Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động của Đài Truyền thanh và Truyền hình huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2016 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.86 KB, 56 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

NÔNG MINH TRƯỜNG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
ĐÀI TRUYỀN THANH VÀ TRUYỀN HÌNH
HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN
GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI, THÁNG 4 NĂM 2016


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỀ ÁN
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
ĐÀI TRUYỀN THANH VÀ TRUYỀN HÌNH
HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN
GIAI ĐOẠN 2016 – 2020

Người thực hiện: Nông Minh Trường
Lớp: CCLL Chính trị - hành chính Lạng Sơn khóa 2014 - 2016
Chức vụ: Trưởng Đài Truyền thanh và Truyền hình
Đơn vị công tác: Trưởng Đài Truyền thanh và Truyền hình,
huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn

HÀ NỘI, THÁNG 4 NĂM 2016




LỞI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc và toàn thể các Thầy giáo,
Cô giáo của Học viện Chính trị khu vực I; Lãnh đạo Trưởng Đài Truyền

thanh và Truyền hình huyện Tràng Đinh, tỉnh Lạng Sơn , đã tạo điều kiện
và giúp đỡ tôi hoàn thành chương trình học tập cũng như đi thực tế nghiên
cứu, xây dựng đề án tốt nghiệp này. Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn thầy
giáo - TS Nguyễn Duy Hạnh – Trưởng Phòng Tạp trí giáo dục lý luận Học
viện Chính trị Khu vực I, đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu,
xây dựng và hoàn chỉnh đề án này.
Mặc dù bản thân rất cố gắng, song do thời gian nghiên cứu có hạn, kinh
nghiệm bản thân chưa nhiều và là lần đầu tiên xây dựng đề án khoa học nên
khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định.
Vì vậy tôi kính mong quý thầy giáo, cô giáo và các đồng nghiệp tham
gia bổ sung đóng góp ý kiên để đề án này được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
TÁC GIẢ ĐỀ ÁN

Nông Minh Trường


MỤC LỤC


1

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do xây dựng đề án

Nghị quyết Trung ương 5 Khóa X Đảng ta đã nêu rõ: công tác tư tưởng,
lý luận và báo chí là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ
hoạt động của Đảng. Chính vì vậy, tăng cường công tác quản lý, phát triển
báo chí, phát thanh, truyền hình trong bối cảnh đất nước ta bước vào giai đoạn
phát triển mới, với những nhiệm vụ cách mạng mới, là yêu cầu hết sức cấp
thiết. Truyền thanh, truyền hình cơ sở là một kênh thông tin quan trọng để đưa
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thông
tin về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng của đất
nước, địa phương và thông báo về công tác chỉ đạo, điều hành của cấp ủy,
chính quyền cơ sở đến với đông đảo người dân; là diễn đàn thể hiện quyền
được biết, được bàn của nhân dân, đồng thời góp phần trang bị thêm kiến
thức, nâng cao dân trí, chống phá mọi âm mưu phản động của các thế lực thù
địch, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện
thắng lợi công cuộc bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước.
Đài Truyền thanh-Truyền hình huyện Tràng Định, được thành lập ngày
07 tháng 8 năm 2000. Từ khi thành lập đến nay, Đài luôn là thực hiện tốt vai
trò là phương tiện tuyên truyền hữu hiệu của địa phương, là cầu nối giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân; là công cụ tuyên truyền của Đảng bộ, chính
quyền địa phương trong công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành để phát triển
kinh tế, xã hội. Đài là cơ quan thông tin, tuyên truyền để giúp nhân dân nắm
bắt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và
các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Tuy nhiên, hoạt động của Đài vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, hạn chế:
công tác đầu tư, xây dựng, nâng cấp trang thiết bị của Đài còn hạn chế và


2

chưa đồng bộ; Đội ngũ cán bộ, nhân viên, đặc biệt là phóng viên, biên tập
viên làm việc chưa thực sự năng động, thiếu kĩ năng công nghệ thông tin cũng

như đời sống, chế độ chi trả nhuận bút chưa được quan tâm đúng mức, chưa
được hưởng các chế độ cần thiết; trang thiết bị kỹ thuật, các máy phát thanh
FM, máy phát hình được đầu tư đã lâu năm, đang xuống cấp nghiêm trọng,
công suất tụt thấp… Vì vậy, để khắc phục những hạn chế, bất cập như trên,
việc đầu tư nâng cấp, đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của đài là rất cần
thiết. Mặt khác việc đầu tư nâng cấp Đài Truyền thanh- Truyền hình huyện
Tràng Định là phù hợp với quy hoạch phát triển sự nghiệp Phát thanh –
Truyền hình của Chính phủ, hai Đài Quốc gia, UBND tỉnh Lạng Sơn và
UBND huyện Tràng Định.
Xuất phát từ vị trí công tác là Trưởng Đài Truyền thanh và Truyền hình
huyện Tràng Định, học viên xin lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả hoạt
động của Đài Truyền thanh và Truyền hình huyện Tràng Định, tỉnh Lạng
Sơn giai đoạn 2016 - 2020”, để làm đề án tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị
- hành chính.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng hoạt động
của Đài Truyền thanh và Truyền hình huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn; nhận
xét ưu và nhược điểm, nguyên nhân từ đó đề xuất những giải pháp có tính khả
thi nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống Đài Truyền
thanh – truyền hình huyện Tràng Định đến năm 2020.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của Đài truyền thanh và truyền hình
huyện Tràng Định nhằm cải tiến chất lượng tiếp, phát sóng và chất lượng nội
dung các chương trình phát thanh, truyền hình góp phần đắc lực vào việc
thông tin tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà


3

nước đến được với người dân trên địa bàn, nhất là vùng sâu vùng xa, từng

bước cải thiện và nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân và
góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đại hội
Đảng bộ huyện Tràng Định lần thứ XX và Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp
đề ra.
2.2. Mục tiêu cụ thể
*Về cơ chế chính sách
Thực hiện tốt công tác quản lý, sử dụng lao động, tài sản, ngân sách,
thực hiện chính sách đối với viên chức và người lao động thuộc phạm vi quản
lý theo quy định của pháp luật.
Nghiên cứu, đề xuất chính sách cho viên chức lao động được hưởng các
quyền lợi về chế độ nhuận bút, thù lao, các quyền lợi về đào tạo, tập huấn
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
*Về tổ chức bộ máy và đào tạo.
Bố trí công việc gắn với chuyên môn nghiệp vụ theo từng vị trí việc làm.
Trong đó trên 70% cán bộ làm nội dung có trình độ đại học và 100% cán bộ kỹ
thuật của Đài được đào tạo đúng chuyên ngành và thường xuyên được bồi
dưỡng kỹ năng về chuyên môn, nghiệp vụ; có khả năng về biên tập tin bài,
kỹ thuật vận hành, khai thác và sử dụng hiệu quả các trang thiết bị của đài và
các thiết bị tác nghiệp khác.
*Về cơ sở vật chất, thiết bị và hạ tầng kỹ thuật
Từng bước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ chuyên
môn theo hướng đồng bộ hóa công nghệ mới, hiện đại để đảm bảo nâng cao
chất lượng các chương trình phát thanh, truyền hình do Đài sản xuất và chất
lượng tiếp, phát sóng các chương trình phát thanh, truyền hình của Trung
ương và của tỉnh, phù hợp với quy hoạch truyền dẫn phát sóng đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt. Phấn đấu đến năm 2020 có 100% dân số các xã


4


vùng I và vùng II và 90% số dân vùng III được xem truyền hình và 90% số
xã, thị trấn và 80% thôn, bản, khối phố có cụm loa truyền thanh.
*Về chất lượng hoạt động
- Phát thanh: Nâng thời lượng, chất lượng sản xuất chương trình và
phát sóng phát thanh FM; Đẩy mạnh sản xuất, tập trung vào các thể loại
chương trình: Tin tức thời sự, Chuyên đề - chuyên mục, tăng cường tiếp sóng
VOV ở khung giờ trống.
- Truyền hình: Phối hợp với Đài PTTH tỉnh nâng cao chất lượng các
chuyên mục truyền hình từ cơ sở, khai thác tiếp, phát sóng các chương trình
truyền hình đáp ứng nhu cầu khán giả.
3. Giới hạn của đề án
3.1. Đối tượng của đề án:
Hoạt động của Đài Truyền thanh – Truyền hình huyện Tràng Định từ
năm 2016 đến năm 2020, trong đó bao gồm:
- Đội ngũ cán bộ nhân viên của Đài.
- Chất lượng truyền tải, phát sóng và nội dung
- Hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị của Đài.
3.2. Phạm vi của đề án:
- Nội dung: Nghiên cứu hoạt động của Đài Truyền thanh-Truyền hình
huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.
- Không gian: Đài Truyền thanh và Truyền hình huyện Tràng Định, tỉnh
Lạng Sơn.
- Thời gian: Giai đoạn từ năm 2016 – 2020.


5

B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN
1. CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
1.1. Cơ sở khoa học, lý luận

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
*Chất lượng: Theo từ điển tếng Việt thì “Chất lượng” là cái tạo nên
phẩm giá, giá trị về mặt lợi ích của một sự vật, sự việc.
* Nâng cao: Theo từ điển tiếng Việt thì “Nâng cao” là tăng thêm hơn trước.
*truyền thông và truyền thông đại chúng
Thực tế có nhiều khái niệm về truyền thông. Trong cuốn “Truyền thông
lý thuyết và kỹ năng cơ bản” khái niệm truyền thông được hiểu như sau:
“Truyền thông là quá trình liên tục trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm…
chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người nhằm tăng cường
hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức, tiến tới điều chỉnh hành vi và thái độ
phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân, của nhóm, của cộng đồng và xã
hội”.1
Truyền thông đại chúng là hoạt động giao tiếp xã hội rộng rãi, thông
qua các phương tiện thông tin đại chúng, được hiểu chung là một quá trình có
định hướng nhằm truyền đạt thông tin đại chúng tới những đối tượng mục tiêu
đại chúng bằng các phương tiện truyền thông đại chúng để phục vụ mục đích
đã được đề ra.
Các phương tiện truyền thông đại chúng hay các phương tiện thông tin
đại chúng là các phương tiện được sử dụng để truyền đạt thông tin một cách
đại chúng, rộng rãi, tức là có khả năng đưa thông tin tới đối tượng đại chúng.
Đó chính là sách, báo in, phát thanh, truyền hình, internet…
* Truyền thanh
1

Nguyễn Văn Dũng (chủ biên), Truyền thông lý thuyết và kỹ năng cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2012,
tr. 13.


6


Theo tài liệu Bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ thông tin và truyền thông
cơ sở (Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2012): “Truyền thanh là phương
thức truyền tải thông tin tiếng động, âm thanh qua dây dẫn tín hiệu từ máy
phát tổng đài đến các loa. Hệ thống truyền thanh được vận hành bởi tập hợp
các thiết bị đầu cuối từ thu âm, thu tín hiệu đầu vào sóng radio, thiết bị
khuếch đại tín hiệu âm thanh, hệ thống dây dẫn và các loa”.
Đài truyền thanh được hiểu như đài chuyển tiếp tín hiệu truyền thanh,
bao gồm tập hợp các thiết bị thu sóng radio, tách sóng và khuếch đại tín hiệu
âm thanh, sau đó tiếp tục truyền tín hiệu âm thanh theo đường dây truyền
thanh để thực hiện việc chuyển tiếp chương trình phát thanh, chương trình
truyền thanh địa phương. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học
công nghệ, hiện nay hệ thống truyền thanh đang được thay thế chuyển từ hình
thức truyền dẫn tín hiệu bằng dây dẫn kim loại (hữu tuyến) sang sử dụng phát
sóng ngắn hệ FM có chất lượng tín hiệu tốt, ít bị nhiễu tĩnh. Tuy nhiên, thuật
ngữ truyền thanh vẫn được dùng để chỉ chung cho hoạt động thu, tiếp, phát tín
hiệu radio ở cấp huyện, thị, xã, phường, thị trấn.
*Phát thanh
Phát thanh là một kênh truyền thông, một loại hình báo chí mà đặc trưng
cơ bản của nó là dùng thế giới quan âm thanh phong phú, sinh động (lời nói,
tiếng động, âm nhạc) để truyền tải thông điệp nhờ sử dụng sóng điện từ và hệ
thống truyền thanh tác động vào thính giác công chúng.
Đặc điểm của phát thanh
So với truyền hình thì phát thanh thông tin nhanh hơn. Khi có một sự
kiện mới xảy ra, phát thanh chính là phương tiện để truyền tải thông tin một
cách nhanh nhất đến công chúng vì báo ín bị giới hạn về diện tích trang báo,
số câu chữ trong mỗi số báo và thời gian in ấn. Báo hình (Truyền hình) phải
qua công đoạn quay, dựng, chính sửa thì mới ra được sản phẩm. Trong khi đó


7


phát thanh có thể tổng hợp và đưa tin ngày sau khi xảy ra sự kiện có thể đưa
tin trực tiếp khi mà chương trình, sự kiện đó vẫn đang xảy ra.
Phát thanh có độ phủ sóng rộng hơn so với truyền hình, dễ tiếp nhận và
có khả năng kích thích trí tưởng tượng.
Đối tượng thính giả nghe rộng rãi không chỉ ở thành thị, nơi có các nguồn
thông tin phong phú và đa dạng mà ngay ở nông thôn, vùng sâu, vùng xã những
nơi có trình độ dân trí chưa cao, người dân vẫn hàng ngày gắn bó với các
chương trình phát thanh và xem đó như một người bạn thân thiết của họ. Những
người không biết chữ, bị khuyết tật (trừ khuyết tật về thính giác) đề có thể nghe
thông tin do phát thanh cung cấp. Những thông tin họ nghe trên đài, loa phóng
thanh không chỉ đơn giản là những mẩu tin về thời tiết, thông tin có nội dung
gần gũi gắn bó với đời sống sinh hoạt hàng ngày của họ mà còn có nhiều thông
tin quan trọng nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết của họ.
*Truyền hình
Thuật ngữ truyền hình (Television) có nguồn gốc từ tiếng Latinh và tiếng
Hy Lạp. Theo tiếng Hy Lạp, từ “Tele” có nghĩa là ''ở xa'' còn “videre” là ''thấy
được'', còn tiếng Latinh có nghĩa là xem được từ xa. Ghép hai từ đó lại
“Televidere” có nghĩa là xem được ở xa. Tiếng Anh là “Television”, tiếng Pháp
là “Television”, tiếng Nga gọi là “Tелевидение”. Như vậy, dù có phát triển bất
cứ ở đâu, ở quốc gia nào thì tên gọi truyền hình cũng có chung một nghĩa.
Truyền hình là loại hình truyền thông đại chúng chuyển tải thông tin bằng
hình ảnh và âm thanh về một vật thể hoặc một cảnh đi xã bằng sóng vô tuyến
điện. Trong báo hình, hình ảnh giữ vai trò quan trọng tiếp đến mới đến tiếng
động bao gồm lời bình, tiếng động hiện trường, nhạc nền.
Đặc điểm của truyền hình
Tính thời sự: Truyền hình có thể phản ánh ngay lập tức đến người xem
một cách chi tiết, tường tận một sự việc hay sự kiện nào đó vừa mới diễn ra



8

thậm chí đang diễn ra (truyền hình trực tiếp). Truyền hình có khả năng phát
sóng 24/24h trong ngày.
Ngôn ngữ truyền hình là ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh. Khác với báo
in, người đọc chỉ tiếp nhận bằng con đường thị giác, phát thanh bằng còn
đường thính giác, người xem truyền hình tiếp cận sự kiện bằng cả thị giác và
thính giác. Do vậy truyền hình trở thành phương tiện cung cấp thông tin rất
lớn, có độ tin cậy cao, có khả năng làm thay đổi nhận thức của con người
trước sự kiện.
Tính phổ cập và quảng bá: Cùng với sự phát triển của khoa học và công
nghệ truyền hình ngày càng mở rộng phạm vi phủ sóng phục vụ được nhiều
đối tượng người xem ở vùng sâu, vùng xa. Một sự kiện xảy ra ở bất kỳ đâu
được đưa lên vệ tinh sẽ truyền đi khắp thế giới và có thể thu hút số lượng lớn
người xem cùng một lúc.
1.1.2. Hoạt động của Đài Truyền thanh và Truyền hình cấp huyện
Theo Thông tư liên tịch số:17/2010/TTLT-BTTTT-BNV, ngày 27 tháng 07
năm 2010 Bộ Thông tin truyền thông – Bộ Nội vụ "Hướng dẫn thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Đài Phát thanh và Truyền
hình thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Đài Truyền thanh - Truyền hình thuộc Ủy
ban nhân dân cấp huyện" và Tài liệu Bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ Thông tin
và Truyền thông (Bộ Thông tin và Truyền thông cung cấp năm 2012)
1. Sản xuất và phát sóng các chương trình truyền thanh bằng tiếng Việt
và bằng các tiếng dân tộc trên hệ thống loa truyền thanh, thiết bị phát sóng
phát thanh được trang bị nhằm tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, tập trung vào sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền
địa phương, các hoạt động tại cơ sở, phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật,
kinh tế, văn hóa, xã hội, công tác an ninh trật tự, gương người tốt, việc tốt,
điển hình tiên tiến tới nhân dân theo quy định của pháp luật.



9

2. Tiếp sóng và phát sóng các chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam,
Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Phát thanh và Truyền hình cấp tỉnh phục vụ nhu
cầu tiếp nhận thông tin của nhân dân theo quy định của pháp luật.
3. Trực tiếp quản lý hệ thống kỹ thuật chuyên ngành để thực hiện việc
tiếp sóng, phát sóng các chương trình phát thanh, truyền hình theo quy định
của pháp luật.
4. Phối hợp với Đài Phát thanh và Truyền hình cấp tỉnh sản xuất các
chương trình phát thanh, truyền hình phát sóng trên Đài Phát thanh và Truyền
hình cấp tỉnh.
5. Quản lý, vận hành các đài phát lại truyền hình, đài phát sóng phát
thanh trên địa bàn theo sự phân công. Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ kỹ
thuật đối với Đài Truyền thanh xã, phường, thị trấn trên địa bàn.
6. Quản lý, sử dụng lao động, tài sản, ngân sách và nguồn thu từ dịch
vụ; thực hiện chính sách đối với viên chức và người lao động thuộc phạm vi
quản lý theo quy định của pháp luật.
7. Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất theo yêu cầu của cơ
quan quản lý cấp trên. Tham gia các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ do cơ
quan cấp trên tổ chức. Tổ chức hoạt động thi đua khen thưởng theo quy định
của pháp luật.
8. Tham gia ý kiến với Ủy ban nhân dân cấp huyện và cơ quan chức
năng để củng cố, mở rộng sự nghiệp truyền thanh, truyền hình trên địa bàn.
9. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Ủy ban nhân dân cấp huyện giao
theo quy định của pháp luật.
Như vậy, khi đánh giá chất lượng hoạt động của Đài Phát thanh và
Truyền hình có thể đánh giá trên những mặt hoạt động trên đây.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
1.2.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước



10

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa, Nghị quyết các Đại hội
Đảng đã khẳng định vai trò, vị trí của thông tin trong đời sống xã hội, coi đó
là nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống
cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều đó thể hiện qua các văn kiện, các nghị
quyết, văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như: Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 1992); Luật Báo chí (1989); Luật sửa
đổi bổ sung một số điều của Luật Báo chí (1999); Nghị quyết Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương Đảng lần thứ năm (Khóa VIII) về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001); Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2001-2010; Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ V
(Khóa IX) về công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới, Chỉ thị số 22/CTTW ngày 17/10/1997 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới và tăng cường sự
lãnh đạo, quản lý công tác báo chí xuất bản; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X (2006), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011),
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020...
Quan điểm chỉ đạo về phát triển thông tin của Đảng và Nhà nước ta thể
hiện qua những điểm quan trọng sau đây:
- Hoạt động thông tin và các loại hình thông tin ở nước ta đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và tuân thủ các quy định của pháp luật.
Thông tin phải làm tốt nhiệm vụ phổ biến, giáo dục và bảo vệ chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần mở rộng và phát huy dân chủ xã
hội, với chủ đề trọng tâm là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Phát triển nhanh, mạnh, vững chắc hệ thống thông tin ở nước ta, đảm
bảo thông tin không chỉ phục vụ tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà



11

còn là lĩnh vực có khả năng tạo nguồn thu quan trọng, đóng góp vào ngân
sách Nhà nước.
- Thông tin phải đảm bảo tính chân thật, tính giáo dục, tính nhân dân,
tính chiến đấu, phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân; phải góp
phần quan trọng trong việc cung cấp tri thức, nâng cao dân trí, hình thành và
định hướng dư luận xã hội lành mạnh; tăng cường sự đoàn kết, nhất trí về tư
tưởng chính trị và tinh thần trong nhân dân; biểu dương các nhân tố mới, điển
hình tiên tiến; tích cực đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch,
đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng và các tệ nạn xã hội; giữ gìn và phát
huy truyền thống văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Những
người làm công tác thông tin phải tuân thủ định hướng của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng
và có năng lực chuyên môn nghiệp vụ cao.
- Phát triển đi đôi với quản lý thông tin tốt. Phát triển phải gắn với sự
quản lý, đồng thời phải nâng cao vai trò, vị trí, năng lực và hiệu quả của công
tác quản lý. Cần phải chống khuynh hướng phát triển tràn lan, đồng thời phải
ra sức nâng cao năng lực quản lý để không cản trở sự phát triển. Phát triển
thông tin phải dựa trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa ứng dụng công nghệ thông
tin, truyền thông và các phương tiện thích hợp khác. Coi trọng chất lượng
chính trị, chất lượng văn hóa, chất lượng khoa học và chất lượng nghiệp vụ
của thông tin; đảm bảo thông tin đến mọi đối tượng, mọi vùng, phù hợp với
từng tầng lớp, lứa tuổi với những sản phẩm đúng, hấp dẫn, hiệu quả, đáp ứng
nhu cầu thông tin ngày càng cao của các tầng lớp nhân dân. Chú trọng công
tác thông tin đối ngoại, giúp cho cộng đồng quốc tế và cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài có thông tin kịp thời, đúng đắn về tình hình Việt Nam và
tranh thủ sự đồng tình của nhân dân thế giới.



12

- Thông tin phải thực sự đi trước một bước, vừa làm tốt việc dự báo, định
hướng phát triển xã hội, đồng thời phải là nguồn lực thúc đẩy sự phát triển xã
hội. Thông tin phục vụ sự nghiệp phát triển lý luận, mở rộng và phát huy dân
chủ trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội; nâng cao ý thức làm chủ đất nước của
nhân dân.
- Phát triển thông tin phải đảm bảo an ninh thông tin. Bảo đảm an ninh
thông tin trước hết là giữ vững độc lập chủ quyền và định hướng xã hội chủ
nghĩa của đất nước, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi mưu đồ chống phá
sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới của nước ta.
Phát thanh, truyền thanh cơ sở là một lĩnh vực trong hoạt động thông tin
báo chí, có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác tư tưởng, thông tin tuyên
truyền. Nghị quyết Trung ương 5 Khóa X đã nêu rõ công tác tư tưởng, lý luận
và báo chí là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt
động của Đảng. Chính vì vậy, tăng cường công tác quản lý, phát triển báo chí,
phát thanh, truyền hình trong bối cảnh đất nước ta bước vào giai đoạn phát
triển mới, với những nhiệm vụ cách mạng mới, là yêu cầu hết sức cấp thiết.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Phát
triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng. Báo chí, xuất bản...
làm tốt chức năng tuyên truyền thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước; phát hiện những nhân tố mới, cái hay, cái đẹp trong
xã hội, giới thiệu gương người tốt việc tốt, những điển hình tiên tiến, phê
phán các hiện tượng tiêu cực, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với
những quan điểm sai trái; coi trọng nâng cao tính chân thật, tính giáo dục và
tính chiến đấu của thông tin. Sử dụng Internet đẩy mạnh thông tin đối ngoại,
đồng thời hạn chế, ngăn chặn những hoạt động tiêu cực qua mạng. Khắc phục
khuynh hướng "thương mại hoá" trong hoạt động báo chí, xuất bản. Nâng cao



13

bản lĩnh chính trị, tư tưởng, ý thức trách nhiệm, trình độ văn hoá và nghề
nghiệp, phẩm chất đạo đức của đội ngũ báo chí, xuất bản”.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 cũng yêu cầu:
“Nâng cao chất lượng hệ thống thông tin, báo chí, Internet, xuất bản. Bảo đảm
quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của nhân dân, đặc biệt ở các
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Tiếp tục đổi mới cơ chế và nâng
cao hiệu quả quản lý, đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa, thông tin,
hình thành thị trường văn hóa lành mạnh”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung,
phát triển năm 2011) một lần nữa khẳng định vai trò của hệ thống thông tin
đại chúng, đồng thời đặt ra yêu cầu: “Phát triển các phương tiện thông tin đại
chúng đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có
hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
1.2.2. Quan điểm chỉ đạo phát triển thông tin của tỉnh Lạng Sơn
Triển khai thực hiện các quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển
thông tin, truyền thông, Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn lần thứ XV
đề ra yêu cầu, nhiệm vụ: “Nâng cao chất lượng tư tưởng, chính trị và hiệu quả
xã hội trong hoạt động thông tin, truyền thông, báo chí, văn học nghệ thuật
theo định hướng của Đảng và Nhà nước, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương… Tăng cường hơn nữa công tác quản lý
nhà nước về văn hóa, thông tin để hướng các hoạt động văn hóa, thông tin,
truyền thông đúng pháp luật và định hướng của Đảng”.
Đây chính là những quan điểm chỉ đạo, định hướng quan trọng để tiếp
thu, vận dụng, đề ra các phương hướng phát triển cho hệ thống đài truyền
thanh, truyền hình cơ sở trong những năm tiếp theo.
1.3. Cơ sở thực tiễn



14

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện,
Đài Truyền thanh và Truyền hình huyện Tràng Định đã được quan tâm đầu tư
về cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật và Đài đã có những bước phát triển
quan trọng trên mọi phương diện: từ thời lượng và diện tích phủ sóng đến
trang bị kỹ thuật, chất lượng thông tin và đội ngũ cán bộ, thực hiện hoàn
thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Kịp thời tuyên truyền các Chỉ thị,
Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, biểu dương, cổ vũ
các điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua yêu nước, góp phần vào sự
phát triển kinh tế, văn hóa xã hội đảm bảo quốc phòng an ninh trên địa bàn.
Tuy nhiên, trang thiết bị thu, phát sóng và sản xuất chương trình phát
thanh, truyền hình do được đầu tư đã lâu và không đồng bộ nên chất lượng âm
thanh và hình ảnh phát ra chưa đáp ứng được với nhu cầu của người dân. Bên
cạnh đó hình thức thể hiện các chương trình phát thanh, truyền hình còn đơn
điệu, chậm đổi mới. Nội dung chương trình phát thanh, truyền hình nhìn
chung chưa thực sự phong phú, đa dạng, chưa có nhiều tác phẩm báo chí sâu
sắc, có chất lượng cao. Số lượng tin, bài có tính chiến đấu còn hạn chế, chưa
thu hút đông đảo người nghe, người xem. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu thực tế
đặt ra trong giai đoạn tới đòi hỏi Đài Truyền thanh và Truyền hình phải “Tăng
thời lượng các chương trình phát thanh, đồng thời nâng cao chất lượng
chương trình phát thanh, truyền hình của huyện...” (Trích văn kiện Đại hội đại
biểu Đảng bộ huyện Tràng Định lần thứ XX ). Để đáp ứng với nhiệm vụ chính
trị và yêu cầu cung cấp thông tin cho nhân dân, phù hợp với xu hướng đổi mới
công nghệ, đảm bảo chất lượng dịch vụ trong giai đoạn hiện nay.

2. NỘI DUNG THỰC HIỆN CỦA ĐỀ ÁN



15

2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
2.1.1. Những vấn đề đặt ra từ bối cảnh mới
Cuộc cách mạng của công nghệ kỹ thuật số và sự bùng phát mạnh mẽ
của mạng thông tin toàn cầu Internet đã buộc người ta phải đặt ra những câu
hỏi về sự tồn tại của các loại hình báo chí truyền thống như báo in, phát thanh
và kể cả truyền hình của Tỉnh và Trung ương. Riêng với phát thanh ở Việt
Nam - một loại hình báo chí vốn đang chịu nhiều sức ép trong mấy thập kỷ
vừa qua thì vấn đề này lại càng trở nên bức xúc hơn bao giờ hết.
Là loại hình truyền thông ra đời sớm nhất (chỉ sau báo in), gắn với sự ra
đời của nước Việt Nam độc lập từ năm 1945, phát thanh Việt Nam đã gắn với
từng bước thăng trầm của lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, trong những thập niên
cuối cùng của thế kỷ trước và kể cả khi bước vào thập niên đầu tiên của thế
kỷ này, phát thanh dần mất vị thế số một của mình do sự lớn mạnh của truyền
hình. Sự bùng nổ với tốc độ chóng mặt của mạng Interrnet đã tiếp tục đẩy các
loại hình báo chí truyền thống (nhất là báo in và phát thanh) vào cái thế phải
chống đỡ, phải gồng lên để tồn tại… Trong những năm vừa qua, phát thanh
luôn phải đứng trước sự lựa chọn: hoặc sẽ bị tê liệt, hoặc phải tiếp tục vận
động vươn lên để thích ứng và tồn tại.
Tuy nhiên, bất chấp những dự đoán bi quan, một số nhà nghiên cứu về
phát thanh trên thế giới lại đưa ra những dự đoán sáng sủa về tương lai của
phát thanh trong bối cảnh bùng nổ các phương tiện truyền thông đầu thế kỷ
XXI này. Cơ sở của quan niệm này trước hết dựa trên những ưu thế của phát
thanh như: tính tiện lợi, kỹ thuật đơn giản, thiết bị gọn nhẹ và phương thức
tiếp nhận thông tin rất linh hoạt (đang trong ô tô, trên giường ngủ, đang làm
việc hoặc đang chống lụt, bão… đều có thể nghe phát thanh).
Sự đơn giản, gọn nhẹ của thiết bị thu nhận thông tin phát thanh là một ưu
thế nổi bật của phát thanh so với các báo khác trong cùng một điều kiện như



16

nhau, vì báo mạng và truyền hình cần thiết bị kỹ thuật cồng kềnh và phức tạp
hơn nhiều. Khi cuộc sống ngày càng phát triển, con người ngày càng chịu
nhiều áp lực của nhịp sống khẩn trương, hiện đại thì những ưu thế này lại
càng phát huy tác dụng.
Khác với phương thức sản xuất các chương trình phát thanh truyền thống
(chương trình được thu băng trước rồi phát sóng sau), phương thức sản xuất
các chương trình phát thanh hiện đại đã tận dụng tối đa sức mạnh của công
nghệ mới (kỹ thuật số, mạng Interrnet, mạng điện thoại di động… ) để nâng
cao khả năng tác động của phát thanh nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn nhu
cầu của công chúng.
2.1.2. Những vấn đề đặt đối với Đài Truyền thanh-Truyền hình Tràng Đinh
Tràng Định là huyện vùng cao biên giới nằm ở phía Bắc của tỉnh Lạng
Sơn, cách thành phố Lạng Sơn 67 km theo đường quốc lộ 4A , phía bắc giáp
huyện Thạch An (Cao Bằng), phía tây giáp huyện Na Rì (Bắc Kạn), phía nam
giáp huyện Bình Gia và huyện Văn Lãng (Lạng Sơn). Diện tích tự nhiên là
995km2 .
Huyện Tràng Định có 22 xã và một thị trấn. Dân số của huyện khoảng
hơn 60 nghìn người, gồm nhiều dân tộc cùng sinh sống, trong đó dân tộc Tày
chiếm 45,6%; người Nùng chiếm 40,2%; còn lại là các dân tộc Kinh, Dao,
Hoa, H’Mông .
Mật độ dân số hơn 60 người/km 2, thấp hơn mật độ chung của tỉnh. Sự
phân bố dân cư tương đối đồng đều giữa các xã trong huyện là điều kiện
thuận lợi cho sự đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế xã hội.
Do đặc điểm tự nhiên của huyện nên các điểm dân cư thường có quy mô
nhỏ (làng, bản), mật độ dân cư thấp. Dân cư tập trung chủ yếu dọc theo đường
giao thông, khu vực thị trấn, thị tứ, trung tâm xã, các điểm chợ... Ngoài ra,

làng bản còn được hình thành gần những cánh đồng, khu nương rẫy để thuận


17

tiện cho việc sản xuất. Nền kinh tế chủ yếu là nông lâm nghiệp và dịch vụ.
Nông sản chủ yếu là cây lương thực, cây công nghiệp chính là cây thạch đen.
Cùng với sự đổi mới đi lên của đất nước, kinh tế - chính trị Tràng Định
ngày một ổn định đi lên, tuy nhiên để phát triển một cách bền là sự trăn trở
của Đảng bộ, Chính quyền huyện. Do đó nhu cầu mở rộng hiểu biết khoa học
kỹ thuật, kinh tế chính trị xã hội đối với nhân dân các dân tộc trong huyện
ngày càng lớn.
Với đặc điểm tình hình của huyện đã có những ảnh hưởng nhất định trong
việc mở rộng diện phủ sóng phát thanh, truyền hình trên địa bàn huyện. Tuy
nhiên với những thành tựu về kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh – quốc phòng
Tràng Định đạt được những năm qua có sự đóng góp quan trọng của mạng
lưới phát thanh truyền hình địa phương, nó thực sự là phương tiện phù hợp
với hoạt động tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước tại địa phương.
2.2 Thực trạng chất lượng hoạt động của Đài Truyền thanh và
Truyền hình huyện Tràng Định
2.2.1. Một vài nét về Đài Truyền thanh và Truyền hình
huyện Tràng Định
Đài truyền thanh và Truyền hình huyện Tràng Định được thành lập năm
2000 theo quyết định số 883/QĐ-UBND, ngày 07 tháng 8 năm 2000 của Ủy
ban nhân dân huyện Tràng Định v/v tách bộ phận Truyền thanh và Truyền
hình khỏi Phòng Văn hóa – Thông tin để thành lập Đài Truyền thanh và
Truyền hình.
Đài Truyền thanh và truyền hình huyện Tràng Định là đơn vị hành chính sự
nghiệp, trực thuộc sự quản lý và điều hành của Uỷ ban nhân dân huyện; chịu sự

quản lý nhà nước của Sở Thông tin và Truyền thông và sự hướng dẫn về chuyên
môn nghiệp vụ, kỹ thuật của Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh


18

Cơ cấu tổ chức và biên chế của đài do Uỷ ban nhân dân huyện quản lý và
quyết định bao gồm 01 Trưởng đài, 01 Phó Trưởng đài và bộ phận giúp việc (tổ
nội dung và tổ kỹ thuật). Năm 2016 Đài Truyền thanh và Truyền hình huyện
Tràng Định được Ủy ban nhân dân huyện phân bổ 26 biên chế trong đó 01
Trưởng đài, 01 Phó đài và 24 cán bộ viên chức gồm các chức danh: phóng viên,
biên tập viên, phát thanh viên, kỹ thuật viên và kế toán. Về trình độ chuyên
môn, chính trị: 05 cán bộ có trình độ Đại học, 01 Cao đẳng, 20 trung cấp.
Với nhiệm vụ sản xuất và phát sóng các chương trình truyền thanh
bằng tiếng Việt và bằng các tiếng dân tộc trên hệ thống loa truyền thanh, thiết
bị phát sóng phát thanh được trang bị nhằm tuyên truyền đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tập trung vào sự chỉ đạo, điều hành
của chính quyền địa phương, các hoạt động tại cơ sở, phổ biến kiến thức khoa
học kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, xã hội, công tác an ninh trật tự, gương người
tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến tới nhân dân theo quy định của pháp luật.
Tiếp sóng và phát sóng các chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam,
Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh phục vụ nhu
cầu tiếp nhận thông tin của nhân dân theo quy định của pháp luật.
Trực tiếp quản lý hệ thống kỹ thuật chuyên ngành để thực hiện việc tiếp
sóng, phát sóng các chương trình phát thanh, truyền hình theo quy định của pháp
luật. Phối hợp với Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh sản xuất các chương
trình phát thanh, truyền hình phát sóng trên Đài Phát thanh và Truyền hình
tỉnh. Quản lý, vận hành các trạm phát lại truyền hình, phát sóng phát thanh
trên địa bàn theo sự phân công. Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ kỹ thuật
đối với Đài Truyền thanh xã, thị trấn trên địa bàn.

Hiện nay Đài Truyền thanh và Truyền hình huyện Tràng Định đang quản
lý và khai thác 06 trạm truyền hình và Hệ thống truyền thanh có dây và không
dây phủ sóng được 10 xã, thị trấn với hơn 80 điểm loa. Hoạt động của Đài


19

Truyền thanh và Truyền hình huyện Tràng Định đã cơ bản bám sát định
hướng của các cấp ủy, chính quyền; kịp thời tuyên truyền các nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội; phản ánh gương người tốt, việc tốt trên các lĩnh vực của
đời sống; góp phần tích cực vào việc động viên các tầng lớp nhân dân hăng
hái thi đua lao động, sản xuất, hoàn thành tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Đài Truyền thanh và Truyền hình cấp huyện giữ vai trò quan trọng
trong công tác tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước đến với bà con nhân dân các dân tộc trong huyện. Trong
thời đại phát triển mạnh mẽ của các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống
thông tin truyền thông nói chung và Đài Truyền thanh và Truyền hình cấp
huyện nói riêng ngày càng được quan tâm đầu tư phát triển. Tuy nhiên, hoạt
động của Đài Truyền thanh và Truyền hình cấp huyện hiện đang đứng trước
nhiều khó khăn, hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến nội dung và hiệu quả của
công tác tuyên truyền tại cơ sở.
2.2.2. Thực trạng hoạt động của Đài Truyền thanh và Truyền hình
huyện Tràng Định
2.2.2.1. Xây dựng và sản xuất các chương trình phát thanh, truyền hình
- Về chương trình phát thanh.
Hiện nay, mỗi tuần Đài Truyền thanh và Truyền hình huyện Tràng Định
sản xuất ba chương trình phát thanh bằng tiếng Việt có thời lượng 20 đến 25
phút vào các ngày thứ hai, thứ tư và thứ sáu trong tuần. Trong đó 10-15 phút đầu
là phần tin phản ánh các hoạt động của các cấp, các ngành, xã, thị trấn trên địa
bàn huyện, phần cuối dành cho các chuyên mục như chuyên mục “Nhà nông

cần biết”; chuyên mục “Sức khoẻ và đời sống”; chuyên mục “Quốc phòng - An
ninh”; chuyên mục “Phụ nữ ngày nay”; chuyên mục “Người tốt, việc tốt” ;


20

chuyên mục “An toàn giao thông – Hạnh phúc của mọi nhà”, chuyên mục “Phổ
biến kiến thức pháp luật” theo từng ngày đã được ấn định.
Nội dung chương trình chủ yếu là tuyên truyền việc đưa chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Qua
hệ thống loa truyền thanh, người dân được thông báo kịp thời về tình hình
thiên tai, dịch bệnh, sâu rầy phá hoại mùa màng, động viên mọi nguồn lực để
xây dựng địa phương, thực hiện các phong trào thi đua, vận động thanh niên
lên đường nhập ngũ, thực hiện kế hoạch hoá gia đình... Đặc biệt các đợt tuyên
truyền bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Đại hội Đảng bộ các
cấp, Đài truyền thanh cơ sở đã tuyên truyền sâu rộng và có hiệu quả.
Bên cạnh việc làm tốt các nội dung tuyên truyền có tính chất định kì và
thường xuyên như: Hoạt động mừng Đảng mừng Xuân, chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, xây dựng nông thôn mới, phòng chống tệ nạn xã hội và các ngày kỉ
niệm lớn của đất nước và của địa phương, Đài còn phát hiện tuyên truyền
những nhân tố mới, các tập thể, cá nhân điển hình, những cách làm hay trên
mọi lĩnh vực. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, hoạt động của
các ban ngành đoàn thể…
Thời lượng phát sóng, tiếp âm. Thời lượng tiếp âm của Đài truyền
thanh và Truyền hình huyện Tràng Định hàng ngày vào lúc 6 giờ sáng tiếp âm
Đài Tiếng nói Việt Nam đến 6 giờ 30 phút vào mùa hè; từ 5giờ30 đến 6 giờ30
phút vào mùa đông, từ 6 giờ 30 phút phát chương trình truyền thanh do Đài
sản xuất; 11 giờ tiếp âm Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Lạng Sơn; 17 giờ
phát chương trình truyền thanh do Đài sản xuất và tiếp âm chương trình Đài
tiếng nói Việt Nam đến 18 giờ 30 phút.

- Về chương trình truyền hình.
Theo thông tư số 17 của Bộ TTTT và Bộ Nội vụ thì Đài TT – TH cấp
huyện không được phép sản xuất chương trình truyền hình mà chỉ phối hợp


21

với đài tỉnh sản xuất chương trình truyền hình cấp huyện. Hiện nay một tháng
Đài Truyền thanh - Truyền hình Tràng Định thực hiện sản xuất 03 chương
trình tiếng Việt “truyền hình từ cơ sở” có thời lượng 15 phút phát trên sóng
của đài tỉnh.
2.2.2.2. Cơ sở vật chất, trang thiết bị
* Truyền thanh
Trước năm 2012 Đài Truyền thanh –Truyền hình Tràng Định chỉ có hệ
thống truyền thanh hữu tuyến tại trạm trung tâm huyện và các trạm phát lại tại
các xã với hệ thống loa rất hạn chế là 18 loa.
Năm 2012 đài được đài Phát thanh- Truyền hình tỉnh đầu tư máy FM
500W và huyện hỗ trợ kinh phí hàng năm trang bị các cụm loa không dây đến
nay đã có trên 50 cụm thu với hơn trên 100 loa đặt tại các xã cánh đồng gần trạm
trung tâm như Đại Đồng, Hùng Sơn, Đề Thám, Chi Lăng và thị trấn Thất Khê.
Năm 2013 đài được sở Thông tin truyền thông đầu tư hệ thống tuyền
thanh không dây (theo chương trình Mục tiêu Quốc gia) cho trạm xã Quốc
Khánh với 16 điểm thu (32 loa); Năm 2014 đài được Sở thông tin truyền
thông đầu tư hệ thống tuyền thanh không dây cho trạm xã Tri Phương với 16
điểm thu (32 loa); Năm 2015 đài được đầu tư hệ thống tuyền thanh không dây
cho trạm xã Quốc Việt với 22 cụm, triển khai lắp đặt tại 15 điểm thu (30 loa).
Hệ thống loa truyền thanh do Đài quản lý và khai thác hàng ngày tiếp
âm chương trình Thời sự của Đài TNVN, chương trình thời sự của Đài Phát
thanh và Truyền tỉnh và phát chương trình thời sự tổng hợp của Đài Truyền
thanh và Truyền hình huyện, cụ thể: vào lúc 6h tiếp âm Đài Tiếng nói Việt

Nam; 6h30 phát chương trình thời sự tổng hợp của Đài huyện; 11h tiếp âm
Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh; 17h phát lại chương trình thời sự tổng
hợp của Đài huyện và tiếp sóng VOV.


×