Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Nghiên cứu khả năng giữ nước của rừng phòng hộ đầu nguồn huyện mường la, tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-----------------------

THÂN THỊ HUYỀN

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG GIỮ NƯỚC CỦA RỪNG PHÒNG HỘ ĐẦU
NGUỒN HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2011


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Vai trò của rừng trong việc giữ nước và điều tiết dòng chảy đã được thừa
nhận. Ở Việt Nam, việc điều tiết nguồn nước tại các vùng đầu nguồn để đảm
bảo tính ổn định, bền vững của môi trường sống và sự trường tồn của các
công trình thuỷ điện đã cho thấy chức năng giữ nước của rừng phòng hộ thực
sự rất quan trọng.
Tuy nhiên, vì chưa nghiên cứu đầy đủ về khả năng giữ nước của rừng,
nên việc tổ chức quy hoạch và xây dựng giải pháp quản lý rừng phòng hộ
nguồn nước còn gặp nhiều khó khăn. Hiện nay chúng ta vẫn chưa xác định
được diện tích cần thiết và cấu trúc hợp lý của thảm thực vật rừng phòng hộ
trên từng lô đất cụ thể; chưa xác định được vị trí phân bố của rừng phòng hộ
trên sườn dốc; chưa xây dựng được quy trình kỹ thuật để nâng cao hiệu quả


phòng hộ của rừng cũng như chưa đề ra những giải pháp kinh tế - xã hội cần
thiết cho quản lý bền vững rừng phòng hộ nguồn nước.
Những tồn tại nêu trên đã dẫn đến ở một số địa điểm người ta duy trì quá
mức cần thiết diện tích rừng phòng hộ nguồn nước, trong khi ở địa điểm khác
lại không phát triển đủ diện tích rừng tối thiểu. Người ta cũng chưa thể đề
xuất các biện pháp kiểm tra, giám sát kỹ thuật phù hợp cũng như chưa huy
động đầy đủ các nguồn lực kinh tế - xã hội cho quản lý rừng phòng hộ nguồn
nước. Đây là một trong những nguyên nhân làm suy thoái rừng và giảm hiệu
quả giữ nước của rừng.
Thực tế đó chỉ ra rằng, việc nghiên cứu tác dụng giữ nước của rừng
nhằm đặt cơ sở khoa học cho các giải pháp quản lý và sử dụng rừng phòng hộ
nguồn nước là hết sức cần thiết và cấp bách.
Công trình thuỷ điện Sơn La nằm trên huyện Mường La, tỉnh Sơn La, là
công trình thuỷ điện lớn nhất Đông Nam Á và là công trình thuỷ điện có ý


2

nghĩa hết sức to lớn đối với đất nước. Như vậy, hiệu quả giữ nước của rừng
phòng hộ đầu nguồn nơi đây có ý nghĩa vô cùng to lớn vì nó không chỉ giữ
nước đảm bảo vai trò bảo vệ môi trường mà còn có ý nghĩa sống còn đối với
thuỷ điện Sơn La. Vì vậy, việc nghiên cứu khả năng giữ nước của rừng phòng
hộ nơi đây và đưa ra những giải pháp quản lý hiệu quả và hợp lý là một yêu
cầu cấp thiết đặt ra đối với các nhà lâm nghiệp.
Nhằm góp phần xác định cơ sở khoa học cho việc giải quyết một số tồn
tại trên tôi đã lựa chọn và thực hiện đề tài: “Nghiên cứu khả năng giữ nước
của rừng phòng hộ đầu nguồn huyện Mường La, tỉnh Sơn La”.


3


Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Ngoài nước
Nghiên cứu vai trò giữ nước của rừng về cơ bản là nghiên cứu thủy văn
rừng. Thuật ngữ “Thủy văn rừng” ra đời vào những năm đầu của thế kỷ XIII,
tuy lĩnh vực này đã được đề cập nghiên cứu từ khá lâu, song những thành tựu
của nó mang ý nghĩa rõ rệt trong cuộc sống phải kể từ những năm 1930 trở lại
đây.
Đến nay có rất nhiều khái niệm và định nghĩa về thuật ngữ “vai trò giữ
nước của rừng” nhưng chủ yếu là xoay quanh hai quan điểm đó là rừng có tác
dụng làm tăng lượng nước trong mùa khô và làm ổn định dòng chảy trong khu
vực. Trên quan điểm chung, vai trò giữ nước của rừng được hiểu là giữ và
tích lũy nước như: làm tăng lượng nước trong đất, giảm sự bốc thoát hơi
nước, làm tăng mực nước ngầm, giảm dòng chảy bề mặt, hạn chế xói mòn
đất, qua đó điều hoà và ổn định lượng nước sông suối, cũng như làm sạch
nước (Mon-tra-nop, 1960, 1973 - dẫn theo Vương Văn Quỳnh, 1999) [25];
Khanbecop (1984) [14].
Nghiên cứu khả năng giữ nước của rừng hay nói cách khác là nghiên cứu
thủy văn rừng đã được rất nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm, các tác
giả đã đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau, tuy nhiên những nghiên cứu đó
tập trung vào các vấn đề sau:
- Nghiên cứu về “Dung tích giữ nước của rừng”, khái niệm này đã được
dùng để phản ánh khả năng giữ nước của rừng thông qua tổng lượng nước giữ
lại trên tán, lượng nước giữ lại bởi vật rơi rụng và lượng nước giữ trong đất.
Quan điểm này được các nhà thuỷ văn rừng chấp nhận một cách rộng rãi
(Trần Huệ Tuyền, 1994; Vu Chí Dân và Vương Lễ Tiên, 2001) [3].
Khả năng giữ nước của rừng có giới hạn và phụ thuộc nhiều vào đặc



4

điểm của đất rừng như: độ xốp, kết cấu của đất, tốc độ thấm nước, hàm lượng
mùn, độ dày tầng đất. Chúng quyết định dung tích chứa nước của đất rừng
(Vu Chí Dân và Vương Lễ Tiên, 2001) [3].
- Sự thấm nước của đất là chỉ thị cho khả năng của tầng điều tiết quan
trọng nhất trong tuần hoàn thủy văn rừng, sau khi nước mưa đã đi qua bầu
không khí và lớp thảm thực vật che phủ. Sự thấm nước của đất có tác dụng rất
quan trọng trong việc hình thành cơ chế phát sinh dòng chảy. Có nhiều mô
hình thấm nước của đất dựa vào việc đơn giản hóa quá trình vật lý và các mô
hình kinh nghiệm và mô hình cải tiến của nó. Mặc dù những mô hình này đã
thu được thành công khá tốt trong mô phỏng vận động của nước trong đất
nông nghiệp và trong thủy văn lưu vực đất nông nghiệp, nhưng khi ứng dụng
cho vùng đất dốc lại gây ra những thách thức nghiêm trọng. Khi nước thấm
vào đất và vận chuyển trong đất, chúng chịu sự chi phối của trọng lực và lực
tác dụng mao quản do tiếp xúc giữa nước và hạt đất. Sự biến đổi của kết cấu
đất và của thành phần cơ giới đất sẽ dẫn đến sự rối loạn của con đường vận
động nước trong đất, nên việc ứng dụng định luật Darcy - định luật mô tả vận
động của nước trong một môi trường đồng nhất nhiều lỗ hổng và phương
trình liên tục về sự vận động của nước trong đất rừng để nghiên cứu định
lượng và dự báo, sẽ dẫn đến những sai lệch tương đối lớn so với tình hình
thực tế vì phạm vi sử dụng của định luật Darcy là dùng cho vận động của
dòng chảy trong một tầng đất (dẫn theo Phạm Văn Điển, 2006) [11]. Xét từ
góc độ ảnh hưởng của rừng đến tuần hoàn thủy văn: do phân giải thảm mục,
hoạt động của rễ cây và động vật, dẫn đến vận động của dòng chảy trong các
lỗ hổng tương đối lớn, làm tăng lượng nước thấm xuống đất và lượng nước
giữ lại trong đất (Zakharop, 1981) [35].
Nói chung, đất rừng có tốc độ thấm nước lớn hơn so với các loại hình sử
dụng đất khác. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy, tốc độ thấm nước ổn định



5

của đất rừng có thể đạt 80 mm/giờ trở lên. Kết quả nghiên cứu của Trần Huệ
Tuyền (1994) [34] cho thấy, đất rừng có độ hổng ngoài mao quản lớn thì tốc
độ thấm nước và lượng nước thấm của đất rừng sẽ tăng lên. Có thể mô phỏng
quá trình nước thấm xuống đất rừng theo mô hình Philip (Diêu Hoa Hạ, 1989;
Thẩm Băng và Nông Tấn, 1992) [1].
Lượng nước giữ trong đất rừng là một chỉ tiêu rất quan trọng để đánh
giá tác dụng nuôi dưỡng nguồn nước của rừng. Ở Trung Quốc, các nhà khoa
học thường dùng lượng nước bão hòa các lỗ hổng ngoài mao quản trong đất
rừng để tính toán lượng nước thấm xuống đất. Theo kết quả nghiên cứu, mỗi
hecta đất rừng có thể tích giữ được lượng nước 641 - 679 tấn/năm (Vu Chí
Dân và Vương Lễ Tiên, 2001) [3].
- Một trong những chỉ tiêu phản ánh khả năng giữ nước của rừng là
lượng nước giữ lại trên tán. Qua các kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ lượng
nước mưa giữ lại trên tán rừng lá kim ôn đới chiếm 20 - 40% (Vương Lễ Tiên
và Lý Á Quang, 1991) [29]. Những nghiên cứu ở Trung Quốc về tỷ lệ lượng
nước mưa ngăn giữ bởi tán rừng tương ứng với các đới khí hậu khác nhau cho
thấy phạm vi biến động của tỷ lệ lượng nước mưa bị ngăn giữ lại trong
khoảng 11,4 - 34,3%, hệ số biến động 6,68 - 55,05%, trong đó tỷ lệ nước mưa
bị giữ lại trên tán của rừng lá kim thường xanh Á nhiệt đới ở miền Tây là lớn
nhất, rừng hỗn giao cây lá rộng thường xanh với cây lá rộng rụng lá á nhiệt
đới, miền núi là nhỏ nhất (Vũ Chí Dân - Christoph Peisert - Dư Tân Hiểu
(2001) [2].
- Nghiên cứu về khả năng hút giữ nước của vật rơi rụng trong rừng: vật
rơi rụng, thảm mục trong rừng có khả năng ngăn giữ nước tương đối lớn, nên
có tác dụng bổ sung nước cho đất và cung cấp nước cho thực vật của Vũ Chí
Dân & Vương Lễ Tiên, 2001 (dẫn theo Phạm Văn Điển, 2006) [11]. Mặt khác
vật rơi rụng lại cho nước có khả năng bốc hơi đi một cách dễ dàng, đó là



6

những nghiên cứu của Black và Kelliher, 1989 (dẫn theo Vũ Chí Dân &
Vương Lễ Tiên, 2001) [3]. Lượng nước hút giữ của lớp thảm mục trong rừng
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: thành phần thảm mục, tuổi rừng, tình
trạng phân giải thảm mục, tình trạng tích lũy của thảm mục, tình trạng giữ
nước của thảm mục, loại hình lâm phần và đặc điểm của mưa. Những nghiên
cứu của Mật Vân, Trương Hồng Giang, Triệu Hồng Nhạn ở Trung Quốc đã
chứng minh: lượng nước hút giữ của thảm mục có thể đạt tới 2 - 4 lần khối
lượng khô của bản thân nó, tỷ lệ lượng nước giữ tối đa bình quân của thảm
mục trong rừng là 309,54%, dung lượng nước hút giữ của nó nhỏ hơn 191%
(Vũ Chí Dân & Vương Lễ Tiên, 2001) [3].
- Nghiên cứu bốc hơi nước vật lý từ đất và thoát hơi nước sinh lý từ tán
rừng đã được các nhà khoa học ở Trung Quốc đề cập vào những năm 1960,
(theo Dư Tân Hiểu, 1993) [12], phần lớn các kết quả nghiên cứu cho thấy
lượng nước bốc hơi và thoát hơi của rừng chiếm từ 40% - 80% tổng lượng
mưa (bao gồm cả tổn thất nước do ngăn giữ của tán rừng và thảm mục...).
Nghiên cứu của Khang Văn Tinh (1997) đã sử dụng phương pháp khuyếch
tán hỗn lưu để nghiên cứu quy luật bốc hơi và thoát hơi nước của rừng trồng
Samu (dẫn theo Vũ Chí Dân & Vương Lễ Tiên, 2001) [3]. Kết quả cho thấy,
lượng nước bốc hơi và thoát hơi bình quân năm trong rừng Sa mu nhân tạo
chiếm 82,2% tổng lượng nước rơi hàng năm, còn lượng bốc và thoát hơi của
tán rừng chiếm 89,3% tổng lượng nước bốc hơi và thoát hơi của rừng.
- Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về lượng nước chảy
men thân, theo một số tài liệu thống kê cho thấy lượng nước này thường
chiếm tỷ lệ từ 1 - 3% tổng lượng mưa. Đây là tỷ lệ thấp so với các thành phần
cân bằng nước khác, nhưng nó có giá trị là cung cấp một phần dinh dưỡng
cho cây cá lẻ mà không nên bỏ qua.

- Nghiên cứu về lượng nước chảy trên bề mặt đất: đất có khả năng giữ


7

nước nhưng hiệu quả lại rất khác nhau giữa các loại đất, nhìn chung đất rừng
tự nhiên có khả năng thấm nước rất cao và rất hiếm xuất hiện dòng chảy bề
mặt. Lượng nước chảy bề mặt càng lớn khi rừng có tán lá càng thưa thớt và
khi độ dốc mặt đất càng lớn thì tạo ra nhiều lượng nước chảy trên bề mặt.
- Lượng mưa lọt tán đã được nhiều tác giả trên thế giới nghiên cứu. Nhìn
chung kết quả nghiên cứu về lượng nước mưa lọt tán còn khiêm tốn, một số
công trình được coi là có độ tin cậy cao nhưng mới chỉ đưa ra một số thông
tin ban đầu như: tỷ lệ phần trăm của lượng nước mưa lọt tán so với tổng
lượng mưa của các loại rừng thường ở mức 75% trở lên. Lượng mưa lọt tán
phụ thuộc vào cấu trúc tán lá, chỉ số diện tích lá và một số nhân tố khác …
Đã có nhiều lý luận về dòng chảy bề mặt đất như: “Cơ chế dòng chảy
trên mặt đất siêu thấm”; khái niệm “Diện tích sản sinh dòng chảy biến động”.
Lý luận “Diện tích sản sinh dòng chảy biến động” ra đời vào những năm 60
của thế kỷ XX và đã được thừa nhận rộng rãi, những nghiên cứu về thủy văn
học trên đất dốc đã phát triển mạnh mẽ và thay thế giả thuyết về dòng chảy
siêu thấm.
Nghiên cứu thuỷ văn rừng thường gắn liền với nghiên cứu xói mòn đất.
Công trình đầu tiên nghiên cứu về xói mòn đất và dòng chảy được nhà bác
học Volni người Đức trong những năm 1877 - 1885 (Hudson N, 1981) [13].
Thí nghiệm được bố trí để nghiên cứu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như loại
đất, độ dốc tầng đất mặt, thực bì, lượng mưa tới dòng chảy và xói mòn đất.
Song phần lớn các kết kết luận đã nghiên cứu chưa được định lượng
chính xác. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có một số công trình tỏ ra có ý nghĩa
trong thực tiễn như: nghiên cứu của trường Đại học Tổng hợp Pardiu vào năm
1950 (Hudson N, 1981) [13] đã xây dựng phương trình mất đất. Sau đó

phương trình này được W.H.Wischmeier hoàn chỉnh dần. Phương trình đó đã
làm rõ vai trò của từng nhân tố ảnh hưởng tới xói mòn đất. Mặt khác, nó còn


8

có tác dụng định hướng cho nhiều nghiên cứu xác định quy luật về xói mòn
đất và các mô hình canh tác bền vững ở những khu vực có điều kiện địa lý
khác nhau.
Một số nghiên cứu cho thấy: nguy cơ xói mòn đất dưới tầng cây gỗ có
thể tăng lên do giọt mưa dưới tán rừng có kích thước lớn hơn. Các loài cây có
phiến lá to thường tạo ra những giọt nước lớn nên có khả năng làm xói mòn
đất lớn hơn những loài cây có phiến lá nhỏ. Vì vậy, một trong những tiêu chí
chọn loài cây trồng rừng phòng hộ đầu nguồn ở vùng nhiệt đới thường chọn
cây có tán lá dày, rậm nhưng phiến lá nhỏ. Một số nghiên cứu về thảm thực
vật và xói mòn đất cũng cho rằng, cây bụi, thảm tươi và vật rơi rụng có vai trò
lớn trong việc hạn chế xói mòn đất.
1.2. Trong nước
Ở Việt Nam nghiên cứu về khả năng giữ nước của rừng ở nước ta còn
là một vấn đề khá mới mẻ nó chỉ được bắt đầu vào những năm 1970. Chúng
được thực hiện chủ yếu theo 2 hướng tiếp cận chính là nghiên cứu trên quy
mô lưu vực và nghiên cứu trên quy mô khu rừng.
Nghiên cứu khả năng giữ nước quy mô lưu vực
Có thể nhận thấy một số công trình nghiên cứu về vai trò của rừng tới
việc thay đổi chế độ dòng chảy mặt tại các lưu vực nước và ảnh hưởng đến
lượng nước của sông ngòi như công trình của Nguyễn Viết Phổ (1992); Vũ
Văn Tuấn (1977, 1981, 1982). Những nghiên cứu này đã cho thấy vai trò điều
tiết nước hữu hiệu của thảm thực vật rừng, đặc biệt là việc cung cấp nước cho
sông, suối vào mùa khô.
Nghiên cứu Phạm Ngọc Dũng (1993) cho thấy ở nước ta, cây rừng có

khả năng tiêu thụ một lượng nước rất lớn. Đất rừng cũng là một nhân tố ảnh
hưởng rất rõ rệt đến dòng chảy mặt. Sự khác nhau về tính chất, chủ yếu là tính


9

chất vật lý của các loại đất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến xói mòn đất và sự hình
thành dòng chảy.
Trong luận án PTS của Vũ Văn Tuấn (1993) và các công trình đồng tác
giả của Vũ Văn Tuấn và Phạm Thị Lan Hương (1998), của Trần Thục và
Huỳnh Thị Lan Hương (1999) ảnh hưởng của rừng đến dòng chảy đã được
mô tả bằng những mô hình toán.
Nguyễn Ngọc Lung (1995) đã dựa vào mức độ thấm, thoát nước và sự
thoái hoá của các loại đất dưới rừng để cho điểm và đánh giá vai trò của nhân
tố đất ảnh hưởng tới xói mòn và dòng chảy.
Đỗ Đình Sâm và cộng sự (2002) đã đưa ra dẫn liệu lưu lượng dòng
chảy tại nơi có rừng thấp hơn từ 2,5 đến 27 lần so với khu vực canh tác nông
nghiệp và khẳng định rừng tự nhiên có tác dụng tốt hơn rừng trồng trong việc
giảm dòng chảy mặt trong mùa mưa và tăng dòng chảy trong mùa khô.
Trong ấn phẩm "Liệu rừng có phòng hộ đầu nguồn được không?" của
Trung tâm sinh thái và môi trường rừng thuộc Viện Khoa học Lâm nghiệp
Việt Nam (FSIV) và Chương trình sử dụng đất và lâm nghiệp thuộc Viện
Quốc tế về Môi trường và Phát triển (IIED) (2002), nhóm tác giả đã kết luận:
ở Việt Nam chưa có những nghiên cứu đầy đủ về thuỷ văn rừng và chức năng
phòng hộ đầu nguồn. Họ cho rằng với những tư liệu hiện tại chỉ có thể nói
rằng rừng thường làm giảm dòng chảy mặt, rừng có thể kiểm soát dòng chảy
ở mức độ nhất định trong những lưu vực nhỏ. Tuy nhiên, hiện có nhiều ý kiến
khác nhau về những kết luận trên. Vấn đề là người ta đã không phân biệt được
rõ ràng ảnh hưởng của các loại rừng khác nhau đến xói mòn và dòng chảy.
Trong thực tế thì một số rừng trồng với những biện pháp kỹ thuật không hợp

lý có thể gây xói mòn mạnh và giữ nước cũng rất kém, trong khi những rừng
tự nhiên hoặc được trồng rừng có cấu trúc thích hợp thường có khả năng ngăn
cản xói mòn và giữ nước tốt hơn nhiều.


10

Nghiên cứu khả năng giữ nước quy mô khu rừng
Từ năm 1970 - 1985 Bộ môn khí tượng thuỷ văn rừng thuộc Viện
nghiên cứu Lâm nghiệp Việt Nam đã tổ chức nghiên cứu thực nghiệm về thuỷ
văn rừng ở xã Tứ Quận, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang và ở núi Tiên,
Hữu Lũng, Lạng Sơn. Các tác giả tập trung chủ yếu vào việc tìm hiểu lượng
nước chảy bề mặt và lượng đất xói mòn dưới tán rừng Bồ đề trồng thuần loài
đều tuổi và một số TTR tự nhiên Bùi Ngạnh, Vũ Văn Mễ, 1995; Bùi Ngạnh
và Nguyễn Danh Mô, 1977; Bùi Ngạnh và Nguyễn Ngọc Đích, 1985; Lê
Đăng Giảng và Nguyễn Thị Hoài Thu (1981). Kết quả cho thấy sự thay đổi
dòng chảy mặt trong phạm vi từ 5 - 20% phụ thuộc vào đặc điểm của TTR,
trong đó rừng tự nhiên luôn có tỷ lệ dòng chảy mặt thấp nhất. Trên cơ sở đó
các tác giả đã đề xuất những mô hình bố trí các đai rừng giữ nước trên sườn
dốc.
Khi nghiên cứu đặc điểm thuỷ văn của một số TTR ở Tây Nguyên, Võ
Đại Hải và Nguyễn Ngọc Lung khẳng định vai trò điều tiết nước của rừng rất
lớn: lượng nước mưa bị tán rừng ngăn cản dao động từ 5,7% đến 11,6% tuỳ
thuộc vào từng loại rừng; lượng nước tạo thành dòng chảy ngầm và các dạng
khác từ 88,2% đến 92,5% tổng lượng nước mưa; lượng nước mưa tạo thành
dòng chảy mặt ở những nơi có rừng rất thấp, qua đó hạn chế khả năng hình
thành lũ và lũ quét (Võ Đại Hải, 1996), Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại Hải
(1997). Từ kết quả nghiên cứu này các tác giả đã bước đầu đưa ra cơ sở khoa
học cho việc xây dựng rừng đầu nguồn giữ nước, giữ đất ở nước ta. Tuy vậy,
do số các dạng rừng nghiên cứu chưa được nhiều, đặc biệt là các dạng rừng

trồng nên khả năng ứng dụng trong thực tiễn chưa cao.
Trong nghiên cứu về đặc điểm thuỷ văn rừng Thông đuôi ngựa 14 tuổi
tại núi Luốt - Xuân Mai - Hà Tây, Phùng Văn Khoa (1997) đã xác định được
lượng nước giữ lại trên tán rừng Thông (Pinus massoniana) biến động từ 10 -


11

20% tổng lượng mưa và phụ thuộc vào lượng mưa, lượng nước mưa lọt qua
tán biến động từ 80 - 90%, lượng nước chảy men thân cây biến động từ 3 5%, lượng nước thoát hơi của thực vật chiếm 30 - 40% tổng lượng mưa,
lượng nước bốc hơi nước từ mặt đất rừng biến động từ 30 - 35%, lượng nước
chảy bề mặt chiếm từ 3 - 10% phụ thuộc chặt chẽ vào độ che phủ của cây bụi
thảm tươi. Lượng nước còn lại trong đất chiếm xấp xỉ 10 - 15%.
- Phạm Văn Điển từ năm 1998 đến 2003 đã tiến hành nghiên cứu khả
năng giữ nước của của một số thảm thực vật rừng tại xã Vầy Nưa, vùng ven
hồ thuỷ điện thuộc huyện Đà Bắc, tỉnh Hoà Bình. Đối tượng nghiên cứu là
rừng Keo tai tượng trồng thuần loài đồng tuổi (8 tuổi) trảng cây bụi phục hồi
tự nhiên sau nương rẫy sau 8 năm và trảng cỏ sau nương rẫy. Tác giả đã thiết
lập được mối quan hệ định lượng của từng thành phần cân bằng nước với
những nhân tố ảnh hưởng và trên cơ sở đó đề xuất tiêu chuẩn cấu trúc của lớp
thảm thực vật rừng giữ nước ở khu vực nghiên cứu.
Năm 2006 một nhóm sinh viên của Đại học Lâm nghiệp tiến hành
nghiên cứu khả năng giữ nước của rừng ở Khu bảo tồn thiên nhiên Thượng
Tiến tỉnh Hoà Bình. Kết quả cho thấy có sự khác biệt rõ rệt về lượng thoát hơi
ở tán rừng, bốc hơi ở mặt đất, dung tích chứa nước của đất và độ ẩm đất dưới
các TTR trung bình, rừng nghèo, rừng phục hồi và trảng cây bụi (Thân Thị
Huyền, 2005; Nguyễn Thị Hải, 2005; Nguyễn Công Thu, 2005; Cao Văn Sơn,
2005; Đỗ Văn Thiện, 2005). Căn cứ vào phương trình cân bằng nước nhóm
tác giả đã xác định được quan hệ của độ ẩm và lượng nước trong đất ở mỗi ô
thí nghiệm với các nhân tố ảnh hưởng chủ yếu là nhiệt độ, độ ẩm không khí

và lượng mưa. Trên cơ sở chuỗi quan trắc diễn biến thời tiết từng ngày trong
năm 2005 ở khu vực nhóm tác giả đã xây dựng được mô hình biến đổi theo
thời gian trong năm của độ ẩm và lượng nước trong đất. Họ cũng xác định
được những trận mưa có khả năng gây lũ ở những thời điểm khác nhau trong


12

năm. Đó là những trận mưa có lượng mưa vượt quá tổng chênh lệch bão hoà
nước trong đất cộng với lượng nước bốc thoát hơi và nước thấm xuống sâu.
Nhóm tác giả cũng căn cứ vào số liệu mưa và các yếu tố thời tiết để xác định
khối lượng nước từ các khu rừng dồn xuống dòng suối vào những thời điểm
khác nhau trong năm. Đây là một trong những nghiên cứu tương đối tỷ mỷ về
khả năng giữ nước và giảm lũ của rừng, trong đó các tác giả đã sử dụng thành
công phương trình cân bằng nước, các phương pháp điều tra tính toán thuỷ
văn và những phương pháp thống kê đa biến.
Năm 2007 trong công trình “Nghiên cứu xác định diện tích rừng cần
thiết cho các địa phương” (Vương Văn Quỳnh và cộng sự, 2007) nhóm tác giả
đã nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng tới tính chất thuỷ văn của rừng trên
hệ thống 105 ô tiêu chuẩn điển hình ở các tỉnh Hoà Bình, Quảng Ngãi và Đăk
Lăk. Nhóm tác giả đã căn cứ vào dung tích chứa nước của đất và lượng bốc
thoát hơi trung bình để phân chia các trạng thái thực vật khác thành 7 nhóm
theo khả năng giữ nước và giảm lũ gồm: rừng giàu và trung bình, rừng nghèo,
rừng phục hồi, rừng tre nứa, rừng trồng, trảng cây bụi và nương rẫy. Mỗi
trạng thái thực vật và đất đai trong thực tế đều được ghép vào một trong 7
nhóm trên tuỳ thuộc vào dung tích chứa nước và lượng bốc thoát hơi của
chúng. Nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp trọng số để tính diện tích
rừng quy chuẩn từ diện tích các TTR cho 25 lưu vực có quy mô nhỏ và vừa,
trong đó trọng số của rừng trung bình và rừng giàu là 1.0, của rừng nghèo là
0.9, của rừng phục hồi và rừng tre nứa là 0.8, của rừng trồng là 0.7, của trảng

cây bụi là 0,6.
Nhóm tác giả đã kế thừa số liệu mưa và dòng chảy từng ngày trong
năm 2005 của Trung tâm lưu trữ Tổng cục Khí tượng thuỷ văn, bản đồ địa
hình của Tổng cục Địa chính, bản đồ hiện trạng rừng của Viện Điều tra Quy
hoạh rừng và sử dụng công cụ GIS để xác định các đặc trưng dòng chảy, diện


13

tích các loại đất đai, độ chênh cao, độ dốc, bề dày tầng đất và hình dạng của
25 lưu vực vừa và nhỏ. Việc phân tích mối liên hệ giữa các đặc trưng dòng
chảy gồm tổng lượng dòng chảy, hệ số biến động dòng chảy, hệ số tăng lũ, hệ
số giảm lũ và độ muộn đỉnh lũ với các nhân tố ảnh hưởng là lượng mưa, diện
tích rừng quy chuẩn, hệ số phân bố đều của rừng, độ chênh cao trung bình, độ
dốc trung bình, hệ số hình dạng lưu vực, bề dày tầng đất trung bình đã cho
một số nhận xét sau.
- Hệ số tăng lũ lớn nhất xác định được ở lưu vực sông Vệ, trung bình là
42.4 m /giờ. Hệ số giảm lũ lớn nhất xác định được ở lưu vực sông Côn 32.9
3

m /giờ. Độ muộn lũ ở các lưu vực nghiên cứu thay đổi từ 4.6 giờ đến 10.3
3

giờ.
- Hệ số biến động dòng chảy liên hệ chặt với với hình dạng lưu vực,
diện tích lưu vực, tỷ số giữa độ che phủ rừng và hệ số đồng đều, mức chênh
cao tuyệt đối bình quân và độ dốc bình quân của lưu vực.
- Hệ số tăng lũ liên hệ với các nhân tố hình dạng lưu vực, diện tích lưu
vực, tỷ số giữa độ che phủ rừng và hệ số đồng đều, mức chênh cao tuyệt đối
bình quân, độ dốc bình quân.

- Lưu lượng dòng chảy cực đại liên hệ chặt với các hệ số hình dạng lưu
vực, diện tích lưu vực, tỷ số giữa độ che phủ rừng và hệ số đồng đều, mức
chênh cao tuyệt đối bình quân, độ dốc bình quân, lưu lượng dòng chảy trước
khi mưa và lượng mưa.
- Phương pháp dự báo lưu lượng dòng chảy cực đại (một dạng của dự
báo lũ) có thể được xây dựng từ phương trình liên hệ chặt giữa nó với lượng
mưa, mực nước sông trước mưa, độ dốc trung bình, mức chênh cao trung
bình, hình dạng lưu vực và tỷ lệ che phủ rừng quy đổi. Sai số của dự báo được
xác định là khoảng 20%.


14

- Với giả thiết rằng sẽ không xảy ra lũ nguy hiểm nếu hệ số biến động
dòng chảy của lưu vực không vượt quá 200%, nhóm nghiên cứu đã căn cứ
vào phương trình liên hệ giữa hệ số biến động dòng chảy với tỷ lệ che phủ
rừng quy đổi và các yếu tố đặc trưng lưu vực để xác định tỷ lệ diện tích rừng
quy đổi cần thiết. Kết quả cho thấy phụ thuộc vào các yếu tố đặc trưng lưu
vực và chỉ số mưa mà tỷ lệ diện tích rừng quy đổi cần thiết ở các lưu vực có
thể dao động từ 20 đến 50%.
Nhìn chung, nghiên cứu về khả năng giảm lũ của rừng ở Việt Nam chỉ
mới thực sự bắt đầu trong vài chục năm gần đây. Tuy nhiên, chúng cũng đã
đạt được những thành tựu nhất định, đặc biệt về phương pháp nghiên cứu. Nó
không chỉ kế thừa được kinh nghiệm của thế giới trong nghiên cứu thuỷ văn
rừng, mà còn vận dụng một cách sáng tạo những kỹ thuật mới trong xây dựng
cơ sở dữ liệu và phân tích thông tin để nghiên cứu khả năng giảm lũ của rừng.
* Những tồn tại chính trong nghiên cứu khả năng giữ nước của rừng
- Đến nay, với nhiều lý do khác nhau nên vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ về khả năng giữ nước của rừng,
mức độ định lượng các chỉ tiêu khả năng giữ nước vẫn còn hạn chế.

- Phương pháp và thiết bị - công nghệ nghiên cứu thuỷ văn rừng phòng
hộ nguồn nước và giải pháp tổ chức, quản lý, sử dụng rừng phòng hộ còn
chưa đầy đủ.
- Thiếu nhiều công trình nghiên cứu theo hướng phát hiện ra những quy
luật và giải thích cơ chế tuần hoàn thuỷ văn rừng và định lượng bằng các công
cụ toán học, tin học để vận dụng vào thực tế.


15

Chương 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu chung của đề tài là góp phần quản lý hiệu quả rừng phòng hộ
đầu nguồn tại huyện Mường La, tỉnh Sơn La.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần làm sáng tỏ khả năng chứa nước, hay dung tích chứa nước
của một số trạng thái rừng phòng hộ đầu nguồn tại huyện Mường La, tỉnh Sơn
La.
- Đề xuất được một số giải pháp góp phần quản lý hiệu quả các trạng
thái rừng phòng hộ đầu nguồn tại huyện Mường La, tỉnh Sơn La.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Phù hợp với các mục tiêu đã đặt ra, đề tài tiến hành các nội dung
nghiên cứu cụ thể như sau:
+ Nghiên cứu đặc điểm phân bố các trạng thái rừng phòng hộ đầu
nguồn tại huyện Mường La, tỉnh Sơn La.
+ Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc các trạng thái rừng phòng hộ đầu
nguồn tại huyện Mường La, tỉnh Sơn La.
+ Nghiên cứu dung tích chứa nước của các trạng thái rừng phòng hộ đầu

nguồn tại huyện Mường La, tỉnh Sơn La.
+ Đề xuất một số giải pháp góp phần quản lý hiệu quả các trạng thái
rừng phòng hộ đầu nguồn tại huyện Mường La, tỉnh Sơn La.
2.3. Đối tượng nghiên cứu
Trạng thái rừng nghiên cứư trong đề tài: Rừng trung bình, rừng nghèo,
rừng phục hồi, rừng Thông, rừng Trẩu và đất trống.


16

2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp luận
Dung tích chứa nước của rừng được hiểu là lượng nước có thể chứa
được tối đa tại một thời điểm trong hệ sinh thái rừng. Nó bằng tổng lượng
nước chứa được trong đất, trong thảm mục, thấm ngấm ở vỏ và lá rừng. Tuy
nhiên, vì diện tích vỏ cây chiếm tỷ lệ rất thấp so với diện tích lá rừng nên
người ta thường chỉ tính diện tích lá rừng khi phân tích khả năng giữ nước của
rừng.
Dung tích chứa nước của đất được xác định bằng tổng phần rỗng trong
đất rừng. Nó được xác định bằng tích số bề dày tầng đất với độ xốp trung bình
các tầng đất. Mặc dù tầng đất ở một số nơi có thể rất dày, song tầng đất có
hiệu quả với giảm lũ thường chỉ gồm những lớp gần mặt đất. Vì vậy, do điều
kiện nghiên cứu không xác định được bề dày tầng đất quá lớn trong đề tài này
dung tích chứa nước chỉ nghiên cứu với tầng đất giới hạn ở 1.2m.
Dung tích chứa nước tối đa của rừng thường được xác định bằng lượng
nước tối đa có thể chứa được trong hệ sinh thái rừng cây. Tuy nhiên, dung
tích chứa nước hữu ích lại được xác định bằng hiệu số của lượng nước tối đa
chứa được trong hệ sinh thái rừng với lượng nước tối thiểu trong hệ sinh thái
rừng. Vì khi lượng nước giữ được khi mưa sẽ bằng lượng nước tối đa trừ đi
lượng nước đã có trong đất. Ngoài ra, dung tích chứa nước hữu ích cũng thay

đổi theo tình trạng mưa trước đó. Nếu thời gian trước đã mưa nhiều thì lượng
nước có sẵn trong đất cũng lớn, và khả năng chứa thêm nước để sẽ ít đi.
Để nghiên cứu dung tích chứa nước của rừng đề tài áp dụng chủ yếu là
phương pháp nghiên cứu thực nghiệm. Đề tài lập và điều tra dung tích chứa
nước qua hệ thống ô tiêu chuẩn được lập dưới các trạng thái rừng khác nhau.
Việc điều tra dung tích chứa nước của rừng sẽ được thực hiện qua điều tra
lượng nước chứa trong đất, trong thảm mục và hấp thụ bởi lá rừng.


17

2.4.2. Phương pháp thu thập số liệu
2.4.2.1. Phương pháp kế thừa tư liệu
Để giảm thời gian và tăng độ chính xác của kết quả nghiên cứu, đề tài
kế thừa các tài liệu cơ bản của khu vực nghiên cứu: Bản đồ hiện trạng rừng,
bản đồ địa hình, bản độ ranh giới hành chính, điều kiện kinh tế xã hội của khu
vực nghiên cứu.
2.4.2.2. Phương pháp thu thập số liệu ngoại nghiệp
1. Điều tra đặc điểm cấu trúc rừng
* Điều tra sơ thám
Đây là phương pháp sơ bộ khảo sát về phân bố của các trạng thái thực
vật, địa hình, tình hình phân bố dân cư. Bắt đầu từ điểm xuất phát, vạch tuyến
điều tra qua các dạng địa hình, các trạng thái thực vật trên bản đồ hiện trạng.
* Lập ô tiêu chuẩn
Sau khi điều tra sơ thám, chúng tôi tiến hành xác định vị trí lập ô tiêu
chuẩn trên các trạng thái rừng. Đề tài thiết lập 40 ô tiêu chuẩn điển hình cho
các trạng thái rừng và thảm thực vật phổ biến ở trong các lưu vực nghiên cứu
để điều tra về đặc điểm cấu trúc rừng đầu nguồn. Hệ thống OTC được thể
hiện tại hình 2.1. Để lập OTC chúng tôi sử dụng OTC điển hình, tạm thời
trong điều tra lâm học. Dùng phương pháp Pitago để lập OTC. Kích thước

mỗi ô tiêu chuẩn là 30x33 m2.


18

Hình 2.1. Bản đồ hệ thống ô tiêu chuẩn khu vực nghiên cứu


19

Nội dung điều tra trong OTC như sau:
* Điều tra độ tàn che
Điều tra độ tàn che của tầng cây cao, độ che phủ của cây bụi thảm tươi
và thảm khô theo hệ thống các điểm điều tra (80 điểm). Trong mỗi ô tiêu
chuẩn lập các tuyến song song cách đều nhau sau đó dùng thước ngắm cứ đi
một khoảng 3 m ngắm lên nếu trùng vào tán cây thì lấy giá trị tàn che bằng 1,
nếu không vào tán cây thì lấy giá trị là 0, tương tự nhìn xuống dưới nếu chạm
cây bụi thảm tươi (thảm khô) thì lấy giá trị độ che phủ (thảm khô) bằng 1,
không chạm cây bụi thảm tươi thì lấy bằng 0. Số liệu đo được ghi vào mẫu
biểu 01.
Mẫu biểu 01: Phiếu điều tra độ tàn che, độ che phủ của tầng cây cao,
thảm tươi cây bụi và thảm khô
Ô tiêu chuẩn số:........, loại rừng :......................lô:....., khoảnh: ......Hộ GĐ:................
Ngày điều tra:.............., người điều tra :.......................Đơn vị quản lý .......................
Diện tích ÔTC:...................., độ dốc:..............., hướng phơi:.......................................

TT
1
2
...


TC

CP

TK

TT

TC


* Điều tra đặc điểm tầng cây cao

CP

TK

TT

TC

CP

TK



Các chỉ tiêu điều tra tầng cây cao trên các ô tiêu chuẩn (OTC) gồm: tên
cây, chiều cao vút ngọn (Hvn), chiều cao dưới cành (Hdc), đường kính 1.3 m

(D1.3), đường kính tán (Dt) theo 2 hướng Đông Tây (Dt1) và Nam Bắc (Dt2).
+ Xác định đường kính 1.3 m (D1.3): Đường kính ngang ngực được
xác định bằng phương pháp đo chu vi thân cây tại vị trí 1.3m bằng thước dây
chính xác đến cm, chỉ đo các cây có D1.3 ≥ 6cm (cây có D1.3 < 6 cm được
coi là cây tái sinh).
+ Điều tra chiều cao vút ngọn (Hvn), chiều cao dưới cành (Hdc) bằng
thước đo cao Blumerlei.


20

+ Xác định đường kính tán được đo bằng thước dây theo 2 hướng
Đông Tây, Nam Bắc.
Kết quả thu được ghi vào mẫu biểu 02.
Mẫu biểu 02: Phiếu điều tra tầng cây cao trên ô tiêu chuẩn
Ô tiêu chuẩn số:........., loại rừng :..................lô:......, khoảnh: ........Hộ GĐ:................
Ngày điều tra:................, người điều tra:....................... Đơn vị quản lý: ....................
Diện tích ÔTC:................, độ dốc:..............., hướng phơi:...........................................

TT

C1.3
(cm)

Loài

Dt1
(m)

Dt2

(m)

Hvn
(m)

Hdc
(m)

Ghi chú

1
2
...
* Điều tra đặc điểm cây bụi, thảm tươi
Các chỉ tiêu điều tra tầng cây bụi, thảm tươi được thu thập trên 5 ô
dạng bản (ODB) 25 m2 ở mỗi ô tiêu chuẩn (4 ODB nằm ở 4 góc OTC và 1
ODB nằm chính giữa OTC), gồm: tên cây, chiều cao trung bình (Htb), đường
kính tán (Dt), độ che phủ, cấp sinh trưởng từng loài. Số liệu điều tra được ghi
vào mẫu biểu 03, 04.
Mẫu biểu 03: Phiếu điều tra cây bụi
Ô tiêu chuẩn số:........., loại rừng:...................lô:......, khoảnh:......Hộ GĐ:...................
Ngày điều tra:.............., người điều tra:.......................Đơn vị quản lý ........................
Diện tích ÔTC:..............., độ dốc:..............., hướng phơi:............................................

ÔDB TT
1
2
...

Loài


Htb
CP
Dt (m)
(m)
(%)

Sinh
trưởng


21

Mẫu biểu 04: Phiếu điều tra thảm tươi
Ô tiêu chuẩn số:........, loại rừng :...................lô:......, khoảnh: ......Hộ GĐ:..................
Ngày điều tra:.............., người điều tra :......................Đơn vị quản lý ........................
Diện tích ÔTC:.................., độ dốc:..............., hướng phơi:.........................................
ÔDB TT

Loài

Htb (m) CP (%) Sinh trưởng Ghi chú

1
2
...
* Điều tra khối lượng thảm mục
Lượng thảm mục được điều tra qua các ô tiêu chuẩn dạng bản. Tại mỗi
ô tiêu chuẩn lập 5 ô tiêu chuẩn dạng bản có kích thước 5*5m2. Một ô ở giữa
và bốn ô còn lại ở bốn góc ô tiêu chuẩn. Tại mỗi ô tiêu chuẩn dạng bản lại lập

5 ô nhỏ kích thước 1m2. Một ô ở giữa và bốn ô còn lại ở bốn góc. Thu toàn
bộ thảm mục ở các ô 1m2 và cân khối lượng tại rừng. Với mỗi ô tiêu chuẩn sẽ
lấy một mẫu thảm mục để xác định độ ẩm tự nhiên. Số liệu này được sử dụng
để quy đổi khối lượng thảm mục điều tra trên ô tiêu chuẩn ra khối lượng thảm
mục đã khô kiệt.
Mẫu biểu 05: Phiếu điều tra khối lượng thảm khô
Ô tiêu chuẩn số:........, loại rừng :...................lô:......, khoảnh: ......Hộ GĐ:..................
Ngày điều tra:.............., người điều tra :......................Đơn vị quản lý ........................
Diện tích ÔTC:.................., độ dốc:..............., hướng phơi:.........................................

ÔDB

Khối lượng thảm khô trên ô dạng bản 1x1 m2
ODB 1
ODB 2
ODB 3
ODB 4
ODB 5

Ghi chú

1
2
...
2. Điều tra tính chất vật lý đất dưới các trạng thái rừng
Trong mỗi OTC đào 1 phẫu diện, xác định độ sâu tầng đất bằng thước
dây chính xác đến cm. Các thông tin thu thập trong điều tra phẫu diện được
ghi vào mẫu biểu mô tả phẫu diện đất. Những chỉ tiêu vật lý đất được thu thập



22

và phân tích gồm: dung trọng, tỷ trọng, độ xốp, độ ẩm. Phương pháp lấy mẫu
như sau:
Mẫu xác định dung trọng: Dùng ống dung trọng (V = 100 cm3) kê lên
mặt phẳng phẫu diện, dùng búa đóng vào đầu đậy nắp sao cho ống thẳng đứng
và lún sâu vào đất, tránh nứt nẻ và vỡ; dùng xén đào nhấc ống ra, gọt đất cho
bằng phẳng ở đầu và gọt sạch đất bám xung quanh thành ống; sau đó dùng
xén cậy đất trong ống cho vào túi nilon 2 lớp, ghi số hiệu và được chuyển về
phòng phân tích. Tiến hành lấy mẫu xác định dung trọng tại các tầng đất cách
nhau 20cm. Ở những phẫu diện có độ sâu trên 1,2 m lấy mẫu ở các tầng 0 - 20
cm, 20 - 40 cm, 40 - 60 cm, 60 - 80 cm, 80 - 100 cm, 100 - 120 cm; Ở những
phẫu diện có độ sâu dứới 1,2 m thì lấy mẫu đến tầng cuối của phẫu diện.
* Điều tra độ ẩm đất rừng
Các mẫu đất dùng để xác định độ ẩm được lấy ở các tầng đất tương ứng
với độ sâu lấy mẫu xác định độ xốp. Chúng được đựng trong túi polietylen 2
lớp và chuyển về phòng phân tích xác định độ ẩm theo phương pháp cân sấy.
Đề tài tiến hành lấy mẫu đất để xác định độ ẩm định kỳ 2 ngày một lần
sau mưa ở các tầng đất cách đều 20 cm của các trạng thái rừng phổ biến. Số
liệu này được sử dụng để phân tích đặc điểm biến đổi của độ ẩm đất phụ
thuộc vào lượng mưa, trạng thái rừng, thời gian sau mưa và độ sâu tầng đất.
Những phương trình thực nghiệm được sử dụng để xác định độ ẩm đất tối đa
ở các trạng thái rừng.
2.4.2.3. Phương pháp xử lý nội nghiệp
* Xử lý đất
Mẫu đất lấy về phải được hong khô kịp thời, băm nhỏ (cỡ 1 – 1,5 cm)
rồi nhặt hết xác thực vật, côn trùng, sỏi đá, kết von... sau đó dàn mỏng trên
giấy sạch và phơi khô trong râm. Đất sau khi đã hong khô được giã trong cối



23

và rây qua rây đường kính 1 mm khi nào đến đá hoặc kết von thì dừng, bỏ
phần kết von và đá đi, trộn đều đất cho vào túi nilon có ghi nhãn.
* Phân tích đất
Các tính chất vật lý đất được phân tích tại Viện sinh thái Rừng và Môi
trường.
- Xác định độ ẩm của đất bằng phương pháp cân sấy ở nhiệt độ 1090C.
Công thức tính: W% 

M1- M2
*100
M1

Trong đó: W% là độ ẩm tương đối (%)
M1 là trọng lượng của đất tươi (gam)
M2 là trọng lượng của đất khô kiệt (gam)
- Xác định dung trọng (D) bằng ống dung trọng có thể tích 100 cm3
Công thức tính: D 

M2
V

Trong đó: D là dung trọng đất (g/cm3)
V là thể tích ống dung trọng (V= 100 cm3)
M2 là trọng lượng đất khô kiệt (g)
- Xác định tỷ trọng (d) bằng phương pháp picnômet (bình tỷ trọng)
Công thức tính: d 

M2

M2

Pn
M 2  P1  P2

Trong đó: d là tỷ trọng của đất (g/cm3)
Pn là khối lượng của thể tích nước bị đất chiếm chỗ trong bình (g)
P1 là khối lượng của bình và nước (g)
P2 là khối lượng bình chứa nước và đất (g)
M2 là khối lượng đất khô kiệt (g)
- Độ xốp: Được xác định thông qua dung trọng và tỷ trọng của đất.


24

Công thức tính: X % 

d D
*100
d

Trong đó: X là độ xốp của đất (%)
d là tỷ trọng của đất (g/cm3)
D là dung trọng của đất (g/cm3)
* Điều tra khả năng chứa nước tối đa của thảm mục
Độ ẩm tối đa của thảm mục được xác định bằng phương pháp thử
nghiệm nhúng ướt hoàn toàn thảm mục trong những khoảng thời gian khác
nhau sau đó cân sấy xác định định lượng nước đã được giữ trong thảm mục.
Dung tích chứa nước tối đa của thảm mục được xác định bằng tích số
của độ ẩm tối đa với khối lượng khô của thảm mục tính theo đơn vị tấn/ha.

* Điều tra diện tích và khối lượng lá rừng
Diện tích và khối lượng của lá rừng được điều tra qua các cây tiêu
chuẩn
Ở khu nghiên cứu đề tài lựa chọn từ 40 cây tiêu chuẩn. Đó là những cây
rừng có kích thước từ nhỏ đến lớn của các loài được chọn ngẫu nhiên. Ở mỗi
cây sẽ chặt ½ đến 1/3 số cành. Sau đó xác định khối lượng lá của cây tiêu
chuẩn, mỗi cây tiêu chuẩn lấy một mẫu để xác định diện tích lá tính cho một
đơn vị khối lượng. Sau đó xây dựng phương trình thực nghiệm liên hệ giữa
kích thước cây rừng với khối lượng và diện tích lá. Trên cơ sở kết quả điều tra
được số lượng cây rừng và kích thước của chúng đề tài xác định được diện
tích lá rừng tính theo đơn vị m2/ha và tấn/ha.
* Điều tra khả năng giữ nước của lá
Khả năng giữ nước của lá rừng được xác định qua thí nghiệm nhúng
ướt hoàn toàn những mẫu lá của 20 loài cây khác nhau. Kết quả xác định
được lượng nước giữ được trên lá ứng với mỗi đơn vị khối lượng và diện tích
lá rừng của các loài. Tính bình quân và nội suy cho toàn rừng theo đơn vị tấn
nước/ha.


×