Tải bản đầy đủ (.ppt) (20 trang)

Thực Trạng Và Giải Pháp Thúc Đẩy Chuỗi Liên Kết Sản Xuất Và Tiêu Thụ Sản Phẩm Nông Nghiệp Tại Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.18 KB, 20 trang )

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
THÚC ĐẨY CHUỖI LIÊN KẾT
SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ SẢN
PHẨM NÔNG NGHIỆP TẠI
THÁI BÌNH


• 1. Đặc điển của sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình.
• Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển, nằm ở vị trí hạ
lưu sông Hồng, ba mặt giáp sông, 1 mặt giáp biển. Địa hình
nhìn chung bằng phẳng độ dốc nhỏ hơn 1% theo hướng Tây
Bắc - Đông Nam, cao độ mặt đất phổ biến từ (+1.0)m tới
(+2.0)m. Diện tích đất tự nhiên 154.594 ha; diện tích đất có
mặt nước ven biển (ngoài địa giới hành chính) đang khai
thác là 10.178 ha. Đất nông nghiệp là 106.812 ha, trong đó
diện tích sản xuất nông nghiệp 95.830 ha, bình quân đất
nông nghiệp trên 1 người là 579m2/người.


• Là tỉnh có số dân trên 1,8 triệu người, mật độ 1.192
người/km2 cao nhất vùng ĐBSH. Trước yêu cầu phát triển
kinh tế cùng với quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá và
áp lực dân số. Thái Bình là tỉnh có nhiều tiềm năng trong
phát triển nông nghiệp, thu hút gần 60% lao động làm
trong lĩnh vực nông nghiệp. Cây nông nghiệp chính của
nông nghiệp Thái Bình là cây lúa, một năm làm hai vụ với
sản lượng trên 1 triệu tấn, sản lượng thịt xuất chuồng đạt
234.477 tấn, sản lượng thủy sản đánh nuôi trồng đạt
70.000 tấn, sản lượng khai thác thuỷ sản đạt: 58.663 tấn.



• 2. Thực trạng chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp
• Thời gian gần đây, việc tiêu thụ một số loại nông sản như
gạo, muối, dưa hấu, dư chột… gặp nhiều khó khăn. Tình
trạng trên có nhiều nguyên nhân, trước hết do được mùa,
sản lượng các loại sản phẩm này tăng cao (muối, dưa hấu,
…) trong khi đó nhu cầu trong nước tăng chậm hơn, xuất
khẩu gặp khó khăn. Bên cạnh đó, công tác quy hoạch và tổ
chức thực hiện quy hoạch chưa tốt, chưa sát với thực tiễn;
tổ chức sản xuất nhưng thiếu thông tin về thị trường; liên
kết sản xuất và tiêu thụ nông sản chưa hiệu quả; còn nhiều
bất cập trong khâu bảo quản, vận chuyển, thông quan xuất
khẩu hàng hóa.
•   Trước tình hình trên, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
đã chỉ đạo các Bộ, cơ quan, địa phương triển khai nhiều
giải pháp nhằm hỗ trợ cho sản xuất, tiêu thụ nông sản.


• Trước mắt, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công tác xúc tiến
thương mại, mở rộng thị trường; nâng cao chất lượng dự
báo, tăng cường thông tin về thị trường; tạo thuận lợi cho
người dân và doanh nghiệp tiếp cận vốn, tín dụng với lãi
suất ưu đãi phục vụ sản xuất, kinh doanh nông sản; tiếp tục
phát triển các kênh phân phối nội địa; có biện pháp can
thiệp thị trường phù hợp để hỗ trợ tiêu thụ nông sản (như
mua tạm trữ thóc, gạo)…
•  


•  Để giải quyết một cách căn cơ, hiệu quả tình trạng “được

mùa, mất giá” cũng như bảo đảm phát triển ngành nông
nghiệp hiệu quả, bền vững, các giải pháp cần phải được
thực hiện đồng bộ. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy
hoạch tổng thể phát triển ngành nông nghiệp và Đề án tái cơ
cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng
và phát triển bền vững. Tiếp tục hoàn thiện các quy hoạch
vùng sản xuất, sản phẩm; đã ban hành các chính sách
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông
thôn (Nghị định 210/2013/NĐ-CP); khuyến khích phát triển
hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây
dựng cánh đồng lớn (Quyết định 62/2013/QĐ-TTg); hỗ trợ
nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp (Quyết định
68/2013/QĐ-TTg); hỗ trợ việc áp dụng Quy trình thực hành
sản xuất nông nghiệp tốt trong nông nghiệp, lâm nghiệp và
thủy sản (Quyết định 01/2012/QĐ-TTg)...


• Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Công Thương chủ trì phối
hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và các Bộ,
cơ quan liên quan đánh giá rõ thực trạng, những tồn tại, hạn
chế, nguyên nhân, nhất là việc liên kết giữa sản xuất và tiêu
thụ, chất lượng, giá thành sản phẩm,... Trên cơ sở đó, xác
định cơ chế, giải pháp cần thiết để đổi mới phương thức sản
xuất, kinh doanh, chủ động tham gia vào chuỗi giá trị toàn
cầu. Đồng thời, giao Bộ Công Thương, Bộ NN&PTNT làm
việc với các hiệp hội, doanh nghiệp liên quan để có các biện
pháp kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc.
•   Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp trước mắt và lâu
dài nêu trên sẽ từng bước giải quyết những bất cập trong sản
xuất, tiêu thụ nông sản hiện nay, góp phần phát triển nông

nghiệp nước ta hiệu quả và bền vững.


• 3. Thực trạng chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp tại Thái Bình.

Thực hiện chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp tại Thái Bính mới chỉ thực hiện được với lúa gạo là chính.
• - Một là, sản phẩm lúa giống thực hiện giữa công ty cổ phần giống
cây trồng Thái Bình với nông dân thông qua các Hợp tác xã.
• - Hai là, lúa thịt giữa các doanh chế biến với nông dân thông qua
liên kết giữa DN vơi Tiểu Thương và người nông dân và liên kết
giữa DN với Hợp tác xã và nông dân.
• - Ba là, Liên kết giữa Doanh nghiệp và Hợp tác xã.
• Trên thị trường Thái Bình có 3 doanh nghiệp chủ lực thu mua trực
tiếp của người nông qua hợp đồng liên kết sản xuất là Thuận Khang,
Hưng Cúc và Hạnh Liên nhưng cũng chi được trên dưới 100.000
tấn/năm.

Còn đại đa số sản phẩm của nông dân là do thương lái đứng ra
thu mua rồi bán lại cho doanh nghiệp.


• Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm của DN Thái Bình
nông nghiệp của Thái Bình năm 2014
• Đạt 28,51 triệu USD trong đó có:
• - Thịt lợn sữa đạt 4,343 triệu USD;
• - Gạo 11, 5 triệu USD ,
• - Ngao đạt 5,562 triệu USD
• - Bột cá đạt 6.094 triệu USD

• - Nông sản khác 1,011 triệu ÚD


• * Hạn chế của liên kết
• Việc đẩy mạnh liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo mô
hình cánh đồng lớn... Tuy nhiên, mối liên kết "4 nhà" vẫn
chưa thắt chặt như mong muốn, các mối liên kết dọc và
ngang hình thành và phát triển khó khăn. Cụ thể, mối liên
kết giữa doanh nghiệp (DN) và nông dân, nông dân và nông
dân trong các hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác, câu lạc bộ
khuyến nông vẫn khá lỏng lẻo, không gắn kết được lợi ích
và trách nhiệm của các bên với nhau… Hợp đồng bao tiêu
nông sản thể hiện tính pháp lý thấp, chưa ràng buộc rõ ràng
giữa người bán và người mua.


• Trong khi đó, vai trò liên đới giữa "4 nhà" lại thiếu chặt chẽ
và chưa mang tính đồng bộ. Nhà nước chưa có chế tài cụ
thể nên khó xử lý khi xảy ra vi phạm hợp đồng giữa các
bên. Vì thế, thời gian qua còn xảy ra tình trạng DN và nông
dân phá vỡ hợp đồng khi có sự biến động về giá, thị trường
tiêu thụ…
• Ngoài ra, tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún; thiếu vốn;
tập quán canh tác lạc hậu; trình độ học vấn thấp; thiếu kinh
nghiệm sản xuất, đặc biệt là năng lực quản lý kinh tế hộ,
kinh tế tập thể của nông dân, các tổ, nhóm, HTX cũng ảnh
hưởng rất lớn đến các mô hình liên kết.


• *Những bất cập của chính sách liên kết

• Thay vì liên kết để thu mua lúa trực tiếp từ nông dân thì DN lại duy
trì kết nối với hệ thống thương lái để giảm thiểu rủi ro. Thêm vào
đó, việc thực hiện các giải pháp đồng bộ mới mẻ trong nông nghiệp
nói trên vẫn chưa có một chính sách khuyến khích mọi thành phần
tham gia. Chúng ta chưa thấy quyết tâm chính trị thật sự của cả 3
thành phần nòng cốt: nhà nông, doanh nghiệp và Nhà nước...
• Trong các chuỗi giá trị nông sản, đầu tư vào khâu chế biến và bảo
quản vẫn còn những bất cập. Vì thế, giá trị gia tăng của các sản
phẩm nông sản chưa cao. Tuy nhiên, các mối liên kết này đang gặp
rất nhiều khó khăn do tổ chức sản xuất nhỏ lẻ, thị trường xuất khẩu
chiếm tỷ lệ nhỏ (khoảng 10%); khó tồn trữ và bảo quản… Ở lĩnh
vực thủy sản, do tác động của khủng hoảng kinh tế và đầu ra bấp
bênh nên một số hình thức liên kết đã gãy vỡ. Điển hình: nông dân
cá thể và liên kết nhóm nhỏ (thiếu vốn, khả năng cạnh tranh kém
nên dễ "treo ao"); liên kết HTX với DN thông qua ký hợp đồng
(thanh toán hợp đồng chậm, không thống nhất về giá bán…)…


• Một số DN phản ánh, tham gia vào chuỗi liên kết, DN
mong muốn có nguồn nguyên liệu ổn định, chất lượng cao
nhằm chủ động nhu cầu tiêu thụ trong và ngoài nước. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp, các ban ngành địa phương
còn lúng túng, chưa có chế tài phù hợp để hỗ trợ giải quyết
tranh chấp phát sinh giữa DN và người sản xuất. Nông dân
có thói quen bán lúa tươi.
Mô hình cánh đồng mẫu lớn được khẳng định là
phương thức sản xuất tiên tiến đang đi đúng hướng, góp
phần tạo động lực mới trong nông nghiệp. Tuy nhiên,
những quan niệm về cánh đồng mẫu lớn chưa thống nhất
giữa các địa phương và các bộ, ngành. Nhiều cánh đồng

lớn mới chủ yếu tập trung hỗ trợ được đầu vào mà chưa hỗ
trợ, giải quyết được những khó khăn của đầu ra.


• Sự liên kết và chia sẻ lợi ích giữa DN và người sản xuất
chưa hài hòa. Mức độ tiêu thụ nông sản hàng hóa cho người
nông dân còn thấp, giá cả lên xuống bấp bênh, không ổn
định. Hiện tượng được mùa mất giá vẫn tiếp tục xảy ra
khiến người sản xuất không yên tâm đầu tư… Vì vậy, dù mô
hình cánh đồng mẫu đã khẳng định chỗ đứng trong sản xuất
lúa gạo ở Thái Bình, nhưng diện tích áp dụng mô hình này
vẫn chưa đến 10% tổng diện tích canh tác lúa trong vùng. Ở
một số mô hình liên kết, tuy DN đã hỗ trợ giống, vốn đầu
vào và chia sẻ rủi ro với nông dân nhưng số lượng hộ nông
dân có đủ điều kiện để liên doanh, liên kết sản xuất với DN
còn ít.
• Một số mô hình liên doanh, liên kết nhưng lợi ích của người
nông dân tham gia còn thấp.


• 4.Giải pháp thúc đẩy chuỗi liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản
phẩm:
• Thực tế quá trình triển khai các mô hình, phương thức liên kết sản
xuất, tiêu thụ lúa gạo thời gian qua cho thấy, mức độ thành công của
các địa phương, các doanh nghiệp rất khác nhau, chủ yếu phụ thuộc
vào công tác chỉ đạo, tuyên truyền vận động, tổ chức triển khai, nỗ
lực của chính quyền, người dân và doanh nghiệp.
• - Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý với các văn bản dưới luật để cụ
thể hóa các quy định và các giải pháp khuyến khích 4 nhà trong liên
kết sản xuất và tiêu thụ nông sản.

• - Tập trung nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, người nông dân
và doanh nghiệp tham gia liên kết; tập trung nguồn lực đầu tư, hỗ trợ
tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc. Tăng cường công tác
khuyến nông và đào tạo đối với nhóm sản xuất nhưng không chỉ dừng
lại ở kỹ năng, kỹ thuật sản xuất mà cần mở rộng ra các kỹ năng phối
hợp tiêu thụ sản phẩm


• - Hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ việc liên kết giữa sản
xuất và tiêu thụ nông sản, ví dụ hệ thống kho bãi, đường xá,
thủy lợi, chợ…; phát triển đa dạng các loại hình hạ tầng
thương mại phục vụ hoạt động kinh doanh hàng nông sản.
• - Tổ chức tuyên truyền về chủ trương chính sách của Nhà
nước và địa phương đối với việc sản xuất nông nghiệp, định
hướng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung, các mô
hình điển hình tiên tiến trong sản xuất kinh doanh, các chính
sách liên quan đến tiêu thụ nông sản, chính sách khuyến
khích doanh nghiệp, hộ nông dân ký hợp đồng sản xuất, tiêu
thụ nông sản và cung ứng vật tư nông nghiệp nhằm thực
hiện sản xuất - tiêu thụ ổn định và bền vững. Có chính sách
hỗ trợ các chủ thể, san sẻ rủi ro một khi xảy ra thiên tai do
tình hình biến đổi khí hậu.


• - Các chủ thể (Doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ nông dân) có
trách nhiệm thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng;
bên nào không thực hiện đúng nội dung đã ký mà gây thiệt
hại thì phải bồi thường cho bên bị thiệt hại. Các bên ký kết
hợp đồng cùng nhau thỏa thuận xử lý các rủi ro về thiên tai,
đột biến về giá cả thị trường và các nguyên nhân bất khả

kháng khác theo nguyên tắc cùng chia sẻ rủi ro và đề xuất
Nhà nước xem xét hỗ trợ một phần thiệt hại theo quy định
của pháp luật.
• - Xây dựng hệ thống thông tin minh bạch và dự báo về sản
xuất, tiêu thụ nông sản ở địa phương để các chủ thể tiếp thu
và chấp hành các khuyến cáo một cách kịp thời, mạnh mẽ
hơn.
• - Đối với doanh nghiệp: Tăng cường kiểm soát nâng cao
chất lượng sản phẩm, đồng thời xây dựng thương hiệu
quảng bá sản phẩm và xúc tiến thương mại. Liên kết với
Doanh nghiệp cung ứng vật tư đầu vào để hỗ trợ sản xuất
đồng thời đầu tư hỗ trợ tài chính, kỹ thuật cho người sản
xuất phát triển mở rộng vùng nguyên liệu


• - Khuyến khích, khen thưởng các Doanh nghiệp, Hợp tác
xã, Hộ nông dân thực hiện tốt công tác tiêu thụ nông sản
theo hợp đồng;
• Việc xây dựng cơ chế liên kết không thể chỉ dùng biện pháp
hành chính mà cần theo nguyên tắc điều tiết của thị trường,
gắn với động lực lợi ích của các bên tham gia. Phương châm
căn bản là chia sẻ rủi ro, hài hòa lợi ích, trách nhiệm rõ
ràng, giữ chữ tín và xây dựng được sự tin tưởng lẫn nhau
giữa các bên trong quan hệ liên kết.


• Do vậy, việc thể chế hóa các mô hình liên kết thành quy
định trách nhiệm bắt buộc đối với thương nhân cần gắn với
các biện pháp đòn bẩy kinh tế tạo động lực thúc đẩy liên kết
trên thực tế cả từ phía người dân và doanh nghiệp.

• Việc xây dựng các mô hình liên kết ở mức quy mô phù hợp,
có lộ trình để đảm bảo tính khả thi, sau đó phát huy tác dụng
lan tỏa, thúc đẩy mở rộng liên kết trên cơ sở định hướng các
chính sách hỗ trợ, khuyến khích của Nhà nước và những giá
trị thực tiễn mà các mô hình liên kết mang lại.




×