Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Nghiên cứu thực trạng, đề xuất quy hoạch và các giải pháp quản lý vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên pù hu, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 81 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ Nông nghiệp và PTNT

Tr-ờng đại học lâm nghiệp

V VN T

NGHIấN CU THC TRNG, XUT QUY HOCH V
CC GII PHP QUN Lí VNG M KHU BO TN
THIấN NHIấN P HU, TNH THANH HO

Chuyên ngành: Qun lý bo v ti nguyờn rng
Mã số: 60.62.68

LUN VN THC S KHOA HC LM NGHIP

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYN XUN NG

Hà Nội, 2011



1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học, chất lượng của các hệ sinh thái và các
cảnh quan, hệ động vật và hệ thực vật giàu có của nhiều khu bảo tồn thường
bị suy thoái do tác động của nhân dân sinh sống phía ngoài các khu bảo tồn từ
lâu đã được nhiều người quan tâm. Việc xây dựng vùng đệm, tạo thành một


vành đai bảo vệ khu bảo tồn khỏi các tác động tiêu cực từ phía ngoài và bổ
sung các giá trị đa dạng sinh học cho khu bảo tồn đã được đặt ra ở nhiều nước
trên thế giới (Primack, 1999, Gilmour, 1999,...)
Ở nước ta, nhiều vườn quốc gia và khu bảo tồn đã và đang được xây
dựng, nhưng phần lớn các khu này lại nằm xen giữa các khu dân cư và chịu
sức ép hết sức nặng nề từ phía các khu dân cư này. Cần phải có những giải
pháp hữu hiệu, vừa đáp ứng các nhu cầu thiết yếu trước mắt của nhân dân địa
phương, vừa đáp ứng được những yêu cầu của công tác bảo tồn đa dạng sinh
học. Vùng đệm được Nhà nước ta quy định xây dựng cho các vườn quốc gia
và khu bảo tồn thiên nhiên (Quyết định 186/2006/QĐ-TTg, Luật Đa dạng
Sinh học, 2009,...) là một giải pháp để giải quyết các khó khăn đó. Mục tiêu
của vùng đệm là tạo điều kiện nâng cao đời sống cho các cộng đồng dân cư
địa phương, tạo thêm công ăn việc làm để họ giảm bớt sức ép lên các khu bảo
tồn, đồng thời giáo dục nâng cao nhận thức bảo tồn cho họ, động viên họ tích
cực tham gia vào công tác bảo tồn. Mặt khác, vùng đệm cũng lưu giữ các giá
trị đa dạng sinh học mà có thể trong khu bảo tồn không có được hoặc không
đủ lớn, đặc biệt, là lưu giữ các yếu tố văn hoá, xã hội liên quan mật thiết với
các giá trị đa dạng sinh học trong khu bảo tồn và có tình quyết định trong
thành công của các hoạt động bảo tồn (Gilmour và cs., 1999, Primack,
1999,..).
Khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) Pù Hu được thành lập tại Quyết
định số 447/QĐ-UBND ngày 20 tháng 3 năm 1999 của Chủ tịch UBND tỉnh


2

Thanh Hoá. Trong suốt 10 năm đi vào hoạt động đến nay, Khu bảo tồn vẫn
chưa quy hoạch và lập được dự án vùng đệm. Nhu cầu lâm sản, đất canh tác
của cư dân vùng đệm vấn luôn là áp lực lớn đối với Khu bảo tồn. Đồng thời,
việc xây dựng và triển khai các kế hoạch quản lý của Khu bảo tồn cũng gặp

rất nhiều khó khăn, đặc biệt, là các chính sách có liên quan đến sinh kế tại
vùng đệm, vì chưa xác định được đối tượng, phạm vi, diện tích vùng đệm để
đầu tư và kêu gọi Dự án lồng ghép hay một chính sách đặc thù cho cư dân
vùng đệm.
Từ những yêu cầu cấp thiết của thực tiễn nêu trên, tôi chọn thực hiện đề
tài “Nghiên cứu thực trạng, đề xuất quy hoạch và các giải pháp quản lý
vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, tỉnh Thanh Hóa”, trong đó tập
trung nghiên cứu, phân tích một số nội dung cơ bản sau:
- Phân tích, đánh giá thực trạng về đời sống sinh kế, văn hóa, xã hội,
những nhu cầu thiết yếu và tầm quan trọng của tài nguyên rừng đối với cư dân
vùng đệm. Các tác nhân đe dọa và các nguy cơ xâm hại đến Khu bảo tồn.
- Quy hoạch vùng đệm cho KBTTN Pù Hu trên bản đồ và ngoài thực
địa dựa trên các tiêu chí: xã hội dân sinh, điều kiện tự nhiên, giá trị đa dạng
sinh học, khả năng đầu tư tài chính và mức độ chấp nhận của các bên liên
quan.
- Đề xuất tổng hợp các giải pháp quản lý hiệu quả vùng đệm KBTTN
Pù Hu.
Kết quả của đề tài sẽ góp phần tạo lập cơ sở khoa học để tiến tới giải
quyết hài hòa mối quan hệ của vùng đệm với khu bảo tồn ở KBTTN Pù Hu
nói riêng và các khu bảo tồn của Việt Nam nói chung,


3

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm vùng đệm và vai trò của vùng đệm đối với quản lý khu
bảo tồn thiên nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học
1.1.1 Sự cần thiết có sự tham gia của cộng đồng địa phương vào quản lý
khu bảo tồn thiên nhiên

Rừng và tài nguyên ĐDSH vốn dĩ đã tồn tại lâu đời và gắn bó mật thiết
với đời sống của đồng bào sống trong và ven rừng. Mối quan hệ này được thể
hiện trên các mặt kinh tế, văn hóa, tín ngưỡng và tập quán của người dân địa
phương. Do đó, công việc quy hoạch bảo tồn không phải chỉ quan tâm đến
sản phẩm cuối cùng là gìn giữ được các giá trị bảo tồn, mà còn phải đáp ứng
được nguyện vọng và nhu cầu chính đáng của cộng đồng địa phương, đặc biệt
đối với những cộng đồng bị ảnh hưởng do xây dựng khu bảo tồn và những
nhóm người dễ tổn thương. Hay nói cách khác là phải hài hòa được các mục
tiêu bảo tồn ĐDSH với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. Việc các cộng đồng địa phương có liên quan được tham gia vào quá
trình quy hoạch khu bảo tồn là khâu then chốt, đảm bảo tính phù hợp và tính
khả thi của quy hoạch này. Đó cũng chính là cơ sở để các cộng đồng có liên
quan thể hiện được vai trò tích cực của mình trong bảo tồn đa dạng sinh học,
đồng thời là một trong những yêu cầu cơ bản của giải pháp quản lý bảo tồn
dựa vào cộng đồng. Lý do mà cộng đồng địa phương có thể đóng vai trò quan
trọng trong quản lý khu bảo tồn là: Cộng đồng có nguồn lực lao động dồi
dào; có kinh nghiệm và kiến thức bản địa phong phú về sử dụng bền vững tài
nguyên rừng, là nhóm người thiệt thòi và dễ tổn thương do quy hoạch khu bảo
tồn và là nhóm người tác động trực tiếp đến tài nguyên rừng trong vùng lõi và
vùng đệm của khu bảo tồn.


4

1.1.2. Định nghĩa và chức năng của vùng đệm
Khái niệm "vùng đệm" là sản phẩm của ý tưởng muốn kết hợp hài hòa
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội với các mục tiêu bảo tồn ĐDSH. Vào
những năm đầu của quá trình phát triển ý tưởng này, Sayer (1991) đã đưa ra
định nghĩa vùng đệm như sau:
"Vùng đệm là vùng rìa của vườn quốc gia hoặc khu bảo tồn thiên nhiên

tương đương, nơi mà những hạn chế về sử dụng tài nguyên hoặc các biện
pháp phát triển đặc biệt được thực hiện để tăng cường giá trị bảo tồn của các
khu đó"
Định nghĩa này đã nêu được khái niệm cơ bản về vùng đệm nhưng còn
chung chung. Năm 1999, Gilmour và Nguyễn Văn Sản tổng kết kinh nghiệm
của thế giới và thực tiễn quản lý hệ thống KBTTN ở Việt Nam đã đưa ra một
định nghĩa cụ thể hơn về vùng đệm như sau:
"Vùng đệm là những vùng được xác định ranh giới rõ ràng, có hoặc
không có rừng, nằm ngoài ranh giới của khu bảo tồn và được quản lý để nâng
cao việc bảo tồn của khu bảo tồn và của chính vùng đệm, đồng thời mang lại
lợi ích cho nhân dân sống quanh khu bảo tồn. Điều này có thể thực hiện được
bằng cách áp dụng các hoạt động phát triển cụ thể, đặc biệt góp phần vào
việc nâng cao đời sống kinh tế - xã hội của cư dân sống trong vùng đệm"
Ở Việt Nam, khái niệm "vùng đệm" được tiếp cận khá sớm trong lịch
sử xây dựng và quản lý hệ thống rừng đặc dụng và ngày càng được hoàn thiện
cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Quyết định 186/2006/QĐTTg, ngày 14/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ Về việc ban hành Quy chế
quản lý rừng đã xác định:
- Vùng đệm là vùng rừng, vùng đất hoặc vùng đất có mặt nước nằm
liền kề với vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên; bao gồm toàn bộ hoặc


5

một phần các xã, phường, thị trấn nằm sát ranh giới với vườn quốc gia và khu
bảo tồn thiên nhiên
- Vùng đệm được xác lập nhằm ngăn chặn, giảm nhẹ sự xâm hại của
con người tới VQG và KBTTN.
- VQG và KBTTN phải xây dựng vùng đệm cho khu rừng. Vị trí, diện
tích vùng đệm được quy định trong quyết định thành lập khu bảo tồn và phải
được xác định trên bản đồ hiện trạng sử dụng đất hoặc xác định tọa độ trên

mặt nước biển.
- Diện tích của vùng đệm không tính vào diện tích của khu rừng đặc dụng
- Diện tích đất ở, ruộng, vườn và nương rẫy cố định của dân cư sống
trong rừng đặc dụng không tính vào diện tích rừng đặc dụng nhưng phải được
thể hiện trên bản đồ, cắm mốc ranh giới rõ ràng trên thực địa và quản lý theo
quy định của pháp luật về đất đai.
Luật Đa dạng sinh học (2009) xác định: "Vùng đệm là vùng bao quanh,
tiếp giáp khu bảo tồn, có tác dụng ngăn chặn, giảm nhẹ tác động tiêu cực từ
bên ngoài đối với khu bảo tồn"
Từ các định nghĩa và khái niệm trên cho thấy các chức năng chính của
vùng đệm bao gồm:
- Góp phần vào việc bảo vệ khu bảo tồn mà nó bao quanh: ngăn chặn
hoặc giảm nhẹ sự xâm phạm khu rừng đặc dụng. Mọi hoạt động trong vùng
đệm phải nhằm mục đích hỗ trợ cho công tác bảo tồn, quản lý và bảo vệ khu
rừng đặc dụng, hạn chế di dân vào vùng đệm, cấm săn bắt bẫy bắt các loại
động vật và chặt phá các loài thực vật hoang dã là đối tượng bảo vệ. Không
phát triển các ngành kinh tế như công nghiệp, các hoạt đông sản suất chỉ
nhằm đáp ứng nhu cầu tại chỗ.
- Nâng cao các giá trị bảo tồn của chính bản thân vùng đệm.


6

- Tạo điều kiện mang lại cho những người dân sinh sống trong vùng
đệm những lợi ích từ vùng đệm và từ khu bảo tồn: nâng cao thu nhập của
người dân bằng các hoạt động kinh tế mà không ảnh hưởng đến khu bảo tồn.
Để vùng đệm thực hiện được chức năng của mình, cần có những điều
kiện cơ bản sau:
+ Nâng cao điều kiện kinh tế xã hội của cư dân sống trong vùng đệm để
giảm việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên bên trong KBTTN.

+ Khuyến khích các cộng đồng địa phương trong vùng đệm tham gia
vào việc qui hoạch và quản lý các hoạt động bảo tồn.
+ Giúp cộng đồng địa phương lập kế hoạch và quản lý tài nguyên thiên
nhiên trong vùng đệm một cách bền vững.
+ Có sự trao đổi thông tin và điều phối chặt chẽ để đảm bảo các quy
hoạch và kế hoạch quản lý phát triển của chính quyền địa phương và các đơn
vị kinh tế ở vùng đệm mang tính hỗ trợ (và không đi ngược lại) các mục tiêu
bảo tồn đã đề ra cho KBTTN (và vùng đệm).
+ Các hoạt động đầu tư trong một vùng đệm cần được điều phối để
hướng tới thực hiện các mục tiêu bảo tồn đề ra của vùng đệm và KBTTN.
+ Khuyến khích các dự án cụ thể trong vùng đệm ủng hộ các mục tiêu
bảo tồn.
+ Tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào xây dựng và thực hiện
các hoạt động tại vùng đệm.
1.1.3 Những kết quả đã đạt được và những thiếu sót trong quy hoạch và
quản lý vùng đệm của Việt Nam.
1.1.3.1. Những kết quả đạt được
Việc quản lý và bảo vệ rừng nói chung rất đa dạng, phong phú nhưng
lại tuân theo những quy định rất nghiêm ngặt. Về mặt bảo tồn, các sinh vật
quý hiếm vừa được đảm bảo sự tồn tại của giống nòi, vừa cung cấp sản phẩm


7

cho cộng đồng. Về mặt kinh tế và đời sống, rừng phải đảm bảo chống lũ lụt,
hạn hán, cung cấp nước cho sản xuất và đời sống. Sau nhiều năm thực hiện
việc thực hiện quy hoạch và quản lý vùng đệm ở một số khu bảo tồn trong
nước ta đã đạt được những kết quả sau:
• Về công tác quản lý bảo vệ tài nguyên môi trường rừng:
- Các nhiệm vụ về bảo vệ tài nguyên môi trường được các đơn vị quan

tâm chỉ đạo thực hiện. VQG đã phối hợp với chính quyền địa phương và các
bên liên quan triển khai cho cộng đồng địa phương thực hiện các đề án khai
thác lâm sản. Người dân nhận thuê khoán diện tích rừng và chủ động tổ chức
hoạt động khai thác lâm sản.
- Tình hình an ninh trật tự và tài nguyên môi trường ở khu vưc tương
đối ổn định.
• Về công tác khoa học kỹ thuật và hợp tác quốc tế:
Các VQG đã thực hiện các nhiệm vụ khoa học kỹ thuật truyền thống
như: Đào tạo cán bộ viên chức, hợp tác nghiên cứu khoa học và thực hiện các
Dự án về bảo tồn và phát triển cho khu vực. Phối hợp và tạo điều kiện cho các
tổ chức nước ngoài muốn hợp tác bảo vệ và phát triển VQG.
- Dự án du lịch cộng đồng do Trung tâm bảo tồn biển và phát triển cộng
đồng (MCD) phối hợp với một số VQG đã được thực hiện và đã cho những
kết quả nhất định.
- Cho thuê môi trường rừng: một số VQG đã thực hiện việc giao đất
giao rừng cho người dân chủ động khai thác và sản xuất.
• Về vấn đề đồng quản lý và vấn đề xã hội hoá Lâm nghiệp:
Một số VQG đang thử nghiệm mô hình quản lý cộng đồng bằng cách
giao khoán bảo vệ rừng cho nhóm cộng đồng có hoạt động khai thác các
nguồn lợi lâm sản. Về trách nhiệm họ phải bảo vệ toàn vẹn tài nguyên rừng,


8

không được khai thác cạn kiệt và huỷ diệt nguồn lợi lâm sản. Về quyền lợi, họ
được sử dụng khôn khéo và bền vững tài nguyên rừng.
• Về công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng :
Các hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức về rừng được tổ chức
thường xuyên thông qua các hoạt động: giao lưu, xem phim, họp cộng
đồng,…và đã đạt được những kết quả nhất định như: đưa trách nhiệm bảo vệ

rừng vào hương ước của làng bắt mọi người trong làng phải cam kết thực.
• Về kết quả đầu tư ngân sách:
Các đơn vị đã hợp tác với chính quyền địa phương triển khai các gói
thầu công trình phúc lợi như: xây dựng các trung tâm học tập cộng đồng,
trường học, trạm y tế, thà văn hoá xóm, đường xá, cầu cống… Chuyển giao
các công trình này vào sử dụng đã phát huy hiệu quả thiết thực. Các dự án này
đã được đầu tư một khoản kinh phí đáng kể từ các cơ quan, tổ chức.
1.1.3.2. Những thiếu sót trong quy hoạch và quản lý vùng đệm ở Việt Nam
Các khu bảo tồn ở nước ta được chọn thành lập tại những vùng mà
thiên nhiên ở đó chưa bị tàn phá nhiều và phần đất đó trước đây thuộc nhiều
xã, của vài ba huyện nằm trọn trong một tỉnh hay nhiều tỉnh. Cũng có khu bảo
tồn, ngoài ranh giới tiếp giáp với các xã, còn có phần ranh giới tiếp giáp với
một hay hai xí nghiệp lâm nghiệp nhà nước. Có khu bảo tồn lại có phần ranh
giới là biên giới của nước ta và các nước lân cận như Lào hay Campuchia,
hoặc có khu bảo tồn lại tiếp giáp với biển cả như: VQG Cát Bà, VQG Côn
Đảo, VQG Phú Quốc, KBTTN Xuân Thủy,... Xung quanh các khu bảo tồn
thường có nhiều dân cư sinh sống đã từ lâu đời hay mới di cư đến, và đa số là
dân nghèo, trình độ dân trí thấp, sống dựa vào các sản phẩm của rừng hoặc
các hệ sinh thái có liên quan. Mức độ phức tạp của vấn đề vùng đệm thuộc
từng khu bảo tồn thay đổi tùy theo tình hình cụ thể về dân cư và kinh tế - xã
hội ở xung quanh khu bảo tồn đó.


9

Điều khó khăn nhất gặp phải trong việc quản lý khu bảo tồn ở Việt
Nam là số dân sinh sống phía ngoài, sát với khu bảo tồn, thậm chí cả trong
khu bảo tồn đã tạo sức ép nặng nề lên khu bảo tồn. Họ phát nương làm rẫy,
săn bắt động vật, chặt gỗ, lấy củi, thu lượm các sản phẩm của rừng và do đó
ảnh hưởng lớn đến công tác bảo vệ. Nguyên nhân chính của mất rừng là đói

nghèo và dân số tăng nhanh.
Kinh nghiệm cho thấy trong những trường hợp tương tự, thì công tác
bảo vệ theo pháp luật là khó thành công. Đường ranh giới có biển báo, trạm
gác, bắt bớ, tịch thu, giáo dục cũng không thể ngăn cấm họ xâm phạm khu
bảo tồn và nếu không có biện pháp thích hợp để ngăn chặn kịp thời thì chẳng
bao lâu khu bảo tồn sẽ bị xuống cấp. Phải có hệ thống tổ chức mới và cách
giải quyết mới, nhằm thỏa mãn được nhu cầu thiết yếu của nhân dân mà
không gây nguy hại đến mục tiêu lâu dài của khu bảo tồn mới có thể cứu thoát
sự suy thoái của các khu này. Hợp tác với nhân dân địa phương và chấp nhận
những yêu cầu chính đáng của họ là biện pháp bảo vệ có hiệu quả hơn là chỉ
có biện pháp hàng rào, ngăn cấm, tuần tra và xử phạt.
Do chưa có chính sách rõ ràng về vùng đệm, không có quy định và
hướng dẫn cụ thể về cách quản lý vùng đệm nên dù ở một số khu bảo tồn đã
có xây dựng vùng đệm, nhưng các Ban quản lý khu bảo tồn đó và cả các cấp
chính quyền liên quan đến vùng đệm đều gặp khá nhiều lúng túng khi tổ chức
và quản lý vùng đệm như:
- Vùng đệm thuộc quyền quản lý của chính quyền địa phương (xã,
huyện, tỉnh) nhưng thường địa phương ít quan tâm đến khu bảo tồn; họ không
được lợi gì mà còn bị mất đi một số quyền lợi so với trước; không hiểu ý
nghĩa của vùng đệm đối với khu bảo tồn; không được cấp trên giao nhiệm vụ
và cũng không có hướng dẫn cụ thể về cách quản lý.


10

- Nhân dân địa phương, đa số là nghèo, dân số tăng nhanh, dân trí thấp,
họ cho rằng việc thành lập khu bảo tồn không đem lại lợi ích gì cho họ, mà
chỉ bị thiệt vì họ không được tự do khai thác một phần tài nguyên thiên nhiên
như trước; trong lúc đó có một số khu bảo tồn có điều kiện phát triển hơn do
tổ chức du lịch, có dự án, lấy thêm nhân viên cho khu bảo tồn mà họ không

được tham gia và cũng không được chia sẻ mối lợi có được từ khu bảo tồn...
- Ban quản lý khu bảo tồn gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ vì không đủ cán bộ, đa số cán bộ chưa được đào tạo, luật
pháp cũng không rõ ràng, không có hướng dẫn cụ thể về quản lý vùng đệm,
thiếu kinh nghiệm, thiếu kinh phí, cơ sở hạ tầng kém...
- Việc ngăn chặn xâm phạm tài nguyên thiên nhiên thuộc khu bảo tồn
từ dân vùng đệm và cả dân ngoài vùng đệm không có cơ quan chỉ đạo thống
nhất. Tại một địa phương có thể có nhiều cơ quan cùng làm việc đó, như kiểm
lâm, nhân viên bảo vệ của khu bảo tồn, công an, chính quyền địa phương,
thủy sản, thủy lợi (nếu có hồ chứa)... Các cơ quan này mạnh ai nấy làm, nhiều
khi tạo nên mâu thuẫn, khó giải quyết.
- Chính quyền tỉnh, trung ương và các bộ ngành có liên quan chưa có
quan niệm đúng mức về vùng đệm của các khu bảo tồn, chưa chỉ đạo, hướng
dẫn chính quyền địa phương cách quản lý vùng đệm.
- Các chương trình nhà nước như chương trình xóa đói giảm nghèo,
chương trình tín dụng và nhiều chương trình của các tổ chức ngoài chính phủ
thực hiện ở các xã thuộc vùng đệm cũng chưa chú ý nhiều đến vai trò của
vùng đệm đối với khu bảo tồn và mục tiêu bảo tồn.
Tóm lại, chưa có bộ tiêu chí thống nhất được ban hành cho quy hoạch
vùng đệm cho các khu rừng đặc dụng; vùng đệm chưa được quan tâm thỏa
đáng; cơ quan đầu mối để quản lý vùng đệm chưa rõ ràng; thiếu nguồn nhân


11

lực, vật lực đầu tư cho vùng đệm; nguy cơ và các xung đột giữa vùng đệm và
khu bảo tồn chưa được giải quyết.
1.1.4. Cơ sở pháp lý về quản lý vùng đệm của Việt Nam
Mặc du chưa thật hoàn thiện, nhưng những quy định cơ bản về xây
dựng và quản lý vùng đệm cho các khu bảo tồn ở Việt Nam đã được xác định

trong các văn bản pháp lý như:
- Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng (2004)
- Luật Đa dạng sinh học (2009);
- Nghị định 23/2006/NĐ-CP ngày 03 tháng 3 năm 2006 của Chính phủ
về thi hành Luật Bảo vệ và Phát triển rừng
- Quyết định số 192/2003/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2003 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn
thiên nhiên Việt Nam đến năm 2010;
- Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/8/2006 của Thủ tướng
Chính phủ về ban hành quy chế quản lý rừng;
- Quyết định số 100/2007/QĐ-TTg ngày 6/7/2007 của Thủ tướng Chính
phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 661/QĐ-TTg ngày
29/7/1998;
- Quyết định số 147/2007/QĐ-TTg ngày 10/9/2007 của Thủ tướng
Chính phủ về một số chính sách phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007-2015;
- Quyết định số: 62/2005/QĐ-BNN, ngày 12 tháng 10 năm 2005 của
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT về việc ban hành Bản quy định về tiêu chí phân
loại rừng đặc dụng;
- Các quy định cơ bản về quy hoạch và quản lý vùng đệm ở Việt Nam
được thể hiện và cập nhật tương đối đầy đủ

trong Nghị định số

117/2010/NĐ-CP, ngày 24 tháng 12 năm 2010 của Chính Phủ, cụ thể như
sau:


12

Điều 32. Xác định vùng đệm

1. Phạm vi vùng đệm gồm khu vực rừng, đất có dân cư sinh sống, đất
ngập nước, khu vực biển tiếp giáp ranh giới ngoài hoặc nằm trong phạm vi
ranh giới khu rừng đặc dụng, có chức năng ngăn chặn, giảm nhẹ sự xâm hại
đối với khu rừng đặc dụng bằng các biện pháp quản lý, bảo tồn gắn với các
hoạt động nâng cao sinh kế cho cộng đồng dân cư và phát triển kinh tế xã hội
bền vững.
2. Vùng đệm được xác định đồng thời với việc lập dự án thành lập khu
rừng đặc dụng. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định cụ thể về
tiêu chí xác định vùng đệm.
3. Phạm vi ranh giới của vùng đệm phải được xác định rõ trên bản đồ
và thực địa.
4. Vùng đệm được quy hoạch sử dụng tài nguyên, đất đai phù hợp với
mục tiêu ngăn chặn, giảm nhẹ sự xâm hại đối với khu rừng đặc dụng, đồng
thời nâng cao sinh kế cho cộng đồng dân cư và phát triển kinh tế xã hội bền
vững.
Điều 33. Dự án đầu tư cho vùng đệm
1. Dự án đầu tư vùng đệm được quản lý phù hợp với quy định của pháp
luật về quản lý dự án đầu tư.
2. Ban quản lý khu rừng đặc dụng và các tổ chức được giao quản lý khu
rừng đặc dụng lập dự án và là chủ đầu tư dự án đầu tư vùng đệm phù hợp với
quy định của pháp luật.
Điều 34. Trách nhiệm quản lý vùng đệm
1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo
Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện trách nhiệm như sau:
a) Tuyên truyền, vận động nhân dân trong vùng đệm thực hiện các biện
pháp ngăn chặn xâm hại vào khu rừng đặc dụng.


13


b) Quản lý, sử dụng tài nguyên rừng đúng quy định hiện hành của Nhà
nước và quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng được duyệt.
c) Phối hợp với Ban quản lý khu rừng đặc dụng tổ chức triển khai thực
hiện dự án đầu tư vùng đệm.
2. Ban quản lý khu rừng đặc dụng có trách nhiệm
a) Tổ chức các biện pháp thu hút cộng đồng dân cư vùng đệm tham gia
quản lý khu rừng đặc dụng và thực hiện dự án đầu tư vùng đệm.
b) Phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã lập và tổ chức thực hiện dự án
đầu tư vùng đệm.
3. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư cư trú hoặc có các
hoạt động trong vùng đệm có trách nhiệm, quyền tham gia thực hiện, phối
hợp quản lý dự án đầu tư vùng đệm.
1.2. Khái quát điều kiện tự nhiên KBTTN Pù Hu
1.2.1. Vị trí địa lý, địa hình và diện tích
KBTTN Pù Hu nằm trên địa bàn 11 xã của hai huyện Quan Hóa và
Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa. Tọa độ địa lý: 20023‘ - 20035‘ vĩ độ Bắc và
104044‘ - 105001‘ kinh độ Đông. KBTTN Pù Hu có địa hình núi đất là chính,
xen kẽ là các dãy núi đá vôi kéo dài từ phía Đông Bắc chạy theo hướng Tây
Bắc, thấp dần về phía Đông và Nam. Ranh giới khu bảo tồn: Phía Bắc và phía
Đông giáp các xã dọc sông Mã; phía Nam giáp với các xã phía sông Luồng,
phía Tây giáp xã Trung Lý, huyện Mường Lát.
Theo Dự án đầu tư giai đoạn I ( năm 1999-2005), KBTTN Pù Hu có
tổng diện tích tự nhiên là 35.089 ha. Tuy nhiên, từ năm 2001 đến nay,
KBTTN Pù Hu có diện tích giảm xuống còn 27.502,89 ha. Trong đó bao gồm:
+ Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt là 10.573,72 ha, thuộc các tiểu khu 24,
40, 49, 56, 71, 72, 76B, 83, 92, 93, 94, 97, 98, 102.


14


+ Phân khu phục hồi sinh thái là 12.253,23 ha, thuộc tiểu khu: 16, 23,
24, 26, 28, 29, 42, 51, 73, 82, 95, 97, 98, 102, 111, 112, 113, 120, 121, 123,
124, 130, 142, 146, 147 và 43119.
+ Phân khu hành chính dịch vụ là: 322.5 ha
+ Diện tích rừng sản xuất do Khu bảo tồn quản lý: 4.353,44 ha
1.2.2. Điều kiện khí hậu
KBTTN Pù Hu thuộc vùng khí hậu núi cao, mang tính khí hậu lục địa
và được phân ra các tiểu vùng khí hậu: Tiểu vùng khí hậu núi cao phía Bắc,
núi cao trung phần và núi cao phía Nam.
- Tiểu khí hậu núi cao phía Bắc: Nhiệt độ thấp, phần lớn có tổng nhiệt
dưới 80000C, mùa đông khá rét. Nhiệt độ trung bình tháng 1 dưới 150C, khả
năng xuất hiện băng giá, mùa hè mát, nhiệt độ trung bình tháng 7 thấp 26 0C.
Mưa: Tiểu vùng này ít mưa, lượng mưa năm dưới 1600mm. Mùa mưa kéo dài
trên 5 tháng, mùa mưa bắt đầu từ đầu tháng 4 và kết thúc vào cuối tháng 9
hoặc đầu tháng 10. Gió nhìn trung là yếu, ảnh hưởng của gió bão là không
đáng kể, tiểu vùng này có mùa đông khá rét và khô, có sương giá, sương
muối, mùa hè ít mưa và không nắng lắm.
- Tiểu vùng khí hậu núi cao trung phần: Gồm các xã Hiền Kiệt, Hiền
Chung, Phú Xuân, Hồi Xuân, Nam Tiến, Thanh Xuân. Tiểu vùng này có
nhiều đồi núi thung lũng thấp dưới 400m, ở đó chế độ nhiệt khắc biệt với tình
hình chung của vùng khí hậu toàn huyện. Nhiệt độ: Tổng nhiệt độ năm nhỏ
hơn 8000oC (Khu vực thấp từ 8100 - 84000C) Nhiệt độ trung bình tháng 1 là
13 - 150C ( Khu vực thấp nhất 15 - 16,50C), nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối có thể
xuống tới 10C, có nơi 00C. Lượng mưa trùng bình năm từ 1600 – 1900mm,
mùa mưa kéo dài 6 tháng (tháng 5 - tháng 10), có nơi hơn 6 tháng (Cuối tháng
4 đến hết tháng 10). Gió nhìn chung gió đây yếu, tốc độ trung bình từ 1.0 1,5m/giây, trong bão mạnh nhất không quá 30m/giây.


15


- Tiểu vùng khí hậu núi cao phía Nam: Gồm các xã Xuân Phú, Nam
Xuân, Phú Nghiêm, Nam Động, Thiên Phủ, Thị trấn Quan Hoá. Do địa hình
cao trên 600m, nên nhiệt độ thấp. Tổng nhiệt độ năm chỉ khoảng từ 7500 80000C, mùa hè dịu mát, nhiệt độ trung bình tháng 7 không quá 30 0C, mùa
đông khá rét, nhiệt độ trung bình tháng 01 phần lớn dưới 140C, có nơi dưới
120C. Nhiệt độ thấp nhất 00C. Lượng mưa năm từ 1900 - 2000mm, mùa mưa
kéo dài trên 6 thàng (Từ cuối tháng 4 đến hết tháng 10). Gió nhìn trung gió
yếu, tốc độ gió trong bão không quá 25m/giây, ảnh hưởng của gió Tây khô
nóng không đáng kể. Hàng năm có 3 - 5 ngày có sương muối, xuất hiện băng
giá ở một vài nơi.
1.2.3. Điều kiện thuỷ văn
Ngoài sông Mã và sông Luồng chạy dọc ranh giới, KBTTN Pu Hù còn
có hệ khe suối phức tạp với các suối chính như: Suối Khiết, suối Quyết, suối
Ánh mạ...Chế độ thủy văn của Khu bảo tồn chịu ảnh hưởng của chế độ thuỷ
văn thượng nguồn sông Mã, có mùa mưa lũ từ tháng 6 - tháng 10, hàng năm
mưa lũ lớn tập trung vào tháng 8, tháng 9, thường xuất hiện lũ cuốn. Từ tháng
11 đến tháng 3 năm sau mưa ít, khô hạn kéo dài, Lưu vực sông, suối từ cửa
sông Luồng (Hồi Xuân) thuộc tiểu vùng thuỷ văn thượng nguồn sông Mã, có
đặc trưng chủ yếu: Môdun dòng chảy năm (Mo) dưới 20 (l/s/Km2), mođun
dòng chảy kiệt tháng (Mk) 2 (l/s/Km2), tổng lượng dòng chảy năm
1.356.106m3, tổng lượng dòng chảy mùa cạn 271.106m3, hệ số dòng chảy
năm 0,40.
1.2.4. Tài nguyên động, thực vật rừng
KBTTN Pù Hu bao gồm hệ sinh thái núi đất là chính nhưng xen kẽ
những hệ sinh thái núi đá vôi. Từ sự đa dạng về hệ sinh thái kéo theo có sự
đa dạng về thảm thực vật cũng như số lượng và chủng loại động thực vật.


16

Dựa trên những nguyên tắc sinh thái của Thái Văn Trừng, ở KBTTN

Pù Hu có thể phân chian thành những kiểu thảm thực vật chính như sau:
- Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới: Kiểu rừng này phân bố
ở độ cao dưới 700 m và có thể gặp nó trên tất cả các xã trong khu bảo tồn
thiên nhiên. Rừng có thành phần loài gồm các ưu hợp của họ Cỏ (Poaceae),
họ Cúc (Asteraceae), họ Cà Phê (Rubiaceae) và họ Đậu (Fabaceae).
- Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp: Phân bố ở độ
cao trên 700m thuộc các đỉnh núi cao, đặc biệt tập trung ở đỉnh Pù Hu cho
nên kiểu rừng này có thành phần thực vật ưu thế với các họ Dẻ (Fagaceae), họ
Dâu Tằm (Moraceae), họ Re (Lauraceae) và họ Mộc Lan.
- Kiểu phụ thứ sinh nhân tác: bao gồm Rừng hỗn giao gỗ và nứa trên
đất nguyên trạng. Kiểu rừng này có diện tích không lớn phân bố rải rác trên
toàn bộ khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu. Rừng tre nứa: Kiểu phụ này phân bố
ven hệ thống suối vì đất ở đó ẩm và còn tốt. Rừng Luồng trồng: được các hộ
gia đình trồng ven sông Luồng và sông Mã cùng ven hệ thống các suối là chủ
yếu thuộc vùng đệm và ngay trong Khu bảo tồn. Tuy không được xếp riêng
thành một kiểu hoặc kiểu phụ như trên, song kiểu thảm đất trống có cây bụi
và đất trống có cây gỗ rải rác hay là đất trống có cỏ làm phong phú thêm hệ
sinh thái trong khu bảo tồn và là nơi kiếm ăn cho các loài động vật.
Đa dạng hệ thực vật: Thực vật KBTTN Pù Hu thuộc khu hệ thực vật
vùng Bắc Trung Bộ nhưng có ảnh hưởng của hệ thực vật vùng Tây Bắc cũng
như hệ thực vật vùng núi phía Bắc Bộ. Qua điều tra bước đầu của do Viện
Điều tra Quy hoạch Rừng thực hiện vào năm 1998 (Đỗ Tước và cộng sự,
1998, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Thanh Hóa, 1999) đã thống kê được 508 loài
thực vật thuộc 323 chi, 102 họ thực vật thuộc 6 ngành. Trong đó có những họ
thực vật chiếm ưu thế như: Họ Cỏ (Poaceae), Họ Thầu Dầu (Euphorbiaceae),
Họ Cúc (Asteraceae)…Về bảo vệ nguồn gen, trong Khu bảo tồn có 28 loài


17


cây quý hiếm được xếp trong Sách Đỏ Việt Nam (2007) và trong Danh mục
động thực vật rừng quý hiếm theo Nghị định 32/2006/NĐ-CP như: Sến Mật
(Madhuca pasquieri), Lát Hoa (Chukrasia tabularis), Kim Giao (Nageia
fleuryi),...
Đa dạng về động vật: Theo kết quả điều tra sơ bộ của Viện Điều tra
Quy hoạch Rừng thực hiện vào năm 1998, KBTTN Pù Hu không những
phong phú về chủng loại mà một số loài còn tập trung với mật độ cao như:
lớp Thú có 8 bộ, 20 họ, 62 loài; lớp Chim có 13 bộ, 41 họ, 162 loài; lớp
Lương thê có 1 bộ, 4 họ, 14 loài và lớp Bò sát có 2 bộ, 14 họ và 28 loài.
Những loài động vật quý hiếm theo tiêu chuẩn của IUCN có tới 47 loài trong
đó thú chiếm 22 loài, chim 4 loài, bò sát tới 21 loài.
Tóm lại, KBTTN Pù Hu có vai trò bảo tồn Đ DSH rất cao ở Việt Nam
và trên toàn cầu do có sự đa dạng phong phú các hệ sinh thái và các loài sinh
vật cư trú. Đặc biệt, ở KBT Pù Hu, đã xác định hai kiểu rừng quan trọng
(Rừng cây lá rộng thường xanh trên đất thấp và Rừng cây lá rộng thường
xanh trên núi thấp) là những kiểu rừng đã bị tàn phá nghiêm trọng hầu khắp
Việt Nam và do vậy chỉ đại diện cho một phần nhỏ trong hệ thống khu bảo
tồn quốc gia. Ngoài ra, KBTTN Pù Hu cùng KBTTN Pù Luông là địa bàn
then chốt cho bảo tồn ĐDSH trong vùng cảnh quan đá vôi Pù Luông – Cúc
Phương (Nguyễn Xuân Đặng và cs. 2010).


18

Hình 1.1. Bản đồ quy hoạch KBTTN Pù Hu


19

Chương 2

MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tỉêu nghiên cứu
Mục tiêu chung của đề tài là đề xuất được một phương án quy hoạch
hợp lý cùng với các giải pháp tổng hợp quản lý hiệu quả vùng đệm KBTTN
Pù Hu, nhằm giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội ở
vùng đệm và mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học tại vùng lõi của KBTTN Pù
Hu. Các mục tiêu cụ thể bao gồm:
* Xác định được các đặc điểm cơ bản của thực trạng đời sống dân sinh,
tình hình sử dụng đất và tài nguyên rừng của cộng đồng dân cư trong khu vực
dự kiến quy hoạch vùng đệm cho KBTTN Pù Hu.
* Xác định các tác động và ảnh hưởng tiêu cực của cộng đồng dân địa
phương đến tài nguyên thiên nhiên KBTTN Pù Hu và nhu cầu thiết yếu về sử
dụng tài nguyên của họ.
* Đề xuất được phương án quy hoạch vùng đệm phù hợp cho KBTTN
Pù Hu và một số giải pháp quản lý vùng đệm hiệu quả.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là cộng đồng dân cư hiện đang sinh
sống trong khu dự kiến quy hoạch vùng đệm KBTTN Pù Hu.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài (gọi là vùng nghiên cứu) là toàn bộ 11
xã có ranh giới hành chính tiếp giáp với KBTTN Pù Hu, thuộc huyện Quan
Hóa (Nam Tiến, Thiên Phủ, Hiền Chung, Hiền Kiệt, Thanh Xuân, Phú Xuân,
Phú Thanh, Phú Sơn, Trung Thành và Trung Sơn) và huyện Mường Lát
(Mường Lý), tỉnh Thanh Hoá với tổng diện tích khoảng 55.281ha.


20

Hình 2.1. Bản đồ hiện trạng vùng đệm KBTTN Pù Hu



21

2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Điều tra đánh giá thực trạng đời sống dân sinh, tình hình sử dụng
đất và tài nguyên rừng của cộng đồng dân cư trong vùng nghiên cứu.
- Tình trạng dân số, dân tộc, đời sống, văn hoá, y tế.
- Tình trạng cơ sở hạ tầng của địa phương
- Hiện trạng sử dụng đất (hoạt động sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi)
- Tình trạng khai thác, sử dụng tài nguyên rừng (các loại lâm sản khai
thác, mục đích sử dụng, ước tính sản lượng khai thác,…)
2.3.2.Nhu cầu thiết yếu về sử dụng tài nguyên của cộng đồng dân cư vùng
nghiên cứu
- Tầm quan trọng của việc khai thác tài nguyên rừng đến đời sống của
các hộ gia đình.
- Các nhu cầu thiết yếu về lâm sản của cộng đồng địa phương (chủng
loại, số lượng, mùa vụ,…)
2.3.3. Các tác động tiêu cực đến tài nguyên thiên nhiên của KBTTN Pù Hu
của cộng đồng dân cư địa phương.
- Cạn kiệt, suy thoái tài nguyên,
- Đe doạ loài bị diệt vong,
- Quấy nhiễu gây mất sự an toàn của sinh cảnh,…
2.3.4. Đề xuất phương án quy hoạch vùng đệm cho KBTTN Pù Hu
- Mục tiêu xây dựng vùng đệm
- Nguyên tắc quy hoạch vùng đệm
- Thiết kế ranh giới và diện tích vùng đệm
- Bản đồ quy hoạch vùng đệm
2.3.5. Đề xuất các giải pháp quản lý hiệu quả vùng đệm
- Nhóm giải pháp nâng cao đời sống
- Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức bảo tồn



22

- Nhóm giải pháp thu hút người dân tham gia quản lý KBTTN
2.4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương nghiên cứu chính sau đây được sử dụng để thu thập và
phân tích số liệu thực hiện Đề tài:
2.4.1. Thu thập và phân tích các nguồn tư liệu hiện có
Tiến hành thu thập các nguồn tư liệu liên quan hiện có từ các cơ quan,
tổ chức cấp xã, huyện, Ban quản lý KBTTN Pù Hu và các Hạt Kiểm lâm 2
huyện Quan Hoá, Mường Lát. Các tư liệu nay được phân tích, đánh giá và
chọn lọc thông tin phục vụ cho các nội dung nghiên cứu của Đề tài.
2.4.2. Sử dụng bộ phiếu đánh giá sử dụng tài nguyên ban đầu
Bộ phiếu chuẩn đánh giá sử dụng tài nguyên ban đầu (Mittelman et al.
2008) được sử dụng (có điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện vùng nghiên
cứu) để thu thập số liệu về tình hình kinh tế xã hội cũng như việc sử dụng
nguồn tài nguyên thiên ở bên trong và bên ngoài Khu bảo tồn. Các tư liệu
được thu thập ở cấp huyện, cấp xã và cấp thôn bản. Các loại thông tin/tư liệu
chính cần thu thập bao gồm:
- Diện tích đất đang sử dụng bên trong và bên ngoài Khu bảo tồn,
- Tình trạng đói nghèo (số hộ đói, nghèo, trung bình, khá - giàu theo
các dân tộc),
- Thành phần dân tộc,
- Dân số và lực lượng lao động,
- Các hoạt động kinh tế-xã hội (số hộ theo ngành sản xuất, tình hình sử
dụng lao động, tổng thu nhập của xã, trồng trọt, chăn nuôi, hiện trạng sử dung
đất,,,),
- Hạ tầng cơ sở, dịch vụ, thị trường,
- Hiện trạng quản lý và sử dụng đất,

- Quyền sử dụng đất,


23

- Các hoạt động sử dụng tài nguyên và địa điểm,
- Lịch sử và phương hướng sử dụng tài nguyên,
- Các khó khăn nguyên nhân và giải pháp trong việc sử dụng tài
nguyên thiên nhiên,
- Các loại bản đồ liên quan,
2.4.3. Đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia (PRA)
Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia (PRA) được
sử dụng để cập nhật thông tin về sinh kế của người dân, tình trạng sử dụng
đất và tài nguyên rừng của các hộ, nhu cầu sử dụng tài nguyên thiên nhiên,
đánh giá các tác động tiêu cực đến tài nguyên rừng và đề xuất giải pháp khắc
phục. Các công cụ cơ bản của PRA được sử dụng như:
- Phỏng vấn bán chính thức (cá nhân hoặc nhóm)
- Lập sơ đồ thôn bản
- Lịch sử dụng tài nguyên,
- Thảo luận nhóm và họp thôn bản để phân tích nguy cơ đến tài
nguyên của Khu bảo tồn, các khó khăn của cộng động và xác định các giải
pháp khắc phục.
2.4.4. Khảo sát hiện trường tại vùng lõi và bên ngoài khu bảo tồn
Phương pháp điều tra theo các tuyến được sử dụng để thu thập và cập
nhật các thông tin về tình trạng sử dụng đất và tài nguyên rừng của cộng
đồng, đánh giá mức độ tác động của các hoạt động này. Các dạng thông
tin/tư liệu thu thập bao gồm: tình trạng sử dụng đất (đất cạnh tác, đất rừng
đặc dụng,...), hiện trạng thảm thực vật, các loài động thực vật, các tác động
khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ, phá rừng làm nương rẫy, săn bắt động vật
hoang dã, phương thức chăn thả gia súc,...



×