Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Bài tiểu luận RUIROKIEMTOAN HVNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.98 KB, 23 trang )

1


LỜI MỞ ĐẦU
Với điều kiện hội nhập quốc tế như hiện nay, các ngành, lĩnh vực đều có
những chuyển biến để nhanh chóng bắt kịp với xu thế toàn cầu hóa. Trong
bối cảnh đó, một ngành nghề mang tính chuyên môn và chuyên nghiệp
cao như kiểm toán cũng không ngoại lệ. Cùng với sự phát triển của kinh tế
thị trường, hoạt động kiểm toán đã hình thành và phát triển ở Việt Nam
trong hơn hai mươi năm qua, trở thành nhu cầu tất yếu đối với hoạt động
kinh doanh và góp phần nâng cao chất lượng quản lý doanh nghiệp. Kiểm
toán đã tham gia tích cực vào việc kiểm tra, đánh giá, xác nhận độ tin cậy
của các thông tin kinh tế tài chính, góp phần đáng kể vào hoạt động sắp
xếp, đổi mới, cổ phần hóa doanh nghiệp và thu hút các hoạt động đầu tư
của nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế đất nước. Như
vậy, kiểm toán đã khẳng định được vị trí và vai trò quan trọng trong nền
kinh tế.
Tuy nhiên, bất cứ ngành nào cũng chứa đựng những yếu tố rủi ro không
mong muốn, hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán cũng không nằm ngoài
quy luật đó. Chính vì vậy việc nghiên cứu các yếu tố rủi ro trong kiểm toán
là không thể thiếu trong bất kỳ cuộc kiểm toán nào. Với tầm quan trọng
như vậy, đề tài mà nhóm đã lựa chọn trình bày trong bài thảo luận này là
“Rủi ro kiểm toán”.
Qua bài thảo luận này, nhóm mong muốn sẽ đưa đến cho người đọc cái
nhìn tổng quan nhất về rủi ro kiểm toán, các bộ phận cấu thành rủi ro
kiểm toán, mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành rủi ro kiểm toán,
phương trình rủi ro kiểm toán, ma trận rủi ro phát hiện, phân tích một số
ví dụ thực tế để người đọc hiểu rõ hơn về rủi ro kiểm toán. Và cuối cùng là
đưa ra ý nghĩa của việc đánh giá rủi ro trong quá trình kiểm toán đối với
kiểm toán viên.
Mặc dù cả nhóm đã cố gắng hết sức song do thời gian nghiên cứu cũng


như sự hạn chế về hiểu biết nên bài thảo luận của nhóm còn nhiều thiếu
sót. Rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của cô giáo bộ môn cũng như
toàn thể các bạn. Xin trân trọng cảm ơn.

2


Lời cam đoan: Chúng tôi xác nhận rằng nhóm đã tự làm và hoàn thành bài
thảo luận này. Bất cứ nguồn tài liệu tham khảo được sử dụng trong bài tập
này đã được tôi chúng tôi tham chiếu rõ ràng.

3


Kết cấu của bài báo cáo:
Ngoài phần mở đầu, lời cam đoan, kết luận và tài liệu tham khảo, bài thảo
luận gồm:
Chương I: Rủi ro kiểm toán và các bộ phận cấu thành rủi ro kiểm toán.
Chương II: Mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành rủi ro kiểm toán, mô
hình rủi ro kiểm toán, ma trận rủi ro phát hiện.
Chương III: Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán, rủi ro kinh
doanh.
Nhóm sinh viên thực hiện:

1.
2.
3.
4.
5.
6.


Tạ Minh Đức
Trần Thị Hằng
Phạm Thị Thu Hằng
Võ Thị Thanh Hiền
Phùng Thị Khánh Huyền
Ngô Thanh Khôi
Tuy Hòa, ngày 24 tháng 3 năm 2017
Thay mặt nhóm (Nhóm trưởng)

Phạm Thị Thu Hằng

4


CHƯƠNG I: RỦI RO KIỂM TOÁN VÀ CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH RỦI
RO KIỂM TOÁN
I. Khái niệm rủi ro kiểm toán
1. Khái niệm:
Rủi ro kiểm toán là rủi ro do kiểm toán viên đưa ra ý kiến kiểm toán không
phù hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn chứa đựng sai sót
trọng yếu. Rủi ro kiểm toán là hệ quả của rủi ro có sai sót trọng yếu (gồm
rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát) và rủi ro phát hiện (VSA200).
2. Ví dụ:
Kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận toàn bộ các thông tin được kiểm
toán trong khi nó vẫn còn có các sai phạm trọng yếu hoặc ngược lại. Điều
này sẽ khiến người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định kinh tế, quyết
định quản lý sai.
II. Các bộ phận cấu thành rủi ro kiểm toán
1. Rủi ro có sai sót trọng yếu:

Là rủi ro khi báo cáo tài chính chứa đựng những sai sót trọng yếu trước khi
kiểm toán. Rủi ro có sai sót trọng yếu có thể tồn tại ở hai cấp độ:
Cấp độ tổng thể báo cáo tài chính;
Cấp độ cơ sở dẫn liệu của các nhóm giao dịch, số dư tài khoản và thông
tin thuyết minh.
Sự phân biệt rủi ro kiểm toán ở cấp độ báo cáo tài chính và cấp độ cơ sở
dẫn liệu giúp kiểm toán viên chọn lựa cách thức xử lý phù hợp với mỗi loại
rủi ro.
1.1 Cấp độ tổng thể báo cáo tài chính: Là những rủi ro có sai sót
trọng yếu có ảnh hưởng lan tỏa đối với tổng thể báo cáo tài chính và có
thể ảnh hưởng tiềm tàng tới nhiều cơ sở dẫn liệu.
1.2 Cấp độ cơ sở dẫn liệu của các nhóm giao dịch, số dư tài khoản
và thông tin thuyết minh: Là những rủi ro phản ánh khả năng xảy ra
sai sót trọng yếu liên quan đến một cơ sở dẫn liệu cụ thể của một khoản
mục hay thông tin trình bày trên báo cáo tài chính.

5


Tại cấp độ cơ sở dẫn liệu, rủi ro có sai sót trọng yếu bao gồm hai bộ
phận:
- Rủi ro tiềm tàng: liên quan đến môi trường và hoạt động kinh doanh
của đơn vị.
- Rủi ro kiểm soát: liên quan đến kiểm soát nội bộ.
1.2.1 Rủi ro tiềm tàng (Inherent Risk):
a. Khái niệm: Là rủi ro tiềm ẩn, vốn có, do khả năng cơ sở dẫn liệu của
một nhóm giao dịch, số dư tài khoản hay thông tin thuyết minh có thể
chứa đựng sai sót trọng yếu, khi xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, trước khi
xem xét đến bất kỳ thủ tục kiểm soát nào có liên quan (Đoạn 13n,
VSA200).

b. Các nhân tố ảnh hưởng:
Trong kiểm toán, để thực hiện được một cuộc kiểm toán với khối lượng
hợp lý, rủi ro kiểm toán thấp, Kiểm toán viên phải có sự hiểu biết sâu sắc,
đầy đủ về mỗi doanh nghiệp được kiểm toán, về ảnh hưởng của rủi ro
tiềm tàng đến khối lượng công việc kiểm toán. Đồng thời phải nắm được
các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro kiểm toán đó là:
- Bản chất công việc kinh doanh và đặc điểm của đơn vị:
Mỗi lĩnh vực hoạt động kinh doanh khác nhau sẽ nảy sinh những vấn đề
rủi ro mang đặc trưng cho đơn vị đó. Trong lĩnh vực xây dựng, đặc điểm
của công trường thi công thường ở rất xa công ty nên việc kiểm soát,
giám sát thường gặp nhiều khó khăn và dễ xảy ra rủi ro cho công trình
như rút ruột công trình.
Hay, sự phát triển của khoa học và công nghệ có thể làm một sản phẩm
nào đó trở nên lỗi thời, dẫn đến hàng tồn kho trên sổ kế toán bị phản ánh
cao hơn giá trị thực tế.
- Môi trường, chiến lược và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp:
Các yếu tố bên trong đơn vị được kiểm toán và môi trường của đơn vị có
liên quan đến một số hoặc tất cả các nhóm giao dịch, số dư tài khoản,
thông tin thuyết minh cũng có thể ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng liên
quan đến một cơ sở dẫn liệu cụ thể.

6


Trường hợp không có đủ nguồn vốn ngắn hạn hoặc sự suy thoái của ngành
nghề sẽ dẫn đến thất bại trong kinh doanh.
- Các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên:
Rủi ro tiềm tàng là cao hơn đối với các phép tính phức tạp hoặc các tài
khoản phản ánh số liệu được hình thành từ các ước tính kế toán không
chắc chắn.

- Qui mô tổng thể, cơ cấu tổ chức doanh nghiệp:
Quy mô doanh nghiệp càng lớn thường có đội ngũ nhân viên chuyên
nghiệp với trình độ chuyên môn tốt và có kinh nghiệm thì các rủi ro sai sót
càng được hạn chế, cơ cấu tổ chức chặt chẽ với hệ thống giám sát cấp
cao cũng giúp doanh nghiệp hạn chế được rất nhiều rủi ro vì tất cả đều
được kiểm soát chặt chẽ.
- Qui mô số dư tài khoản:
Một tài khoản phức tạp với nhiều khoản mục và số dư càng lớn thì mức
độ rủi ro sai sót càng cao vì quá trình tổng hợp và ghi chép nhiều và phức
tạp làm cho quá trình kiểm toán cũng gặp nhiều khó khăn hơn và dẫn đến
sai sót.
Trong BCTC bị ghi giảm đi, hoặc có thể được ghi tăng lên; đối với ngoại tệ
là các số dư cuối kỳ được chuyển đổi sang đồng Việt Nam một cách không
đúng. Ví dụ tài khoản ngoại tệ 1112 có số dư 3000$ khi quy đổi sang Việt
Nam đồng quy đổi sai tỷ giá gây nên số tiền được quy đổi sai rất lớn do tỷ
giá USD/VND là rất lớn, gây ra một sự sai lệch rất lớn.
- Rủi ro kinh doanh:
Những yếu tố từ bên ngoài làm tăng rủi ro kinh doanh cũng có thể làm
tăng rủi ro tiềm tàng. Sự phát triển của khoa học và công nghệ có thể làm
một sản phẩm nào đó trở nên lỗi thời, dẫn đến hàng tồn kho trên sổ Kế
toán bị phản ánh cao hơn giá trị thực tế.
c. Cách thức đánh giá rủi ro tiềm tàng:
Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải
đánh giá rủi ro tiềm tàng cho toàn bộ báo cáo tài chính của đơn vị được
kiểm toán. Khi lập chương trình kiểm toán, kiểm toán viên phải xác định
cụ thể mức độ rủi ro tiềm tàng cho các số dư hoặc loại nghiệp vụ quan

7



trọng đến từng cơ sở dẫn liệu. Trường hợp không thể xác định cụ thể được
thì kiểm toán viên phải giả định rằng rủi ro tiềm tàng là cao cho cơ sở dẫn
liệu đó.
Thứ nhất, trên phương diện BCTC, kiểm toán viên đánh giá rủi ro tiềm
tàng dựa vào các yếu tố:
Sự liêm khiết, kinh nghiệm và hiểu biết của Ban Giám đốc cũng như sự
thay đổi thành phần ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán;
Trình độ và chuyên môn của kế toán trưởng, của các nhân viên kế toán
chủ yếu của kiểm toán viên nội bộ và sự thay đổi (nếu có) của họ;
Những áp lực bất thường đối với Ban Giám đốc, đối với kế toán trưởng,
nhất là những hoàn cảnh thúc đẩy Ban giám đốc, kế toán trưởng phải
trình bày báo cáo không trung thực;
Đặc điểm hoạt động của đơn vị, như: quy trình công nghệ, cơ cấu vốn,
các đơn vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động theo mùa vụ;
Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị như: các biến
động về kinh tế, về cạnh tranh…(VSA400).
Thứ hai, trên phương diện số dư tài khoản và các nghiệp vụ, kiểm toán
viên đánh giá rủi ro tiềm tàng dựa vào các yếu tố:
BCTC có thể chứa đựng những sai sót, như: BCTC có những điều chỉnh
liên quan đến niên độ trước, BCTC có nhiều ước tính kế toán, hoặc trong
năm tài chính có nhiều sự thay đổi chính sách kế toán;
Việc xác định số dư và số phát sinh các tài khoản và nghiệp vụ kinh tế;
Mức độ dễ bị mất mát, biển thủ tài sản;
Mức độ phức tạp của các nghiệp vụ hay sự kiện quan trọng đòi hỏi phải
có ý kiến chuyên gia;
Việc ghi chép các nghiệp vụ bất thường và phức tạp;
Các nghiệp vụ kinh tế tài chính bất thường khác (VSA400).
1.2.2 Rủi ro kiểm soát (Control Risk):
a. Khái niệm: Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu, khi xét riêng lẻ hay tổng
hợp lại, đối với cơ sở dẫn liệu của một nhóm giao dịch, số dư tài khoản

hay thông tin thuyết minh mà kiểm soát nội bộ của đơn vị không thể ngăn
chặn hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời (Đoạn 13n, VSA200)

8


b. Các nhân tố ảnh hưởng:
- Môi trường kiểm soát nội bộ:
Vì sai sót chủ yếu đến từ sự yếu kém của kiểm soát nội bộ đã không
ngăn chặn và phát hiện kịp thời để sửa chữa dẫn đến rủi ro. Khả năng
người thực hiện gây ra nhầm lẫn hoặc lỗi, một số kiểm soát bị vô hiệu do
sự thông đồng hay lạm dụng quyền của người quản lý.
- Chính sách kế toán của doanh nghiệp:
Tùy thuộc vào niên độ báo cáo tài chính của mỗi doanh nghiệp mà có thể
xảy ra các rủi ro khác nhau, các nghiệp vụ kết thúc gần niên độ vì vậy có
thể xảy ra rủi ro trong ước tính kế toán hoặc nhầm lẫn giữa các ước tính.
- Khuôn khổ pháp lý:
Một khuôn khổ pháp lý không phù hợp thiếu khoa học sẽ làm cho đội
ngũ nhân viên khó nắm bắt được yêu cầu khuôn khổ nên dễ dẫn đến sai
sót.
- Cơ cấu tổ chức:
Tổ chức chồng chéo, không khoa học dẫn đến việc thống kê và kiểm tra
trở nên khó khăn dễ gây sai sót, rủi ro.
- Tính thích hợp, đầy đủ của các thủ tục, trình tự kiểm soát:
Một hệ thống kiểm soát có đầy đủ bộ phận và hoạt động hiệu quả sẽ
ngăn ngừa một cách tối thiểu nhất các rủi ro có thể xảy ra với doanh
nghiệp.
Rủi ro kiểm soát thể hiện hiệu quả của việc thiết kế, vận hành và duy trì
kiểm soát nội bộ của Ban Giám đốc nhằm giải quyết những rủi ro đã xác
định để hoàn thành các mục tiêu của đơn vị trong quá trình lập và trình

bày báo cáo tài chính. Tuy nhiên, do những hạn chế vốn có của kiểm soát
nội bộ, dù nó được thiết kế phù hợp và vận hành hiệu quả cũng không thể
loại trừ hoàn toàn rủi ro có sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính mà
chỉ có thể làm giảm bớt rủi ro. Do đó, một số rủi ro kiểm soát sẽ luôn tồn
tại.
c. Cách thức đánh giá rủi ro kiểm soát:

9


Bản chất rủi ro kiểm soát liên quan tới sự yếu kém của hệ thống kiểm
soát nội bộ. Để đánh giá rủi ro kiểm soát, kiểm toán viên căn cứ vào sự
hiểu biết, đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ theo các bước:
Bước 1: Thu thập hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ và mô tả chi tiết
trên các giấy tờ làm việc.
Bước 2: Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát để lập kế hoạch cho từng
khoản mục.
Bước 3: Thực hiện thử nghiệm kiểm soát.
Bước 4: Lập bảng đánh giá kiểm soát nội bộ và đánh giá lại rủi ro kiểm
soát.
Theo chuẩn mực kiểm toán VN số 400 (mục 42): “rủi ro tiềm tàng và rủi
ro kiểm soát có liên hệ chặt chẽ với nhau nên KTV cần kết hợp cùng lúc
việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát”.
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát là 2 loại rủi ro độc lập khách quan,
KTV không tạo ra và cũng không kiểm soát được chúng. KTV chỉ có thể
thông qua thu thập bằng chứng kiểm toán tại đơn vị khách hàng và bằng
kinh nghiệm của mình để đánh giá mức độ của chúng. Rủi ro tiềm tàng và
rủi ro kiểm soát có mức độ lớn hay nhỏ phụ thuộc rất lớn vào ngành nghề
kinh doanh cũng như môi trường pháp lý mà khách hàng đang hoạt động.
không những thế, 2 loại rủi ro này còn phụ thuộc vào bản chất của số dư

tài khoản và nghiệp vụ kinh tế đặc thù tương ứng với ngành nghề kinh
doanh của khách hàng. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát có mối quan
hệ nghịch nên trong các cuộc kiểm toán. KTV thường kết hợp cùng 1 lúc
đánh giá mức độ 2 loại rủi ro này.
Ví dụ 1:
Một doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng có hạn lưu trữ ngắn nên rủi ro
tiềm ẩn là hàng hóa sẽ bị quá hạn là cao (rủi ro tiềm tàng cao), tuy nhiên
doanh nghiệp có một hệ thống quản trị chuỗi cung ứng rất hữu hiệu trong
việc quản lý hạn lưu trữ nên có thể dễ dàng nhận dạng và tách biệt được
những hàng hóa quá hạn (rủi ro kiểm soát thấp). Lúc này, kiểm toán viên
có thể đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu ở mức độ trung bình. Như vậy,

10


rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát có mối quan hệ gắn kết chặt chẽ với
nhau tạo thành rủi ro có sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính.
2. Rủi ro phát hiện (Detection Risk):
a. Khái niệm: Là rủi ro mà trong quá trình kiểm toán, các thủ tục mà
kiểm toán viên thực hiện nhằm làm giảm rủi ro kiểm toán xuống tới mức
thấp có thể chấp nhận được nhưng vẫn không phát hiện được hết các sai
sót trọng yếu khi xét riêng lẻ hoặc tổng hợp lại.
b. Đặc điểm:
- Rủi ro phát hiện liên quan đến nội dung, lịch trình, phạm vi các thủ tục
được kiểm toán viên xác định để giảm rủi ro kiểm toán xuống mức độ
thấp có thể chấp nhận được.
- Rủi ro phát hiện là sự kết hợp giữa tính hiệu quả của các thủ tục kiểm
toán và việc kiểm toán viên thực hiện các thủ tục đó.
- Với một mức rủi ro kiểm toán xác định trước, mức độ rủi ro phát hiện
được chấp nhận có mối quan hệ trái chiều với rủi ro có sai sót trọng yếu

được đánh giá ở cấp độ cơ sở dẫn liệu.
c. Các nhân tố ảnh hưởng:
- Trình độ, năng lực, kinh nghiệm của kiểm toán viên: Đây là một yếu tố
quan trọng bởi vì nếu kiểm toán viên thiếu năng lực và không đủ chuyên
môn sẽ không phát hiện được hết các sai sót trọng yếu. Nhiều công ty,
thường quá chú trọng phát triển khách hàng mà không quan tâm chất
lượng hồ sơ và báo cáo kiểm toán.
- Sự xét đoán của kiểm toán về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát không
chính xác, do đó đã áp dụng các phương pháp, phạm vi kiểm toán không
thích hợp.
- Do sự gian lận: đặc biệt là sự gian lận có hệ thống từ Ban Giám Đốc, sự
gian lận có hệ thống đến từ Ban Giám Đốc thì các kiểm toán viên rất khó
để tìm ra các sai phạm dẫn đến rủi ro phát hiện là rất cao.
- Phạm vi kiểm toán bị giới hạn do khách hàng thiếu hợp tác hoặc hợp tác
không tích cực; do khoảng cách địa lý và khó khăn trong việc gửi thư xác
nhận đối với các đối tác liên quan đến khách hàng; Chương trình kiểm
toán, thủ tục kiểm toán áp dụng chưa phù hợp; Việc xây dựng và lựa chọn

11


nhân sự cho đoàn kiểm toán chưa tốt; Thời gian kiểm toán ngắn và chi phí
cho cuộc kiểm toán thấp; Bằng chứng thu thập được chưa đầy đủ và đảm
bảo độ tin cậy; Sai lệch trong chọn mẫu đối tượng kiểm toán.
d. Cách thức đánh giá rủi ro phát hiện:
Rủi ro phát hiện có thể kiểm soát được bởi các KTV thông qua việc điều
chỉnh nội dung, thời gian và phạm vi của các thử nghiệm cơ bản. Đây là
mấu chốt giúp KTV điều chỉnh công việc kiểm toán của mình tùy theo tình
hình của đơn vị để đạt được mục đích cuối cùng là rủi ro kiểm toán sẽ
được giảm xuống thấp đến mức chấp nhận được với chi phí hợp lý.

Ví dụ khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát cao, mức độ rủi ro phát hiện
có thể chấp nhận được cần phải ở mức thấp, để khống chế rủi ro kiểm
toán vẫn ở mức chấp nhận được và ngược lại.
Rủi ro phát hiện được đánh giá trong các bước công việc khác nhau, ở quy
mô khác nhau. Rủi ro phát hiện được xác định dựa trên ba yếu tố: rủi ro
kiểm toán, rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát theo mô hình rủi ro kiểm
toán hoặc theo ma trận rủi ro phát hiện.
III. Trách nhiệm của kiểm toán viên đối với rủi ro kiểm toán
Ngược lại với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, kiểm toán viên phải có
trách nhiệm thực hiện các thủ tục thu thập các bằng chứng kiểm toán
nhằm quản lý và kiểm soát đối với rủi ro phát hiện.
Khi thực hiện kiểm toán theo các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, kiểm
toán viên chịu trách nhiệm đạt được sự đảm bảo hợp lý rằng liệu báo cáo
tài chính, xét trên phương diện tổng thể, có còn sai sót trọng yếu do gian
lận hoặc nhầm lẫn hay không. Do những hạn chế vốn có của kiểm toán,
nên có rủi ro không thể tránh khỏi là kiểm toán viên không phát hiện được
một số sai sót làm ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, kể cả khi
cuộc kiểm toán đã được lập kế hoạch và thực hiện theo các chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam (xem đoạn A51 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số
200).

12


Như đã đề cập tại đoạn A51 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200, ảnh
hưởng của các hạn chế vốn có là đặc biệt nghiêm trọng đối với các sai sót
do gian lận. Rủi ro có sai sót trọng yếu do gian lận cao hơn rủi ro có sai
sót trọng yếu do nhầm lẫn. Đó là do gian lận có thể được thực hiện thông
qua các mánh khóe tinh vi và được tổ chức chặt chẽ nhằm che giấu hành
vi gian lận, như giả mạo hồ sơ, cố ý không ghi chép các giao dịch, hoặc cố

ý cung cấp các giải trình sai cho kiểm toán viên. Hành động che giấu còn
có thể khó phát hiện hơn khi có sự thông đồng thực hiện hành vi gian lận.
Sự thông đồng có thể làm cho kiểm toán viên tin rằng bằng chứng kiểm
toán là thuyết phục trong khi thực tế đó là những bằng chứng giả. Khả
năng phát hiện gian lận của kiểm toán viên phụ thuộc vào các yếu tố như
kỹ năng của thủ phạm, tần suất và mức độ của hành vi thao túng, mức độ
thông đồng, giá trị của khoản tiền bị thao túng, cấp bậc của những cá
nhân có hành vi gian lận. Mặc dù kiểm toán viên có thể xác định được các
cơ hội thực hiện hành vi gian lận, nhưng rất khó để có thể xác định được
các sai sót trong các lĩnh vực mà họ xem xét, như các ước tính kế toán, là
do gian lận hay nhầm lẫn.
Ngoài ra, rủi ro về việc kiểm toán viên không phát hiện hết sai sót trọng
yếu xuất phát từ hành vi gian lận của Ban Giám đốc là cao hơn so với việc
phát hiện sai sót do gian lận của nhân viên, bởi vì Ban Giám đốc thường
xuyên có điều kiện trực tiếp hoặc gián tiếp thao túng việc ghi sổ kế toán,
trình bày các thông tin tài chính gian lận hoặc khống chế các thủ tục kiểm
soát được thiết lập nhằm ngăn ngừa các hành vi gian lận tương tự của các
nhân viên khác.
Để đạt được sự đảm bảo hợp lý, kiểm toán viên phải duy trì thái độ hoài
nghi nghề nghiệp trong suốt quá trình kiểm toán, phải cân nhắc khả năng
Ban Giám đốc có thể khống chế kiểm soát và phải nhận thức được thực tế
là các thủ tục kiểm toán nhằm phát hiện nhầm lẫn một cách hiệu quả có
thể không hiệu quả trong việc phát hiện gian lận. Các quy định của chuẩn
mực kiểm toán này nhằm hỗ trợ kiểm toán viên trong việc xác định và

13


đánh giá các rủi ro có sai sót trọng yếu do gian lận và thiết lập các thủ tục
nhằm phát hiện sai sót đó.

CHƯƠNG II: MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH RỦI RO
KIỂM TOÁN, MÔ HÌNH RỦI RO KIỂM TOÁN, MA TRẬN RỦI RO PHÁT
HIỆN.
Trong kiểm toán thường đề cập đến 3 loại rủi ro chính đó là rủi ro tiềm
tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện. Ba rủi ro này là những bộ phận
cấu thành rủi ro kiểm toán và giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với
nhau.
Rủi ro kiểm toán là hệ quả của rủi ro có sai sót trọng yếu và rủi ro phát
hiện.
I. Mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành rủi ro kiểm toán
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát là những rủi ro gắn liền với quá trình
hoạt động của doanh nghiệp, nó luôn tồn tại cho dù có tiến hành hoạt
động kiểm toán hay không. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát có ảnh
hưởng tới rủi ro phát hiện và tới rủi ro kiểm toán. Ta có thể nhận thấy, một
sai sót khi tiềm ẩn trong báo cáo tài chính (IR) nhưng không được ngăn
chặn bởi hệ thống kiểm soát nội bộ (CR) sẽ có thể được phát hiện thông
qua các thủ tục kiểm toán thích hợp. Tuy nhiên, khi các thủ tục kiểm toán
thất bại (DR), sai sót sẽ xuất hiện trên báo cáo tài chính cùng với ý kiến là
Báo cáo tài chính trình bày trung thực và hợp lý (AR).
Mối quan hệ này được thể hiện thông qua Mô hình rủi ro kiểm toán và Ma
trận rủi ro phát hiện:k
II. Mô hình rủi ro kiểm toán (Phương trình rủi ro kiểm toán)
Chuẩn mực kiểm toán quy định kiểm toán viên phải xác định mức rủi ro
kiểm toán ở mức hợp lý trước khi đưa ra ý kiến nhận xét về BCTC, tuy
nhiên lại không đưa ra hướng dẫn cụ thể đâu là mức rủi ro chấp nhận
được. Việc quản trị rủi ro kiểm toán hoàn toàn phụ thuộc vào đánh giá của
kiểm toán viên. Để xác định rủi ro kiểm toán, kiểm toán viên sử dụng mô
hình rủi ro kiểm toán. Mô hình rủi ro kiểm toán là sự phân tích kết quả của
các rủi ro có thể có trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính. Mô hình


14


này được sử dụng để đánh giá không chỉ cho toàn bộ báo cáo tài chính mà
còn có thể sử dụng cho từng khoản mục, nghiệp vụ.
AR = IR × CR × DR
Trong đó:
AR: rủi ro kiểm toán
IR: rủi ro tiềm tàng
CR: rủi ro kiểm soát
DR: rủi ro phát hiện
Từ mô hình trên ta có công thức tính rủi ro phát hiện như sau:
DR =
Công thức dùng để xác định mức rủi ro phát hiện để đạt được một mức rủi
ro kiểm toán cần thiết trong điều kiện đã biết về mức rủi ro tiềm tàng và
rủi ro kiểm toán. Trong thực tế, các KTV thường dự kiến và ấn định mức
RRKT trong khâu lập kế hoạch thấp hơn mức RRKT có thể chấp nhận được
nhằm tạo một khoảng lề an toàn cho KTV. Việc đánh giá RRKT có thể được
thay đổi trong quá trình thực hiện kiểm toán.
Ví dụ mô hình rủi ro kiểm toán:
Với 1 cuộc kiểm toán khả dĩ, giả sử 1 KTV tin rằng: rủi ro tiềm tàng = 80%,
rủi ro kiểm soát = 50%, rủi ro phát hiện = 10%, vậy rủi ro kiểm toán được
tính là: 0,8×0,5×0,1 = 4%
Nếu KTV kết luận là rủi ro kiểm toán mong muốn thích hợp đối với hợp
đồng không thấp hơn 4% thì kế hoạch đó được chấp nhận.
Một số lưu ý khi sử dụng mô hình rủi ro kiểm toán:

- Việc vận dụng mô hình rủi ro trong trong thực tế là một vấn đề phức tạp
khi có sự khác nhau giữa các đơn vị được kiểm toán và giữa các công ty
kiểm toán.

- Việc vận dụng mô hình rủi ro phụ thuộc vào khả năng và kinh nghiệm xét
đoán nghề nghiệp của mỗi KTV.
- Khi lập kế hoạch kiểm toán, KTV thường phải ấn định mức trọng yếu hay
những sai phạm có thể chấp nhận được ở mức thấp hơn so với mức làm
căn cứ để đánh giá.
- Lưu ý việc RRKS phải được đánh giá ban đầu đối với cơ sở dẫn liệu cho
từng số dư tài khoản hoặc từng loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu.

15


- RRKS và RRTT có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong một cuộc kiểm
toán. Vì vậy KTV phải kết hợp cùng một lúc đánh giá RRKS và RRTT.
- Trước khi rút ra kết luận kiểm toán, KTV phải khẳng định lại quá trình đánh
giá của mình về RRKS.
- RRKS và RRTT dù được đánh giá ở mức độ thấp nhất thì KTV vẫn phải thực
hiện các thử nghiệm cơ bản đối với các loại nghiệp vụ và số dư tài khoản
trọng yếu.
- RRKS ở đơn vị có quy mô nhỏ khác với các đơn vị có quy mô lớn.
Kết luận: Mô hình rủi ro kiểm toán chỉ ra các bộ phận rủi ro tác động
đến rủi ro kiểm toán và mối quan hệ giữa các bộ phận rủi ro này. Vận
dụng mô hình này giúp kiểm toán viên thiết lập các thủ tục kiểm toán phù
hợp: Đánh giá rủi ro tiềm tàng qua việc tìm hiểu hoạt động kinh doanh
của khách hàng; Đánh giá rủi ro kiểm soát qua việc tìm hiểu hệ thống
kiểm soát nội bộ của khách hàng; Trên cơ sở đó, kết hợp với mức rủi ro
kiểm toán chấp nhận được, kiểm toán viên xác định mức rủi ro phát hiện
chấp nhận được.
III. Ma trận rủi ro phát hiện
Một cách diễn đạt khác của mô hình rủi ro kiểm toán là bảng ma trận rủi
ro phát hiện. Sự biến động của rủi ro phát hiện dựa theo đánh giá của

kiểm toán viên về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được thể hiện trong
bảng sau đây.

Đánh giá của KTV về rủi
ro kiểm soát (CR)

Đánh giá của KTV về rủi
(IR)
Cao
Trung bình
Cao
Thấp nhất
Thấp
Trung bình Thấp
Trung bình
Thấp
Trung bình Cao

ro tiềm tàng
Thấp
Trung bình
Cao
Cao nhất

Trong đó:
Mỗi loại rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều được chia thành ba mức:
cao, trung bình và thấp.
Vùng tô đậm thể hiện mức độ rủi ro phát hiện.
Loại rủi ro phát hiện được chia thành năm mức: cao nhất, cao, trung bình,
thấp và thấp nhất.

Kết luận: Mức độ rủi ro phát hiện tỷ lệ nghịch với mức độ rủi ro tiềm tàng
và rủi ro kiểm soát.

16


Cụ thể trường hợp mức độ rủi ro tiềm tàng được kiểm toán viên đánh giá
là cao và mức độ rủi ro kiểm soát được đánh giá là thấp, thì mức độ rủi ro
phát hiện sẽ được KTV đánh giá là trung bình. Nhằm giảm rủi ro kiểm toán
xuống thấp đến mức có thể chấp nhận được. Ngược lại, nếu mức độ rủi ro
tiềm tàng là thấp và rủi ro kiểm soát được đánh giá là trung bình thì có
thể xác định mức độ rủi ro phát hiện là cao nhưng vẫn đảm bảo rủi ro
kiểm toán là thấp có thể chấp nhận được.
CHƯƠNG III. MỐI QUAN HỆ GIỮA TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM
TOÁN, RỦI RO KINH DOANH
I. Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán
Trọng
yếu

Rủi ro
kiểm
toán

Xác định trọng
yếu ở toàn bộ
BCTC
Phân phối mức
trọng yếu cho
từng khoản mục
của BCTC

Đánh giá rủi ro
kiểm toán ở mức
độ toàn bộ BCTC

Kết hợp phân tích bản chất các khoản mục
và những trọng tâm cần kiểm tra
Là cơ sở để phân phối mức trọng yếu cho
các khoản mục
Xác định những đối tượng chi tiết cần kiểm
tra các khoản mục
Lựa chọn các thủ tục kiểm toán thích hợp

Xác định chiến lược kiểm toán
Là cơ sở đánh giá rủi ro kiểm toán và mức
trọng yếu của từng khoản mục
Tổ chức nhân sự tham gia kiểm toán
Đánh giá rủi ro
Căn cứ mức rủi ro kiểm toán chấp nhận
kiểm toán ở mức
được của khoản mục, cùng với kết quả
độ khoản mục
đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm
soát. KTV xác định mức rủi ro phát hiện phù
hợp để làm cơ sở thiết kế các thủ tục kiểm
toán
Trong một cuộc kiểm toán, mức trọng yếu và RRKT có mối quan hệ tỉ lệ
nghịch tức là nếu mức trọng yếu có thể chấp nhận được càng tăng lên thì
RRKT sẽ giảm đi và ngược lại. Các mối quan hệ đó được trình bày tổng hợp
trong bảng sau:
Ý nghĩa của mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán:

Có ý nghĩa rất quan trọng khi lập kế hoạch kiểm toán để nhằm xác định
nội dung, phạm vi, thời gian và các thủ tục kiểm toán cần áp dụng. Việc
nắm vững mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán còn rất hữu ích

17


trong việc điều chỉnh kế hoạch và chương trình làm việc của kiểm toán
viên.
II. Rủi ro kinh doanh
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp luôn gắn với rủi ro kinh
doanh, nó tác động đến hoạt động và kết quả của doanh nghiệp. Có rất
nhiều nhân tố tác động: Tình trạng nền kinh tế; Các chính sách của Nhà
nước; Sự thay đổi công nghệ, kỹ thuật…
Rủi ro kinh doanh tác động đến rủi ro kiểm toán thông qua rủi ro có sai
sót trọng yếu:
- Có thể ảnh hưởng đến khả năng sai sót trọng yếu trên báo cáo tài chính.
Ví dụ, tình trạng suy thoái nền kinh tế khiến khách hàng của doanh
nghiệp khó khăn hơn trong việc trả nợ, việc lập dự phòng phải thu khó đòi
trở thành thách thức đối với doanh nghiệp khi lập BCTC.
- Ảnh hưởng đến chất lượng hệ thống kiểm soát nội bộ: Để đối phó với bối
cảnh trên, doanh nghiệp cần phải điều chỉnh hệ thống kiểm soát nội bộ
bao gồm nhận định rủi ro, điều chỉnh chính sách… nếu không khả năng
ngăn chặn sai sót để có thể đạt được mục tiêu của kiểm soát nội bộ sẽ bị
suy giảm.
Tiếp tục ví dụ 1: Môi trường kinh doanh và chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp sẽ tác động đồng thời đến rủi ro có sai sót trọng yếu. Tiếp
tục thí dụ trên, do cạnh tranh trong ngành, doanh nghiệp chuyển sang
kinh doanh các mặt hàng thực phẩm không dùng chất bảo quản (mặt
hàng dễ bị mất phẩm chất). Trong bối cảnh kinh doanh đó, liệu hệ thống

quản trị chuỗi cung ứng có còn được đánh giá là hữu hiệu hay không? Lúc
này, kiểm toán viên cần phải xem xét để đánh giá rủi ro có sai sót trọng
yếu trên báo cáo tài chính khác hơn lúc trước. Kiểm toán viên sẽ cần lưu ý
về rủi ro có sai sót trọng yếu đối với cơ sở dẫn liệu đánh giá và phân bổ
hàng tồn kho
- Rủi ro ở cấp độ cơ sở dẫn liệu có thể liên quan đến môi trường và hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp (rủi ro tiềm tàng) hoặc kiểm soát nội
bộ (rủi ro kiểm soát). Từ đó xem xét rủi ro có sai sót trọng yếu của cơ sở
dẫn liệu: tiếp tục ví dụ trên, kiểm toán viên nhận thấy nếu doanh nghiệp

18


có hệ thống bảo quản tốt và những thủ tục theo dõi chặt chẽ về thời hạn
sử dụng, rủi ro kiểm soát có thể thấp và do đó, rủi ro có sai sót trọng yếu
còn lại của cơ sở dẫn liệu đánh giá và phân bổ hàng tồn kho chỉ ở mức
trung bình. Tuy nhiên, nếu một trong hai yếu tố trên không đạt yêu cầu,
kiểm toán viên sẽ đánh giá rủi ro kiểm soát cao hay nói cách khác, không
đủ khả năng ngăn chặn rủi ro tiềm tàng vốn dĩ đã cao nên rủi ro có sai sót
trọng yếu của cơ sở dẫn liệu đánh giá và phân bổ hàng tồn kho sẽ ở mức
độ cao.
- Rủi ro ở cấp độ báo cáo tài chính như sự thiếu chính trực hay năng lực có
hạn chế của Ban giám đốc có thể dẫn đến kiểm toán viên đánh giá tổng
thể báo cáo tài chính bị sai sót trọng yếu.
III. Ý nghĩa của việc đánh giá rủi ro trong quá trình kiểm toán
Khi lập kế hoạch kiểm toán cho một hợp đồng kinh tế, kiểm toán viên
phải dự kiến các trường hợp rủi ro và những trình tự, những thủ pháp kiểm
toán nhằm phát hiện những sai lầm nghiêm trọng trong BCTC mà nguồn
gốc của nó là các gian lận và sai sót. Kiểm toán viên phải lập kế hoạch
kiểm toán và thực thi kế hoạch kiểm toán với thái độ thận trọng để rủi ro

kiểm toán nếu có thể xảy ra thì cũng chỉ ở mức chấp nhận được. Mức độ
rủi ro kiểm toán cao hay thấp quyết định khối lượng công việc kiểm toán
viên cần tiến hành. Vì vậy cần phải tiến hành phân loại rủi ro, xem xét mối
quan hệ tác động giữa các loại rủi ro đến khối lượng công việc mà kiểm
toán viên cần tiến hành, cũng như các trình tự và thủ pháp kiểm toán
thích hợp để thực hiện kế hoạch kiểm toán
Việc đánh giá rủi ro kiểm toán nhằm phát hiện các rủi ro có sai sót
trọng yếu trên báo cáo tài chính, xem xét khả năng sai sót có phát sinh
trên thực tế hay không giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán thiết
kế và thực hiện các thủ tục kiểm toán tiếp theo một cách phù hợp. Như
vậy việc đánh giá rủi ro trong quá trình kiểm toán có ý nghĩa rất quan
trọng với kiểm toán viên nó sẽ giúp cho kiểm toán viên thực hiện tốt công
việc của mình cũng như có kết quả kiểm toán tốt nhât.
IV. Ví dụ cụ thể
Ví dụ 1.

19


Công ty H kinh doanh trong lĩnh vực cung cấp và lắp đặt thiết bị lạnh.
Trong kỳ, để tăng cường tính cạnh tranh, các hợp đồng của công ty với
khách hàng được thỏa thuận linh hoạt. Chúng có thể dưới dạng đơn thuần
cung cấp thiết bị, lắp đặt hoặc dịch vụ trọn gói, bao gồm cung cấp thiết
bị, lắp đặt và bảo trì. Các hợp đồng gắn với dịch vụ lắp đặt hay bảo trì
thường kéo dài qua niên độ. Chính sách kế toán được doanh nghiệp lựa
chọn cho việc ghi nhận doanh thu là phương pháp tỷ lệ hoàn thành, trong
đó mức độ hoàn thành được xác định dựa trên đánh giá của hai bên hoặc
theo tỷ lệ chi phí. Kiểm toán viên đánh giá rủi ro cao trong việc ghi nhận
doanh thu của đơn vị.
Việc thực hiện các thủ tục phân tích cho thấy doanh thu niên độ kiểm toán

tăng cao bất thường so với kỳ trước mặc dù các dữ liệu thống kê ngành
không cho thấy chiều hướng gia tăng của thị trường. Bên cạnh đó, tình
hình nợ phải thu cuối kỳ tăng mạnh so với kỳ trước cũng như mức tăng
doanh thu. Ban Giám đốc công ty giải thích rằng nhu cầu hoàn thành sớm
công trình của một số khách hàng chính khiến công ty buộc phải đẩy
mạnh tiến độ vượt mức kế hoạch. Mặc dù vậy, những dữ liệu khiến kiểm
toán viên đánh giá rủi ro rất cao đối với việc ghi nhận đúng kỳ doanh thu
của đơn vị.
Trong quá trình tìm hiểu kiểm soát nội bộ của đơn vị, kiểm toán viên nhận
thấy đơn vị có những thủ tục kiểm soát chặt chẽ đối với hoạt động lắp đặt.
Mọi trường hợp thay đổi tiến độ đều phải lập lại lịch trình mới và được phê
duyệt. Quá trình đánh giá mức độ hoàn thành đều có sự tham gia của bên
thứ ba độc lập. Hệ thống sổ sách theo dõi chi tiết chi phí các công trình
được theo dõi trên phân hệ quản trị dự án trong phần mềm hoạch địch
nguồn lực doanh nghiệp (ERP) được tích hợp với các chỉ số KPI báo cáo
định kỳ. Các báo cáo trên trong kỳ không cho thấy sự vượt mức đáng kể
nào liên quan đến chi phí. Các bằng chứng trên cho thấy đơn vị có duy trì
một hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá thành quả được thiết kế hữu
hiệu. Điều này cho phép kiểm toán viên đánh giá rủi ro còn lại giảm
xuống, đi kèm với điều kiện các thử nghiệm kiểm soát ở bước sau cho
thấy hệ thống vận hành hữu hiệu trong thực tế.

20


Ví dụ trên cho thấy một quá trình đánh giá rủi ro ở cấp độ cơ sở dẫn liệu,
cụ thể là tính đúng kỳ của khoản mục doanh thu. Xuất phát từ rủi ro tiềm
tàng là cao, với một mức rủi ro kiểm soát được đánh giá là thấp, kiểm
toán viên kết luận một mức rủi ro có sai sót trọng yếu còn lại trong báo
cáo tài chính là trung bình đối với cơ sở dẫn liệu trên.

Ví dụ 2:
Công ty kiểm toán FRIGATE đang thực hiện kiểm toán cho công ty CEBD.
Công ty CEBD là một công ty cố phần, ngành nghề kinh doanh của công
ty là: vận tải xăng dầu, vận tải hàng hóa đường bộ, đường thủy…Công ty
mới chuyển sang cổ phần hóa chưa lâu (năm 2000) nên việc kêu gọi vốn
đầu tư chưa đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Hầu hết vốn của công ty theo
Kiểm toán viên nhận thấy là do cầm cố tài sản và vay ngân hàng. Rủi ro
tiềm tàng về khả năng vốn hoạt động được đánh giá là cao. Khi tìm hiểu
về hệ thống kế toán và môi trường kiếm soát nội bộ, kiểm toán viên nhận
thấy:
Về môi trường kiểm soát: nhân viên trong phòng kế toán là đội ngũ
cán bộ trẻ tuổi, ít kinh nghiệm, do vậy việc quán xuyến và soát xét công
việc đối với phòng kế toán là rất khó khăn. Mặt khác, công ty CEBD là
khách hàng mới của công ty FRIGATE và là khách hàng lần đầu tiên kiểm
toán, kiểm toán viên nhận định là có thể có sai sót trong quá trình nhân
viên phòng kế toán làm việc, do vậy xây dựng kế hoạch kiểm toán chi tiết
cần chú trọng đến các thử nghiệm cơ bản nhiều.
Về quy trình kế toán: qua những thông tin thu thập được, kiểm toán
viên đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của công ty CEBD không thể tin
cậy tuyệt đối. Rủi ro kiểm toán được đánh giá ở mức trung bình.
Qua kiểm tra, Kiểm toán viên nhận thấy doanh thu công ty CEBD đã kê
khai thiếu số tiền là 210.522.103 VND. Như vậy mục tiêu đầy đủ của việc
ghi nhận doanh thu của công ty CEBD là không đảm bảo. Kiểm toán viên
tiến hành chọn 10 hóa đơn bán hàng năm 2010 đối chiếu với bảng kê hóa
đơn hàng hóa, dịch vụ bán ra để kiểm tra xem doanh thu của năm 2010
có được ghi sổ đúng kỳ hay không. Chọn 10 hóa đơn bán hàng đầu tiên
của năm 2011 để xem xét liệu doanh thu của 2011 được ghi vào doanh

21



thu của 2010 hay không. Qua kiểm tra, Kiểm toán viên nhận thấy các hóa
đơn được ghi sổ đúng kỳ.
Về việc kiểm tra việc ghi sổ doanh thu có chính xác và có thực hay
không. Qua kiểm tra, Kiểm toán viên phát hiện thấy:
+ Hóa đơn 44915 ngày 31/12/2010 bán cột bơm xăng, vòi bơm xăng
của Nhật với số tiền 181.500.000 chưa có chữ ký người mua hàng và kế
toán trưởng. Như vậy, theo kiểm toán viên thì công ty CEBD cần rà soát
lại các chứng từ kế toán phát sinh để phát hiện và hoàn thiện các chứng
từ kế toán khác còn thiếu các thủ tục ký nhận, kiểm tra…bảo đảm các
chứng từ dùng để hạch toán được hợp lệ.
Ngoài ra, để kiểm tra khoản mục doanh thu và hạn chế tối đa rủi ro
cho khoản mục này, kiểm toán viên cần thực hiện các thủ tục kiểm tra
hạch toán trong doanh thu, kiểm tra đối chiếu số dư cuối kỳ trên sổ chi
tiết phải thu với bảng cân đối kế toán về số tổng cộng. Và đối với công ty
CEBD, kiểm toán viên cần thấy phải gửi thư xác nhận cho khách hàng của
công ty mà chưa có biên bản đối chiếu công nợ.

22


PHẦN KẾT LUẬN
Trước xu thế hội nhập, các công ty kiểm toán độc lập Việt Nam hiện nay
đã từng bước nỗ lực hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm tăng
tính cạnh tranh với các công ty kiểm toán nước ngoài. Để nâng cao chất
lượng dịch vụ, bên cạnh việc hoàn thiện chương trình kiểm toán, nâng cao
trình độ các kiểm toán viên thì hòn thiện công tác đánh giá rủi ro kiểm
toán cũng là một nhân tố quan trọng quyết định thành công hay thất bại
của cuộc kiểm toán. Rủi ro được xác định hợp lý là cơ sở để lập kế hoạch
hiệu quả, thiết kế chương trình hợp lý, bảo đảm về chất lượng cũng như

thời gian và chi phí cuộc kiểm toán. Chính vì thế, công tác đánh giá rủi ro
đòi hỏi phải được thực hiện cẩn thận, chi tiết bởi các kiểm toán viên giàu
kinh nghiệm dựa trên quy trình chuẩn của công ty kiểm toán và chuẩn
mực kiểm toán Việt Nam, chuẩn mực kiểm toán quốc tế. Bên cạnh đó, các
công ty cũng phải từng bước hoàn thiện quy trình chuẩn đánh giá rủi ro và
xây dựng những hướng dẫn, tiêu chí cụ thể nhằm tránh cho kiểm toán
viên gặp phải những khó khăn và bất đồng trong đánh giá rủi ro kiểm
toán.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Chuẩn mực kiểm toán số 200: “Mục tiêu tổng thể của Kiểm toán viên
và doanh nghiệp kiểm toán khi thực hiện kiểm toán Việt Nam”.
2. Chuẩn mực kiểm toán số 240: “Trách nhiệm của kiểm toán viên liên
quan đến gian lận trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính”.
3. Chuẩn mực kiểm toán số 315: “Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót
trọng yếu thông qua hiểu biết về đơn vị được kiểm toán và môi
trường của đơn vị”.
4. Chuẩn mực kiểm toán số 330: “Biện pháp xử lý của kiểm toán viên
đối với rủi ro đã đánh giá”.
5. Chuẩn mực kiểm toán số 400: “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”.
6. Giáo trình Kiểm toán. Tập 1 (Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM)

23



×