Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Nghiên cứu tác động của người dân địa phương đến tài nguyên rừng tại VQG BIDOUP núi bà, tỉnh lâm đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NGUYỄN HẠNH TÂM

NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI DÂN ĐIẠ PHƯƠNG
ĐẾN TÀI NGUYÊN RỪNG TẠI VQG BIDOUP – NÚI BÀ,
TỈNH LÂM ĐỒNG
CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
MÃ SỐ: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ BẢO LÂM


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Nguyễn Hạnh Tâm



ii

LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được thực hiện và hoàn thành theo chương trình đào tạo Thạc sỹ
ngành Lâm Học của Trường Đại học Lâm nghiệp, Xuân Mai, Chương Mỹ, Hà Nội.
Nhân dịp hoàn thành luận văn, tác giả bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS.
Nguyễn Thị Bảo Lâm - người đã tận tình hướng dẫn và dành tình cảm tốt đẹp cho
tác giả từ khi hình thành, phát triển ý tưởng, xây dựng đề cương, tổ chức triển khai
và hoàn thiện luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn tập thể cán bộ Cơ sở 2 Trường Đại học Lâm nghiệp đã
tạo điều kiện, động viên, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn PGS.TS.Vũ Nhâm đã tư vấn, góp ý trong quá trình
hoàn thiện bản luận văn này.
Đối với địa phương, tác giả chân thành cảm ơn: Vườn Quốc gia BiDoup – Núi
Bà, Hạt kiểm lâm VQG BiDoup – Núi Bà, UBND huyện Lạc Dương; UBND các
xã Đạ Chais, Đạ Sar, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng và bà con ở địa phương nơi
tác giả đã đến thu thập số liệu để thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn các cán bộ, công nhân viên VQG BiDoup -Núi Bà đã giúp đỡ và
hỗ trợ tác giả thu thập số liệu tại hiện trường.
Xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp, gia đình đã động viên, giúp đỡ tác giả trong
quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Tuy đã nghiêm túc thực hiện với tất cả nỗ lực của bản thân, nhưng do trình độ
và thời gian hạn chế, vì vậy bản luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót
nhất định. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của Quý
Thầy, Cô giáo, các nhà khoa học, các bạn bè đồng nghiệp và xin chân thành tiếp thu
các ý kiến đóng góp đó./.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả



iii

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan………………………………………………………………….. i
Lời cảm ơn……………………………………………………………………. ii
Mục lục………………………………………………………………………... iii
Danh mục các chữ viết tắt…………………………………………………….. v
Danh mục bảng……………………………………………………………….. vi
Danh mục hình……………………………………………………………….. vii
ĐẶT VẤN ĐỀ ……………………….…………….………………...………. 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu trên thế giới…………………………… 3
1.1.1. Các nghiên cứu liên quan đến sự cần thiết thành lập KBT và VQG
3
1.1.2. Các nghiên cứu liên quan đến sự tham gia của người dân trong các
4
KBT và VQG
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam …………………………… 7
1.2.1 Hệ thống chính sách và các vấn đề liên quan đến Rừng đặc dụng
7
1.2.2. Các nghiên cứu liên quan đến quan hệ người dân và TNR
10
CHƯƠNG 2. MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, GIỚI HẠN, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu …………………………………………………… 17
2.2. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu ……………………………………. 17
2.3. Giới hạn nghiên cứu..…………………………………………………… 17

2.4. Nội dung nghiên cứu …………………………………………………… 18
2.5. Quan điểm và Phương pháp nghiên cứu ……………………………… 18
2.5.1. Quan điểm và Phương pháp luận ………………………………………
18
2.5.2. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………
23
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN KT-XH CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm tự nhiên của VQG BiDoup – Núi Bà……………………… 30
3.1.1. Vị trí địa lý …………………………………………………………………… 30
3.1.2. Địa hình ………….…………………………………………………………… 31
3.1.3. Khí hậu và thủy văn ………………………………………………………… 31
3.2. Đặc điểm kinh tế xã hội …………… ..………………………………… 31
3.2.1. Dân số……………………… ………………………………………………… 31
3.2.2. Thành phần dân tộc…………………………………………………………… 32
3.2.3. Dân trí………………………………………………………………………… 32
3.2.4. Lao động ……………………………………………………………………… 32
3.2.5. Giới …………………………………………………………………………… 32


iv

3.2.6. Sinh kế…………………………… ……………………………………………
3.2.7. Sự phụ thuộc vào rừng…………… …………………………………………
3.3. Hiện trạng tài nguyên rừng VQG BiDoup – Núi Bà ..……………….
3.3.1. Hiện trạng rừng và sử dụng đất rừng VQG..………………………………
3.3.2. Tài nguyên đa dạng sinh học…………………………………………………
3.3.3. Tình hình phân bố các loài LSNG……………………………………………
3.3.4. Hiện trạng và tiềm năng du lịch………….…………………………………
3.4. Hiện trạng sử dụng đất các xã nghiên cứu...…………………………..
3.5. Sơ lược đặc điểm kinh tế xã hội các hộ điều tra………………………

CHƯƠNG 4. KẾT QUẢN NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Đánh giá công tác quản lý bảo vệ TNR VQG……...…………………
4.1.1. Công tác xây dựng lực lượng………………………………………………
4.1.2. Xử lý vi phạm trong công tác bảo vệ rừng …………………………………
4.1.3. Công tác phòng chống cháy rừng……………………………………………
4.1.4. Công tác Khoán bảo vệ rừng………………………………………………
4.1.5. Thực trạng công tác quản lý bảo vệ rừng…………………………………
4.2. Các hình thức và mức độ tác động…………………...…………………
4.2.1. Sử dụng đất rừng để canh tác nương rẫy …………………………………
4.2.2. Tác động khai thác lâm sản…………………………………………………
4.2.3. Tác động sử dụng rừng và đất rừng để chăn thả gia súc ………………
4.3. Nguyên nhân dẫn đến những tác động bất lợi ……………...….……
4.3.1. Cơ cấu đất canh tác……………………………………………………………
4.3.2. Cơ cấu thu nhập………………………………………………………………
4.3.3. Cơ cấu chi phí…………………………………………………………………
4.3.4. Quan hệ giữa thu nhập và chi phí……………………………………………
4.3.5. Ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất đến thu nhập từ rừng và tổng thu
nhập HGĐ tại khu vực nghiên cứu …………………………………………………
4.3.6. Những nguyên nhân cơ bản khác dẫn tới những tác động bất lợi của
người dân địa phương đến TNR, VQG……………………………………………
4.4. Đề xuất các giải pháp KT-XH nhằm giảm thiểu những tác động bất
lợi của người dân địa phương đến TNR tại VQG BiDoup – Núi Bà……..
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận……………………………………………………………………….
Kiến nghị……………………………………………………………………...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

33
33

33
33
36
37
38
39
40
43
43
44
46
47
48
49
49
50
53
54
54
55
57
59
60
64
70
80
81


v


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu

Chú giải

BV&PTR:

Bảo vệ và phát triển rừng

ĐDSH

:

Đa dạng sinh học

HGĐ

:

Hộ gia đình

KBT

:

Khu bảo tồn

KT-XH :


Kinh tế - Xã hội

LSNG

Lâm sản ngoài gỗ

:

QLBVR :

Quản lý bảo vệ rừng

TNR

:

Tài nguyên rừng

UBND

:

Uỷ ban nhân dân

VQG

:

Vườn Quốc gia


TS. Nguyễn Thi Bảo
Lâm
̣


vi

DANH MỤC CÁC BẢNG
TT

Tên Bảng

Trang

2.1.
2.2.
2.3.
2.4.
3.1.
3.2.
3.3.
3.4.
4.1.
4.2.
4.3.
4.4.
4.5.
4.6.
4.7a.
4.7b.

4.7c.
4.7d.
4.7e.
4.8.
4.9.
4.10.
4.11.
4.12.
4.13.
4.14.
4.15.
4.16.

Bảng điểm và phân loại các tiêu chí
Đánh giá các tiêu chí và lựa chọn xã nghiên cứu
Đánh giá các tiêu chí và lựa chọn thôn đại diện
Kết quả lựa chọn các hộ điều tra các thôn đã lựa chọn
Hiện trạng rừng và sử dụng đất VQG BiDoup-Núi bà, năm 2010
Hiện trạng trữ lượng các trạng thái rừng VQG BiDoup-Núi bà
Hiện trạng sử dụng đất 02 xã nghiên cứu
Tóm tắt số đặc điểm KT-XH ở cá hộ điều tra
Thống kê vi phạm trong công tác QLBVR, VQG BiDoup-Núi Bà
Thống kê tổng hợp các vụ cháy rừng tại VQG BiDoup-Núi Bà
Thực trạng công tác khoán bảo vệ rừng ở VQG BiDoup-Núi Bà
Phân tích SWOT về công tác QLBVR tại VQG BiDoup-Núi Bà
Tình hình sử dụng đất rừng
Diện tích canh tác của các HGĐ trên rừng và đất rừng VQG
Số lần và khối lượng khai thác gỗ của các hộ điều tra
Số lần và khối lượng khai thác củi của các hộ điều tra
Số lần và khối lượng khai thác lâm sản làm thực phẩm

Số lần và khối lượng khai thác cây thuốc, sâm
Số lần và khối lượng săn bắt động vật của các hộ điều tra
Mức độ chăn thả gia súc trên rừng
Hình thức sử dụng đất của các hộ điều tra
Cơ cấu sử dụng đất theo đối tượng các hộ điều tra
Cơ cấu tổng thu nhập theo nhóm HGĐ
Cơ cấu tổng chi phí theo nhóm HGĐ
Phân bố hộ gia đình theo các mức thu nhập
Tổng hợp các trị số trong quan hệ từng nhân tố với thu nhập từ rừng
Tổng hợp các trị số trong quan hệ từng nhân tố với tổng thu nhập
Nhu cầu và khả năng đáp ứng lương thực của HGĐ

24
24
25
26
34
35
39
41
44
47
48
48
49
50
51
52
52
52

52
53
54
55
56
58
60
61
62
65


vii

DANH MỤC CÁC HÌNH
TT
2.1.
3.1.
3.2.
3.3.
3.4.
4.1.
4.2.
4.3.
4.4.
4.5.

Tên hình
Tháp sinh thái nhân văn trong nghiên cứu tác động của người dân
đến TNR

Bản đồ Vườn quốc gia BiDoup - Núi Bà
Biểu đồ cơ cấp đất đai VQG BiDoup - NúiBà
Trữ lượng rừng theo phân khu chức năng
Biểu đồ cơ cấu đất đai 02 xã nghiên cứu
Biểu đồ số vụ vi phạm luật BV&PTR tại VQG
Biểu đồ số tiền xử phạt vi phạm tại VQG
Biểu đồ số hộ điều tra vào rừng khai thác, sử dụng lâm sản
Cơ cấu tổng thu nhập theo nhóm HGĐ
Cơ cấu tổng chi phí theo nhóm HGĐ

Trang
21
30
34
36
40
45
46
51
57
59


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hệ thống rừng đặc dụng của Việt Nam đã được thành lập và hoạt động trong
gần 50 năm qua theo quy định của Luật Bảo vệ và phát triển rừng và Luật Đất đai.
Chức năng và nhiệm vụ chính của hệ thống rừng đặc dụng là bảo vệ và bảo tồn các
hệ sinh thái rừng, đa dạng sinh học, cảnh quan thiên nhiên và các giá trị văn hóa,

lịch sử môi trường. Hiện nay, cả nước có trên 13 triệu ha rừng, trong đó có 2,2 triệu
ha rừng đặc dụng và hình thành được 164 khu, gồm 30 Vườn Quốc gia, 58 Khu dự
trữ thiên nhiên, 10 Khu bảo tồn loài, 46 Khu bảo vệ cảnh quan và 20 khu rừng
nghiên cứu khoa học. Hầu hết các khu rừng đặc dụng đã được tổ chức, quản lý và
được nhà nước cấp kinh phí hoạt động nhằm bảo vệ rừng, bảo tồn các giá trị đa
dạng sinh học[3].
Qua quá trình hoa ̣t đô ̣ng đã có nhiều thành tựu đạt được trong công tác quản lý
bảo tồn hệ thống rừng đặc dụng, vai trò của các KBT, VQG trong phát triển kinh tế
ở cấp quốc gia và địa phương ngày càng được khẳng định. Song việc bảo vệ, quản
lý các KBT, VQG đã và đang gặp không ít khó khăn từ phía người dân và cộng
đồng địa phương sinh sống xung quanh KBT, VQG thậm chí ngay cả trong khu bảo
tồn, VQG đã tạo sức ép nặng nề lên các KBT, VQG[21]. Từ những thay đổi của họ
về vị trí nhà ở, về thói quen chiếm hữu đất đai canh tác, phát nương làm rẫy, săn bắt
động vật, chặt gỗ, lấy củi, thu lượm các sản phẩm LSNG từ rừng và do đó ảnh
hưởng đến công tác bảo vệ.
Tài nguyên rừng là nguồn sống chủ yếu của người dân sống trong và gần
rừng từ bao đời nay, giờ đây dường như đã không còn là của họ. Họ đa số là người
nghèo, dân trí thấp, họ cho rằng việc thành lập KBT, VQG không đem lại lợi ích gì
cho họ, mà chỉ bị thiệt thòi vì không được tự do khai thác một phần tài nguyên thiên
nhiên như trước nữa[21]. Trong khi đó, các sinh kế tạo nguồn thu nhập khác cho
người dân địa phương chưa bù đắp được sự thiếu hụt lớn lao này. Chính vì vậy, đã
gây ra mâu thuẫn giữa khu bảo tồn, VQG với người dân địa phương - những người


2

đã và đang sống phụ thuộc một phần vào nguồn TNR. Do đó, việc tồn tại những tác
động bất lợi của người dân vào TNR là tất yếu [24].
VQG BiDoup-Núi Bà được thành lập theo quyết định số 1240/2004/QĐ-TTg
ngày 19 tháng 11 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ, Mục tiêu nhiệm vụ trong đó

có bảo tồn các hệ sinh thái rừng trong vùng khí hậu á nhiệt đới, bảo tồn các sinh
cảnh rừng nguyên sinh và các nhiệm vụ khác[34]
Tuy nhiên, VQG Bidoup – Núi Bà có địa bàn vùng lõi và vùng đệm khá lớn
với diện tích 97.038 ha theo quyết định thành lập, nằm trên địa bàn các xã: Xã Lát,
Đưng Knớ, Đạ Sar, Đạ Chais của huyện Lạc Dương và do chủ trương phát triển
vùng đệm và chia tách địa giới hành chính đến nay có thêm các xã Đạ Nhim, Thị
trấn Lạc Dương và một phần nhỏ xã Đạ Tông, huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng.
Các xã đều nằm ở vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn và dân cư thưa thớt.
Người dân sống ở trong và giáp ranh VQG chủ yế u là dân tộc K’Ho, ...sinh kế của
ho ̣ ở đây chủ yếu làm rẫy như trồng Cafe, trồng Bắp, trồng Khoai, trồng rau...và
dựa vào rừng như thu hái các lâm sản phụ như : lấy Lan, Rớn... đem bán, nhà cửa
chủ yếu vẫn là nhà gỗ, trình độ dân trí còn thấp, lực lượng lao động trẻ ở đây nhiều,
hầu hết các gia đình rất là đông con. Để thực hiện tốt những nhiệm vụ bảo tồn thì
cần phải tìm ra được các giải pháp nhằm giảm thiểu những tác động bất lợi của
người dân địa phương tới TNR ở VQG Bidoup – Núi Bà nói riêng và các KBT,
VQG nói chung .
Nhằ m tìm hiể u và góp phần làm rõ những tồn tại nêu trên, đề tài “Nghiên cứu
tác động của người dân địa phương đến tài nguyên rừng tại VQG Bidoup-Núi Bà,
tỉnh Lâm Đồ ng” được thực hiện là có cơ sở và cần thiết.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Các nghiên cứu liên quan đến sự cần thiết thành lập KBT và VQG
Trên thế giới, VQG đầu tiên được thành lập ở Mỹ năm 1872, đó là VQG
Yellowstone. Để thiết lập VQG này người ta đã sử dụng bạo lực ép buộc hai cộng
đồng tộc người Crow và người Shoshone phải rời bỏ mảnh đất nơi họ đang sinh

sống. Sau đó ở nhiều nước khác trên thế giới cũng sử dụng phương thức quản lý
theo mô hình này để thành lập các KBT và VQG và thiết lập các luật lệ ngăn cấm
người dân địa phương không được thâm nhập vào KBT, VQG và tiếp cận TNR do
đó dẫn đến những hậu quả tất yếu là cộng đồng người dân địa phương có những
mâu thuẫn với các KBT và kết quả bảo tồn tài nguyên đã không đạt được mục
đích[23].
Năm 1976, Hai tác giả Gadgil và VP. Vartok đưa ra trong tác phẩm: “Những
lùm cây thiêng miền Tây dãy Ghats ở Ấn Độ” của mình những nhận định các đám
rừng từ dưới 0,5 ha đến 10 ha dưới dạng lùm cây thiêng để thờ các vị thần của lùm
cây được người dân địa phương ở Ấn Độ bảo vệ được chu đáo. Các hoạt động thờ
cúng tại những lùm cây thiêng đó được hình thành từ các xã hội chuyên về săn bắn
và hái lượm. Việc lấy ra bất cứ sản phẩm nào đều bị cấm kỵ. Do nạn phá rừng ngày
càng tăng ở Ấn Độ, di sản còn lại của rừng tự nhiên chính là những lùm cây đó và
nó đã trở nên quan trọng trong việc thu lượm một số sản phẩm như: Cây thuốc, lá
rụng, gỗ khô…Việc khai thác gỗ đã bị cấm nhưng đôi khi vẫn xảy ra tình trạng khai
thác gỗ trộm [29].
Ở Thái Lan, vào những năm 1945 độ che phủ của rừng lên tới 60%, đến năm
1995 chỉ còn 26%. Đã có hơn 170.000 km2 rừng bị tàn phá. Năm 1989, Cục Lâm
nghiệp của Hoàng gia Thái Lan quyết định thành lập KBT để bảo vệ diện tích rừng
còn lại. Điều này dẫn tới xung đột giữa các cộng đồng người dân địa phương sống
trong vùng đệm. Một thử nghiệm của Dự án “ Quản lý rừng bền vững thông qua sự
cộng tác” (Sustainable Forest Management through Collaborative efforts’ Project)


4

thực hiện tại Phu Kheio Wildlife Sanctuary, tỉnh Chaiyaphum ở miền Đông-Bắc
Thái Lan. Kết quả chỉ ra rằng, điều căn bản để quản lý bền vững tài nguyên là phải
thu hút sự tham gia của các bên liên quan và đặc biệt là phải bao gồm cả phát triển
cộng đồng người dân địa phương bằng các hoạt động làm tăng thu nhập của họ [41]

Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển đã trở
thành vấn đề nổi lên trong các cuộc hội thảo, diễn đàn khoa học trong những năm
gần đây. Vào tháng 6 năm 1992, tại Hội nghị Liên hiệp quốc tế về Môi trường và
Phát triển bền vững ở Rio De Janeiro (Brasin), vấn đề này đã chính thức được công
nhận, các chính phủ đã đưa ra một kế hoạch hành động cải thiện sinh kế của người
dân trên cơ sở duy trì các tiến trình chức năng và sức sản xuất của đất đai và các
loại tài nguyên thiên nhiên khác [31].
1.1.2. Các nghiên cứu liên quan đến sự tham gia của người dân trong các KBT
và VQG
Trong giai đoạn từ những năm 1970 – 1990 một trào lưu trong tiếp cập phát
triển Lâm nghiệp dựa vào nhu cầu của người nghèo được nhiều quốc gia quan tâm,
từ đó đã có nhiều nghiên cứu gắn với việc nhằm nỗ lực làm thay đổi chiến lược bảo
tồn. Chiến lược bảo tồn mới dần được hình thành và khẳng định tính ưu việt, đó là
quản lý KBT và VQG phải được liên kết với các hoạt động sinh kế của người dân
địa phương, cần thiết có sự tham gia bình đẳng của các cộng đồng trên cơ sở tôn
trọng nền văn hoá của cộng đồng trong quá trình xây dựng các quyết định.
Colfer C.J.P (1980) trong tác phẩm: “Thay đổi và nông lâm kết hợp bản địa”
tại Đông Kalimamtan, đã nhận định qua mô tả việc đi thu hái lâm sản phụ rằng
những sản vật lấy được coi như là những mặt hàng không phải trả tiền, ai cũng có
thể thu lượm được. Thế nhưng, những quyền đó không được quy định cụ thể, nó đã
trở thành một thông lệ, trong đó có cả việc dùng gỗ làm nhà, có lúc dùng để biện hộ
cho việc thu hoạch gỗ và bán[29].
Trong nghiên cứu của Denr và TCSD,(1994) về bảo tồn đa dạng sinh học ở
Philippines cho thấy trong chiến lược Quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học là để
đạt được thắng lợi trong mục tiên bảo tồn đa dạng sinh học thì phải bảo đảm rằng


5

những người chịu ảnh hưởng nhiều nhất về chính sách liên quan đến môi trường

chính là các cộng đồng địa phương, vì vậy họ phải được quyết định và sẽ tham gia
vào quá trình lập kế hoạch và quản lý đối với bảo tồn đa dạng sinh học.(Dẫn theo
Lê Sỹ Trung 2005) [30]
Apple Gate G.B và Gilmour D.A (1987) trong khi nghiên cứu kinh nghiệm
tác nghiệp trong việc quản lý phát triển rừng tại vùng đồi Nepan đã hình thành mối
quan hệ giữa rừng và các hệ canh tác hỗn hợp ở trung du miền núi. Tác giả cho rằng,
các hệ canh tác phụ thuộc nhiều vào rừng đang bị suy thoái nhanh. Sự bền vững lâu
dài của các hệ canh tác phụ thuộc vào việc gia tăng về diện tích dưới bất cứ các
dạng che phủ thực vật nào[29]
Trong kế hoạch hành động đa dạng sinh học ở Indonesia, tác giả Bappenas,
(1993) đã ghi nhận tăng cường sự tham gia của công chúng, đặc biệt là người dân
sinh sống bên trong và phụ thuộc vào các vùng có tính đa dạng sinh học cao, là mục
tiêu chính của kế hoạch hành động và là điều kiện tiên quyết đối với việc thực hiện
kế hoạch (dẫn theo Lê Sỹ Trung) [30].
FAO( 2003), nhấn mạnh sự khác biệt về bản chất giữa hai loại mô hình giảm
nghèo dựa vào rừng (FBPA–Forest-Based Poverty Alleviation). Người dân trong
diện “tránh hay giảm thiểu đói nghèo” vẫn còn ở dưới hay gần với ranh giới nghèo
và khá, nhưng có thể đã khá hơn so với tình trạng không có các nguồn TNR. Ngược
lại, tình hình kinh tế xã hội của nhưng người đã vượt nghèo, được cải thiện đáng kể
và mang tính chất lâu dài. Do vậy giảm nghèo dựa vào rừng nên được hiểu theo
nghĩa rộng hàm chứa nhiều ý nghĩa rất khác nhau và bao gồm cả hai loại hình được
mô ta ở trên. Ngoài ra, cũng cần hiểu rằng giảm nghèo dựa vào rừng (FBPA) không
bao giờ là một quá trình riêng lẻ. [40].
Trên Thế giới đã có nhiều nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của
các KBT và VQG đã khẳng định rằng cần phải dựa trên mô hình quản lý gắn bảo
tồn đa dạng sinh học với bảo tồn văn hoá của người dân địa phương để đạt được
mục tiêu bảo tồn. Mô hình này được thực hiện thành công ở một số các VQG, như ở
Ở VQG Kakadu thuộc Australia, những người thổ dân ở đây họ được chung sống



6

hợp pháp với VQG không những thế họ còn được thừa nhận là chủ hợp pháp của
VQG đồng thời được cử đại diện tham gia vào ban quản lý và thực hiện quá trình
quản lý VQG. Hay tại VQG Wasur của Indonesia có 13 làng bản vẫn được phép tồn
tại và cuộc sống của họ vẫn gắn liền với hoạt động săn bắn cổ truyền [22].
Hiện nay biện pháp cần thiết và mang lại hiệu quả nhất là trong công tác bảo
tồn đa dạng sinh học phải có sự tham gia của người dân địa phương. Trong suốt
nhiều năm tồn tại của các KBT cho thấy nỗ lực của các cơ quan chính phủ nhằm
đưa dân chúng ra khỏi các KBT đã không mang lại kết quả như mong đợi trên cả
phương diện quản lý TNR và kinh tế xã hội và đó cũng chính là lý do để khuyến
khích sự tham gia của người dân địa phương. Việc người dân vốn đang quen với
cuộc sống gắn với rừng cũng như các tập tục lâu đời của họ, nay phải chuyển tới
một nơi ở mới và họ cho rằng chẳng khác nào “Bắt cá khỏi nước“ , mặt khác khi có
các lực lượng khác có thể xâm lấn và khai thác TNR mà không có người bảo vệ thì
cũng dẫn đến tình trạng TNR bị xâm hại mà điều kiện sống của người dân lại không
được cải thiện[30].
Một điều nữa cho thấy cộng đồng, người dân địa phương đã gắn bó lâu đời
với tự nhiên và thấu hiểu sâu sắc tự nhiên. Họ đã góp phần quan trọng vào việc gìn
giữ các hệ sinh thái của trái đất thông qua sử dụng nguồn tài nguyên một cách bền
vững và tôn trọng tự nhiên dựa trên nền tảng bản sắc dân tộc. Chính vì vậy mà xung
đột giữa mục tiêu bảo tồn với sự tồn tại của người dân địa phương sống trong và
xung quanh ranh giới KBT đã không xẩy ra. Hơn thế, họ phải được coi là những đối
tác bình đẳng và được hưởng lợi trong quá trình xây dựng và thực hiện các chiến
lược bảo tồn có những tác động đến đất đai, lãnh thổ, nguồn nước, duyên hải và các
nguồn lợi khác, đặc biệt tác động đến quá trình xây dựng và quản lý các KBT [14].
Từ những năm 1990 trở lại đây chiến lược phát triển lâm nghiệp bền vững đã
được xây dựng ở nhiếu các quốc gia trên thế giới, nhằm đến các mục tiêu công bằng
xã hội trong quyền hưởng dụng TNR, hiệu ích kinh tế trong sử dụng TNR và bền
vững về sử dụng tài nguyên môi trường. Một trong các mục tiêu của lâm nghiệp là

phát triển nông thôn, xoá đói giảm nghèo tăng cường phân cấp quản lý hướng đến


7

việc giao một phần rừng và đất rừng giao cho các địa phương theo hướng lâm
nghiệp cộng đồng, Chính phủ các nước và các nhà tài trợ đầu tư cho các dự án phát
triển lâm nghiệp cộng đồng.
Từ các nghiên cứu cho thấy, tính cấp thiết do suy giảm nguồn TNR và đa dạng
sinh học các Quốc gia đã phải có những chiến lược để bảo tồn bằng việc thành lập
các KBT, VQG. Tuy nhiên, xung quanh hầu hết các KBT, VQG là người dân địa
phương đã gắn bó lâu đời với tự nhiên và thấu hiểu sâu sắc tự nhiên cần phải được
quan tâm đúng mức. Các nghiên cứu cũng làm nổi rõ sự phụ thuộc vào tài nguyên
rừng của người dân và cũng khẳng định việc người dân tham gia hoạt động quản lý
TNR là cần thiết nhưng để họ thực sự gắn bó thì phải đảm bảo được đời sống cho
họ, nếu không họ sẽ phải tác động vào rừng.
1.2. Ở trong nước.
1.2.1 Hệ thống chính sách và các vấn đề liên quan đến Rừng đặc dụng
Ở Việt Nam đến nay đã có trên 100 KBT, VQG. Trong đó, VQG Cúc
Phương là khu rừng đặc dụng đầu tiên được thành lập từ tháng 7/1962 (lúc đó là
khu rừng cấm Cúc Phương). Tiếp theo đó là việc thành lập các khu rừng cấm Nam
Cát Tiên; VQG Cát Bà; VQG Côn Đảo, VQG YokDon, KBTTN đất ngập nước
Xuân Thuỷ; ….và VQG BiDoup – Núi Bà được thành lập năm 2004.
Theo nghị định số 117/2010/NĐ-CP, của chính phủ về tổ chức quản lý rừng
đặc dụng thì: Rừng đặc dụng là loại rừng được xác lập theo quy định của Luật Bảo
vệ và Phát triển rừng, có giá trị đặc biệt về bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh
thái rừng Quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng; nghiên cứu khoa học; bảo vệ di tích
lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi, du lịch, kết hợp phòng hộ,
góp phần bảo vệ môi trường.
Chương trình đầu tư xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng hệ thống rừng đặc

dụng Việt Nam giai đoạn 2008 – 2020, với mục tiêu xác định: Đến năm 2020, hoàn
thành cơ bản việc xây dựng cơ sở hạ tầng và thiết lập hệ thống quản lý bảo vệ có
hiệu quả diện tích 2,2 triệu ha rừng và đất rừng được quy hoạch cho hệ thống rừng
đặc dụng trên phạm vi cả nước; đảm bảo quản lý và sử dụng bền vững diện tích


8

rừng đặc dụng hiện có, góp phần nâng tỷ lệ đất có rừng của cả nước lên 42 - 43%
vào năm 2010 và 47% vào năm 2020[2].
Các cơ sở pháp lý trong công tác bảo tồn bao gồm: Luật Bảo vệ và phát triển
rừng (BV&PTR) được Quốc hội thông qua và ban hành ngày 03/12/2004; Luật Đa
dạng sinh học ban hành ngày 13/11/2008; Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày
14/08/2006 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý rừng; Thông tư số
99/2006/QĐ-BNN 06/11/2006 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT, hướng
dẫn thực hiện một số điều của Quy chế quản lý rừng; Nghị định Số: 117/2010/NĐCP ngày 24 tháng 12 năm 2010 của chính phủ về tổ chức quản lý hệ thống rừng đặc
dụng ...
Căn cứ quy chế quản lý rừng ban hành kèm theo quyết định 186/2006/QĐ-TTg
thì rừng đặc dụng được phân loại thành các loại: VQG, KBT thiên nhiên, khu bảo vệ
cảnh quan, khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa học [5].
Trong VQG và KBT thiên nhiên được chia thành các phân khu chức năng:
1) Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: Là khu vực có diện tích vừa đủ để bảo vệ
nguyên vẹn hệ sinh thái tự nhiên như mẫu chuẩn sinh thái quốc gia, được quản lý,
bảo vệ chặt chẽ để theo dõi diễn biến tự nhiên của rừng và hệ sinh thái ; Đối với
rừng đặc dụng ở vùng đất ngập nước, phạm vi và quy mô của phân khu bảo vệ
nghiêm ngặt được xác định theo mục tiêu, đối tượng, tiêu chí bảo tồn và điều kiện
thuỷ văn.
2) Phân khu phục hồi sinh thái : Là khu vực được quản lý, bảo vệ chặt chẽ để
khôi phục các hệ sinh thái rừng thông qua việc thực hiện một số hoạt động lâm sinh
cần thiết.

3) Phân khu dịch vụ - hành chính: Là khu vực để xây dựng các công trình làm
việc và sinh hoạt của ban quản lý, các cơ sở nghiên cứu - thí nghiệm, dịch vụ du
lịch, vui chơi giải trí.
VQG và KBT thiên nhiên phải xây dựng vùng đệm cho khu rừng [5].


9

- Vùng đệm là vùng rừng, vùng đất hoặc vùng đất có mặt nước nằm liền kề
với vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên; bao gồm toàn bộ hoặc một phần các
xã, phường, thị trấn nằm sát ranh giới với vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên.
- Vùng đệm được xác lập nhằm ngăn chặn, giảm nhẹ sự xâm hại của con
người tới vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên.
- Ban quản lý khu rừng đặc dụng tổ chức cho cộng đồng dân cư vùng đệm
tham gia các hoạt động bảo vệ, bảo tồn, sử dụng hợp lý lâm sản và các tài nguyên tự
nhiên, các dịch vụ du lịch sinh thái để góp phần nâng cao thu nhập và gắn sinh kế
của người dân với các hoạt động của khu rừng đặc dụng.
- Cơ quan chính quyền nhà nước trên địa bàn vùng đệm lập dự án đầu tư phát
triển sản xuất và cơ sở hạ tầng nông thôn để ổn định cuộc sống cho cộng đồng dân
cư, đồng thời thiết lập quy chế trách nhiệm của cộng đồng dân cư và từng hộ gia
đình trong việc bảo vệ và bảo tồn khu rừng đặc dụng.
- Diện tích của vùng đệm không tính vào diện tích của khu rừng đặc dụng.
Tại các khu rừng đặc dụng nước ta hiện nay đã có nhiều thay đổi do sức ép
của sự gia tăng dân số, nhu cầu về gỗ, LSNG ngày một gia tăng đối với cộng đồng
dân cư sinh sống trong KBT và VQG. Việc đầu tư quản lý bảo vệ và phát triển các
khu rừng đặc dụng còn hạn hẹp.
Một số chính sách về khoán bảo vệ rừng đang được thực hiện :
- Quyết định số 202/QĐ-TTg ngày 02/5/1994 của Thủ Tướng Chính Phủ, Ban
hành quy định về việc khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh và trồng rừng. đối
tượng được nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng, trồng rừng bao gồm hộ

gia đình; cá nhân; các cơ quan; đơn vị thuộc lực lượng vũ trang; các trường học; các
tổ chức xã hội; các tổ chức kinh tế. Những hộ đồng bào dân tộc còn du canh du cư,
những người đang sinh sống tại chỗ, những người ở nơi khác đến lập nghiệp lâu dài
được ưu tiên nhận khoán [7].
- Quyết định số 304/2005/QĐ-TTg ngày 23 /11/2005 của Thủ Tướng Chính
Phủ về việc thí điểm giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng
trong buôn, làng là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở các tỉnh tây nguyên. Đối


10

tượng Những hộ đồng bào dân tộc thiểu số hiện đang sinh sống tại xã có rừng, có
nhu cầu được giao rừng và khoán bảo vệ rừng; trước hết ưu tiên đồng bào là người
dân tộc thiểu số nghèo tại chỗ thuộc các đối tượng quy định tại các Quyết định số
132 và 134 của Thủ tướng Chính phủ[8].
- Quyết định số 661/QĐ-TTg ngày 29 tháng 7 năm 1998 của Thủ tướng
Chính phủ về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện Dự án trồng mới
5 triệu ha rừng; Quy định chính sách hưởng lợi và tiêu thụ sản phẩm đối với rừng
đặc dụng và rừng phòng hộ là ưu tiên khoán cho các hộ thuộc diện định canh, định
cư, các hộ nghèo, hộ ở gần rừng và hộ đã nhận khoán trước đây để bảo vệ khoanh
nuôi tái sinh rừng đặc dụng, rừng phòng hộ ở vùng rất xung yếu và xung yếu[9].
- Quyết định số 380/QĐ-TTg ngày 10/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành Chính sách thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng và quyết định số
415/QĐ-UBND ngày 12/2/2010 của UBND tỉnh Lâm Đồng về phê duyệt kế hoạch
thực hiện chính sách thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng tỉnh Lâm Đồng năm
2010.[35]. Nay là Nghị định 99/2010/NĐ-CP ngày 24/09/2010 của Chính phủ về
chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đang thu hút được người dân địa phương
tham gia vào quản lý bảo vệ rừng. Tuy nhiên, việc triển khai, thực thi các chính
sách, pháp luật của nhà nước chưa đồng bộ, kịp thời. Vì thế, dẫn đến vẫn còn có
nhiều vi phạm nghiêm trọng vào rừng đặc dụng.

1.2.2. Các nghiên cứu liên quan đến quan hệ người dân và TNR
Kể từ khi các VQG, KBT được thành lập có nhiều nhà khoa học quan tâm tới
việc nâng cao hiệu quả quản lý của các KBTTN và VQG theo quan điểm bảo tồn phát triển nghĩa là phải đảm bảo dung hoà mối quan hệ giữa bảo tồn tài nguyên
thiên nhiên với phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng và người dân địa phương.
Theo Donovan D., Rambo A.T, Fox J., Lê Trọng Cúc, Trần Đức Viên (1997),
khi đề cập đến các sản phẩm từ rừng và sức ép của người dân địa phương vào rừng.
đã nêu rõ: Diện tích rừng già ở miền núi phía Bắc Việt Nam đã giảm sút nghiêm
trọng do việc khai thác gỗ, củi và các lâm sản khác như: tre nứa, nấm, cây dược liệu,


11

động vật hoang dã và được xem như là nguồn sinh kế chủ yếu của người dân miền
núi [13] .
D.A. Gilmour và Nguyễn Văn Sản (1999), nhận định về sự thiếu phù hợp với
các phương thức kiếm sống ở địa phương: Những người sống theo lối du canh du
cư không được lợi gì nhiều khi được giao đất rừng, bởi vì khi nhận chăm sóc và
quản lý một diện tích rừng nhỏ họ sẽ mất đi sự tự do vốn có, và có khả năng làm
giảm độ màu mỡ của đất nhiều hơn là duy trì nó. Họ sẽ sử dụng khoảnh đất được
giao để canh tác nhiều lần mà không áp dụng các biện pháp giữ gìn độ màu mỡ của
đất [12].
Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng nhiều cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng
không quen với khái niệm coi trồng rừng là một việc kinh doanh có hiệu quả
Dường như thị trường cho gỗ và các sản phẩm rừng chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Người trồng rừng phải chịu tổn thất do thiếu thông tin và kiến thức để có thể tạo
doanh thu và lợi nhuận lớn hơn từ các rừng trồng [40]
Những người sống trong và quanh rừng vẫn coi tài nguyên rừng là của thiên
nhiên, ai gặp thứ gì quí thì lấy, gặp thú thì săn, thấy củ thì đào, không có ý niệm gì
về đảm bảo tái sinh. Trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn người dân nông thôn, đặc
biệt là vùng núi, phần lớn là người nghèo, sống phụ thuộc vào thiên nhiên, vào tài

nguyên rừng, dù họ có kiến thức về bảo vệ đa dạng sinh vật, về tầm quan trọng của
rừng đối với môi trường thì sự từ bỏ thói quen vào rừng hái củi, lấy dược liệu, thực
phẩm, vật liệu làm nhà, hoặc kiếm vật phẩm để bán tăng thu nhập vẫn là điều chưa
thể có trong thực tế. Vì vậy, chấm dứt tình trạng hái lượm LSNG chưa thành hiện
thực, mặc dù ở VQG hay KBT thiên nhiên, nơi đã có quy chế về bảo vệ TNR chặt
chẽ[10] .
Đinh Đức Thuận và nhóm nghiên cứu (2005), đánh giá: Đa số các hộ khi xây
dựng chiến lược sinh kế đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao nhận
thức và phát triển nguồn nhân lực trong tương lai. Cải thiện cơ sở hạ tầng như
đường giao thông, mạng lưới điện, thuỷ lợi, trường học , y tế, hệ thống thông tin là
giải pháp chiến lược được tất cả các nhóm quan tâm. Tuy nhiên đối với mỗi nhóm


12

hộ cũng có những chiến lược sinh kế riêng. Trong đó, nhóm hộ nghèo ưu tiên cho
giải pháp an toàn lương thực, hỗ trợ giống và kỹ thuật cho sản xuất, vay vốn ưu đãi
để đầu tư vào chăn nuôi, hỗ trợ y tế, thuốc men; nhóm hộ mới thoát nghèo ưu tiên
cao cho nâng cao kỹ thuật nông lâm nghiệp, đa dạng hoá các nguồn thu, cải cách
thủ tục hành chính trong sản xuất và lưu thông hàng hoá; Nhóm hộ khá ưu tiên cho
đa dạng hoá các nguồn thu, nhất là các ngành nghề phi nông nghiệp, đầu tư cho học
hành của con cái, trao đổi kinh nghiệm sản xuất.[28]
D.A. Gilmour và Nguyễn Văn Sản (1999), Khi thực hiện một nghiên cứu về
quản lý vùng đệm tại 3 VQG: Ba Vì, Bạch Mã và Cát Tiên. Kết quả nghiên cứu đã
phản ánh khá rõ nét thực trạng vùng đệm ở Việt nam như: Tình hình KT-XH, tình
trạng bảo tồn tại các VQG và vùng đệm; hoạt động phát triển trong các vùng đệm;
tổ chức, thể chế cho quản lý vùng đệm… Các kết luận đưa ra mới dừng lại ở tầm vĩ
mô như nguyên tắc, phương hướng chung [12].
Trong một nghiên cứu của Đỗ Anh Tuân (2001) tại KBT thiên nhiên Pù Mát
về vấn đề: Nghiên cứu ảnh hưởng của bảo tồn tới kế sinh nhai của cộng đồng địa

phương và thái độ của họ về chính sách bảo tồn. Tác giả đã đánh giá sự thay đổi
sinh kế của người dân địa phương được hưởng lợi từ KBT với mức độ chấp nhận
của cộng đồng qua phân tích mối quan hệ giữa cộng đồng và tài nguyên rừng.
Nghiên cứu đã xác định các tỷ trọng thu nhập từ TNR trong tổng thu nhập chung
của thôn, nhưng chưa cụ thể cho từng dân tộc và từng nhóm kinh tế hộ. Tác giả cho
rằng, người dân địa phương hầu như vẫn còn sử dụng TNR một cách hợp pháp. Tại
thời điểm nghiên cứu, Thu nhập bình quân hằng năm từ rừng của một HGĐ thuộc
vùng đệm chiếm 34% tổng thu nhập hộ và trong vùng bảo vệ nghiêm ngặt chiếm
62% tổng thu nhập hộ. Việc thành lập KBT thiên nhiên Pù Mát (năm 1997) đã làm
giảm 50% thu nhập từ rừng do diện tích đất canh tác của họ giảm đi từ 30% - 71,4%,
mặc dù có một vài chương trình hỗ trợ được thực hiện tại KBT thiên nhiên, nhưng
chưa bù lại được những thiệt hại của họ[31]
Nguyễn Bá Ngãi và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu về khả năng thu
hút các cộng đồng địa phương vào quản lý và sử dụng đất lâm nghiệp tại khu phục


13

hồi sinh thái. Các tác giả cho rằng hệ thống chính sách hiện nay là đầy đủ để có thể
thu hút cộng đồng, người dân địa phương vào quản lý, sử dụng các khu rừng đặc
dụng, không thể loại trừ cộng đồng ra khỏi quyền hưởng lợi từ VQG và đề xuất mô
hình quản lý đất đai trong khu phục hồi sinh thái của VQG Ba Vì [18].
Vũ Văn Thịnh (2004), khi nghiên cứu Thực trạng và giải pháp nâng cao thu
nhập bền vững cho các hộ dân tộc thiểu số ở vùng đệm VQG Ba Vì đã đánh giá:
Hình thức tác động vào TNR là biểu hiện của những mâu thuẫn giữa nhu cầu và lợi
ích của người dân địa phương với mục đích quản lý, sử dụng TNR của VQG. Mức
độ của mâu thuẫn tuỳ thuộc vào mức độ chênh lệch về lợi ích giữa các bên liên
quan. Cộng đồng và người dân địa phương sẽ luôn có những mâu thuẫn nhất định
đối với công tác bảo tồn ở mỗi VQG, KBT bởi họ chưa nhận thấy việc bảo tồn là
thực sự cần thiết và cấp bách khi chưa có nguồn sinh kế khác thay thế cho nguồn

sinh kế từ rừng hiện nay [26].
Theo Quách Đại Ninh (2003) khi đánh giá tác động của chính sách giao đất
lâm nghiệp đến quá trình phát triển kinh tế hộ gia đình. Qua nghiên cứu một số hộ
gia đình có đất lâm nghiệp và không có đất lâm nghiệp trong địa bàn xã Bắc An,
huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; tác giả kết luận rằng chính sách giao và khoán đất
lâm nghiệp đã làm thay đổi nhận thức của người dân vào rừng. Sau khi nhận đất,
các hộ gia đình yên tâm sản xuất và sử dụng đất một cách hợp lý nâng cao thu nhập,
cải thiện đời sống. Tuy nhiên, đề tài chưa đưa ra được một số mô hình sản xuất mà
người dân ưa thích, đồng thời phù hợp với điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội của
vùng nghiên cứu để các hộ gia đình tham khảo và phát triển sản xuất (dẫn theo Bùi
Minh Tân,2009)[24]
Nguyễn Thị Phương (2003) khi “Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa
phương vùng đệm đến tài nguyên rừng VQG Ba Vì- Hà Tây”, đã vận dụng phần
mềm SPSS trong việc tổng hợp và xử lý số liệu về hình thức tác động và các
nguyên nhân tác động và chỉ ra rằng: Cộng đồng ở đây sống chủ yếu bằng nghề
nông nhưng diện tích đất nông nghiệp rất ít và năng suất lúa thấp. Vì vậy, để giải
quyết nhu cầu cuộc sống hàng ngày họ tác động tới tài nguyên rừng dưới nhiều hình


14

thức như: Sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hoá, khai thác sản phẩm với mục đích
tiêu dùng, chăn thả gia súc….trong đó hình thức sử dụng đất rừng để sản xuất hàng
hoá cho tỷ trọng thu nhập cao nhất trong cơ cấu thu nhập của cộng đồng (36,4%).
Tuy nhiên, đề tài chưa đánh giá được mức độ tác động tới tài nguyên rừng của các
dân tộc, các nhóm hộ khác nhau [19].
Vấn đề giảm đất đai canh tác của các cộng đồng do hình thành VQG là một
thực tế diễn ra ở nhiều nơi. Đỗ Thị Hà cho rằng sau khi thành lập VQG Tam Đảo,
đất của các hộ trong thôn bị mất đi, thu nhập về lâm nghiệp tập trung vào một số
chủ rừng, ảnh hưởng tới sự phân công lao động trong HGĐ [16].

Trần Ngọc Thể (2009),Trong nghiên cứu tác động người dân đến tài nguyên
rừng tại VQG Ba Bể đã kết luận canh tác nông nghiệp là nghề chủ đạo trong khu
vực, tuy nhiên diện tích đất lúa nước ít, yếu tố mùa vụ còn phụ thuộc nhiều vào
thiên nhiên, năng suất lúa thấp. Sản xuất lâm nghiệp chưa được chú trọng, đóng góp
từ lâm nghiệp cho tổng thu nhập của HGĐ còn mờ nhạt chưa tương xứng với tiềm
năng và thế mạnh của khu vực về lĩnh vực này. Các giải pháp đi làm thuê; buôn bán;
tác động vào TNR được người dân lựa chọn để bù đắp nhu cầu lương thực và sinh
hoạt hàng ngày, trong đó tác động vào TNR là giải pháp được đa số các HGĐ lựa
chọn bởi sức hấp dẫn về lợi nhuận và khả năng chủ động.[25]
Lê Văn Gọi(2009), Nghiên cứu sinh kế của người dân địa phương tại xã Mã
Đà thuộc KBT thiên nhiên và Di tích Vĩnh Cửu về sự phụ thuộc của sinh kế vào tài
nguyên rừng đã nhận xét: Thu nhập của người dân có phụ thuộc vào các nhóm sinh
kế, đặc biệt là nhóm ngành trồng trọt, sau đến nhóm ngành chăn nuôi, không phụ
thuộc nhiều vào các hoạt động liên quan tới rừng. Nói cách khác, thu nhập từ rừng
không phải là yếu tố quyết định sự sống còn của người dân ở đây, nó là yếu tố ảnh
hưởng gián tiếp hoặc mang tính hỗ trợ tới thu nhập. Đó cũng là những chỉ báo tốt
dưới góc độ quản lý tài nguyên rừng hiện tại ở khu vực[15].
Bùi Minh Tân (2009) khi nghiên cứu tác động và sự phụ thuộc của người dân
đến tài nguyên rừng KBT thiên nhiên và di tích Vĩnh Cửu tại xã Phú Lý chỉ ra rằng
do diện tích đất nông nghiệp canh tác chỉ chiếm 12,9%, diện tích đất Lâm nghiệp do


15

KBT quản lý và chỉ giao cho 57 hộ nhận khoán bảo vệ rừng, một số công việc khác
mang tính thời vụ nên dẫn đến người dân xâm hại vào rừng để lượm trai cục, hái
măng, lồ ô, lá giang, mây, lá nón, tre, nấm, cây thuốc để phục vụ nhu cầu trong gia
đình. Đề tài khi phân tích cơ cấu thu nhập gia đình mới phân tích đơn biến mà chưa
xem xét đến mối quan hệ ảnh hưởng đến tổng thu nhập từ nhiều biến về yếu tố sản
xuất và yếu tố hiệu quả [24].

Tại VQG Bidoup – Núi Bà cũng đã có một vài khảo sát, trong đó có Dự án
về Tăng cường năng lực quản lý dựa vào cộng đồng, được tài trợ bởi Cơ quan Hợp
tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) năm 2009, những khảo sát giới hạn trong việc tạo lập
cơ sở dữ liệu ở 05 thôn mục tiêu để làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch hành
động nếu cần thiết và đặc biệt là phục vụ như một cơ sở để so sánh và đánh giá
những thay đổi trong tương lai của cộng đồng[42].
Từ nghiên cứu tổng quan cho thấ y:
Hầu hết các khu rừng đặc dụng được nhận định đều có giá trị to lớn về đa
dạng sinh học, ngoài ra còn là tiềm năng để xoá đói giảm nghèo nếu biết quản lý và
tác động đúng cách và đất đai là nguồn lực chủ yếu mà người dân xung quanh KBT,
VQG phát triển kinh tế hộ. Việc không cho người dân thâm nhập, tiếp cận nguồn
tài nguyên trong KBT, VQG tất yếu làm nảy sinh mâu thuẫn giữa cộng đồng địa
phương, KBT, VQG với mục đích bảo tồn.
Phát huy kiến thức và kinh nghiệm của cộng đồng, người dân địa phương
cùng tham gia quản lý và chịu trách nhiệm, sẽ góp phần mang lại thành công trong
chiến lược bảo tồn đa dạng sinh học.
Cho đến nay, vấn đề nghiên cứu tác động của cộng đồng, người dân địa
phương địa phương tới TNR ở các khu rừng đặc dụng Việt Nam chỉ ở khía cạnh
đơn lẻ, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện.
Mặt khác, các nghiên cứu cũng chưa thống nhất để xây dựng được hệ thống
các chỉ tiêu, chỉ số để đánh giá mức độ tác động của các dân tộc khác nhau, loại hộ
khác nhau nên các giải pháp còn chung chung, chưa giải quyết được khó khăn thực
tế của người dân.


16

Trong khi đó, ở mỗi mô ̣t nghiên cứu thường hướng đế n những cô ̣ng đồ ng dân
cư cu ̣ thể , do vậy khi đưa ra các giải pháp khó áp du ̣ng cho các cô ̣ng đồ ng, người
dân ở những khu vực khác.

Mỗi thời kỳ do tiế n triǹ h phát triể n của xã hô ̣i những thay đổi trong chiế n lươ ̣c
lớn về ngành, cũng như những chiń h sách về KT-XH thì viê ̣c nghiên cứu, đánh giá
phải thường xuyên để từ đó có những giải pháp phù hơ ̣p ở từng điề u kiê ̣n cụ thể . Vì
vậy, vấn đề này cần tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện.


17

Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, GIỚI HẠN NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Góp phần xây dựng cơ sở lý luận giảm thiểu những tác động bất lợi vào tài
nguyên rừng của người dân địa phương sống gần rừng và phụ thuộc vào rừng tại
các khu rừng đặc dụng ở Việt Nam.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể.
Mục tiêu tổng quát trên được thể hiện qua 3 mục tiêu cụ thể:
1) Xác định được các hình thức và mức độ tác động của người dân địa
phương vào TNR thuộc quyền quản lý của VQG Bidoup- Núi Bà, tỉnh Lâm Đồ ng.
2) Xác định được các nguyên nhân chính dẫn đến những tác động bất lợi tới
TNR.
3) Đề xuất được các giải pháp giải thiểu các tác động bất lợi và thu hút người
dân tham gia vào quản lý TNR tại VQG Bidoup - Núi bà, tỉnh Lâm Đồ ng.
2.2. Đối tượng nghiên cứu.
Nhằm đạt các mục tiêu nghiên cứu trên, đối tượng nghiên cứu của đề tài là
những tác động bất lợi của người dân địa phương vào tài nguyên rừng thuộc quyền
quản lý của VQG Bidoup - Núi Bà, tỉnh Lâm Đồ ng.
2.3. Giới hạn nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu những tác động bất lợi của người dân địa phương

tại VQG Bidoup Núi Bà, tỉnh Lâm Đồ ng, những tác động tích cực (có lợi) không
thuộc phạm vi nghiên cứu chính của luận văn, nhưng luôn được chú ý nhằm tạo nền
tảng cho việc đề xuất các biện pháp bảo vệ, quản lý và phát triển tài nguyên rừng tại
khu vực nghiên cứu.
- Đề tài cũng giới hạn nghiên cứu những tác động bất lợi của người dân sống
trong trong phạm vi vùng đệm và vùng lõi VQG Bidoup Núi Bà, người dân sống
ngoài khu vực này không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài .


×