Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

Vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy học một số kiến thức chương “Cơ học” Vật Lí 8 THCS với sự hỗ trợ của phương tiện trực quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 78 trang )

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa...............................................................................................................i
Lời cam đoan .............................................................................................................ii
Lời cảm ơn ................................................................................................................iii
PHỤ LỤC

1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt

Viết đầy đủ

BTNB

Bàn tay nặn bột

ĐC

Đối chứng

GV

Giáo viên

HS

Học sinh



SGK

Sách giáo khoa

PTTQ

Phương tiện trực quan

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TN

Thực nghiệm

2


DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang


Số hiệu biểu

Tên biểu

Trang

3


DANH MỤC HÌNH, ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ
Số hiệu hình

Tên hình

Trang

Số hiệu sơ đồ

Tên sơ đồ

Trang

Số hiệu đồ thị

Tên đồ thị

Trang

4



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đất nước ta
đang thực hiện chính sách mở cửa, đẩy mạnh quan hệ với các nước trên thế giới, để
đáp ứng yêu cầu của xã hội chúng ta phải đào tạo được những con người con người
mới năng động, theo kịp với xu thế phát triển của thời đại. Trong những năm qua,
Đảng và nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, chính sách để đổi mới, làm
hiện đại hóa nền giáo dục theo hướng tiếp cận các nền giáo dục tiên tiến thế giới
nhưng phù hợp với thực tiễn, văn hóa Việt Nam. Như vậy, đổi mới phương pháp
dạy học hiện nay ở trường phổ thông là tổ chức cho HS được học tập trong hoạt
động và bằng hoạt động một cách tích cực. Phương pháp dạy và học phải được cải
tiến theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của HS, phải rèn luyện được cho HS
kĩ năng sống và làm việc trong một xã hội hiện đại: kĩ năng thu thập, xử lí thông tin;
kĩ năng giải quyết vấn đề; kĩ năng làm việc hợp tác... Điều này được thể hiện rõ
trong mục 2 điều 28 Luật giáo dục: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng
lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm;
rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho HS” [2].
Vật lí học là một khoa học thực nghiệm. Ở lứa tuổi THCS các em luôn muốn
khám phá những điều mới lạ, muốn tự mình tìm ra những điều mình còn thắc mắc
trong quá trình nhận thức. Các em có khả năng điều chỉnh các hoạt động của mình
trong đó có hoạt động học tập, sẵn sàng tham gia các hoạt động khác nhau nhưng cần
phải có sự hướng dẫn, điều chỉnh một cách khoa học của mỗi một GV chúng ta. Sử
dụng phương pháp trực quan giúp cho HS quan sát, chiếm lĩnh các kiến thức từ đó hình
thành và phát triển tư duy tích cực, độc lập sáng tạo cho HS. Vì vậy, trong quá trình
dạy học, GV cần tích cực dùng thí nghiệm và các phương tiện trực quan nhằm tái tạo
quá trình tìm kiếm tri thức vật lí, kiểm chứng tính đúng đắn của các định luật, giải thích

các hiện tượng Vật lí... nhờ đó trực quan hóa, kích thích hứng thú học tập, làm tăng
niềm tin vào khoa học cho HS. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều GV bộ môn trong quá
5


trình dạy học sử dụng các phương tiện dạy học một cách độc lập, vẫn chưa biết kết hợp
với phương pháp dạy học nên hiệu quả đạt được không cao.
Dạy học khoa học dựa trên tìm tòi nghiên cứu không quan tâm đến lượng
thông tin được ghi nhớ trong một thời gian ngắn mà ngược lại là những ý tưởng hay
khái niệm dẫn đến sự hiểu biết ngày càng sâu hơn cùng với sự lớn lên của HS. Do
đó việc hình thành cho HS một thế giới quan khoa học và niềm say mê khoa học,
sáng tạo là một mục tiêu quan trọng của giáo dục hiện đại khi mà nền kinh tế tri
thức đang dần dần chiếm ưu thế tại các quốc gia trên thế giới. Bàn tay nặn bột
(BTNB) là một phương pháp dạy học tích cực, thích hợp cho việc giảng dạy các
kiến thức khoa học tự nhiên, đặc biệt là đối với bậc tiểu học và trung học cơ sở, khi
HS đang ở giai đoạn bắt đầu tìm hiểu mạnh mẽ các kiến thức khoa học, hình thành
các khái niệm cơ bản về khoa học. Phương pháp này kích thích tính tò mò, ham
muốn khám phá và say mê khoa học của HS. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức
khoa học, phương pháp BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt
thông qua ngôn ngữ nói và viết cho HS[12]. Song BTNB ứng dụng trong dạy học
các môn khoa học ở Việt Nam còn rất hạn chế. Xuất phát từ những lí do trên, chúng
tôi chọn đề tài: “Vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy học một số kiến
thức chương “Cơ học” Vật Lí 8 THCS với sự hỗ trợ của phương tiện trực quan” với
mong muốn đóng góp một phần vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Vật lí ở
trường phổ thông hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Phương pháp dạy học BTNB là phương pháp dạy học khoa học dựa trên cơ sở
của sự tìm tòi - nghiên cứu, áp dụng cho việc dạy học các môn khoa học tự nhiên.
Phương pháp này được khởi xướng bởi Giáo sư Georges Charpak (Giải Nobel Vật lí
năm 1992). Theo phương pháp BTNB, dưới sự giúp đỡ của GV, chính HS tìm ra

câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí
nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra để từ đó hình thành kiến thức cho
mình. Đứng trước một sự vật hiện tượng, HS có thể đặt ra các câu hỏi, các giả
thuyết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành thực nghiệm nghiên cứu để kiểm
chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích,
tổng hợp kiến thức.
6


Bộ GD&ĐT đã tích cực triển khai áp dụng vào dạy học tại một số trường Tiểu
học và đã đạt những kết quả nhất định. Trên cơ sở kết quả ấy, năm học 2012-2013,
Bộ GD-ĐT đã ra quyết định triển khai thí điểm phương pháp này tại 63 tỉnh thành ở
cả bậc tiểu học và THCS trong cả nước đối với các khoa học tự nhiên là Lí, Hoá và
Sinh. Gần đây đã có một số công trình nghiên cứu vận dụng phương pháp BTNB
vào dạy học vật lí, như: Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Trà My “Tổ chức dạy học
chương điện từ Vật lí 9 THCS theo phương pháp Bàn tay nặn bột” [18] đã trình bày
khá kĩ về cơ sở lí luận của phương pháp BTNB và đề xuất quy trình tổ chức dạy học
theo phương pháp BTNB. Bên cạnh đó còn có một số công trình nghiên cứu về
công nghệ thông tin, các phương tiện dạy học hiện đại. Như “Sử dụng máy vi tính
trong dạy học vật lí” - PGS.TS. Lê Công Triêm [21]; “Sử dụng thí nghiệm mô
phỏng và thí nghiệm ảo trong dạy học vật lí” - PGS.TS Lê Công Triêm [22]. “Thí
nghiệm và phương tiện trực quan trong dạy học vật lí ở trường phổ thông” PGS.TS Lê Văn Giáo [12]; “Nghiên cứu sử dụng thí nghiệm với sự hỗ trợ của máy
vi tính trong dạy học một số kiến thức Cơ học và Nhiệt học THPT” - PGS.TS Trần
Huy Hoàng [14]; “Sử dụng thí nghiệm trong tổ chức dạy học nhóm phần Quang
Hình Học, Vật lí 11 THPT với sự hỗ trợ của máy vi tính" - Nguyễn Thị Mỹ Lợi
[17]. Nhìn chung các đề tài này đã tập trung đề cập khá đầy đủ đến việc sử dụng
máy vi tính, đa phương tiện vào quá trình dạy học vật lí.
Tuy nhiên cho đến nay chưa có tác giả nào nghiên cứu phương pháp BTNB
trong dạy học phần “Cơ học” Vật lí 8 THCS với sự hỗ trợ của PTTQ. Trong phạm
vi đề tài của mình, chúng tôi sẽ kế thừa những kết quả của các công trình nghiên

cứu trước đây, đồng thời sử dụng kết hợp giữa việc vận dụng phương pháp BTNB
và PTTQ góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức cho HS, nâng cao chất lượng
học tập của HS lớp 8 ở trường THCS hiện nay.
3. Mục tiêu của đề tài
Xây dựng được quy trình tổ chức dạy học một số kiến thức chương “Cơ học”
Vật Lí 8 THCS theo phương pháp BTNB với sự hỗ trợ của PTTQ.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được quy trình tổ chức dạy học theo phương pháp BTNB với sự
hỗ trợ của phương tiện trực quan và vận dụng quy trình đó vào dạy học một số kiến
7


thức chương “Cơ học” Vật Lí 8 THCS thì sẽ nâng cao chất lượng dạy học vật lí ở
trường THCS.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu, đề tài cần phải thực hiện các nhiệm
vụ nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng phương pháp BTNB
với sự hỗ trợ của phương tiện trực quan trong dạy học;
- Nghiên cứu cấu trúc, đặc điểm, nội dung một số kiến thức chương “Cơ
học” Vật Lí 8 THCS phù hợp với phương pháp BTNB;
- Nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp hỗ trợ của phương tiện trực quan
trong việc sử dụng phương pháp BTNB vào dạy học vật lí ở trường THCS;
- Thiết kế một số bài dạy học trong chương “Cơ học” Vật lí 8 THCS, sử dụng
phương pháp BTNB với sự hỗ trợ của phương tiện trực quan;
- Thực nghiệm sư phạm để đánh giá mục tiêu, giả thuyết khoa học của đề tài.
6. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động dạy học chương “Cơ học” Vật lí 8 THCS theo phương pháp BTNB
với sự hỗ trợ của phương tiện trực quan.
7. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu việc sử dụng phương pháp BTNB với sự hỗ trợ
của PTTQ vào dạy học một số kiến thức chương “Cơ học” Vật Lí 8 THCS cho HS
tại một số trường THCS tỉnh Quảng Nam.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, các văn bản của nhà nước và của ngành
về đổi mới giáo dục phổ thông, về phương pháp PTTQ;
- Nghiên cứu những cơ sở lí luận, những tài liệu liên quan, các bài báo, tạp chí
và ý kiến của các nhà khoa học giáo dục về phương pháp BTNB và việc sử dụng
PTTQ trong quá trình dạy học cho HS;
- Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa, sách bài tập, tài liệu tham
khảo chương Cơ học” Vật lí 8 THCS.

8


8.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Trao đổi với GV và HS để tìm hiểu thực trạng dạy học phần “Cơ học” Vật lí
8 THCS;
- Thiết kế một số giáo án theo phương pháp BTNB có sự hỗ trợ của PTTQ.
8.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Tiến hành thực nghiệm sư phạm có đối chứng tại một số lớp của trường THCS
tại tỉnh Quảng Nam để đánh giá hiệu quả của đề tài.
8.4. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lí các kết quả thực nghiệm sư
phạm nhằm kiểm định giả thuyết thống kê về sự khác biệt trong kết quả học tập của
hai nhóm thực nghiệm và đối chứng.
9. Đóng góp của đề tài
- Xây dựng được cơ sở lí luận của việc tổ chức dạy học theo phương pháp
BTNB với sự hỗ trợ của PTTQ;

- Xây dựng được quy trình tổ chức hoạt động dạy học một số kiến thức
chương “Cơ học” Vật lí 8 THCS theo phương pháp BTNB với sự hỗ trợ của PTTQ;
- Xây dựng tiến trình các bài dạy cụ thể trong chương “Cơ học” Vật lí 8 THCS
theo phương pháp BTNB với sự hỗ trợ của PTTQ để phát huy được tính tích cực,
chủ động cho HS, đồng thời rèn luyện kĩ năng thực hành, phát triển ngôn ngữ khoa
học kèm theo sự vững vàng trong lập luận cho HS, góp phần làm nâng cao chất
lượng dạy học vật lí trường THCS.
10. Cấu trúc luận văn
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc tổ chức dạy học theo phương
pháp BTNB với sự hỗ trợ của PTTQ
Chương 2: Xây dựng quy trình tổ chức dạy học một số kiến thức chương “Cơ
học” Vật lí 8 THCS theo phương pháp BTNB với sự hỗ trợ của PTTQ
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
9


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
TỔ CHỨC DẠY HỌC THEO PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT VỚI SỰ
HỖ TRỢ CỦA PHƯƠNG TIỆN TRỰC QUAN
1.1. Tiếp cận tìm tòi - khám phá trong dạy học môn vật lí
Tìm tòi khám phá khoa học là một trong những hoạt động tạo ra nhiều cơ hội
để rèn luyện và hình thành khả năng nhận thức. Thông qua các bài học về tự nhiên,
GV không những giúp trẻ mở rộng vốn tri thức nào đó, mà còn giúp họ hình thành
các năng lực tư duy, khả năng phán đoán và giải quyết vấn đề, nuôi dưỡng lòng say
mê khám phá… những tiền đề cần thiết cho trẻ em trong suốt cuộc đời.

Tìm tòi khám phá khoa học đề cập đến những con đường, cách thức khác
nhau, trong đó các nhà khoa học nghiên cứu thế giới tự nhiên và đề xuất các cách
giải thích dựa trên bằng chứng thu được từ hoạt động của mình. Tìm tòi - khám phá
cũng đề cập đến các hoạt động của người học, trong đó họ phát triển các kiến thức
và nhận thức được cách thức phát triển với các kiến thức đó. Trong cách tiếp cận
này, tìm tòi là con đường và khám phá là nơi đến. Tiếp cận tìm tòi - khám phá trong
dạy học nhấn mạnh việc HS tự mình phát hiện ra tri thức mới thông qua điều tra,
khảo sát, tìm tòi và làm thực nghiệm dưới sự định hướng của GV. HS được dạy theo
cách làm thế nào để hiểu biết về cuộc sống hơn là chỉ ghi nhớ các sự kiện, tiếp thu
thông tin một cách thụ động [9]. Như vậy việc học của mỗi cá nhân HS thực sự diễn
ra khi mỗi HS là một thực thể hoạt động kiến tạo kiến thức hơn là chủ động nhồi
nhét thông tin. Lí thuyết kiến tạo nhấn mạnh vai trò HS tự xây dựng kiến thức cho
mình dựa trên những trải nghiệm, sau đó vận dụng vào môi trường học tập của các
em. Ngoài kiến tạo nhận thức, lí thuyết kiến tạo cũng nhấn mạnh vai trò của kiến
tạo xã hội, tại đó môi trường học tập với các mối quan hệ tương tác có tính hợp tác
cũng được đề cao. Qua tương tác, HS kiểm tra, điều chỉnh quá trình tư duy của
mình thông qua việc lắng nghe tranh luận hay hợp tác với người khác. Đôi khi chỉ
lắng nghe ý tưởng của người khác cũng có thể giúp họ sáng tạo ra những ý tưởng
của riêng mình. Bên cạnh đó việc học tập hiệu quả cao đòi hỏi HS phải có khả năng
kiểm soát việc học chính mình. Điều đó có nghĩa rằng HS có thể nhận thức về quá
10


trình học tập của mình và có thể phân tích, thay đổi quan niệm sao cho phù hợp với
bằng chứng thực tế đó. Hay nói cách khác, lí thuyết kiến tạo là một trong những cơ
sở lí thuyết của dạy học theo tiếp cận tìm tòi - khám phá.
Mỗi nhóm lứa tuổi có đặc trưng riêng về chất lượng trí tuệ và được coi là một
giai đoạn phát triển. Các giai đoạn phát triển trí tuệ của HS có sự kế thừa ở giai
đoạn trước và được phát triển ở giai đoạn sau. Đối với HS bậc THCS, đặc biệt ở
những lớp đầu bậc, thao tác cụ thể vẫn đóng vai trò cơ bản. Chất lượng của các thao

tác cụ thể này phụ thuộc nhiều vào các biểu tượng, các khái niệm mà người học có
được. Do đó trong hoạt động tìm tòi - khám phá, trẻ cần được thao tác trên các vật
liệu thật, dễ cảm nhận để xây dựng hiểu biết của mình về thế giới xung quanh.
Hoạt động tìm tòi - khám phá là hoạt động của người thầy hợp tác và của
người học suy nghĩ độc lập sáng tạo, trong đó HS tự tìm tòi khám phá, hay tìm tòi
khám phá có sự giúp đỡ của người thầy.
Như vật tìm tòi - khám phá liên quan đến các hoạt động và kĩ năng nhằm tích
cực tìm kiến thức và hiểu biết để thỏa mãn trí tò mò. Cho HS thấy cách học: học
cùng nhau; đưa ra những dự đoán hoặc đưa cho HS thấy cách phát triển các giả
thuyết; miêu tả các hình ảnh giúp HS có trí nhớ tốt; chia sẻ một sự so sánh giúp kết
nối thông tin... Có thể nói tìm tòi - khám phá là con đường hiệu quả để người học
được chủ động, học tích cực, rèn luyện cho HS những năng lực cần thiết của con
người thế kỉ XXI. Một trong những tiếp cận tìm tòi - khám phá trong các môn khoa
học nói chung và vật lí nói riêng là dạy học theo phương pháp bàn tay nặn bột.
1.2. Phương pháp bàn tay nặn bột
1.2.1. Khái niệm về phương pháp bàn tay nặn bột
“Bàn tay nặn bột” (tiếng Pháp: "La main à la pâte"; tiếng Anh: Hand on) là
một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho
việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên. "Bàn tay nặn bột" chú trọng đến việc
hình thành kiến thức cho HS bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các
em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến
hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra…[9].
Với một vấn đề khoa học đặt ra, HS có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ
những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra
những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức.
11


Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, BTNB luôn coi HS là trung
tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội

kiến thức dưới sự giúp đỡ của GV.
Phương pháp BTNB đề cao vai trò chủ thể tích cực, độc lập sáng tạo của HS,
hình thành cho HS phương pháp học tập đúng đắn. Đặt HS vào vị trí của một nhà
khoa học, các em có thể tự tìm tòi, khám phá ra kiến thức thông qua việc độc lập
tiến hành các thí nghiệm khoa học, trao đổi, thảo luận trong các nhóm với sự giúp
đỡ, hướng dẫn của GV. HS học tập nhờ hành động, cuốn hút mình trong hành động,
học tập tiến bộ dần bằng cách tự nêu những thắc mắc, nghi vấn, hỏi đáp với bạn,
trình bày quan điểm của mình, đối lập với các quan điểm của người khác, tranh
luận, tạo ra môi trường học tập tích cực [18].
Mục tiêu của BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say
mê khoa học của HS. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, BTNB còn chú
ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho HS.
Vai trò của GV khi dạy học theo phương pháp BTNB là phải biết kích thích,
tạo hứng thú, giúp cho các em xây dựng kiến thức bằng hành động bên cạnh họ
(hành động đối với mỗi cá nhân HS, mỗi nhóm và cả lớp). GV đề ra các tình huống,
những thách thức mà HS cần phải vượt qua, là người định hướng các hoạt động
giúp các em chiếm lĩnh dần những khái niệm và tiến trình khoa học.
Như vậy, trong phương pháp BTNB, HS hoàn toàn chủ động trong học tập.
HS tự nghiên cứu, tranh luận, trao đổi với nhau. GV cho các em quan sát một sự vật
hay hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với chúng, từ đó hình thành những
nghi vấn, suy nghĩ và tìm ra hướng giải quyết thuyết phục để trả lời những nghi vấn
đó. Trong quá trình hoạt động, HS trao đổi, lập luận, chia sẻ những ý tưởng của
mình, làm cho họ hiểu lẫn nhau, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác,
đồng thời biết cách bảo vệ ý kiến của mình.
1.2.2. Các nguyên tắc của phương pháp bàn tay nặn bột
Nội dung cơ bản của phương pháp BTNB được trình bày trong cuốn sách của
Geogres Chapark [10], trong đó có 10 nguyên tắc cơ bản bao gồm 6 nguyên tắc về
tiến trình sư phạm và 4 nguyên tắc về những đối tượng tham gia. Các nguyên tắc đề
cập đến quan điểm giáo dục, phương pháp giáo dục và đề cập đến trách nhiệm xã
hội và gia đình.

12


Nguyên tắc 1: Trẻ em phải được học qua việc quan sát các sự vật hiện tượng
của thế giới thực xảy ra hằng ngày, gần gũi và dễ cảm nhận đối với HS và được HS
thực hành, tiến hành các thí nghiệm qua đó tiếp thu các kiến thức mới.
Nguyên tắc 2: Trong quá trình tìm hiểu, trẻ lập luận , bảo vệ ý kiến, đưa ra
tranh luận tập thể những ý nghĩ, quan điểm và lập luận của mình, từ đó trẻcó được
những hiểu biết về mọi mặt mà chỉ với những hoạt động, thao tác riêng rẽ trong các
giờ học thông thường không đủ điều kiện để tạo nên điều đó.
Nguyên tắc 3: Những hoạt động của trẻ dưới sự điều phối của GV được tổ
chức theo một tiến trình sư phạm nhằm nâng cao dần mức độ tiếp thu tự lực và sang
tạo của trẻ; Các hoạt động này làm cho các nội dung chương trình học được nâng
cao và dành phần lớn hoạt động ở nhà trường cho sự tự chủ của HS.
Nguyên tắc 4: Cần có một thời lượng tối thiểu là 2 giờ học các môn khoa học
cho 1 tuần và một đề tài có thể kéo dài trong vài tuần.
Nguyên tắc 5: Mỗi trẻ có một cuốn vở thực hành do chính các em ghi chép
theo cách thức và ngôn ngữ của riêng mình.
Nguyên tắc 6: Qua các hoạt động, HS chiếm lĩnh dần các khái niệm khoa học
và kĩ thuật, kèm theo đó là sự cũng cố và phát triển ngôn ngữ viết và nói.
Nguyên tắc 7: Gia đình và khu phố khuyến khích tham gia vào các công việc
của lớp học.
Nguyên tắc 8: Ở địa phương, các đối tác khoa học giúp các hoạt động của lớp
học theo khả năng của mình.
Nguyên tắc 9: Ở địa phương các viện đào tạo GV, giúp GV những kinh
nghiệm và phương pháp tổ chức theo phương pháp BTNB.
Nguyên tắc 10: GV có thể tìm thấy trên các trang web những bài học đã được
thực hiện, những ý tưởng về việc thực hiện các hoạt động, những giải đáp thắc mắc
về tất cả những gì liên quan đến phương pháp bàn tay nặn bột; GV có thể cùng trao
đổi với đồng nghiệp, các nhà sư phạm và các nhà khoa học.

Như vậy bạn có thể tổ chức dạy học theo cách này hay cách khác nhưng các
nguyên tắc của phương pháp BTNB, đặc biệt là 6 nguyên tắc đầu cần được tôn
trọng và nó chi phối toàn bộ quá trình tổ chức dạy học. GV xây dựng nội dung
xuyên suốt qua các bài học với điều kiện, nội dung các bài học được lựa chọn phải
13


tạo thuận lợi cho việc thực hiện các nguyên tắc, đặc biệt là nguyên tắc thứ nhất. Vì
thế những nội dung mang tính trừu tượng cao hoặc đi sâu vào cơ chế vi mô thường
không được lựa chọn vì nó không thõa mãn nguyên tắc này. Đây cũng chính là
nguyên tắc lựa chọn nội dung dạy học theo phương pháp BTNB.
1.2.3. Những đặc trưng nổi bật của phương pháp bàn tay nặn bột
Sự ra đời của phương pháp BTNB xuất phát từ những đòi hỏi bức thiết của xã
hội. Trong đó quản lí kinh tế, văn hóa, xã hội đòi hỏi những phương thức mới sang
tạo hơn, tự chủ và mang tính cạnh tranh hơn. Do đó mà công dân thế kỉ XXI cần có
năng lực hòa nhập, kĩ năng sống và làm việc trong mọi trường đa văn hóa và đặt
biệt có năng lực cạnh tranh. Trong xu thế chung, phương pháp BTNB đã đón đầu và
nhắm tới các năng lực này. Dưới đây là một số đặt trưng của phương pháp BTNB.
1.2.3.1. Rèn cho HS tư duy và phương pháp làm việc của nhà khoa học
Hoạt động nghiên cứu có thể được thực hiện với nhiều cách thức khác nhau.
Có nhiều cách để giải quyết một vấn đề khoa học, tùy theo vấn đề cần giải quyết,
tùy theo điều kiện lớp học. Tuy nhiên, trong thực tế, người ta thấy rằng việc kết hợp
các cách thức khác nhau này thường là hữu ích trong hoạt động nghiên cứu khoa
học. Có 4 cách thức chính được thực hiện trong tiến trình nghiên cứu khoa học:
nghiên cứu qua quan sát, nghiên cứu thực nghiệm, nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu
qua mô hình. Tiến trình nghiên cứu nhấn mạnh rằng vấn đề trong tình huống phải là
những vấn đề có nghĩa đối với người học, HS phải làm nổi rõ vấn đề cần giải quyết,
diễn đạt vấn đề và tiếp nhận nó và mong muốn giải quyết vấn đề đặt ra
Do đó, 4 nguyên tắc cơ bản sau cần tuân theo trong tiến trình:
- Tình huống làm nảy sinh vấn đề cần phải thách thức các kiến thức đã có của

người học, kích thích hoạt động sao cho nảy sinh vấn đề;
- Vấn đề phải làm bộc lộ quan niệm của mỗi HS về một khái niệm, một mối
quan hệ, một quy tắc hoặc về một hiện tượng nào đó...;
- Sẽ không đúng nếu chỉ mô tả thí nghiệm rồi kết luận thí nghiệm đúng hay
sai, điều quan trọng là HS ý thức được vấn đề và phải được nghiên cứu một cách tự
nguyện, có ý thức;
- Thảo luận là cần thiết để cho phép người học giải thích suy nghĩ của họ, họat
động trong tiến trình nghiên cứu, HS được đặt trước những thách thức, các xung đột
14


để thấy các giới hạn hiểu biết của mình và nó hình thành nên các giả thuyết cần
được kiểm chứng.
Như vậy, mục đích của việc đưa HS vào tiến trình nghiên cứu là cho phép
người học xây dựng kiến thức bằng cách diễn đạt các ý nghĩ, làm sáng tỏ những lập
tuân, kiểm tra các giả thuyết và thực hiện nghiên cứu một cách nghiêm túc. Tiến
trình sẽ gắn kết các câu hỏi của HS với thế giới thực tại, dẫn HS đến việc theo đuổi
một nghiên cứu bởi chính họ, trong đó GV là người "đồng hành".
1.2.3.2. Rèn cho HS từng bước làm chủ ngôn ngữ nói và viết
Dạy học các môn khoa học đem lại cho HS khả năng tư duy logic và tư duy
khoa học. Tư duy khoa học và ngôn ngữ không thể tách rời nhau. Sự phát triển của
tư duy khoa học và ngôn ngữ có liên quan chặt chẽ với nhau, thể hiện ở việc phát
triển khả năng suy luận chính xác, chặt chẽ và phát triển khả năng hình thành các
khái niệm khoa học. Như vậy, sự có mặt của ngôn ngữ khoa học đã trở thành
phương tiện quy định và kiểm soát cả việc thực hiện các hoạt động khoa học lẫn tư
duy khoa học [10].
Phương pháp BTNB khuyến khích HS trao đổi bằng ngôn ngữ nói về những
cái quan sát được những giả thuyết, những thí nghiệm và những giải thích. Một số
HS có khó khăn về ngôn ngữ sẽ phát biểu ý kiến của mình một cách tự giác hơn khi
họ thực hiện các thao tác trong hoạt động khoa học. Khi đó, buộc người học phải

làm việc tập thể và phải đối mặt với các hiện tượng tự nhiên. Qua tranh luận, người
học học cách bảo vệ quan điểm của mình, biết lắng nghe người khác, biết thừa nhận
ý kiến người khác trên cơ sở lí lẽ, biết làm việc cho mục đích chung trong một
khuôn khổ nhất định.
Sự phát triển ngôn ngữ ở HS phụ thuộc rất lớn vào cách thức tương tác tích
cực của HS và với GV. GV cần quan tâm đến kĩ năng tương tác và giao tiếp của
mình để từ đó có thể mang lại những điều kiện hỗ trợ phát triển ngôn ngữ tốt nhất
cho HS
Trong khi sử dụng ngôn ngữ viết, HS có thể sử dụng các sơ đồ, các hình vẽ…
Điều này đặc biệt quan trọng với sự sáng tạo của HS. Các nhà nghiên cứu tìm ra
rằng sự quan sát cẩn thận khi vẽ được thực hiện bởi não phải, nơi diễn ra các hoạt
động của trực giác và sự sáng tạo. Như vậy, vẽ theo quan sát sẽ phát triển khả năng
15


trực giác của não. Tưởng tượng có nghĩa là trực quan hóa, việc sử dụng các sơ đồ
biểu bảng, bản đồ, các hình vẽ giúp HS phát triển tư duy sáng tạo. Đó cũng là lí do
vì sao BTNB nhấn mạnh đến ngôn ngữ viết.
Như vậy, việc dạy HS phát triển ngôn ngữ và tích lũy vốn từ vựng khi còn nhỏ
là rất quan trọng. Điều đó có thể giúp trẻ làm chủ ngôn ngữ của mình, làm cơ sở cho
sự phát triển năng lực của HS. Làm chủ được ngôn ngữ không chỉ là sự mong đợi
của xã hội, của cha mẹ mà cũng là điểm hướng tới của nền giáo dục nước ta, đó
cũng là một trong những mục tiêu mà phương pháp BTNB.
1.2.3.3. Tạo thuận lợi cho HS bộc lộ và thay đổi quan niệm ban đầu theo con đường
kiến tạo
Dạy học các môn khoa học là cơ hội để khơi dậy sự tò mò, cho phép HS phát
triển tư duy khoa học, tư duy phản biện và lập luận logic. Bước đầu tiên trong tiến
trình nghiên cứu ở lớp học, theo quan điểm của phương pháp BTNB là làm nổi lên
quan niệm của HS về một chủ đề khoa học trước khi giải quyết nó trong lớp học.
Nhưng một khi các quan niệm đã được tính đến, điều quan trọng hơn là làm thế nào

để sử dụng nó có hiệu quả, làm thế nào sử dụng chứng để xây dựng ở HS kiến thức
khoa học. Đây là câu hỏi cần trả lời bằng cách tập trung tới khái niệm “quan niệm”.
Tiếp đó sẽ xem những lợi ích của nó là gì, những thái độ nào cần chấp nhận để đối
mặt với nó và cách sử dụng nó như thế nào [10].
Quan niệm có lợi ích đối với người học. Việc làm nổi lên các quan niệm cho
phép HS ý thức và nhận ra rằng quan niệm của mỗi HS thì không giống nhau..
Chính vì có nhiều quan niệm này làm nảy sinh vấn đề vào tạo động cơ cho hoạt
động học. HS sẽ dựa trên các quan niệm để thiết lập kiến thức, đắm mình trong việc
xây dựng kiến thức cho riêng mình. Nó làm nổi bật những chướng ngại HS gặp
phải. Từ phân tích các quan niệm, GV có thể đánh giá trình độ HS. nhận thức được
khoảng cách giữa quan niệm và kiến thức cần đạt được, xác định mục tiêu cho việc
học tập của HS để tổ chức các tình huống sư phạm phù hợp nhất. GV có thể có các
thái độ khác nhau đối với quan niệm của HS.
- Thái độ phớt lờ quan niệm của HS vì GV cho rằng nó không liên quan đến
việc học tập hoặc làm mất thời gian khi dạy. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu dạy học
đều đồng ý rằng các quan niệm có một vai trò quan trọng trong học tập và dạy học
sẽ không hiệu quả khi bỏ qua chúng hoặc né tránh chúng.
16


- Thái độ tìm mọi cách tốt nhất để làm cho quan niệm biến mất. GV chỉ cho
HS rằng họ sai bằng cách đưa ra kiến thức của bài làm cho HS nghi ngờ các quan
niệm, loại bỏ các quan niệm của mình bằng cách tiêu diệt nó.
- Thái độ sử dụng các quan niệm của HS để chính họ nhận ra sai lầm. GV dựa
trên các quan niệm “sai lầm” nhằm làm cho HS phát triển và thay đổi quan niệm.
Như vậy, trong quá trình dạy học, nếu GV thiếu ý thức về quan niệm của
người học có thể gây ra hậu quả khi chuyển tải kiến thức cho HS. Vì vậy, các nhà
nghiên cứu dạy học cần giúp GV xác định những quan niệm của HS và tìm cách
làm thay đổi quan niệm ở người học.
Để tiếp nhận được các quan niệm của HS, GV sẽ phải tìm một tình huống khởi

động để kích thích trí tò mò của HS nhưng đồng thời cũng yêu cầu họ tìm kiếm câu
trả lời. Các quan niệm của HS có thể được tiếp nhận theo các cách khác nhau, có
thể qua trao đổi, sau đó ghi lại trên bảng để giữ lại những gì HS đã nói. Phần lớn HS
ít khó khăn khi diễn đạt bằng lời. Tuy nhiên, cách này có hạn chế vì một số HS rụt
rè, thiếu tự tin hoặc sợ người khác đánh giá. HS có thể nêu quan niệm của mình qua
diễn đạt viết. Đó có thể là câu trả lời viết cho câu hỏi mở hoặc đóng hoặc một hình
vẽ, một sơ đồ...
Sử dụng các quan niệm của HS sau đó làm đối đầu các quan niệm. Thú vị nhất
là xuất phát từ vấn đề nổi lên trong lớp học và được diễn đạt bởi chính quan niệm
của người học. Điều này sẽ khuấy động lớp học xung quanh câu hỏi do cả lớp đem
lại, nó thúc đẩy HS ham muốn khám phá. Tiếp theo, GV phải làm đối đầu các quan
niệm của HS để làm rõ ràng sự khác biệt và từ đó làm nổi lên vấn đề, HS sau đó sẽ
đưa ra các dự đoán, giả thuyết để trả lời cho vấn đề. Sự “đối đầu” các quan niệm sẽ
làm phát triển ở HS năng lực sáng tạo, tư duy phản biện và năng lực xã hội cũng
như các kĩ năng phân tích, lập luận [10].
Do vậy, muốn trẻ xây dựng tri thức khoa học, người ta không tìm cách đưa ra
những thông báo chính xác mà cần tìm cách để sao cho người học, mỗi khi họ sai,
họ phải làm tiến triển quan niệm sai tiềm ẩn.
1.2.3.4. Rèn cho HS biết cách sử dụng vở thực hành
Vở thực hành là một công cụ quan trọng của phương pháp BTNB. Nó là nơi
hội tụ của việc dạy học các môn khoa học và nắm bắt ngôn ngữ. HS sử dụng vở
thực hành để ghi chép cá nhân và tập thể ở lớp. Những ghi chép đó có thể là:
17


- Những áp phích để lưu lại những kết luận, kết quả của những hoạt động đã
tiến hành hay đơn giản là công việc đã thực hiện;
- Những gì HS quan sát thấy, các phương án thí nghiệm đề xuất, các ý tưởng
các giải pháp, những lời giải thích... sẽ được ghi lại bằng chính ngôn ngữ của người
học và với sự giúp đỡ của GV;

- Ghi nháp, trong đó HS ghi lại một vài thông tin cần lưu giữ.
Vở ghi chép của cá nhân là công cụ làm việc để người học suy nghĩ về những
điều họ đã học được, về những khó khăn họ gặp phải cũng như những sai lầm và
những tiến bộ của chính mình. Những hạn chế về ngôn ngữ và lỗi chính tả có thể
tạm thời được chấp nhận trong các ghi chép cá nhân.
Vở thực hành cho phép HS lưu ghi lại những ý tưởng của mình và những ý
tưởng này được sửa chữa, bổ sung theo sự tiến bộ về nhận thức của người học. Vở
thực hành sẽ được HS sử dụng và lưu giữ trong suốt thời gian học ở nhà trường.
Điều này hình thành một tập ghi nhớ đặc biệt, nó được hoàn thiện và phát triển dần
bởi người học trong suốt quá trình học của họ.
Trong vở thực hành, người học cần ghi lại các hoạt động đã thực hiện ở lớp
học dưới hình thức ghi chép cá nhân hoặc tập thể. HS phải được lưu ý rằng, qua vở
thực hành, những khám phá, nhưng do dự và các câu hỏi được thể hiện qua các bản
vẽ, sơ đồ, hình ảnh, các bảng đo, biểu đồ, bản đồ, văn bản... Từ đó sẽ có những
chỉnh sửa và bổ sung theo sự hiểu biết của HS. Mặt khác, có thể giúp HS tham gia
tích cực vào việc bảo vệ các quan điểm của mình bằng lời nói trong các cuộc tranh
luận khoa học.
Như vậy, với việc rèn cho HS biết cách sử dụng vở thực hành, một lần nữa cho
thấy, phương pháp BTNB khẳng định mạnh mẽ rằng không thể tách việc học các
môn khoa học với học ngôn ngữ.
1.3. Sử dụng phương tiện trực quan hỗ trợ phương pháp bàn tay nặn bột
1.3.1. Các hình thức sử dụng phương tiện trực quan hỗ trợ phương pháp bàn tay
nặn bột trong dạy học vật lí
Trong dạy học, để tổ chức quá trình dạy học thuận lợi người ta phổ biến các
PTTQ, nhất là đối với HS phổ thông. Giai đoạn này cần đảm bảo cho HS nắm vững
các tài liệu trực quan, tức là thu nhận được nhiều tư liệu cảm tính càng tốt. Tư liệu
18


cảm tính càng phong phú thì sự trừu tượng hóa càng có kết quả. Việc sử dụng các

phương tiện trực quan trong dạy học nhằm giúp HS quan sát và từ đó giúp HS thu
nhận các thông tin về những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ - quan hệ
của những sự vật hiện tượng mà các em đang tìm hiểu. Tuy vậy việc quan sát phải
gắn bó với tư duy trừu tượng, trên cơ sở quát hóa thì nó để lại dấu ấn mạnh mẽ
trong ý thức HS.
Hoạt động nghiên cứu có thể được thực hiện với nhiều cách thức khác nhau.
Có nhiều cách để giải quyết một vấn đề khoa học, tùy theo vấn đề cần giải quyết,
tùy theo điều kiện lớp học. Tuy nhiên, trong thực tế, người ta thấy rằng việc kết hợp
các phương pháp nghiên cứu khác nhau này thường là hữu ích trong hoạt động
nghiên cứu khoa học. Có 4 phương pháp chính được thực hiện trong tiến trình
nghiên cứu khoa học trong phương pháp BTNB: nghiên cứu qua quan sát; nghiên
cứu thực nghiệm; nghiên cứu tài liệu; nghiên cứu qua mô hình.
Các PTTQ được sử dụng xuyên suốt trong các bước của phương pháp BTNB
như máy chiếu, videp clip, tranh ảnh, hình vẽ...
1.3.1.1. Máy chiếu hỗ trợ thí nghiệm tự tạo, thí nghiệm biểu diễn và các hiện tượng
vật lí
a. Thí nghiệm tự tạo
Các thí nghiệm trong phương pháp BTNB là những thí nghiệm tự tạo đơn
giản, không quá phức tạp, với các vật liệu dễ kiếm, gần gũi với HS, HS không cần
phải có phòng thực hành bộ môn riêng biệt. Để thiết kế và chuẩn bị cho các thí
nghiệm như vậy đòi hỏi GV cần phải tìm tòi, sáng tạo, học hỏi kinh nghiệm từ các
đồng nghiệp khác.
GV sử dụng PTTQ như máy chiếu có thể giới thiệu cho học sinh bộ sản phẩm
thí nghiệm tự tạo. Nếu không có sự hỗ trợ PTTQ, HS sẽ khó quan sát và nắm bắt
được dụng cụ thí nghiệm và tiến trình thực hiện, nhất là đối với phương pháp
BTNB, lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ.
- Thí nghiệm áp suất phụ thuộc vào độ sâu chất lỏng
Dụng cụ gồm 1 ống tizo dài, 1 tấm cao su có màng mỏng, 1 chậu nước, 1 chậu
nhỏ có đường kính khoảng 15 cm, 1 giá đỡ và 1 thước nhựa dài 30 cm.
19



Cách làm: Dùng keo gắn ống tizo lên tấm xốp để tạo ống thành hình chữ U;
dùng keo gắn thanh nhựa thẳng đứng ở giữa 2 nhánh của chữ U; đổ một ít
nước màu vào 2 ống thủy tinh; dùng tấm cao su bịt kín đầu miệng phễu.
Tiến hành thí nghiệm:
- Quan sát vạch nước màu ở 2 ống là cân bằng nhau, quan sát vạch chỉ ở trên
thước;
- Đưa phễu vào chậu nước sao cho mặt phễu luôn hướng xuống và đặt tại các
vị trí có độ sâu khác nhau, tại mỗi vị trí của phễu ta đánh dấu vị trí độ chênh lệch
của 2 cột nước màu;
- Lập bảng kết quả, đưa ra kết luận áp suất phụ thuộc độ sâu chất lỏng.

Hình 1.1. Thí nghiệm áp suất chất lỏng
- Thí nghiệm bình thông nhau.
Dụng cụ: Một chai nước (bằng nhựa) được đục một lỗ nhỏ ở ngang đáy chai,
một ống nhỏ, dài nối vào lỗ ở chai, một cái ly nhựa.

Hình 1.2. Thí nghiệm bình thông nhau

20


Cách làm: Đổ nước vào ngang vạch kẻ sẵn trong chai, sau đó nâng ống dây
đến sát thành chai; nâng đoạn ống dây lên xuống để HS nhận thấy rằng dù kéo lên
hay xuống thì mực nước ở bên chai và ở bên ống luôn cùng mặt phẳng nằm ngang.
Áp dụng: Dùng trong bài “Áp suất chất lỏng - Bình thông nhau”, có thể dùng
thay cho hình vẽ 8.8 trong SGK.
- Thí nghiệm lực đẩy Ac-si-mét
Thí nghiệm này chứng tỏ được sự tồn tại của lực đẩy Ac-si-mét. Chứng minh

được lực đẩy Ac-si-mét có độ lớn bằng trọng lượng của phần chất lỏng mà vật
chiếm chổ.
Chuẩn bị: 1 tấm gỗ 20cm x 15cm x 2cm, 1 thanh gỗ 40cm x 4cm x 1cm, 1
thanh gỗ 30cm x 3cm x 1cm, hai đĩa nhựa (đồ chơi trẻ em) , một con ốc vít nhỏ,
một bình tràn, hai chiếc cốc nhỏ, một hòn đá làm vật nặng, một số quả cân, một ít
dây thép nhỏ.
Cách làm: Dùng miếng gỗ làm chân đế; gắn (đóng đinh) đầu dưới thanh gỗ
vào giữa đế làm thân giá thí nghiệm; ở đầu trên dùng đinh vít gắn thanh gỗ để tạo
thành một cái cân thăng bằng (thanh gỗ có thể xoay quanh trục dễ dàng); dùng đoạn
thép gắn vào hai đĩa nhựa làm thành một đôi gióng (đôi quang gánh) rồi treo lên cân
thăng bằng; một bên cân bỏ các quả cân, bên còn lại bỏ một chiếc cốc.
Tiến hành thí nghiệm: Treo vật nặng vào bên cân có chiếc cốc, điều chỉnh sao cho
cân thăng bằng; từ từ cho vật nặng vào bình tràn, ta thấy cân không còn thăng bằng
nữa; đổ lượng nước tràn ra từ bình tràn vào chiếc cốc trên cân ta thấy cân thăng
bằng trở lại.
Giải thích: Khi cho vật nặng vào bình tràn, ta thấy cân không còn thăng bằng
nữa đó là do lực đẩy Ác-si-mét tác dụng lên vật; đổ lượng nước tràn ra từ bình tràn
vào chiếc cốc trên cân, ta thấy cân thăng bằng trở lại, điều đó chứng tỏ độ lớn của
lực đẩy Ác-si-mét bằng trọng lượng của phần chất lỏng bị vật chiếm chổ.
b. Thí nghiệm biểu diễn và hiện tượng vật lí
Nếu không có sự hỗ trợ của PTTQ thì HS rất khó quan sát và nắm bắt được
các hiện tượng vật lí xảy ra khi GV làm thí nghiệm trên mặt phẳng ngang hoặc các
thí nghiệm trên các dụng cụ có kích thước nhỏ.
Phối hợp sử dụng sự hỗ trợ của MVT và máy chiếu đa chức năng với các sơ
21


đồ, hình vẽ, những thiết bị hướng dẫn cần thiết giúp HS tiếp nhận kiến thức một
cách nhanh chóng và đầy đủ hơn.
1.3.1.2. Video clips

Trong dạy học Vật lí, video clip ghi lại một đoạn phim thí nghiệm mô tả các
hiện tượng vật lí diễn ra trong thực tế và được trình diễn trong tiết học. Thông
thường, đây là những hiện tượng không thể tiến hành trong phạm vi trường học,
nhưng nó có thể quan sát trong thực tế cuộc sống. Video clips thường được sử dụng
ở bước 1 (làm nảy sinh vấn đề) và bước 4 (lập luận, trao đổi xung quanh các kết quả
thu được. Hợp thức hóa kiến thức)

Hình 1.3. Video về hoạt động của tàu thủy trên biển
1.3.1.3. Tranh ảnh, hình vẽ
Quan sát trên vật thật được ưu tiên và khuyến khích thực hiện, tuy nhiên có
những trường hợp không cần thiết. Ví dụ các hiện tượng vật lí trong đời sống hằng
ngày, hình ảnh các nhà vật lí...

Hình 1.4. Một vài hình ảnh về ứng dụng của áp suất

22


Hình 1.5. Hình ảnh các nhà vật lí
1.3.1.4. Nghiên cứu tài liệu, sách giáo khoa, tạp chí
Nghiên cứu tài liệu, sách giáo khoa, tạp chí thường được sử dụng trong bước 4:
lập luận trao đổi xung quanh các kết quả thu được, hợp thức hóa kiến thức. Nghiên cứu
tài liệu được sử dụng để HS tìm ra câu trả lời cho câu hỏi mà chính các em tự đề xuất
dựa trên cơ sở mâu thuẫn giữa các nhận thức ban đầu (biểu tượng ban đầu) của HS,
không phải là nghiên cứu tài liệu để trả lời các câu hỏi mà GV đưa ra. Nghiên cứu tài
liệu chỉ nên sử dụng khi đã thực hiện được các phương pháp khác vì phương pháp này
không tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS. Có thể nói đây là một phương pháp
bổ trợ cho các phương pháp nói trên trong việc giúp HS tìm hiểu kiến thức một cách
đầy đủ hơn. Khi cho HS tiến hành phương pháp nghiên cứu tài liệu, GV giúp HS xác
định được động cơ đọc tài liệu và vấn đề nào cần quan tâm.


23


1.3.2. Đề xuất quy trình tổ chức dạy học vật lí theo phương pháp bàn tay nặn bột
với sự hỗ trợ của phương tiện trực quan
HỌC SINH

GIÁO VIÊN

HS quan sát đoạn video trên máy tính, máyGV
chiếu,
chuẩn
hoặc
bị một
thựctình
hiệnhuấn
thí nghiệm
mở có liên quan đến vấn đề kh
Bước 1:
Làm nảy sinh vấn đề

HS ngạc nhiên đặt ra câu hỏiKiểm soát lời nói, cấu trúc câu hỏi, chính xác hóa từ vự

HS trình bày các ý tưởng của mình,Chính
đối chiếu
xác hóa
vớicác
những
ý tưởng

bạn khác
của HS, tổ chức, đối chiếu các biể
Bước 2:
Đề xuất các dự đoán, giả thuyết

Giúp HS hình thành các vấn đề khoa học, tiếp theo đưa ra các g
Bắt đầu từ những vấn đề khoa học
xácýđịnh,
HS quan
xây dựng
(Chú
làm rõ,
tâm giả
đếnthuyết
sự khác biệt các ý kiến)

HS hình dung
thểviệc
kiểm
chứng
thí nghiệm,
sát,
tra,suy
nghiên
tài liệu
Tổ có
chức
đối
chiếugiả
cácthuyết

ý kiếnbằng
sau một
thời gianquan
đủ để
HSđiều
có thể
nghĩ,cứu
khẳng
định lại các ý kiế

3: giả thuyết của mình bằngTập
HS kiểmBước
chứng
một
hợp
hoặc
cáccác
điều
phương
kiện thí
pháp
nghiệm
đã hình
nhằm
dung
kiểm
ở trên
chứng các ý tưởng ng
Thực hiện các nghiên cứu


HS thu nhận các kết quả và ghi chép lại để trìnhGiúp
bàyHS phương pháp trình bày kết quả
Bước
HS kiểm tra lại tính hợp lý
của4:các giả thuyết mà HS đưa ra, có thể bằng thí nghiệm, bằng nghiên cứu tài liệu..
Lập luận trao đổi xung quang các kết quả thu được, hợp thức hóa kiến thức

Động viên HS và yêu cầu bắt đầu lại tiến hành nghi
ĐÚNG

SAI

Giúp HS lựa chọn các lý luận và hình thành kết l
Kết luận và ghi nhận chúng
Quay lại bước 3

GV sử dụng máy tính hoặc máy chiếu đưa các đoạn video, tranh ảnh về hiện tượng vật lí liên quan đến

Sơ đồ 1.1. Quy trình dạy học phương pháp BTNB với sự hỗ trợ của PTTQ
24


1.3.3. Phương tiện trực quan hỗ trợ các giai đoạn dạy học
theo phương pháp BTNB
a. Làm nảy sinh vấn đề
Tiến trình này giống như tiến trình giải quyết vấn đề. GV lựa chọn một nhiệm
vụ, một dự án, một thí nghiệm hay miêu tả một tình huống xuất phát nhằm khai thác
các quan niệm có trước hoặc ý tưởng người học. Từ đó làm nảy sinh vấn đề. Các
tình huống đưa ra ban đầu không nhất thiết phải xây dựng thành tinh huống có vấn
đề. Có thể gọi nó là nhiệm vụ học tập hay nhiệm vụ khám phá, tạo điều kiện thuận

lợi cho GV trong quá trình lựa chọn tình huống dạy học. Những tình huống này phải
thách thức kiến thức đã có của người học, kích thích hoạt động học sao cho nảy sinh
vấn đề, HS tiếp nhận vấn đề cần giải quyết và bắt tay vào giải quyết.
Khi tổ chức tình huống, đó là một tình huống trong cuộc sống thường ngày,
hoặc một tình huống giả định, đưa ra các tình huống mâu thuẩn tạo nên các cuộc
thảo luận.
Với việc sử dụng PTTQ, cách mở đầu bài học đã có những thuận lợi nhất định.
Trong giai đoạn này, GV có thể sử dụng máy tính hỗ trợ trong việc tóm tắt kiến thức
đã học từ các bài trước, đưa ra các hình ảnh, các đoạn phim về các hiện tượng vật lí
một cách trực quan và yêu cầu HS giải thích các hiện tượng đó. GV cũng có thể sử
dụng PTTQ như các phương tiện hỗ trợ (các loại bảng viết , thiết bị bổ trợ trong
trình chiếu…); các phương tiện ghi chép (giấy, bút…) và các phương tiện khác
nhằm hỗ trợ trong việc đưa ra các hiện tượng mới cần nghiên cứu, đặt ra những tình
huống có vấn đề đối với HS.
Ví dụ sau khi các em chơi với bóng mình dưới ánh mặt trời, các em được mời
vẽ bóng cây và mặt trời vào một tờ giấy. Việc xem xét các hình vẽ khác nhau gợi
nên các tranh cãi tại sao lại như thế, câu hỏi đặt ra tại sao các hình vẽ không giống
nhau ? Tại đây làm nảy sinh vấn đề. Hoặc HS có thể quan sát thí nghiệm, làm thí
nghiệm. Từ tình huống xuất phát đó GV đặt ra câu hỏi nêu vấn đề, làm bộc lộ quan
điểm ban đầu của HS. Câu hỏi nêu vấn đề cần đảm bảo yêu cầu phù hợp với trình
độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu của
HS nhằm chuẩn bị tâm thế cho HS trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức.
25


×