Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Phân tích và bình luận quy định tại điều 177 Luật thương mại năm 2005 về thời hạn đại lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.16 KB, 15 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
Trong hoạt động thương mại, bên trung gian thực hiện các dịch vụ nhằm tạo
điều kiện để bên có nhu cầu bán hàng, cung ứng dịch vụ… thiết lập quan hệ với
bên có nhu cầu mua hàng, sử dụng dịch vụ… hoặc thông qua bên này mà hàng
hoá, dịch vụ sẽ đến được với bên thứ ba. Ngay từ thế kỷ 19, luật pháp của nhiều
nước trên thế giới (như Pháp, Đức, Ý, Nhật) đã quan tâm điều chỉnh các hoạt
động thương mại qua trung gian. Ở nước ta, Luật Thương mại năm 2005 cũng đã
đưa ra định nghĩa về hoạt động trung gian thương mại. Giao dịch trung gian trong
hoạt động thương mại là phương thức giao dịch trong đó mọi việc thiết lập quan
hệ giữa người mua, cung ứng dịch vụ và người bán hàng hóa, sử dụng dịch vụ và
việc xác định các điều kiện giao dịch phải thong qua một người trung gian. Theo
quy định trong Luật thương mại năm 2005, hoạt động trung gian thương mại được
xác định là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho
một hoặc một số thương nhân được xác định. Trong đó, hoạt động trung gian
thương mại bao gồm : Đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác
mua bán hàng hóa và đại lý thương mại.
Đại lý thương mại là một hình thức trung gian thương mại khá phổ biến hiện
nay. Trong hoạt động đại lý thương mại, các bên tham gia có các quyền và nghĩa
vụ pháp lý được pháp luật thương mại quy định tương đối cụ thể và rõ ràng, một
trong những quyền cơ bản được quy định trong luật là quyền đơn phương chấm
dứt hợp đồng. Để làm rõ hơn về vấn đề này, em xin chọn cho mình đề bài số 3 :
“Phân tích và bình luận quy định tại điều 177 Luật thương mại năm 2005 về
thời hạn đại lý.” làm nội dung bài tập học kỳ.
NỘI DUNG
I – Khái quát chung về đại lý thương mại.
1. Khái niệm, đặc điểm của đại lý thương mại :


a. Khái niệm :
Điều 166 Luật thương mại 2005 quy định: “ Đại lý thương mại là hoạt động
thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thỏa thuận việc bên địa lý nhân
2


danh chính mình mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ
của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao. ”
b. Đặc điểm :
Theo quy định của Luật thương mại Việt Nam hiện hành, đại lý thương mại có
những đặc điểm cơ bản sau :
Thứ nhất, về bản chất :
Đại lý thương mại là quan hệ trung gian thương mại, mua bán hộ để hưởng thu
lao. Theo đó, bên giao đại lý thực hiện công việc, hoặc là mua bán hàng hóa cho
bên giao đại lý, hoặc là cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng. Bên
giao đại lý thanh toán thu lao cho bên đại lý. Bên đại lý không phải là người mua
hàng mà chỉ là người nhận hàng từ bên giao đại lý rồi tiếp tục bán cho bên thứ ba.
Khi hàng hóa được bán, quyền sở hữu hàng hóa được chuyển từ bên giao đại lý
cho bên thứ ba.
Thứ hai, về chủ thể : bao gồm hai bên :
- Bên giao đại lý : là thương nhân giao hàng hóa cho đại lý bán hoặc giao
tiền cho đại lý mua hoặc ủy quyền thực hiện dịch vụ cho đại lý cung ứng
dịch vụ.
- Bên đại lý : là thương nhân nhận hàng hóa để làm đại lý bán, nhận tiền mua
hàng để làm đại lý mua hoặc nhận ủy quyền cung ứng dịch vụ.
Theo quy định tại Điều 167 Luật thương mại 2005, bên đại lý và bên giao đại
lý đều phải là thương nhân.
Ngoài ra, trong một số lĩnh vực đặc thu, pháp luật chuyên ngành có quy định
khác về chủ thể trong quan hệ đại lý, cụ thể :
- Một số ngành nghề không bắt buộc bên đại lý phải là thương nhân như : đại

lý bảo hiểm, bên đại lý có thể là tổ chức, cá nhân và không buộc phải đăng
ký kinh doanh.
- Dịch vụ đại lý liên quan đến ngành nghề hạn chế kinh doanh, kinh doanh
có điều kiện, các bên tham gia còn phải đáp ứng đầy đủ những điều kiện
3


khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành, ví dụ đại lý kinh doanh
xăng dầu, đại lý internet, bán buôn – bán lẻ thuốc lá,...
Thứ ba, về tư cách pháp lý trong giao dịch với người thứ ba :
Khác với quan hệ đại diện cho thương nhân, trong quan hệ giữa bên đại lý và
khách hàng, bên đại lý nhân danh chính mình chứ không nhân danh bên giao đại
lý. Trong quan hệ đại lý thương mại bên giao đại lý và bên đại lý đều nhân danh
chính mình trong các giao dịch kinh tế, pháp lý.
Việc giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ
theo hợp đồng đại lý, bên đại lý tự do lựa chọn bên thứ ba để ký kết hợp đồng.
Thứ tư, về cơ sở pháp lý của quan hệ đại lý thương mại :
Quan hệ đại lý thương mại được xác lập trên cơ sở hợp đồng. Hợp đồng đại lý
được giao kết giữa thương nhân đại lý và thương nhân giao đại lý. Điều 168 Luật
thương mại 2005 quy định: “ Hợp đồng đại lý phải được lập thành văn bản hoặc
bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương” . Các hình thức có giá trị
tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình
thức khác theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, về nội dung của hợp đồng đại lý:
Nội dung của hợp đồng đại lý bao gồm việc giao kết, thực hiện hợp đồng đại
lý giữa bên giao đại lý và bên đại lý và giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ giữa bên đại lý với bên thứ ba theo yêu cầu của
bên giao đại lý.
Để thực hiện hoạt động đại lý, bên đại lý được quyền tự do lựa chọn bên thứ
ba để giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc hợp đồng cung ứng dịch vụ theo

những quy định cụ thể trong hợp đồng đại lý. Khi giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa hoặc hợp đồng cung ứng dịch vụ với bên thứ ba, bên đại lý nhân danh
chính mình và nghĩa vụ phát sinh từ hợp dồng với bên thứ ba ràng buộc bên đại lý
với bên thứ ba. Sau đó, bên đại lí trực tiếp thực hiện hợp đồng mua bán hang hóa
hoặc cung ứng dịch vụ với bên thứ ba.
2. Các hình thức đại lý thương mại :
4


Hình thức đại lý là cách thức mà các bên tham gia quan hệ đại lý lựa chọn để
thực hiện hợp đồng đại lý. Hình thức đại lý có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
kinh doanh của các chủ thể. Từ hình thức đại lý có thể xác định được quyền và
nghĩa vụ của các bên. Theo Điều 169 LTM năm 2005, đại lý bao gồm các hình
thức sau:
• Đại lý bao tiêu: là hình thức đại lý mà bên đại lý thực hiện việc mua, bán trọn
vẹn một khối lượng hàng hóa hoặc cung ứng đầy đủ một dịch vụ cho bên giao đại
lý. Trong hình thức đại lý này, bên giao đại lý ấn định giá giao đại lý, bên đại lý
quyết định giá bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng, do đó, thu lao mà
bên đại lý được hưởng là mức chênh lệch giữa giá mua, giá bán thực tế so với giá
mua, giá bán do bên giao đại lý quyết định.
• Đại lý độc quyền: là hình thức đại lý mà tại một khu vực địa lý nhất định bên
giao đại lý chỉ giao cho một đại lý mua bán hoặc một số mặt hàng hoặc cung ứng
một số loại dịch vụ nhất định.
• Tổng đại lý mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ: là hình thức đại lý mà bên
đại lý tổ chức một hệ thống đại lý trực thuộc để thực hiện việc mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý. Tổng đại lý là đối tác trực tiếp của bên giao
đại lý. Tổng đại lý đại diện cho hệ thống đại lý trực thuộc. Các đại lý trực thuộc
hoạt động dưới sự quản lý của tổng đại lý và với danh nghĩa của tổng đại lý.
• Các hình thức đại lý khác mà các bên đã thỏa thuận : trên thực tế hiện nay có
những hình thức đại lý du không được quy định trong LTM nhưng vẫn tồn tại

theo thỏa thuận hợp pháp của bên giao đại lý và bên đại lý như đại lý hoa hồng,
đại lý bảo đảm thanh toán,... Việc LTM 2005 mở rộng các hình thức đại lý thương
mại đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các thương nhân trong hoạt động
kinh doanh của mình.
3. Thời hạn đại lý :
Điều 149 Bộ luật dân sự quy định: “ Thời hạn là một khoảng thời gian được
xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác.”

5


Như vậy, thời hạn đại lý là một khoản thời gian xác định từ thời điểm này đến
thời điểm khác mà trong thời gian đấy, các bên trong quan hệ hợp đồng đại lý
phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận tại hợp đồng.
II – Phân tích và bình luận quy định tại điều 177 Luật thương mại năm 2005
về thời hạn đại lý.
1. Chủ thể và điều kiện thực hiện việc chấm dứt thời hạn đại lý.
Trong quan hệ đại lý thương mại, pháp luật quy định cụ thể các quyền và nghĩa
vụ cho các bên đối với bên còn lại. Cụ thể : quyền và nghĩa vụ của bên đại lý đối
với bên giao đại lý quy định tại Điều 174 và Điều 175 Luật thương mại 2005;
quyền và nghĩa vụ của bên giao đại lý đối với bên đại lý được quy định tại điều
173 Luật thương mại 2005. Một trong những quyền cơ bản trong quan hệ đại lý
thương mại là quyền chấm dứt hợp đồng đại lý được quy định tại điều 177 về thời
hạn đại lý, nội dung như sau :
“ 1. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thời hạn đại lý chỉ chấm dứt sau một
thời gian hợp lý nhưng không sớm hơn sáu mươi ngày, kể từ ngày một trong hai
bên thông báo bằng văn bản cho bên kia về việc chấm dứt hợp đồng đại lý.
2. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, nếu bên giao đại lý thông báo chấm
dứt hợp đồng theo quy định tại khoản 1 Điều này thì bên đại lý có quyền yêu cầu
bên giao đại lý bồi thường một khoản tiền cho thời gian mà mình đã làm đại lý

cho bên giao đại lý đó; Giá trị của khoản bồi thường là một tháng thù lao đại lý
trung bình trong thời gian nhận đại lý cho mỗi năm mà bên đại lý làm đại lý cho
bên giao đại lý.
3. Trong trường hợp thời gian đại lý dưới một năm thì khoản bồi thường được
tính là một tháng thù lao đại lý trung bình trong thời gian nhận đại lý.
4. Trường hợp hợp đồng đại lý được chấm dứt trên cơ sở yêu cầu của bên đại
lý thì bên đại lý không có quyền yêu cầu bên giao đại lý bồi thường cho thời gian
mà mình đã làm đại lý cho bên giao đại lý”.
- Về chủ thể : chủ thể có quyền chấm dứt thời hạn đại lý thương mại là bên đại
lý và bên giao đại lý. Theo điều 167 Luật thương mại 2005, bên đại lý và bên giao
đại lý đều phải là thương nhân, tức là “ Tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp,
6


cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký
kinh doanh.”
- Về điều kiện: Theo như Khoản 1 Điều 177 quy định nếu không có thỏa thuận
khác thì các bên có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý và chỉ cần thông
báo cho bên kia về việc chấm dứt hợp đồng đại lý trong thời hạn quy định là sáu
mươi ngày. Và việc thông báo chấm dứt hợp đồng đại lý phải được thể hiện bằng
hình thức văn bản.
Như vậy, thời hạn đại lý chấm dứt được xem xét khi đáp một trong hai điều
kiện sau :
Thứ nhất, theo thỏa thuận giữa các bên:
Nếu như các bên có thỏa thuận hợp đồng đại lý chấm dứt tại một thời điểm
nhất định, hoặc nếu xảy ra một sự kiện, hành vi nhất định… thì khi đó, thời hạn
đại lý kết thúc và hai bên chấm dứt hợp đồng đại lý.
Ví dụ : Trong hợp đồng đại lý giữa bên đại lý A và bên giao đại lý B có điều
khoản quy định: “Hợp đồng đại lý có hiệu lực từ ngày 09/03/2016 đến ngày
09/03/2018. Trong thời gian này, nếu bên đại lý và bên giao đại lý vi phạm một

trong các nghĩa vụ đã quy định trong hợp đồng trên thì bên còn lại có quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng đại lý tại thời điểm pháp hiện vi phạm.” Như vậy,
thời hạn đại lý này do hai bên thỏa thuận và chấm dứt khi hợp đồng hết hạn hoặc
khi một trong các bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và bên còn lại đơn phương
chấm dứt hợp đồng đại lý.
Thứ hai, theo quy định của pháp luật : Các bên có quyền chấm dứt thời hạn
sau một thời gian hợp lý nhưng không sớm hơn sáu mươi ngày, kể từ ngày một
trong hai bên thông báo bằng văn bản cho bên kia về việc chấm dứt hợp đồng đại
lý.
2. Về hậu quả pháp lý của việc chấm dứt thời hạn đại lý :
Khi chấm dứt thời hạn đại lý, quyền và nghĩa vụ các bên sẽ được thực hiện
theo thỏa thuận. Nếu không có thỏa thuận, hậu quả pháp lý khi chấm dứt thời hạn

7


được thực hiện theo khoản 2 và khoản 3 Điều 177 Luật thương mại 2005. Theo
như quy định tại điều luật này, có thể chia thành hai trường hợp :
Trường hợp bên giao đại lý thông báo chấm dứt thời hạn đại lý, trong trường
hợp này bên đại lý có quyền yêu cầu bên giao đại lý bồi thường một khoản tiền
cho thời gian mà mình đã làm đại lý cho bên giao đại lý đó :
- Giá trị của khoản bồi thường là một tháng thu lao đại lý trung bình trong thời
gian nhận đại lý cho mỗi năm mà bên đại lý làm đại lý cho bên giao đại lý.
- Trong trường hợp thời gian đại lý dưới một năm thì khoản bồi thường được
tính là một tháng thu lao đại lý trung bình trong thời gian nhận đại lý.
Trường hợp bên đại lý yêu cầu chấm dứt hợp đồng đại lý thì bên đại lý không
có quyền yêu cầu bồi thường cho thời gian mà mình đã làm đại lý cho bên giao
đại lý.
Có thể xem xét một tình huống cụ thể để làm rõ vấn đề này :
Ví dụ : Tháng 01 năm 2015, giám đốc Công ty cổ phần S ký hợp đồng đại lý

mua bán hàng hóa với giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn M. Theo hợp đồng,
công ty S phải thực hiện việc bán nước cam ép do công ty M sản xuất với giá
thành sản phẩm được công ty M ấn định. Thời hạn đại lý là 3 năm từ ngày hợp
đồng có hiệu lực. Đầu năm 2016, công ty S nhận được đề nghị giao kết hợp đồng
đại lý mua bán nước ép từ công ty nước giải khát V. Vì vậy, công ty S quyết định
đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý với công ty M và yêu cầu công ty M bồi
thường 50 triệu cho khoảng thời gian công ty S đã làm đại lý cho công ty M.
Yêu cầu bồi thường của công ty S sẽ giải quyết như thế nào?
Có thể thấy hành vi trên của công ty S, trong trường thuộc nội dung thỏa thuận
của hai bên, thì hợp pháp; nếu không thuộc nội dung thỏa thuận của hai bên, là
trái với quy định của pháp luật.
Thứ nhất là việc công ty S quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý
với công ty M. Theo hợp đồng đã ký thì công ty S sẽ làm đại lý cho công ty M
trong thời hạn 3 năm, kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực. Để đảm bảo cho các bên
tự do, chủ động hơn trong quan hệ đại lý pháp luật vẫn cho phép các bên đơn
8


phương chấm dứt hợp đồng đại lý, cụ thể được quy định tại Khoản 2, Khoản 3
Điều 177 Luật Thương mại năm 2005. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 177 Luật
Thương mại năm 2005 về thời hạn đại lý thì “Trừ trường hợp có thỏa thuận khác,
thời hạn đại lý sẽ chấm dứt sau một thời gian hợp lý nhưng không sớm hơn sáu
mươi ngày, kể từ ngày một trong hai bên thông báo bằng văn bản cho bên kia về
việc chấm dứt hợp đồng đại lý”.Như vậy cả bên đại lý và bên giao đại lý đều có
quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý và chỉ cần thông báo cho bên kia
trong một khoảng thời gian hợp lí (không sớm hơn 60 ngày). Do vậy việc công ty
S đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý với công ty M là phu hợp với quy định
của pháp luật.
Thứ hai là việc công ty S yêu cầu công ty M bồi thường 50 triệu cho khoảng
thời gian công ty S làm đại lý cho công ty M. Theo quy định tại Khoản 2 Điều

177 LTM 2005 thì vấn đề bồi thường trong quan hệ đại lý chỉ đặt ra đối với bên
giao đại lý khi bên giao đại lý thông báo về việc chấm dứt hợp đồng đại lý: “Trừ
trường hợp có thỏa thuận khác, nếu bên giao đại lý thông báo chấm dứt hợp đồng
theo quy định tại khoản 1 Điều này thì bên đại lý có quyền yêu cầu bên giao đại
lý bồi thường một khoản tiền cho thời gian mà mình đã làm đại lý cho bên giao
đại lý đó” , còn trường hợp hợp đồng đại lý chấm dứt do yêu cầu của bên đại lý
thì không đặt ra vấn đề bồi thường. Cụ thể, Khoản 3 Điều 177 quy định: “Trường
hợp hợp đồng đại lý được chấm dứt trên cơ sở yêu cầu của bên đại lý thì bên đại
lý không có quyền yêu cầu bên giao đại lý bồi thường cho thời gian mà mình đã
làm đại lý cho bên giao đại lý”. Như vậy, trong trường hợp này công ty S với tư
cách là bên đại lý đã đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý với công ty M, công
ty S không có quyền yêu cầu công ty M bồi thường 50 triệu cho khoảng thời gian
công ty S làm đại lý và công ty M cũng không có nghĩa vụ phải bồi thường cho
công ty S.
Tuy nhiên, vấn đề bồi thường có thể đặt ra đối với bên đại lý, tức công ty S.
Bởi, hợp đồng ký kết giữa các bên là hợp đồng đại lý có thời hạn 3 năm. Nếu hết
thời hạn này, công ty S chấm dứt hợp đồng thì sẽ không phải bồi thường. Trong
trường hợp chưa hết thời hạn 3 năm, công ty S đơn phương chấm dứt hợp đồng
đại lý, trong hợp đồng mà có quy định phạt vi phạm về vấn đề này thì sẽ giải
quyết theo hợp đồng (“mức phạt không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị
9


vi phạm” – Điều 301 Luật Thương mại). Còn nếu trong hợp đồng không có quy
định về phạt vi phạm, hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng của công ty S mà
gây thiệt hại cho công ty M thì sẽ phải bồi thường phần tổn thất này.
3. Một số điểm tích cực, hạn chế trong quy định về thời hạn đại lý :
a. Điểm tích cực :
Thứ nhất, quy định về đơn phương chấm dứt thời hạn đại lý trong quan hệ đại
lí thương mại trong LTM 2005 có nhiều điểm tiến bộ so với quy định trong LTM

1997. Điều 126 LTM 1997 quy định về các trường hợp được chấm dứt hợp đồng
đại lý, trong đó, “một bên có quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng khi việc vi
phạm hợp đồng của bên kia là điều kiện để đình chỉ hợp đồng mà các bên đã thỏa
thuận”. Hay nói cách khác, theo quy định của LTM 1997, các bên chỉ có quyền
chấm dứt thời hạn đại lý khi bên kia không thực hiện, thực hiện không đầy đủ
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy
định của pháp luật. Nhưng trong LTM 2005 đã quy định rộng hơn các trường hợp
chấm dứt thời hạn đại lý của các bên, nếu không có thỏa thuận gì khác thì các bên
có quyền chấm dứt thời hạn hợp đại lý bất cứ khi nào nhưng phải thông báo bằng
văn bản trước một khoảng thời gian ít nhất là sáu mươi ngày.
Thứ hai, so với quy định của Bộ Luật dân sự 2005 về quyền đơn phương chấm
dứt hợp đồng dịch vụ thì quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý được quy
định tại Luật thương mại 2005 cũng có sự mở rộng về các trường hợp đơn
phương chấm dứt hợp đồng.
b. Điểm hạn chế :
Mặc du có những điểm tiến bộ hơn so với Luật thương mại 1997, nhưng sau
10 năm tồn tại, quy định về thời hạn đại lý tại điều 177 đã bộc lộ nhiều hạn chế.
Cụ thể như sau :
Thứ nhất, về các trường hợp chấm dứt thời hạn đại lý thương mại. LTM 2005
quy định mở rộng các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý thương
mại. Theo đó, trong trường hợp không có thỏa thuận khác, các bên có quyền chấm
dứt hợp đồng đại lý thương mại mà chỉ cần thông báo cho bên kia bằng văn bản
trong thời hạn quy định. Cụ thể, pháp luật quy định thời hạn báo trước việc đơn
10


phương chấm dứt hợp đồng đại lý ít nhất sáu mươi ngày để bên kia có thời gian
chuẩn bị, điều chỉnh lại hoạt động đại lý của mình trước khi chấm dứt hoàn toàn
quan hệ đại lý. Quy định cụ thể thời hạn báo trước cũng như hình thức thông báo
nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm khi một bên đơn phương chấm

dứt hợp đồng trước thời hạn đại lý. Có thể thấy, quy định về việc đơn phương
chấm dứt hợp đồng đại lý không cần lý do phu hợp với tinh thần chung của LTM
2005, phu hợp điều kiện hội nhập của đất nước.
Tuy nhiên,việc quy định tự do đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý của các
bên trong nhiều trường hợp này sẽ làm ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của bên kia,
mặt khác quy định này cũng khiến cho quan hệ đại lý không còn được vững chắc,
gắn bó đúng như bản chất của nó, việc thúc đẩy hoạt động thương mại thông qua
đại lý thương mại cũng bị ảnh hưởng không nhỏ.
Thứ hai, về việc xác định thời gian thông báo và giá trị bồi thường trong việc
đơn phương chấm dứt hợp đồng rất phức tạp. Tuy nhiên, cách quy định giá trị
khoản bồi thường của LTM 2005 lại mang tính chủ quan, không phu hợp nguyện
tắc tính bồi thường thiệt hại. Điều 177 chỉ quy định bồi thường về thu lao. Trong
khi đó, trên thực tế bên đại lý phải tốn thêm rất nhiều chi phí khác.
Thứ ba, về quyền lợi của bên giao đại lý khi thông báo chấm dứt thời hạn đại
lý đúng pháp luật : Khoản 2 Điều 177 quy định về hậu quả pháp lý trong trường
hợp bên giao đại lý thông báo chấm dứt thời hạn đại lý đúng thời hạn báo trước
tại khoản 1. Tuy nhiên, về việc đòi bồi thường của bên đại lý khi bên giao đại lý
thông báo chấm dứt hợp đồng quy định chưa hợp lý, chưa bao quát được tất cả
các trường hợp. Không phải trong bất cứ trường hợp nào bên giao đại lý yêu cầu
chấm dứt hợp đồng cũng là vi phạm hợp đồng đã kí.
Thứ tư, theo quy định tại Khoản 3 Điều 177 LTM 2005 : “Trường hợp hợp
đồng đại lý được chấm dứt trên cơ sở yêu cầu của bên đại lý thì bên đại lý không
có quyền yêu cầu bên giao đại lý bồi thường cho thời gian mà mình đã làm đại lý
cho bên giao đại lý”. Quy định như vậy chưa thực sự hợp lý, chưa bảo vệ được
quyền lợi của bên đại lý trong trường hợp bên giao đại lý không thực hiện, thực
hiện không đủ, thực hiện không đúng nghĩa vụ buộc bên đại lý phải chấm dứt hợp
đồng.
11



4. Kiến nghị hoàn thiện một số quy định tại Điều 177 Luật thương mại
2005 về thời hạn đại lý :
Hợp đồng đại lý thương mại là một loại hợp đồng dịch vụ, do đó, vấn đề liên
quan đến bồi thường thiệt hại khi một bên đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý
cần được quy định phu hợp với quy định của Bộ luật dân sự. Ngày 24/11/2015
vừa qua, Quốc hội bắt đầu bỏ phiếu thông qua Bộ luật dân sự 2015. Đã 10 năm kể
từ ngày Luật thương mại 2005 ra đời, sau khi Bộ luật dân sự 2015 được thông
qua là thời điểm thích hợp cần có những quy định mới, cụ thể và chi tiết hơn về
tất cả các vấn đề liên quan đến hợp đồng đại lý, đặc biệt trong đó đến trường hợp
đơn phương chấm dứt hợp đồng và vấn đề bồi thường thiệt hại. Cung với các
điểm tích cực và hạn chế như đã nêu trên, em xin đưa ra một số đề xuất hoàn
thiện các quy định của LTM 2005 về thời hạn đại lý như sau :
Thứ nhất, cần quy định cụ thể hơn các trường hợp chấm dứt thời hạn đại lý:
Luật thương mại cần quy định về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý
trong trường hợp hai bên không thỏa thuận về thời gian làm đại lý. Trong trường
hợp này, trách nhiệm bồi thường của bên giao đại lý cần được xem xét hợp lý hơn
bởi trong trường hợp này, đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý thường không có
sự vi phạm của các bên.
Thứ hai, trong quy định về giá trị khoản bồi thường nên bổ sung về chi phí
quản lí như : vận chuyển, bảo quản hàng hóa, xây dựng cơ sở hạ tầng. Ngoài ra có
thể tính phí cơ hội như bên đại lý bỏ qua cơ hội làm đại lý cho bên khác để làm
đại lý cho bên giao đại lý hoặc chi phí phát sinh khi việc bên giao đại lý đơn
phương chấm dứt hợp đồng đại lý thương mại làm cho việc sản xuất kinh doanh
của bên đại lý không ổn định được. Vì thông thường, bên đại lí thường chịu nhiều
thiệt hại khi chấm dứt hợp đồng đại lý thương mại hơn là bên giao đại lý. Việc bồi
thường theo khoản 2 Điều 177 Luật thương mại 2005 là quy định cứng của pháp
luật, tuy nhiên hợp đồng đại lý là một loại hợp đồng dịch vụ dân sự nên nó mang
những đặc điểm chung của hợp đồng dân sự đó là sự thỏa thuận, do đó việc bồi
thường có thể được hai bên thỏa thuận để phu hợp điều kiện và hoàn cảnh thực
tại.


12


Thứ ba, cần quy định cụ thể về quyền lợi của bên giao đại lý khi chấm dứt thời
hạn đại lý đúng pháp luật : LTM 2005 chỉ quy định quyền yêu cầu bồi thường
thiệt hại cho bên đại lý nhưng bên giao đại lý cũng cần được sự bảo vệ của pháp
luật khi bên đại lý đơn phương chấm dứt hợp đồng. Khi bên đại lý đơn phương
chấm dứt hợp đồng, bên giao đại lý cũng phải gánh chịu những hậu quả như :
hàng hóa giao cho bên đại lý không đảm bảo số lượng cũng như chất lượng do
quy trình bảo quản của bên đại lý, bên đại lý tiết lộ bí mật kinh doanh cho bên đối
thủ hoặc bên đại lý bán hàng hóa dịch vụ giá cao hơn giá bên giao đại lý ấn định
(đối với đại lý hoa hồng). Như vậy, bên giao đại lý cũng là bên phải gánh chịu
những thiệt hại nhất định của việc chấm dứt thực hiện hợp đồng nên Luật thương
mại cũng cần bổ sung quy định bảo vệ quyền lợi cho bên giao đại lý khi bên đại
lý đơn phương chấm dứt hợp đồng.
Thứ tư, pháp luật cần quy định cụ thể quyền lợi của bên đại lý khi chấm dứt
thời hạn đại lý đúng pháp luật:
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 177 LTM 2005, trong mọi trường hợp bên đại
lý yêu cầu chấm dứt hợp đồng thì đều không có quyền yêu cầu bên giao đại lý bồi
thường; quy định này sẽ không bảo vệ quyền lợi của bên đại lý trong trường hợp
bên giao đại lý không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ buộc bên đại
lý phải chấm dứt hợp đồng. Cụ thể, trong trường hợp này LTM cần có những sửa
đổi theo hướng quy định trong khoản 2 Điều 525 Bộ luật dân sự 2005: “ Trong
trường hợp bên thuê dịch vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện
không đúng theo thoả thuận thì bên cung ứng dịch vụ có quyền đơn phương chấm
dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
Luật thương mại 2005 chỉ quy định một số trường hợp về việc chấm dứt hợp
đồng đại lý. Nên khi áp dụng cần phải quay trở lại luật gốc, cụ thể là Bộ Luật Dân
sự 2005. Đại lý thương mại có những đặc trưng riêng nên việc quy định cụ thể về

các trường hợp chấm dứt hợp đồng là cần thiết, nhất là trong điều kiện hiện nay
khi mà hình thức đại lý đang ngày càng được mở rộng phạm vi cũng như lĩnh vực
hoạt động.

13


KẾT LUẬN
Nền kinh tế Việt Nam đang vận động và thay đổi một cách mạnh mẽ. Cung với
sự thay đổi đó là sự xuất hiện nhiều hoạt động thương mại phong phú, đa dạng.
Đại lý thương mại cũng vậy, trên địa bàn cả nước luôn tồn tại nhiều đại lý với
hình thức đa dạng và phong phú. Để quản lý hoạt động của các đại lý một cách
hiệu quả đồng nghĩa với việc pháp luật cần nâng cao vai trò của mình trong thực
tiễn hơn nữa. Pháp luật luôn phải điều chỉnh các quy định sao cho phu hợp với
nền kinh tế thị trường nhằm đưa pháp luật trở thành một công cụ pháp lý hiệu quả
trong quan hệ thương mại cũng như các quan hệ xã hội khác.

PHỤ LỤC
Danh mục tài liệu tham khảo :
14


1. Giáo trình luật thương mại (tập 2) – Trường ĐH Luật Hà Nội (NXB
CAND);
2. Luật Thương mại năm 2005.
3. Luật Thương mại năm 1997.
4. Bộ luật Dân sự năm 2005.
5. Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12 tháng 6 năm 2006 quy định chi tiết
luật thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và
kinh doanh có điều kiện.

Một số link tài liệu tham khảo :
/> />
• Từ viết tắt trong bài :
LTM : Luật thương mại

15



×