã bắt trên đất họ và trên chiến trường nước ta. Triều
đình nhà Lý nhận lời trả tù binh cho nhà Tống. Cuối năm 1079, nhà Lý trả cho nhà
Tống 221 tù binh. Vua Tống đành phải bằng lòng và chỉ thị cho quan lại của họ ở
Quảng Tây phải nhận tù binh và trả Quảng Ngun cho ta. Trong triều đình có một bộ
phận chê trách, mỉa mai vua Tống:

Nhân tham Giao Chỉ tượng
Khước thất Quảng Nguyên kim.
Dịch là:
Vua tham voi Giao Chỉ
Nên mất vàng Quảng Ngun.
Thật ra vua tơi triều đình Tống lúc ấy khơng bằng lịng. Nhưng thế khơng lấy
được, đành phải trả. Không những phải trả những đất mới chiếm giữ trong chiến tranh,
mà mấy năm sau, vì nhà Lý địi nhiều quá, nên nhà Tống còn phải trả cho Đại Việt tất
17


cả vùng đất sáu huyện gần biên giới mà nhà Tống đã chiếm đoạt từ trước khi có chiến
tranh.
1.2.1.2. Ngoại giao với Champa
Từ khi nhà Lý mới thành lập, Đại Việt và Champa bắt đầu chủ trương thông sứ
và giao hảo với nhau sự kiện ghi nhận đầu tiên là việc nước Champa sang tặng sư tử
vào năm 1011, ngay sau khi mà Vua Lý Thái Tổ lên ngôi.
Thế nhưng không lâu sau không biết tại sao mà vua Lý Thái Tổ lại sai quân
đánh Champa, cụ thể: năm 1020, Vua Lý Thái Tổ sai Khai Thiên Vương và Đào Thạc
Phụ đem quân đi đánh Chăm Pa ở trại Bố Chính thẳng đến núi Long Tị, chém được
tướng Chiêm Thành là Bố Linh tại trận, người Champa chết đến quá nửa.
Trong những thập niên tiếp theo, quan hệ hai nước trở nên tạm bình n và
khơng những cuộc xung đột như trước kia nữa, Champa lại thường sang quy phục Nhà
Lý giữ quan hệ giao hảo với nhau. Nhưng ít lâu sau đó chiến sự giữa hai bên lại bùng
phát khi vua Champa là Simhavarman II (Sạ Đẩu) đưa quân sang xâm lấn biến giới
Đại Việtvào năm 1043.
Đó chính là điều kiện để vua Lý Thái Tông quyết định chinh phạt Champa
vào năm 1044. Nguyên nhân của cuộc chiến này xuất phát từ việc Champa xâm lấn
biên giới và từ đã lâu khơng có quan hệ giao hảo với Đại Việt: “Tiên đế mất đi, đến
nay đã được 16 năm rồi, mà Chiêm Thành chưa từng sai một người sứ thần nào sang

là cớ gì? Hay uy đức của Trẫm khơng đến họ chăng? Hay họ cậy có núi sơng hiểm trở
chăng? Các quan đáp: Bọn thần cho là đức của bệ hạ tuy có đến, nhưng uy thì chưa
rộng thơi. Sao thế? Là vì từ khi bệ hạ lên ngơi đến giờ, nó trái mệnh khơng đến chầu,
bệ hạ chỉ bố đức ban ơn để vỗ về, chưa từng ra oai dùng võ để đánh, không phải cách
làm cho người xa sợ oai. Bọn thần e rằng các chư hầu khác họ trong nước, đều như
Chiêm Thành cả, không những một người Chiêm Thành mà thơi”6. Vì thế vua Lý Thái
Tông đã quyết định đánh Chiêm Thành và giành thắng lợi.
Sau trận chiến năm 1044 thì Champa thường sai sứ sang cống Đại Việt
1055, 1068. Nhưng cũng trong năm 1068 phía Champa lại sang tấn cơng biên giới Đại
Việt. Lúc này vua Lý Thánh Tơng đang trị vì, ơng vua mà nổi tiếng với các hành động,
chính sách liên tục nhầm tăng cường sức mạnh quân sự cho Đại Việt chính vì thế đó là
điều kiện để vua Thánh Tông phát binh chinh phạt Champa để trừng phạt Champa vào
năm 1069.
Năm 1073 vua Lý Thánh Tơng băng hà, hồng tử Càn Đức lên ngôi tức vua
Lý Nhân Tông. Khi Lý Nhân Tông vừa lên ngôi đã phải găp phải một liên minh quân
sự của Tống – Champa – Chân Lạp âm mưu xâm lược Đại Việt. Quân Tống tập trung
quân ở biên giới, thuyền bè trên biển và chuẩn bị đánh Đại Việt, cuộc kháng Chiến
chống Tống của nhân dân Đại Việt bùng nổ.
Cũng trong khoảng thời gian đó, năm 1074 vua Rudravarman III (Chế Củ)
mất, ngay sau đó Harivarman IV nối ngôi. Vừa lên ngôi, Chế Củ đã phải đối mặt với
cuộc viễn chinh từ phương Bắc của Lý Thường Kiệt năm 1075.
Năm 1080 Harivarman IV truyền ngôi cho con ơng là hồng tử Văk, ơng
lên ngơi lấy hiệu là Indravarman II. Ngay sau khi nắm quyền, vua Indravarman II lại
tái lập bang giao với Trung Hoa và gửi lể vật sang cống Đại Việt các năm 1091, 1095,
1102.

6

Đại Việt sử kí tồn thư, Tr.305


18


Thời gian này nhìn chung thì các cuộc chiến quy mơ giữa hai nước khơng cịn
nữa nhưng về phía Champa do đã suy yếu với các cuộc chiến tranh và đặt biệt là các
cuộc căng thẳng với Chân Lạp trong thế kỷ XII, nhưng không lúc nào Champa từ bỏ
quyết tâm “báo thù” và giành lại những phần đất đã bị vua Thánh Tơng chiếm vào
năm 1069. Chính vì thế lúc này chủ trương của Champa là vừa thông sứ liên tục để tỏ
ra thần phục và thân thiện với Đại Việt, nhưng khi nào có điều kiện là lại phát qn
đánh Đại Việt. Về phía Đại Việt thì cứ mỗi lần mà phía Chăm Pa có biến như các lần
họ sang cướp phá vào năm 1074, 1103,1266 thì vua Lý lại cử các tướng quân đi đánh,
dẹp Chăm Pa ổn định tình hình biên giới, chủ hịa là chính. Nhìn chung, trừ những
năm xảy ra xung đột ở biên giới, quan hệ giữa Đại Việt và Champa ngày thân thiện.
Vua Champa cho sứ đem nhiều sản vật quý hiếm biếu nhà Lý.
1.2.2. Thời Trần
1.2.2.1. Ngoại giao với phong kiến Trung Hoa
Ở nước ta, đầu thế kỷ XIII, nhà Trần lên cầm quyền thay thế nhà Lý, quan hệ
đối ngoại với nhà Tống vẫn tiếp tục bình thường, mặc dầu có dấu hiệu trục trặc lúc ban
đầu. Nhà Trần được thiết lập đầu năm 1226. Nhà Tống không chấp nhận quan hệ
ngoại giao với nhà Trần, ý muốn kiếm chuyện, nhưng cịn do dự, vì sự thất bại của nhà
Tống thời Lý Thường Kiệt cịn ám ảnh vua tơi nhà Tống.
Năm 1229, Trần Thái Tông cho sứ sang Tống cầu phong. Nhà Tống khơng đáp
lại. Nhà Trần khơng có quan hệ gì thêm. Nhưng Tống cũng khơng n ổn để có thái độ
trịch thượng lâu dài đối với nước ta. Đến năm 1232, người Mông Thát đã bắt đầu đánh
chiếm, mở rộng lãnh thổ, lập nên triều đại nhà Nguyên. Trước hết họ đánh phá nước
Kim, lúc ấy là một nửa lãnh thổ Trung Hoa về phía bắc. Năm 1234, Mơng Thát chiếm
đóng cả nước Kim và bắt đầu đe dọa nước Tống, lúc ấy là nửa phía nam Trung Hoa.
Năm 1234, Mông Thát cho hai đạo quân tiến đánh Tống, một đạo đánh xuống
Tương Dương, Phàn Thành; một đạo tiến xuống Thành Đô (Tứ Xuyên). Đầu năm
1236, Mông Thát đánh Thành Đô. Cuối năm 1236, nhà Tống phải đặt quan hệ giao

hảo với nhà Trần, họ cho sứ mang các thư phong vương cho vua Trần.
Cuối năm 1240, giặc cướp trên đất Tống tràn qua biên giới vào vùng Lạng
Giang (tức Lạng Sơn) giết người cướp của. Viên quan trấn thủ Lạng Giang đưa tin cáo
cấp triều đình. Đây chưa phải là giặc Mông Thát mà là người nước Tống. Triều đình
nhà Trần có thái độ và phương hướng xử trí khơn khéo, cương quyết khơng dung thứ
mọi hành động xâm lấn từ bên ngoài, bất luận kẻ xâm lấn là ai. Sử cũ ghi: "Nhà vua
sai thị thần là Bùi Khâm đi trù liệu sắp xếp việc này", "đi chỉnh lý công việc biên thùy
ở mặt bắc". Thực chất của sự việc là Bùi Khâm được lệnh cầm quân lên Lạng Giang
dẹp giặc và củng cố biên phòng.
Một năm sau (1241), một bộ phận giặc cướp bên Tống lại tràn sang cướp phá
miền biên giới Đại Việt. Triều đình nhà Trần cho đốc tướng Phạm Kính An đem quân
lên biên giới dẹp yên. Chính vua Trần lúc ấy là Trần Thái Tông cũng tự cầm đầu một
đạo quân, theo đường thủy tiến ra vùng biển Quảng Ninh. Vua Trần đưa quân vượt
biên thùy, sang hẳn đất Tống để đánh giặc cướp trên suốt một dải ven biển, từ trại
Vĩnh Bình lên Khâm Châu, Liêm Châu rồi mới trở về. Hành động quân sự này của vua
Trần vừa giúp Tống đánh dẹp giặc cướp, bảo đảm an ninh miền biên giới nước ta vừa
tạo điều kiện cho vua Trần và các tướng lĩnh đi cùng hiểu sâu hơn tình hình quân dân
Tống, thấy được tận mắt khả năng tiến triển của cuộc chiến tranh Mơng - Tống, từ đó
định ra sách lược của ta để đối phó với cả hai bên Mông và Tống, khi chiến tranh lan
tới biên giới nước ta.
19


Tình hình an ninh ở miền nam nước Tống ngày càng xấu. Quan lại nhà Tống
vùng này bất lực. Quân ta rút về thì giặc cướp lại hồnh hành, lại xâm phạm biên giới
nước ta. Nhà Trần thấy cần phải hành động mạnh mẽ, kiên quyết hơn. Năm 1242, vua
Trần cho tướng đưa quân lên đóng tại lộ Bằng Tường thuộc đất Tống, cách biên giới
nước ta chừng vài chục kilơmét. Khi qn của triều đình nhà Tống xuống đảm nhiệm
được việc giữ gìn trật tự miền biên giới thì quân ta rút về.
Do đấy miền biên giới nước ta và Tống tạm yên. Nhưng miền biên giới nước ta

giáp Vân Nam thì dần dần biến động nghiêm trọng.
Vân Nam thời đó chưa phải là đất Trung Hoa, mà là lãnh thổ của một số dân tộc
độc lập, trong đó có nước Đại Lý ở liền sát biên giới nước ta. Giữa ta và Đại Lý trải
mấy trăm năm, quan hệ biên giới được duy trì tốt. Nếu Mơng Thát đánh chiếm Đại Lý
thì miền biên giới nước ta giáp Đại Lý sẽ bị uy hiếp nghiêm trọng. Mà Đại Lý mất
nước là điều không tránh được. Quân Mông Thát đánh Vân Nam từ năm 1253. Tới
năm 1257, vùng Vân Nam về cơ bản đã nằm dưới quyền thống trị của quân xâm lược
và nước ta bắt đầu chung đường biên giới với Mông Thát ở mạn tây bắc. Ngay năm đó
(1257), vừa chiếm đóng được Vân Nam, tướng Mơng Thát là Ngột Lương Hợp Thai
vội cho sứ sang triều đình nhà Trần, lấy biện pháp đe dọa ngoại giao để mở đường
xâm lược nước ta.
Tháng 9 năm 1257, sứ của Ngột Lương Hợp Thai tới trước cửa ải nước ta, chủ
trại ở Quy Hóa là Hà Khuất cho chạy trạm về triều tâu là có sứ Nguyên tới. Được tin
báo, triều đình nhà Trần lệnh cho sứ nhập cảnh và đưa sứ vào triều. Thấy sứ đi không
về, Ngột Lương Hợp Thai cho sứ sang ta lần thứ hai, hy vọng có thể đe dọa dụ hàng
được ta, để chúng đỡ hao binh tổn tướng. Nhưng sứ đi lần thứ hai, tới được Thăng
Long, cũng bị tống giam như lần thứ nhất.
Thấy thất bại về ngoại giao, Ngột Lương Hợp Thai quyết định tiến công quân
sự Đại Việt. Nhưng, khi đưa quân tới biên giới, Ngột Lương Hợp Thai lại cho sứ sang
lần nữa. Lần này tập trung quân ở biên giới làm áp lực cho đe dọa ngoại giao, thế
nhưng sứ giả của nhà Mông Cổ sang ta lần thứ ba cũng khơng gì may mắn hơn, cũng
bị đưa vào giam trong ngục như những sứ giả của hai lần trước. Đe dọa ngoại giao thất
bại, khơng có kết quả gì mà lại mất người, mất cả uy danh, Ngột Lương Hợp Thai đưa
quân vượt biên giới Vân Nam đánh sang nước ta.
Nhà Trần chủ trương để cho giặc vào thẳng Thăng Long. Nhưng tuy vào được
Thăng Long mà giặc lại khiếp sợ. Đưa quân vào đóng trong một kinh thành trống
rỗng, không người, không lương ăn, là họa lớn của các đạo quân viễn chinh xâm lược.
Chúng phải đưa qn ra đóng ở ngồi thành Thăng Long. Nhưng dù ở trong thành hay
ngoài thành, giặc cũng đã sa vào cái thế cô quân trong một vùng thành không, nhà
trống. Lương ăn năm bảy ngày đã cạn. Lương cạn thì qn đói. Qn đói thì khơng

cịn làm gì được nữa. Ngột Lương Hợp Thai phải từ bỏ mọi mưu đồ quân sự, phải vận
dụng ngoại giao cầu hòa, để được đem qn an tồn trở về nước.
Triều đình nhà Trần khơng chấp nhận lời cầu hịa, cho trói sứ đuổi về trại. Quân
ta tổ chức một trận tập kích lớn, đánh vào tồn bộ qn của Ngột Lương Hợp Thai.
Quân Mông Cổ không chống đỡ nổi, thiệt hại nặng, phải dồn toàn lực đem tàn quân
chạy về nước.
Ngay sau khi đem quân từ Thăng Long chạy về tới Vân Nam, Ngột Lương Hợp
Thai lập tức cho sứ sang nước ta. Triều đình nhà Trần cho sứ Mơng Cổ vào Thăng
Long, nhưng khơng thỏa thuận điều gì. Khi sứ Mông Cổ về, nhà Trần cũng cho một sứ
bộ sang gặp Ngột Lương Hợp Thai ở Vân Nam. Và mặc dù hịa hỗn với qn Mơng
20


Cổ, nhà Trần vẫn giao hảo với nhà Tống. Cùng một lúc với việc cho sứ sang gặp Ngột
Lương Hợp Thai, nhà Trần cũng cho sứ sang Tống, thông báo cho Tống biết ta đánh
thắng quân Mông Cổ, ngăn chặn không cho quân Mông Cổ qua Đại Việt, vào đất
Tống, giúp Tống tránh được một mũi tiến công của quân Mông Cổ vào sau lưng họ.
Quân Mông Cổ ở Vân Nam tiếp tục cho sứ sang nước ta. Ngột Lương Hợp Thai
cho sứ đem một bức thư tới nhà Trần. Thư viết đại ý như sau: Trước đây, Mông Cổ sai
sứ sang thông hiếu, Đại Việt giữ không cho về. Vì thế, Mơng Cổ phải ra qn năm
ngối, Quốc chúa Đại Việt phải chạy ra thảo dã. Mông Cổ lại sai sứ đi chiêu dụ trả
nước cho, Đại Việt lại trói sứ của Mơng Cổ đuổi về. Nay đặc sai sứ sang dụ dỗ: nếu
như Đại Việt thực tâm nội phụ thì Quốc chúa phải thân đến. Nhược bằng khơng sửa
lỗi, hãy nói rõ.
Ngột Lương Hợp Thai muốn lấn dần, cho sứ sang địi vua Trần vào chầu là một
hình thức phiên thần lệ thuộc mà các vua Đại Việt không hề làm với bất cứ một triều
đại phương Bắc nào. Cố nhiên là vua Trần bác bỏ yêu sách đó.
Mấy tháng sau, Ngột Lương Hợp Thai lại cho sứ sang Đại Việt lần thứ hai. Vua
Trần nói dứt khốt rằng vua Trần không sang chào vua Nguyên. Các tướng Nguyên ở
Vân Nam đành chịu. Nhưng chúng vẫn duy trì các quan hệ ngoại giao với nước ta. Về

phía nhà Trần cũng cho người qua lại giao dịch với Mông Cổ ở Vân Nam, mục đích
chủ yếu là để tìm hiểu tình hình nội bộ và theo dõi những diễn biến chiến tranh giữa
Mông Cổ và Tống.
Đầu năm 1261, triều đình Mơng Cổ chính thức quan hệ với nước ta. Nhưng
mưu đồ lợi dụng mối quan hệ hịa hỗn để thực hiện dã tâm mua chuộc, dụ dỗ nước ta
làm thuộc quốc của chúng là luôn tồn tại.
Lúc này thế của Đại Việt là thế một nước nhỏ nhưng mạnh. Về quân sự, Đại
Việt đã đánh thắng một bước quân Mơng Cổ. Về ngoại giao, triều đình nhà Trần
khơng nhượng bộ trước những hạch sách, hống hách và mọi mưu đồ của quân mông
Cổ. Hốt Tất Liệt muốn lừa ép nước ta làm thuộc quốc, nhưng lại sợ quân dân ta phản
ứng, có thể phản ứng cả về quân sự, nên đã hạ lệnh cho các biên tướng ở Vân Nam
không được thiện tiện đưa binh lấn cướp biên giới, hịng để xoa dịu sự bất bình của
qn dân ta.
Khi sứ Mơng Cổ về nước, triều đình nhà Trần về mặt ngoại giao cũng cho một
sứ bộ sang thông hiếu. Nhưng về mặt quân sự, triều đình nhà Trần và quân dân ta đã ở
tư thế sẵn sàng chiến đấu chống giặc xâm lược. Trong khi sứ ta sang Vân Nam thì nhà
Tống cho sứ sang đem chiếu thư phong vua Trần Thánh Tông làm An Nam Quốc
vương và phong Thượng hồng Trần Thái Tơng làm Đại vương. Có thể nhà Tống biết
nhà Trần giao thiệp với Mông Cổ nên vội làm việc này để tỏ tình thân thiện, mong giữ
được quan hệ láng giềng tốt với ta.
Khoảng tháng 9 năm 1262, sứ bộ ta sang kinh đơ Khai Bình. Lúc này, Mông Cổ
chưa mở rộng được cuộn chiến tranh xâm lược, nên cịn đóng đơ tại Khai Bình (thuộc
khu tự trị Nội Mông ngày nay). Đây là lần đầu tiên sứ bộ ta trực tiếp giao thiệp với
triều đình Mông Cổ. Buổi đầu, để mua chuộc ta, Hốt Tất Liệt gửi tặng vua Trần ba tấm
gấm tây cẩm và sáu tấm gấm kim thục.
Tháng 10 năm 1262, khi sứ ta trở về, Hốt Tất Liệt cũng cho một sứ bộ sang ta,
đem sắc phong vua Trần làm An Nam Quốc vương và đưa chiếu thư đòi hỏi ta nhiều
thứ. Nội dung chiếu thư đại ý như sau: bắt đầu từ năm Trung Thống thứ tư (1263), cứ
ba năm một lần, chọn nho sĩ, thầy thuốc cùng người thông âm dương bói tốn, các
hạng thợ, mỗi loại ba người, đem đến cùng với các thứ: dầu tô hợp, quang hương,

21


vàng bạc, chu sa, trầm hương, đàn hương, tê giác, đồi mồi, trân châu, ngà voi, vải
trắng...
Hốt Tất Liệt phong vương cho vua Trần là có dụng ý ràng buộc vua Trần thành
chư hầu, chịu sự khống chế về mọi mặt. Nhưng đối với nhà Trần, triều Tống hay triều
đình Mơng Cổ phong vương hầu khơng có ý nghĩa gì. Các vua Trần không quan tâm
đến việc cầu phong của các triều đình phương Bắc. Một nhà sử học thời trước là Phan
Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí đã nhận định: Các vua Trần được
nhường ngơi chứ chưa từng cầu phong ở Trung Quốc, đồng thời cũng nhận định:
phong vương thì Mơng Cổ phong trước, nhà Tống phong sau. Đó cũng chỉ là tùy hai
nước ấy tự sai sứ sang, nước ta chưa từng đưa thư trước cầu phong với hai nước ấy.
Còn những yêu sách nhũng nhiễu của Hốt Tất Liệt ghi trong chiếu thư thì nhà
Trần bác bỏ.
Tuy vậy, Mơng Cổ vẫn tiếp tục quan hệ với nước ta, giữ thái độ hịa hỗn,
nhưng lúc thì yêu sách cái này, lúc lại yêu sách cái khác, hoặc cho sứ sang ta một cách
bất thường để thúc ép, dọa dẫm, muốn gây cho Đại Việt một tâm lý hoang mang,
khiếp sợ chúng. Về phía ta, yêu sách nào, sứ nào của Mông Cổ, ta cũng không quan
tâm. Sứ sang rồi sứ lại về. Nhà Trần khơng giải quyết bất cứ việc gì theo ý muốn của
Mơng Cổ. Nhà Trần chỉ trích, bắt bẻ cả những hành động bất nhất của Hốt Tất Liệt.
Đối với sứ Mơng Cổ vị nào tỏ ra biết điều, triều đình ta tiếp đãi mềm dẻo, ân cần,
nhưng kẻ nào vô lễ ngông nghênh, hống hách, ta thuyết phục; thuyết phục khơng nghe
thì thẳng tay răn đe cho mất ngơng nghênh, hống hách.
Tháng 3 năm 1266, nhân có sứ Mơng Cổ sang ta trở về nước, ta cũng cho một
sứ bộ sang từ chối mọi yêu sách của Hốt Tất Liệt. Hốt Tất Liệt đành chịu. Nhưng chỉ
ba ngày sau khi sứ Đại Việt về nước, Hốt Tất Liệt lại đưa sang ta sáu yêu sách nặng nề
hơn:
1- Vua Trần phải sang chầu.
2- Vua Trần phải cho con hay em sang ở tại triều đình Mơng Cổ làm con tin.

3- Phải kê khai dân số nộp cho Mông Cổ.
4- Phải chịu các quân dịch của Mông Cổ.
5- Phải nộp phú thuế cho Mông Cổ.
6- Phải để cho Mông Cổ đặt đạt lễ hoa xích, tức đặt quan lại người Mơng Cổ
để thống trị nước Đại Việt.
Rõ ràng, Hốt Tất Liệt muốn bằng uy hiếp ngoại giao biến nước ta thành thuộc
quốc, hoặc hơn thế, thành một địa phương trong lãnh thổ thuộc quyền thống trị của
Mông Cổ.
Gần một năm sau, tức tháng 10 năm 1268, Hốt Tất Liệt cho Hốt Lung Hải Nha,
người Mông Thát đi sứ sang Việt Nam, cho tên Trương Đình Trân, người Hán, làm
phó sứ. Bọn Hốt Lung Hải Nha đem chiếu thư một lần nữa đòi vua Trần phải nộp lái
bn Hồi Hột, và chúng cịn địi một điều khơng ghi trong chiếu thư là ta phải nộp
mấy con voi lớn. Khi tới Đại Việt, viên phó sứ Trương Đình Trân ngạo nghễ địi vua
Trần phải tiếp theo lễ đối với “vương ân", tức là tiếp theo lễ như đối với người ngang
hàng vua.
Cuối năm 1270, sau khi các sứ Hốt Lung Hải Nha, Trương Đình Trân về nước,
Hốt Tất Liệt đưa thư sang triều đình nhà Trần trách: nhận chiếu thư không lạy, tiếp sứ
không theo lễ vương ân và đòi nộp voi cùng các đồ uống khác. Vua Trần không trả lời.
Năm 1271 nhà Nguyên (Nhà Nguyên thành lập năm 1271) lại cho sứ sang trách móc,
22


yêu sách đòi vua Trần vào chầu. Vua Trần đưa thư cho sứ Nguyên cầm về bác bỏ mọi
đòi hỏi, bắt bẻ của vua Nguyên. Từ đây cho tới hết năm 1275, quan hệ giữa Đại Việt
và nhà Nguyên cũng chỉ như vậy. Nhà Nguyên chưa thể dùng vũ khí đe dọa nước ta, vì
Nguyên chưa đánh chiếm được hẳn tồn bộ Trung Hoa và cịn bận tổ chức cai trị ở
những vùng đất đã chiếm đóng. Tới đầu năm 1276, Nguyên đã đánh chiếm gần hết đất
nước Trung Hoa, tiến xuống gần biên giới đông bắc nước ta. Do đấy, thái độ của Hốt
Tất Liệt trong quan hệ ngoại giao với ta cũng đổi khác, bắt đầu gay gắt, trắng trợn hơn
trước.

Đầu năm 1276, sứ của ta là Lê Khắc Phục và Lê Túy Kim sang triều Nguyên từ
chối sáu điều yêu sách của nhà Nguyên, bị vua Nguyên Hốt Tất Liệt bắt giam, không
cho về. Cũng đầu năm 1276, vua Trần cho người sang Long Châu (đất Tống) gần biên
giới nước ta, mượn tiếng đi mua thuốc, để tìm hiểu tình hình chiến tranh giữa Tống và
Nguyên. Tống sắp mất cả nước. Năm 1277, Thượng hoàng Trần Thái Tông chết, vua
Trần Thánh Tông cho hai đại phu là Chu Trọng Ngạn và Ngô Đức Thiệu sang Nguyên
báo tin7 và cũng để thăm dò thái độ của Nguyên. Nhưng Hốt Tất Liệt ngang ngược,
thô bạo, không làm thế, không chia buồn, phúng viếng mà còn giữ sứ bộ Chu Trọng
Ngạn không cho về.
Như vậy là liên tiếp hai sứ bộ của Đại Việt bị Hốt Tất Liệt giữ lại. Nhưng triều
đình nhà Trần bình tĩnh, khơng nao núng. Sứ của nước ta bị giữ hàng năm, thế mà
triều đình nhà Trần vẫn lặng thinh, như khơng có chuyện gì.
Thấy việc giữ sứ khơng có kết quả, năm 1278 Hốt Tất Liệt phải để sứ bộ Lê
Khắc Phục, Lê Túy Kim bị giữ từ đầu năm 1276 trở về nước, cùng đi với sứ bộ ta có
một sứ bộ của Hốt Tất Liệt sang Đại Việt để thúc ép vua Trần vào chầu. Đi gần tới
biên giới, sứ Nguyên đưa tin sang yêu cầu Đại Việt cho quan quân lên đón sứ Nguyên
từ biên giới.
Từ biên giới (tức từ vùng Lạng Sơn bây giờ) tới kinh thành Thăng Long, đường
không xa lắm và dễ đi. Nhưng đối với sứ Nguyên, quan quân Đại Việt thường bắt đi
quanh co dài ngày, khi luồn rừng, leo núi, khi lội suối, trèo đèo rất vất vả. Sau này,
một sứ nhà Nguyên là Trần Phu đã viết về con đường đi sứ ở nước ta như sau: Sứ thần
tới nước ấy không được dẫn đi theo những con đường đã có sẵn, mà tồn là đục núi
làm đường, quanh co khuất khúc, khi trèo núi, khi lội khe, để cho thấy là đường đi rất
xa xôi, nguy hiểm.
Khi sứ nhà Nguyên về nước, triều đình nhà Trần cũng cho một sứ bộ sang
Nguyên, từ chối những yêu sách của vua Nguyên và đòi vua Nguyên trả lại tự do cho
những sứ thần của Đại Việt bị vua Nguyên giam giữ. Hốt Tất Liệt lại bắt giam sứ của
nhà Trần và cho sứ Nguyên sang nước ta lần nữa, một mực đòi vua Trần phải vào
chầu. Đốn trước rằng vua Trần vẫn khơng vào chầu, nên trong chiếu thư gửi vua
Trần, Hốt Tất Liệt đưa thêm những điều kiện mới và hăm dọa: Nếu quả khơng thể tự

thân tới được thì phải lấy vàng thay người, hai hạt châu thay mắt và lấy thêm hiền sĩ,
phương kỹ, con trai, con gái, thợ nghề, mỗi loại hai người để thay cho thổ dân. Nếu
không, hãy tu sửu thành trì để đợi phán xét.
Trước những hăm dọa của Hốt Tất Liệt, vua Trần vẫn không vào chầu; vàng
thay người, ngọc thay mắt cũng không, mà hiền sĩ, phương kỹ, con trai, con gái, thợ
nghề thay dân cũng không. Sứ Nguyên lại về không như mọi lần trước. Để tỏ ra vẫn
giữ quan hệ bình thường với nhà Ngun, khi sứ Ngun về nước, triều đình nhà Trần
7

Thơng thường, thời xưa, trong quan hệ ngoại giao giữa các nước, khi vua nước này chết thì vua nước kia cho
sứ thay mặt mình sang làm lễ viếng

23


cũng cho một sứ bộ sang Nguyên, người đứng đầu sứ bộ là Trần Di Ái, chú họ vua
Trần Nhân Tông. Hốt Tất Liệt vội nắm lấy Trần Di Ái làm con bài bù nhìn, để rồi sẽ
đưa đường cho chúng đánh chiếm Đại Việt.
Cuối năm 1281, Hốt Tất Liệt phong Trần Di Ái làm An Nam quốc vương cùng
bọn quan lại tùy tùng lập thành một triều đình bù nhìn tay sai của nhà Nguyên và đặt
nước Đại Việt làm "An Nam tuyên úy ty", tức một bộ phận trong lãnh thổ của nhà
Nguyên. Đầu năm 1282, nhà Nguyên cho quân sang chiếm đóng nước ta, đưa lệnh bắt
vua Trần thối vị và đem bọn bù nhìn Trần Di Ái về nước giúp việc.
Hốt Tất Liệt ngạo nghễ ra lệnh cho vua Trần thơi làm vua với lí do: vua Đại
Việt cáo bệnh không vào chầu, nay cho được nghỉ để thuốc thang, điều dưỡng nên lập
chú của vua Trần Nhân Tông là Di Ái thay Trần Nhân Tông làm quốc vương An Nam,
coi quản dân chúng.
Nhưng quân tướng Nguyên và bọn bù nhìn vừa vượt biên giới sang nước ta thì
bị quân ta ở vùng biên giới đánh tan ngay. Vua Nguyên không dám ra quân phục thù,
mà chỉ gửi thư trách vua Trần đã giết chú, đuổi sứ, chớ không dám trách là đã giết An

Nam quốc vương Trần Di Ái và đánh đuổi quan lại tướng sĩ sang cai trị An Nam.
Tháng 8 năm 1283, nhà Trần cho sứ sang Nguyên đòi trả lại những sứ bộ của ta
bị giữ lại ở bên Nguyên. Hốt Tất Liệt muốn dụ Đại Việt giúp binh lương cho chúng
đánh Champa nên lập tức trả lại các sứ bị giữ.
Nhân việc trả lại sứ, Hốt Tất Liệt cho người đem thư sang dụ vua Trần giúp
lương và giúp quân. Vua Trần đưa thư trả lời, bác bỏ mọi yêu cầu. Về giúp quân, thư
vua Trần từ chối với lý do “Quy thuận thiên triều đã 30 năm, gươm giáo không dùng
đến, quân sĩ đã cho về làm dân đinh". Về lương, vua Trần trả lời: “Nước tôi địa thế
gần biển, ngũ cốc trồng không được nhiều. Từ sau khi đại quân rút đi, trăm họ lưu
vong, lại thêm lụt hạn ln, sớm no chiều đói, ăn khơng đủ”. Vua Trần đã từ chối
khơn khéo mà cịn vạch tội xâm lược trước đây của chúng.
Trong những năm tiếp theo, tưởng như ngoại giao giữa Đại Việt và Ngun
khơng có việc gì quan trọng lắm, chỉ có sứ qua lại trao đổi về việc giúp quân, giúp
lương cho nhà Nguyên đánh Champa. Nhưng sự thật thì nhà Trần đã nắm chắc chiến
tranh giữa Đại Việt và Nguyên sắp nổ ra. Cho nên trong khi trao đổi sứ và thư một
cách bình thường, nhà Trần vẫn khẩn trương chuẩn bị đánh quân xâm lược.
Đối với quân Nguyên, Đại Việt như một bức tường thành đã mấy chục năm
chặn đứng bước đường chinh phục xuống miền Đông Nam châu Á, cho nên vua chúa
nhà Nguyên lúc nào cũng coi việc đánh chiếm Đại Việt là mục tiêu xâm lược hàng đầu
và đã đến lúc chúng thấy cần phải hành động, khơng thể trì hỗn được nữa.
Tháng 7 năm 1284, Hốt Tất Liệt phong cho con thứ chín là Thốt Hoan làm
Trấn Nam vương (có nghĩa là tước vương làm công việc trấn áp phương Nam) hy
vọng lần này, với qn đơng, tướng giỏi, Thốt Hoan sẽ thành công và mộng bá chủ
của đế quốc Nguyên Mông ở miền Đông Nam châu Á sẽ thực hiện được.
Tháng 9 năm 1284, nhà Trần vẫn cho sứ sang Nguyên. Sau đó, khi nhà Nguyên
bắt đầu cho quân lên đường tiến xuống nước ta thì bên nước ta cũng bắt đầu ra quân
chờ đánh quân xâm lược.
Giữa tháng 2 năm 1285, quân Nguyên tiến tới gần kinh thành Thăng Long.
Vua Trần cho tướng Đỗ Khắc Chung đi sứ sang trại bên nhà Ngun giả tiếng cầu hịa,
để tìm hiểu tình hình. Đỗ Khắc Chung sang trại Nguyên mới gặp tướng Nguyên là Ô


24


Mã Nhi, cịn chưa gặp Thốt Hoan. Khi Đỗ Khắc Chung đã về rồi, Ơ Mã Nhi tiếc
khơng bắt giữ Đỗ Khắc Chung, nên cho quân đuổi theo, nhưng không kịp.
Ngay sau đó vua Trần cho sứ mang thư cho Thoát Hoan, yêu cầu rút quân về
nước. Tướng Nguyên đưa thư đáp lại trách vua Trần cự chiến. Không chờ Đại Việt trả
lời, quân Nguyên tiến công. Nhưng vua Trần đã cho quân rút lui. Trước khi rút, vua
Trần lại cho sứ sang đòi quân Nguyên rút về nước. Trong suốt q trình chiến tranh,
triều đình nhà Trần ln ln cho sứ sang phía Nguyên vạch rõ việc nhà Nguyên đưa
quân xâm lược nước ta là phi nghĩa, đòi phải rút quân về. Việc không ngớt vạch tội phi
nghĩa của quân Nguyên chắc chắn đã tác động nhiều đến tinh thần tồn qn Ngun
làm giảm sút ý chí chiến đấu vì mục đích xâm lược.
Nhận được thư của vua Trần từ Thăng Long gửi tới chủ tướng nhà Nguyên
đáp lại bằng một bức thư chiêu dụ rồi điều quân tới Thăng Long. Khi vào thành, quân
Nguyên đâm hoảng sợ. Kinh thành Thăng Long hồn tồn trống rỗng, khơng một bóng
người, không một đấu lương. Quân Nguyên chỉ nhặt được mấy tờ chiếu cáo, điệp văn
của Trung thử (tức của triều đình nhà Nguyên) bị xé bỏ mà vua Trần đã cho vứt lại để
giặc thấy rằng quan quân ta coi khinh những chiếu sắc, điệp văn của vua chúa nhà
Nguyên, mọi thư từ lệnh chỉ của kẻ xâm lược đối với nước ta đều khơng có giá trị.
Ngồi những giấy tờ trên, quân Nguyên thấy chỗ nào cũng treo bảng hiệu triệu nhân
dân liều chết đánh xâm lược. Các tướng Nguyên không thể không chột dạ. Quân
Nguyên thấy rõ quyết tâm kháng chiến của quân dân ta, nhưng không hiểu tại sao ta bỏ
kinh thành, một việc làm ít thấy khi quân Nguyên đi xâm lược các nước khác: quốc đô
bao giờ cũng được các nước bị xâm lược cố thủ đến cùng. Tướng nhà Nguyên đã đưa
quân vào thành Thăng Long, nhưng khơng n tâm đóng qn trong thành, sợ bị quân
ta đánh úp. Giặc lại rút hết ra khỏi kinh thành, khơng phải để đóng ở bên ngồi thành,
mà vượt sông Hồng, sang hẳn bên bờ bắc, tức bên phía Gia Lâm.
Tháng 7 năm 1285, cuộc chiến tranh xâm lược thứ hai của giặc Nguyên

chấm dứt. Quân dân Đại Việt thắng lớn. Quân giặc đại bại, số quân Nguyên bị giam
giữ làm tù binh ở Đại Việt có tới hàng vạn người, đương chờ đợi được giải thoát.
Muốn giải thoát cho họ, muốn đem được họ về, triều đình Nguyên phải điều đình,
thương lượng với triều đình Đại Việt, khơng có cách nào khác, Hốt Tất Liệt phải chủ
động cho sứ sang Đại Việt về việc này. Cuối tháng 10 năm 1285, sứ Nguyên lên
đường sang Đại Việt.
Về phía Đại Việt, triều đình nhà Trần cũng khơng gây khó khăn gì trong
việc trao trả tù binh cho địch, vì số tù binh nhiều quá.
Trong khi triều đình nhà Trần thả tù binh Nguyên về nước thì trái lại, triều
đình Ngun tích cực chuẩn bị xâm lược nước ta một lần nữa. Nhà Nguyên cấp tốc tổ
chức một đạo quân xâm lược và Hốt Tất Liệt lại gửi chiếu thư cho quan lại và nhân
dân Đại Việt, ra sức đả kích vua Trần để có cớ lập một triều đình bù nhìn làm tay sai.
Trong khi nhà Nguyên ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta thì giữa năm 1286 một sứ bộ
của Đại Việt sang Nguyên bị triều đình Nguyên bắt giữ. Nhưng, quân Nguyên chưa
thể ra quân được ngay, nên chỉ giữ sứ ta được một tháng thì thả ra, và Hốt Tất Liệt lại
cho sứ sang Đại Việt, khơng ngồi mục đích thăm dị thái độ của triều đình nhà Trần
và hăm dọa nước ta về ngoại giao. Đại Việt sẵn sàng tiếp nhận sứ Nguyên về mặt
ngoại giao, nhưng lúc nào cũng ở tư thế sẵn sàng đánh trả nếu Nguyên đưa quân sang
xâm lược.
Khi sứ Nguyên về nước, nhà Trần cũng cho một đoàn sứ sang Nguyên.
Trước đó sứ ta sang nhà Nguyên đã có những người bị giữ lại, đồn sứ lần này đi cũng
25


×