Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ QUAN điểm của CHỦ NGHĨA mác lê NIN về lợi NHUẬN và vận DỤNG vào PHÁT TRIỂN KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.08 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
Đại hội VI - Đảng Cộng sản Việt Nam với tinh thần nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, Đảng ta đã đề ra đường lối Đổi Mới toàn diện,
trong đó, đổi mới kinh tế được đặt lên hàng đầu, với chủ trương phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước, theo định hướng XHCN, từng bước chuyển đổi cơ chế
kinh tế từ kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Hiện nay
Đảng và nhà nước ta đã xác định mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự chuyển đổi sang cơ chế thị trường thì
một loạt vấn đề lý luận đòi hỏi phải được luận giải. Một loại những phạm trù
mới xuất hiện khác hẳn với nền kinh tế tập trung bao cấp trước đây đặc biệt là
vấn đề lợi nhuận. Chúng ta đã một thời coi lợi nhuận là một cái gì đó xấu xa,
là một phạm trù hoàn toàn xa lạ với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hiện nay
nước ta đang vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì lợi nhuận là vấn đề trung
tâm. Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân khi bắt tay vào sản xuất kinh doanh
đều muốn thu lợi nhuận. Lợi nhuận là mục đích của mọi ngành nghề, mọi
nhà kinh doanh. Lợi nhuận là phần thưởng cho sự lao động, sáng tạo,
năng động của con người trong qúa trình sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận
có vai trò nhất định trong nền kinh tế hiện nay. Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ mười cũng khẳng định: Lợi ích kinh tế là động l ực trực tiếp thúc
đẩy người lao động. Vậy nguồn gốc, bản chất lợi nhuận là gì và vai trò của lợi
nhuận trong nền kinh tế thị trường hiện nay như thế nào là vấn đề mà chúng ta
phải luận giải. Vì vậy, trong bài thu hoạch này tôi xin làm rõ: “quan điểm của
Mác về lợi nhuận và vận dụng vào phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội ở nước ta hiện nay”


2


NỘI DUNG
I : quan điểm về lơi nhuận trong học thuyết của Mác.
Lợi nhuận xuất hiện từ rất lâu cùng với sự phát triển của kinh tế hàng
hoá. Trước Mác có rất nhiều quan điểm của các trường phái khác nhau về vấn
đề lợi nhuận. Song chỉ bắt đần từ chủ nghĩa trọng thương thì các quan điểm
này được khái quát hóa thành hệ thống lý luận nhưng còn đơn sơ mộc mạc.
Chỉ đến khi chủ nghĩa Mác xuất hiện, thì nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận
mới được làm sáng tỏ, trên cơ sở kế thừa những tư tưởng tiến bộ, khoa học
của các trường phái lý luận trước đó. Mác đã phân tích và làm sáng tỏ nguồn
gốc và bản chất của lợi nhuận cũng như đã giải thích được sự hình thành của
tỷ suất lợi nhuận bình quân và bản chất của quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu
hướng giảm dần. Ngoài ra Mác đã thấy được và phân tích một cách khoa học
sự phân chia của lợi nhuận thành các hình thức khác nhau như lợi nhuận công
nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức cho vay, lợi nhuận ngân hàng, địa tô
tư bản chủ nghĩa.
1/Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận:
Để thấy được sự hình thành của lợi nhuận, trước tiên ta hãy xem xét về
khái niệm mà Mác gọi là chi phí sản xuất(CPSX).
Để tiến hành sản xuất ra một sản phẩm thì trên thực tế nhà tư bản sẽ
phải ứng tư bản ra để mua các tư liệu sản xuất(TLSX), được ký hiệu là (c),
và để thuê lao động được ký hiệu là (v). Toàn bộ phần tư bản này được gọi
là tư bản ứng trước(TBƯT). Tuy nhiên, theo Mác thì không phải toàn bộ
phần TBƯT này đều được chuyển dịch hết vào giá trị của hàng hoá mà chỉ
có một phần lượng tư bản được dùng để ứng trước cho TLSX và toàn bộ
lượng tư bản được dùng để ứng trước cho lao động là cấu tạo trực tiếp nên
giá trị của hàng hoá. Phần giá trị này được Mác gọi là CPSX , được ký hiệu
là (k) vậy: k= c + v


3


Với sự hình thành khái niệm CPSX, nhà tư bản đã bước đầu che dấu
được sự hình thành của giá trị thặng dư(GTTD) và tạo điều kiện để hình thành
nên khái niệm lợi nhuận. Theo Mác "giá trị thặng dư là giá trị mới dôi ra
ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt".
Như vậy, GTTD chính là phần lao động không được trả công của người công
nhân mà nhà tư bản đã chiếm đoạt, điều đó có nghĩa là GTTD (hay chính là
phần giá trị mới) được tạo ra bởi lao động của người công nhân. Nói cách
khác chính lao động của người công nhân và chỉ duy nhất một mình nó tạo ra
GTTD. Lý luận về GTTD của Mác đã vạch trần bản chất bóc lột của CNTB
chỉ rõ nguồn gốc sự giàu có của CNTB nói chung và của nhà tư bản nói riêng
chính là nhờ chiếm đoạt GTTD.
Với sự hình thành khái niệm CPSX (k=c+v) thì nguồn gốc và bản chất
bóc lột của nhà tư bản đã bị che lấp. ở đây, dường như phần giá trị mới được tạo
ra là do tác động của toàn bộ lượng tư bản mà nhà tư bản đã ứng ra. Có nghĩa là,
cả bộ phận tư bản bỏ vào lao động (v) và bộ phận tư bản bỏ vào TLSX (c) đều
có vai trò như nhau trong việc tạo ra phần giá trị mới, Mác viết: "Bộ phận tư bản
bỏ vào lao động, khác với bộ phận tư bản bỏ vào TLSX, vào bông hay than
chẳng hạn, ở chỗ là nó được dùng để trả tiền cho một yếu tố sản xuất khác về
mặt vật chất, chứ hoàn toàn không phải là vì, do chức năng của nó, nó đã đóng
một vai trò khác trong quá trình sáng tạo ra giá trị của hàng hoá và do đó trong
quá trình làm cho tư bản tăng thêm giá trị".Như vậy, với sự hình thành khái niệm
CPSX vô hình dung đã xoá đi sự khác nhau giữa tư bản bất biến(TBBB) và tư
bản khả biến(TBKB) trong chức năng sáng tạo ra giá trị.
Như vậy, phần giá trị mới được tạo ra trong quá trình sản xuất nếu
coi là phần dôi ra ngoài giá trị sức lao động do người công nhân tạo ra thì
được gọi là GTTD còn nếu, vẫn với lượng giá trị đó,mà được đem so sánh với
toàn bộ tư bản ứng trước thì sẽ mang hình thức chuyển hoá là lợi nhuận. Vậy



4

xét cho cùng lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái chuyển hoá của
GTTD," một hình thái mà PTSX TBCN tất nhiên phải đẻ ra" nhằm che đậy
bản chất bóc lột của nó.
Nếu ký hiệu lợi nhuận là (p) thì công thức giá trị của hàng hoá trước
là : gt=c+v+m nay sẽ chuyển thành :gt=k+p,với k (=c+v) chính là CPSX để
tạo ra hàng hoá. Từ công thức này ta có thể thấy rằng CPSX của một hàng
hoá luôn nhỏ hơn giá trị thực tế của hàng hoá đó một lượng đúng bằng phần
GTTD được tạo ra. Như vậy nếu hàng hoá được bán đúng với giá trị của nó
thì nhà tư bản sẽ thu về được một khoản lợi nhuận đúng bằng phần GTTD (m)
chứa đựng trong hàng hoá đó. Tuy nhiên nhà tư bản cũng vẫn có thể bán một
hàng hoá nhất định nào đó với giá cả nhỏ hơn hoặc lớn hơn giá trị thực tế của
nó. Chừng nào mà giá bán vẫn còn cao hơn CPSX để sản xuất ra hàng hoá đó
thì nhà tư bản còn thu được lợi nhuận. Vì vậy đã làm cho lợi nhuận dường
như là kết quả của hoạt động kinh doanh, do tài nghệ kinh doanh của nhà tư
bản tạo ra. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự hình thành và tồn tại
của một số quan điểm sai lầm về lợi nhuận.
2/Tỷ suất lợi nhuận,tỷ suất lợi nhuận bình quân,giá cả sản xuất
và quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm dần :
Lợi nhuận thực chất chỉ là một hình thức biến tướng của GTTD. Tuy
nhiên đối với nhà tư bản thì họ không quan tâm, không cần biết đến điều đó.
Khi tiến hành một hoạt động sản xuất hàng hoá mục tiêu của nhà tư bản
không phải là hàng hoá được sản xuất ra cũng không phải là giá trị sử dụng
của hàng hoá đó. Cái mà nhà tư bản cần là cái phần giá trị mới thừa ra so với
toàn bộ phần tư bản đã tiêu dùng, nó được nhà tư bản gọi dưới cái tên là lợi
nhuận. Mặc dù cái đích cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của
nhà tư bản là lợi nhuận tuy nhiên nhà tư bản lại chẳng quan tâm xem phần lợi
nhuận đó được tạo ra từ đâu, từ TBBB hay từ TBKB vv...Đối với nhà tư bản



5

lợi nhuận được tạo nên từ toàn bộ phần tư bản đã tiêu dùng đúng như Mác đã
viết :"...nhà tư bản trông mong là tất cả các bộ phận của tư bản mà hắn ứng ra
đều sẽ đem lại lợi nhuận như nhau cả ". Từ quan niệm trên đã nảy sinh khái
niệm về tỷ suất lợi nhuận. Theo định nghĩa của Mác thì "Tỷ suất lợi nhuận (p')
là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng
trước".Ta có : p'=(m/(c+v))x 100%.
Với sự xuất hiện khái niệm tỷ suất lợi nhuận một lần nữa bản chất
bóc lột của CNTB lại được che dấu đi. Nếu như tỷ suất GTTD (m') đã phản
ánh được sự bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê, là thước đo
trình độ bóc lột của giai cấp tư sản thì tỷ suất lợi nhuận, đơn thuần chỉ phản
ánh mức lãi của việc đầu tư tư bản nó chỉ cho nhà tư bản biết nên đầu tư vào
đâu thì có lợi hơn.
Trên đây, chúng ta đã nghiên cứu xem xét về sự hình thành của tỷ
suất lợi nhuận cũng như vai trò của nó trong phản ánh mức lãi của hoạt động
đầu tư. Tuy nhiên, tỷ suất lợi nhuận chỉ phản ánh trong phạm vi một ngành
sản xuất mỗi ngành có một tỷ suất lợi nhuận riêng. Còn trong nền kinh tế
TBCN với sự đa dạng về ngành nghề thì tất yếu dẫn tới sự hình thành khái
niệm tỷ suất lợi nhuận bình quân. Sở dĩ hình thành khái niệm này là do trong
nền kinh tế TBCN luôn tồn tại sự cạnh tranh, đó là hình thức đấu tranh gay
gắt giữa những người sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về
TLSX, nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ
hàng hoá. Trong nền kinh tế TBCN do chế độ chiếm hữu tư nhân về TLSX
cho nên sự tồn tại tình trạng cạnh tranh là tất yếu dưới hai dạng là cạnh tranh
trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Mỗi hình thức cạnh tranh sẽ
đem lại một kết quả khác nhau. Với cạnh tranh trong nội bộ ngành kết quả
cuối cùng là làm cho tỷ suất lợi nhuận của ngành giảm xuống. Còn cạnh tranh
giữa các ngành thì lại dẫn tới sự hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân.



6

như vậy mỗi ngành sản xuất có một tỷ suất lợi nhuận riêng rất khác nhau nó
phụ thuộc vào cấu tạo hữu cơ của lượng tư bản đầu tư vào các ngành đó. Do
đó, luôn tồn tại những ngành mà ở đó có tỷ suất lợi nhuận cao hơn các ngành
khác mà tỷ suất lợi nhuận của một ngành phản ánh mức lãi đạt được nếu đầu
tư vào ngành đó. Chính vì vậy mà các nhà tư bản sẽ đua nhau rút tư bản ra
khỏi những ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp để đầu tư vào những ngành có tỷ
suất lợi nhuận cao. Và kết quả của sự di chuyển tự do, liên tục này là hình
thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Vậy "Tỷ suất lợi nhuận bình quân chính là tỷ số tính theo phần trăm
giữa tổng giá trị thặng dư trong xã hội tư bản và tổng tư bản xã hội đã đầu tư
vào tất cả các lĩnh vực, các nghành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ".
Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân đã dẫn tới sự biến đổi từ
giá trị hàng hoá thành giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất được định nghĩa "bằng chi
phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân". Ta có : giá cả sản xuất = k + p .
Trước đây, khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả xoay
quanh giá trị của hàng hoá. Giờ đây, với việc hình thành khái niệm giá cả sản
xuất thì giá cả của hàng hoá lại xoay quanh giá cả sản xuất. Đã từng có một số
nhà kinh tế học tư sản, dựa vào sự thật là giá cả sản xuất trong một số ngành
không phù hợp với giá trị của hàng hoá trong các ngành đó, để hòng bác bỏ lý
luận giá trị lao động của Mác. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng quy luật giá trị
vẫn hoàn toàn đúng đắn trong giai đoạn TBCN, giá trị vẫn đóng vai trò là cơ
sở là nội dung bên trong của giá cả sản xuất. Nói cách khác, giá cả sản xuất
thực chất chỉ là một hình thức biến tướng của giá trị mà thôi.
Mác đã giải thích được một cách khoa học về nguồn gốc, bản chất
của lợi nhuận cũng như các khái niệm khác liên quan tới lợi nhuận, đặc biệt là
những khái niệm về tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất. Điều này

thể hiện sự tiến bộ vượt trội của học thuyết kinh tế của Mác so với các học


7

thuyết kinh tế khác. Hơn thế nữa, không chỉ lý giải về sự hình thành của tỷ
suất lợi nhuận bình quân mà Mác còn giải thích và chứng minh một cách
đúng đắn và khoa học về quy luật tỷ suất lợi nhuận giảm dần. Một quy luật
mà mặc dù một số nhà lý luận của trường phái TSCĐ như A.Smith hay
D.Ricardo tuy đã nhận thức được về sự hiện diện của quy luật này nhưng vẫn
chưa thể giải thích được nó một cách đúng đắn và khoa học.
Mác đã chứng minh rằng sự tồn tại của quy luật tỷ suất lợi nhuận có
xu hướng giảm dần là do sự tăng lên của TBBB so với tổng tư bản đã dẫn tới
sự giảm sút một cách tương đối của TBKB so với tổng tư bản. Kết quả là
TBBB sẽ tăng lên một cách tương đối so với TBKB và do đó làm cho tỷ suất
lợi nhuận cũng giảm dần. Sở dĩ có hiện tượng TBBB tăng lên tương đối so
với TBKB, theo Mác giải thích, là do "...sự phát triển ngày càng nhanh chóng
của CNTB đã đem lại những phương pháp sản xuất mới cho phép vẫn một số
lượng công nhân như thế, vẫn một khối lượng sức lao động như thế do một
khối lượng tư bản khả biến nhất định thuê mướn, cùng trong một khoảng thời
gian như thế, lại sẽ vận động được một khối lượng tư liệu lao động, máy móc
và các loại tư bản cố định ngày càng lớn..."
Mặt khác, nguyên nhân sâu xa của quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu
hướng giản dần chính là sự tăng dần của năng suất lao động xã hội
(NSLĐXH). Với nền đại công nghiệp của CNTB, NSLĐXH ngày càng được
nâng cao. Điều đó cho phép một số lượng ít hơn về lao động có thể vận động
được một khối lượng máy móc ngày càng nhiều hơn để biến một lượng nhiều
hơn, các TLLĐ thành sản phẩm hàng hoá. Nói khác đi trong cơ cấu giá trị của
hàng hoá thì phần TBBB (c) ngày càng tăng trong khi phần TBKB (v) thì
ngày càng giảm. Mặc dù trình độ bóc lột là không giảm nhưng tỷ suất lợi

nhuận vẫn ngày càng giảm.
Mác đã khẳng định, sự đúng đắn của quy luật tỷ suất lợi nhuận giảm
dần không có nghĩa là lượng GTTD, hay chính là lượng lao động không được


8

trả công mà nhà tư bản chiếm đoạt của người công nhân, không tăng lên một
cách tuyệt đối. Sở dĩ như vậy là do nhà tư bản không ngừng nâng cao tỷ suất
giá trị thặng dư cũng như không ngừng tăng thêm tổng số lao động bị tư bản
bóc lột, quy luật này còn làm cho nhà tư bản càng tăng cường bóc lột công
nhân tới mức tối đa nhằm kìm hãm xu hướng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận.
Ngoài ra, nó còn làm cho cuộc tranh giành phân chia tổng khối lượng lợi
nhuận ngay trong nội bộ giai cấp tư bản cũng diễn ra ngày càng gay gắt.
Không chỉ có vậy mà trong nỗ lực tìm mọi cách kìm hãm xu hướng
giảm dần của tỷ suất lợi nhuận và nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, nhà tư
bản đã đua nhau đầu tư tư bản ra nước ngoài đặc biệt là các quốc gia kém phát
triển nơi có nguồn nhân công giá rẻ và cấu tạo hữu cơ của tư bản thấp hơn so
với các nước phát triển. Ở các nước này, bọn tư bản ra sức vơ vét, bóc lột
nhân dân các nước thuộc địa. Điều đó làm cho mâu thuẫn giữa các nước tư
bản phát triển và các nước chậm tiến, giữa chính quốc và các nước thuộc địa
ngày càng gay gắt.
Ngoài ra, với tham vọng tăng thêm lợi nhuận để bù đắp vào chỗ giảm
sút lợi nhuận do xu hướng giảm sút lợi nhuận gây ra, nhà tư bản đã tăng
cường mở rộng quy mô sản xuất, đẩy sức cung của thị trường vượt xa khỏi
giới hạn nhu cầu của người mua. Đây là một trong các nguyên nhân dẫn tới
các cuộc khủng hoảng thừa, loại khủng hoảng đặc trưng của CNTB.
Tóm lại, có thể thấy rằng quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng
giảm dần không chỉ đơn thuần phản ánh xu hướng giảm dần của tỷ suất lợi
nhuận trong xã hội tư bản mà nó còn làm cho những mâu thuẫn nội tại của

CNTB ngày càng trở nên sâu sắc và từ đó,chỉ ra các hạn chế mang tính chất lịch
sử của PTSX TBCN ..Vì vậy,việc giải thích một cách khoa học sự hình thành
cũng như các tác động của quy luật tỷ suất lợi nhuận giảm dần trong xã hội tư
bản đã làm cho học thuyết kinh tế của Mác nói riêng và toàn bộ hệ thống lý luận


9

của Mác nói chung tăng thêm tính khoa học và phù hợp với thời đại. Những lý
luận này góp phần làm sáng tỏ những hạn chế mang tính lịch sử của CNTB. Nó
chỉ ra rằng tới một lúc nào đó thì những mâu thuẫn nội tại của CNTB cũng như
những hạn chế lịch sử của nó sẽ làm cho PTSX TBCN trở thành một trở ngại
ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của LLSX và tất yếu tới một lúc nào đó, CNTB
sẽ bị diệt vong và thay thế nó sẽ là một xã hội khác tiến bộ hơn.
3/ Các hình thức biểu hiện của lợi nhuận:
a/ Lợi nhuận Công nghiệp và lợi nhuận Thương nghiệp:
Trước tiên, xét trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông hàng hóa ta sẽ
thấy tồn tại hai dạng tư bản là tư bản Thương nghiệp và tư bản Công nghiệp
và tương ứng với chúng là hai hình thức lợi nhuận, lợi nhuận Thương nghiệp
và lợi nhuận Công nghiệp . Không phải chỉ tới CNTB thì mới tồn tại hai dạng
tư bản cũng như hai hình thái lợi nhuận này. Nhưng trong các xã hội trước
CNTB thì hai dạng tư bản này hoàn toàn độc lập với nhau. Nhà tư bản sau khi
sản xuất ra sản phẩm rồi phải tự mình mang sản phẩm ra thị trường để tiêu thụ
do đó toàn bộ tư bản của họ ban đầu không chỉ được đầu tư vào mỗi quá trình
sản xuất mà còn phải chi phí cho cả quá trình bán hàng do vậy lợi nhuận của
nhà tư bản Công nghiệp sẽ bị giảm đáng kể. Còn tư bản Thương nghiệp trong
giai đoạn này,hay còn được gọi là Thương nghiệp cổ xưa với chức năng lưu
thông hàng hoá dựa trên cơ sở “mua rẻ, bán đắt” và vì vậy lợi nhuận Thương
nghiệp lúc này thực chất là kết quả của việc “ăn cắp và lừa đảo”. Ta có thể
thấy rõ điều này qua quan điểm của trường phái trọng thương, cho rằng lợi

nhuận là kết quả của sự trao đổi không ngang giá, cho rằng “không một người
nào thu được lợi mà không làm thiệt kẻ khác”.
Nhưng trong giai đoạn TBCN, do nhu cầu của sự chuyên môn hoá và
hợp tác hoá thì Công nghiệp và Thương nghiệp hay nói rộng hơn là quá trình
sản xuất và lưu thông không thể tách biệt độc lập mà đã trở nên phụ thuộc,


10

gắn kết lẫn nhau. Lúc này thì tư bản Thương nghiệp, thực chất “là một bộ
phận của tư bản Công nghiệp tách rời ra, phục vụ qúa trình lưu thông hàng
hoá của nhà tư bản Công nghiệp”. Khi đó, với sự hình thành của tư bản
Thương nghiệp thì cả tư bản Công nghiệp và tư bản Thương nghiệp đều thu
được những lợi ích mà được thể hiện ra là lợi nhuận Công nghiệp và lợi
nhuận Thương nghiệp. Đối với tư bản Thương nghiệp, mặc dù chỉ tham gia
vào lĩnh vực lưu thông, tức là chỉ tham gia vào việc thực hiện giá trị, trong đó
có giá trị thặng dư, chứ không hề tham gia vào quá trình sản xuất ra giá trị
nhưng vẫn thu được một phần lợi nhuận. Phần lợi nhuận này được gọi là lợi
nhuận Thương nghiệp. Nếu chỉ xét tới vai trò của tư bản Thương nghiệp là
thực hiện giá trị của hàng hoá mà tạm thời bỏ qua chức năng tiếp tục quá trình
sản xuất trong lĩnh vực lưu thông của nó thì đúng là tư bản Thương nghiệp
không hề tạo ra giá trị và giá trị thặng dư do vậy nhìn bề ngoài có thể lầm
tưởng lợi nhuận Thương nghiệp là do mua rẻ, bán đắt mà có. Tuy nhiên, lợi
nhuận Thương nghiệp thực chất, “là một phần giá trị trị thặng dư được sáng
tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản Công nghiệp nhường cho nhà tư
bản Thương nghiệp”.
Sở dĩ nhà tư bản Công nghiệp chịu nhường và phải nhường một phần
của thặng dư mà mình chiếm đoạt được hay một phần lợi nhuận của mình cho
nhà tư bản Thương nghiệp là do:
Thứ nhất, với việc hình thành bộ phận tư bản Thương nghiệp chuyên

trách việc lưu thông hàng hoá thì tư bản Công nghiệp đã thu được nhiều
lợi nhuận hơn so với khi mà tư bản Công nghiệp phải đảm nhiệm cả việc
lưu thông hàng hoá. Ngay cả khi phải chia sẻ một phần lợi nhuận cho tư
bản Thương nghiệp thì phần lợi nhuận còn lại vẫn nhiều hơn cho nên nhà
tư bản có thể nhường một phần lợi nhuận nhằm duy trì bộ phận tư bản
Thương nghiệp.


11

Thứ hai, nếu chỉ xét tư bản Thương nghiệp với vai trò thuần tuý là
thực hiện giá trị thì tư bản Thương nghiệp không hề tạo ra một chút giá trị
nào, tức là hoạt động đó sẽ không mang lại một chút lợi nhuận nào cho nhà tư
bản Thương nghiệp. Do vậy, nếu muốn tư bản Thương nghiệp tiếp tục đảm
nhiệm việc tiêu thụ hàng hóa, thực hiện gía trị thì nhà tư bản Công nghiệp
buộc phải nhường một phần giá trị thặng dư cho tư bản Thương nghiệp.
Ngoài ra, sự chuyên môn hoá này còn góp phần mở rộng qui mô tái
sản xuất, mở rộng thị trường, tạo điều kiện cho Công nghiệp phát triển. Hơn
nữa, tuy không trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư nhưng tư bản Thương nghiệp
lại góp phần làm tăng năng suất lao động, tăng lợi nhuận và do đó, làm cho tỷ
suất lợi nhuận chung của xã hội tăng.
Như vậy, khái quát lại thì lợi nhuận Thương nghiệp có nguồn gốc từ
phần giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên lợi nhuận
đó được thực hiện như thế nào? Do tư bản Thương nghiệp chỉ tham gia vào
quá trình lưu thông cho nên lợi nhuận Thương nghiệp chính là phần chênh
lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá. Nhưng nói thế không có nghĩa là nhà
tư bản Thươnh nghiệp phải mua hàng hoá với đúng giá trị của nó để rồi bán
cao hơn giá trị nhằm thu lợi nhuận chênh lệch. Mà thực chất thì nhà Tư bản
Thương nghiệp sẽ mua hàng hoá thấp hơn giá trị và bán đúng bằng giá trị của
hàng hoá. Nguyên nhân của hiện tượng này là do sự hình thành một tỉ suất lợi

nhuận bình quân mới là bình quân các tỉ suất lợi nhuận của hai nghành Công
nghiệp và Thương nghiệp.
Như vậy là, với sự hình thành tỉ suất lợi nhuận chung giữa hai ngành
Công nghiệp và Thương nghiệp thì lợi nhuận Thương nghiệp đã được thực
hiện. Với sự xuất hiện của lợi nhuận Thương nghiệp trong xã hội tư bản, đã
hình thành nên hai loại giá cả sản xuất là giá cả sản xuất Công nghiệp và giá
cả sản xuất thị trường. Nó cũng góp phần che dấu thêm một mức nữa quan hệ
bóc lột TBCN.


12

b/ Lợi tức cho vay và lợi nhuận ngân hàng:
Tư bản Thương nghiệp là một bộ phận tư bản Công nghiệp tách ra,
phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá của nhà tư bản Công nghiệp. Còn tư
bản cho vay, thực chất cũng là một bộ phận của tư bản Công nghiệp được tách
ra nhưng là để, một mặt vừa đáp ứng nhu cầu về tư bản, mặt khác là để thoả
mãn sự thèm khát lợi nhuận của nhà tư bản.
Trước hết, cần phải thấy rằng trong quá trình chu chuyển của tư bản,
có nhiều lúc nhà tư bản Công nghiệp hoặc Thương nghiệp có một số tư bản
tiền tệ nhàn rỗi, ví dụ như tiền trong quỹ khấu hao tái sản cố định, tiền dùng
để mua nguyên nhiên liệu, vật liệu nhưng chưa tới kỳ mua.... Nếu nhà tư bản
chỉ để tiền ở dạng nhàn rỗi, không hoạt động như vậy thì lượng tiền đó sẽ
không mang lại cho nhà tư bản một thu nhập nào. Mà đối với nhà tư bản thì
tiền phải đẻ ra tiền, bất cứ một đơn vị tư bản nào cũng phải mang lại lợi
nhuận. Do vậy mà nhà tư bản nẩy sinh ý định đem lượng tư bản nhàn rỗi đó
cho người khác vay để kiếm lời.
Mặt khác, cũng chính trong những thời gian đó, lại có những nhà tư
bản lại đang rất cần tư bản, ví dụ như đang cần mua nguyên nhiên vật liệu để
tiếp tục sản xuất nhưng lại chưa bán được hàng hoá, cần tiền để đổi mới tài

sản cố định nhưng quỹ khấu hao không đủ... Do đó, những nhà tư bản này tất
yếu có nhu cầu vay tư bản của người khác.
Như vậy là cùng một lúc vừa có những nhà tư bản có nhu cầu đi vay
lại vừa có những nhà tư bản có nhu cầu cho vay. Và tất yếu sẽ hình thành nên
mối quan hệ tín dụng TBCN và nhà tư bản Công nghiệp có tư bản nhàn rỗi sẽ
trở thành nhà tư bản cho vay.
Vậy tư bản cho vay "là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường
cho một người khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một số lời nào
đó". Đặc điểm nổi bật của tư bản cho vay là nó không thuộc sở hữu của nhà tư


13

bản sử dụng nó vào sản xuất. Có nghĩa là khi nhà tư bản cho vay cho người
khác vay một lượng tư bản tiền tệ là chỉ cho người đó quyền sử dụng lượng tư
bản tiền tệ đó chứ không cho quyền sở hữu lượng tư bản đó. Do vậy mà ở tư
bản cho vay thì quyền sử dụng và quyền sở hữu được tách rời nhau, đây cũng
là sự khác biệt căn bản của tư bản cho vay với tư bản Công nghiệp và tư bản
Thương nghiệp. Nhà tư bản cho vay cho người khác sử dụng lượng tư bản
tiền tệ nhàn rỗi của mình không phải do lòng tốt hay vì một cái gì khác mà chỉ
đơn thuần là để kiếm lời. Chính vì vậy mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà
tư bản cho vay một số tiền nào đó, khoản tiền này được gọi là lợi tức và nó
dược trích từ phần lợi nhuận thu được của nhà tư bản đi vay sau khi anh ta sử
dụng lượng tư bản đi vay vào quá trình sản xuất.
Vậy lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay
phải trả cho nhà tư bản cho vay căn cứ vào món tiền mà nhà tư bản cho vay
đã đưa cho nhà tư bản đi vay sử dụng. Như vậy thì xét cho cùng nguồn gốc
của lợi tức chính là phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản Công nghiệp chiếm
đoạt của người lao động.
Với sự hình thành của tư bản cho vay và tương ứng với nó là lợi tức

cho vay thì lúc này phần lợi nhuận bình quân mà các nhà tư bản Công nghiệp
và tư bản Thương nghiệp thu được không còn thuộc hoàn toàn về họ mà phần
lợi nhuận bình quân đó được chia ra thành lợi tức cho vay là khoản đem trả
cho nhà tư bản cho vay, phần còn lại sau khi trả lợi tức được gọi là thu nhập
của chủ xí nghiệp. Lượng lợi tức đem trả nhiều hay ít tuỳ theo quan hệ cung
cầu về tư bản cho vay và nó phụ thuộc vào tỉ suất lợi tức, là tỉ lệ phần trăm
giữa tổng số lợi tức và tổng số tư bản tiền tệ cho vay.
Nếu kí hiệu lợi tức là Z còn tỉ suất lợi tức là Z’ thì ta có:
Z’ = ( Z/tư bản cho vay) x 100%
Phần lợi tức cao hay thấp là do tỉ suất lợi tức quy định, đến lượt nó
thì tỉ suất lợi tức lại bị quy định bởi các yếu tố:


14

Giới hạn cao nhất của tỉ suất lợi tức chính là tỉ suất lợi nhuận bình
quân do vậy mà sự thay đổi của tỉ suất lợi nhuận bình quân cũng dẫn tới sự
thay đổi thuận chiều tương ứng của tỉ suất lợi tức. Cũng chính vì vậy cho nên,
vì tồn tại quy luật giảm dần của tỉ suất lợi nhuận do đó tỷ suất lợi tức cũng có
xu hướng giảm dần.
Tỉ suất lợi tức phụ thuộc vào mối quan hệ cung cầu về tư bản cho vay.
Tóm lại, xuất phát từ việc nảy sinh mối quan hệ tín dụng TBCN
cho nên đã nảy sinh các nhu cầu cho vay và đi vay đã dẫn tới sự hình thành
tư bản cho vay và lợi tức cho vay. Tuy nhiên, quan hệ tín dụng TBCN ở
thời kỳ này mới chỉ ở dạng đơn giản mang tính trực tiếp, tức là nhà tư bản
cho vay thiết lập trực tiếp mối quan hệ tín dụng với nhà tư bản đi vay.
Nhưng cùng với sự phát triển của CNTB thì nhu cầu đi vay và cho vay
ngày càng nhiều, các quan hệ tín dụng trong xã hội tư bản trở nên trồng
chéo, phức tạp. Do vậy đã đòi hỏi phải xuất hiện một tổ chức đóng vai trò
trung gian để đơn giản hoá các quan hệ tín dụng này. Đó chính là ngân

hàng TBCN, là một tổ chức kinh doanh tư bản tiền tệ, đóng vai trò môi giới
giữa người đi vay và người cho vay. Và như mọi tổ chức kinh doanh TBCN
khác, mọi hoạt động của Ngân hàng cũng phải nhằm mục tiêu đem lại lợi
nhuận. Chính vì vậy, dựa trên việc quy định lợi tức nhận gửi nhỏ hơn lợi
tức cho vay, Ngân hàng đã thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của
mình. Khoản lợi nhuận này được gọi là lợi nhuận Ngân hàng, nó chính là
khoản chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi sau khi đã trừ đi
những khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ Ngân hàng và cộng với các
khoản thu nhập khác về kinh doanh tiền tệ. Khác với lợi tức vận động theo
quy luật tỉ suất lợi tức giảm dần, lợi nhuận ngân hàng hoạt động theo quy
luật tỉ suât lợi nhuận bình quân giảm dần, có nghĩa là lợi nhuận ngân hàng
ngang bằng với lợi nhuận bình quân.


15

c/ Địa tô Tư bản Chủ nghĩa:
Khi nghiên cứu sự hình thành và xâm nhập của CNTB vào lĩnh vực
Thương nghiệp và tín dụng và tương ứng là sự hình thành nên các bộ phận tư
bản Thương nghiệp; tư bản cho vay và tư bản Ngân hàng. Chúng ta sẽ xem
xét sự xâm nhập của CNTB vào trong Nông nghiệp dẫn tới sự hình thành bộ
phận tư bản kinh doanh trong Nông nghiệp và sự xuất hiện một hình thức mới
của lợi nhuận là địa tô Tư bản Chủ nghĩa.
Trước tiên, ta sẽ xem xét sự xâm nhập của PTSX TBCN vào trong Nông
nghiệp. Với sự phát triển của CNTB, giai cấp Tư bản không chỉ thống trị nghành
Công nghiệp mà còn dần dần thao túng cả lĩnh vực Nông nghiệp. Sự xâm nhập
của CNTB vào lĩnh vực Nông nghiệp có thể diễn ra theo hai cách sau.
Một là, trước hết vẫn duy trì về căn bản nền kinh tế phong kiến địa
chủ trước kia và sau đó thông qua các cuộc cải cách mà dần dần chuyển sang
đường lối kinh tế theo kiểu Tư bản Chủ nghĩa.

Hai là, ngay từ đầu thông qua con đường Cách mạng Tư sản lật đổ
chế độ kinh tế phong kiến cũ; giải phóng lực lượng sản xuất thoát khỏi xiềng
xích nông nô. Trên cơ sở đã xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, thiết lập
QHSX TBCN trong Nông nghiệp từ đó phát triển nhanh chóng Nông nghiệp
theo con đường các ấp trại TBCN.
Như vậy, dù sự xâm nhập của PTSX TBCN vào Nông nghiệp được
thực hiện theo cách nào đi chăng nữa thì hậu quả của sự xâm nhập này vẫn là
hình thành nên trong nền Nông nghiệp TBCN ba giai cấp chủ yếu là giai cấp
địa chủ, giai cấp tư bản Nông nghiệp và giai cấp công nhân Nông nghiệp.
Nhưng cần phải thấy rằng giai cấp địa chủ lúc này không phải là những địa
chủ xuất thân từ tầng lớp quí tộc, tăng lữ như trong giai đoạn phong kiến mà
địa chủ lúc này, thực chất là những nhà tư sản, đã đầu tư tư bảnđể nhằm thu
gom,thao túng ruộng đất, gây ra tình trạng'lũng đoạn quyền tư hữu ruộng đất'.


16

Chính vì sự xuất hiện của giai cấp địa chủ trong nông nghiệp cho nên
giá trị thặng dư được hình thành do lao động không công của những công
nhân làm thuê trong Nông nghiệp, sẽ được phân chia khác với trong lĩnh vực
Công nghiệp trên cơ sơ đảm bảo lợi nhuận cho không chỉ giai cấp tư sản
Nông nghiệp mà còn cho cả giai cấp địa chủ, những người mà thực chất là các
nhà tư bản đã đầu tư vào ruộng đất. Điều đó có nghĩa là lượng giá trị thặng dư
mà giai cấp tư bản Nông nghiệp chiếm đoạt được sẽ phải không những đủ để
họ có thể thu được lợi nhuận bằng với lợi nhuận bình quân mà còn phải dư ra
một khoản để trả cho chủ ruộng đất mà nhà tư bản đã thuê. Khoản dư ra để trả
cho ruộng đất đó được gọi là địa tô Tư bản Chủ nghĩa.
Vậy địa tô Tư bản Chủ nghĩa “là một phần giá trị thặng dư còn lại sau
khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng
đất”. Sở dĩ ở đây, phần lợi nhuận mà nhà tư bản kinh doanh ruộng đất thu

được phải bằng với lợi nhuận bình quân vì nếu nhỏ hơn lợi nhuận bình quân
thì các nhà tư bản sẽ rút tư bản ra khỏi lĩnh vực Nông nghiệp dể đầu tư vào
các lĩnh vực khác mang lại lợi nhuận nhiều hơn. Tuy nhiên nếu lợi nhuận của
nhà tư bản Nông nghiệp đã bằng lợi nhuận bình quân mà như ta đã biết thì
tổng số lợi nhuận bao giờ cũng bằng tổng giá trị thặng dư. Như vậy thì giai
cấp tư sản kinh doanh trong Nông nghiệp đã kiếm đâu ra phần lợi nhuận siêu
ngạch để trả cho giai cấp địa chủ dưới hình thức địa tô Tư bản Chủ nghĩa. Để
trả lời câu hỏi này ta sẽ phải xem xét sự hình thành của địa tô Tư bản Chủ
nghĩa để thấy được nguồn gốc, bản chất và các hình thái của nó.
Trước tiên ta sẽ xem xét nguyên nhân tạo ra phần lợi nhuận siêu
ngạch trong sản xuất Nông nghiệp. Trong lĩnh vực Công nghiệp, lợi nhuận
siêu ngạch được hiểu là phần lợi nhuận chênh lệch so với lợi nhuận bình quân
mà các nhà tư bản, có những điều kiện sản xuất cá biệt tốt hơn điều kiện sản
xuất trung bình của toàn xã hội thu được. Phần lợi nhuận siêu ngạch này chỉ


17

mang tính tạm thời, cá biệt. Còn trong lĩnh vực Nông nghiệp, lợi nhuận siêu
ngạch cũng mang ý nghĩa tương tự, nó cũng là phần lợi nhuận chênh lệch mà
những nhà tư bản đầu tư vào những mảnh đất mầu mỡ hơn có thể thu được.
Tuy nhiên, khác với lĩnh vực Công nghiệp, phần lợi nhuận siêu ngạch trong
lĩnh vực Nông nghiệp mang tính ổn định, lâu dài và khá phổ biến, là vì trong
Nông nghiệp tư liệu lao đông chủ yếu là đất đai lại có tính chất hạn chế, đại
bộ phận đất đai là xấu, cằn cỗi chỉ có một số ít là đất trồng trọt mầu mỡ. Hơn
thế nữa, các ruộng đất xấu thì hoặc là không thể cải tạo được hoặc là cải tạo
được nhưng đòi hỏi những chi phí rất lớn còn các ruộng đất tốt thì lại bị độc
quyền kinh doanh kiểu TBCN. Chính vì vậy mà các nhà tư bản Nông nghiệp
bắt buộc phải thuê ruộng đất xấu. Điều đó dẫn tới thực trạng là các nhà tư bản
kinh doanh trên ruộng đất tốt luôn tốn ít chi phí hơn các nhà tư bản kinh

doanh trên ruộng đất xấu để cùng sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Trong Công nghiệp, giá cả là do giá thành sản xuất trong điều kiện trung
bình quyết định thì trong Nông nghiệp, vì ruộng đất tốt sản xuất không đủ sản
phẩm để thoả mãn nhu cầu do vậy bắt buộc phải tiến hành sản xuất trên ruộng đất
xấu. Vì vậy nếu vẫn để giá cả sản xuất do điều kiện sản xuất trung bình quyết định
thì các nhà sản xuất kinh doanh trên ruộng đất xấu sẽ thu được ít lợi nhuận hơn.
Điều đó làm cho họ sẽ chuyển sang kinh doanh lĩnh vực khác và sẽ gây ra khan
hiếm các sản phẩm Nông nghiệp. Chính vì vậy mà trong Nông nghiệp thì giá cả
sản xuất là do điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu quyết định.
Từ hai nguyên nhân trên, đã dẫn tới việc hình thành nên lợi nhuận
siêu ngạch trong sản xuất Nông nghiệp. Dạng lợi nhuận siêu ngạch này khi
nộp cho chủ đất dưới dạng địa tô còn được gọi là địa tô chênh lệch. Vậy địa tô
chênh lệch chính là phần lợi nhuận thừa ra ngoài lợi nhuận bình quân, thu
được trên những ruộng đất có điều kiện sản xuất trung bình và tốt, trên cơ sở
giá cả sản xuất cá biệt nhỏ hơn giá cả sản xuất chung do điều kiện sản xuất


18

xấu nhất quy định. Xét cho cùng thì nguồn gốc của địa tô chênh lệch cũng
chính là một phần giá trị thặng dư do công nhân Công nghiệp tạo ra.
Nhà tư bản có thể có được địa tô chênh lệch nhờ hai cách và do đó
tương ứng có hai dạng địa tô chênh lệch khác nhau. Cách thứ nhất, địa tô
chênh lệch có được nhờ việc kinh doanh trên ruộng đất có độ mầu mỡ tự
nhiên hoặc có vị trí giao thông thuận lợi, theo cách này thì địa tô chênh lệch
được gọi là địa tô chênh lệch I. Ngoài ra cũng có thể đạt được địa tô chênh
lệch thông qua việc thâm canh, cải tạo ruông đất mà có với cách này thì địa tô
được tạo ra gọi là địa tô chênh lệch II.
Việc nghiên cứu địa tô chênh lệch và các hình thức biểu hiện của nó
còn phản ánh được sự mâu thuẫn về lợi ích giữa giai cấp tư sản và giai cấp địa

chủ. Một khi mà nhà tư bản, nhờ thâm canh tăng vụ hoặc nhờ phương pháp
sản xuất mới... mà tăng được phần lợi nhuận siêu ngạch nhằm mục đích tăng
lợi nhuận thu được thì ngay sau đó chủ đất lại tìm mọi cách để tăng khoản địa
tô phải nộp lên đúng bằng phần lợi nhuận siêu ngạch thu được, vì vậy mà
trong CNTB sự tồn tại của địa tô chênh lệch đã không thúc đẩy các nhà tư bản
kinh doanh quan tâm tới việc cải tạo, duy trì và nâng cao chất lượng đất trồng
mà họ chỉ tìm mọi cách để khai thác hết độ màu mỡ của đất đai nhằm thu lợi
nhuận nhiều hơn do đó, đất đai sẽ ngày càng bị thoái hoá.
Khi xem xét nguồn gốc và bản chất của địa tô chênh lệch, là phần địa
tô mà nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất trung bình và tốt phải nộp cho chủ
đất còn giả định là những nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất xấu thì sẽ
không phải nộp. Tuy nhiên, trên thực tế thì ngay cả những nhà tư bản kinh
doanh trên ruộng đất xấu cũng vẫn phải nộp địa tô cho chủ đất. Khoản địa tô
này được gọi là địa tô tương đối.
Sở dĩ tồn tại sự chênh lệch đó là do tồn tại chế độ tư bản ruộng đất.
Nếu không có chế độ tư hữu về ruộng đất thì số thừa ra, do cấu tạo hữu cơ


19

Công nghiệp thấp hơn gây ra, sẽ được phân phối lại cho toàn bộ các nhà tư
bản và lúc đó, nông sản sẽ được bán theo giá cả sản xuất (= k+p = c+v+p).
Tuy nhiên, do tồn tại sự độc quyền về tư hữu ruộng đất nên đã ngăn cản sự tự
do cạnh tranh, đã ngăn cản việc hình thành lợi nhuận bình quân giữa hai
nghành Công nghiệp và Nông nghiệp. Vì vậy mà cái phần chênh lệch dôi ra
đó không tham gia vào việc bình quân lợi nhuận mà được giữ lại trong Nông
nghiệp để trả cho chủ đất. Lượng chênh lệch này nhiều hay ít phụ thuộc vào
sự chênh lệch giữa giá bán và giá cả sản xuất chung mà giá bán lại dựa trên cơ
sở là giá trị của nông sản và thường bằng đúng giá trị.
Vậy địa tô tuyệt đối "cũng là một loại lợi nhuận siêu ngạch dôi ra

ngoài lợi nhuận bình quân, được hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản
trong Nông nghiệp thấp hơn trong Công nghiệp, nó là số chênh lệch giữa giá
trị nông sản với giá cả sản xuất chung".
Tóm lại, địa tô tuyệt đối hay địa tô chênh lệch như Mác nói, đều là
một thứ cống vật mà xã hội, dưới chế độ Tư Bản Chủ Nghĩa, phải hiến cho
những người chủ ruộng đất. Xét về nguồn gốc thì địa tô cũng như các hình
thức khác của lợi nhuận,đều có nguồn gốc từ giá trị thặng dư mà nhà tư bản
đã chiếm đoạt của người công nhân. Hơn nữa, địa tô còn phản ánh tính “ăn
bám” của giai cấp địa chủ, vì có địa tô tuyệt đối nên các nông phẩm ngày càng
trở nên đắt đỏ làm cho mức sống của con người giảm sút. Vì có địa tô chênh lệch
nên xã hội không được hưởng những lợi ích từ việc tăng năng suất lao động
trong Nông nghiệp cũng như nhiều lợi ích do đất đai phì nhiêu mang lại.
II. Vận dụng của Đảng ta trong phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Hiện nay chúng ta đang thực hiện mô hình kinh tế thị trường như
vậy có nghĩa là chúng ta thừa nhận sự tồn tại của kinh tế hàng hóa, thừa
nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Trong các thành


20

phần kinh tế đó, dù là lĩnh vực nào, dựa trên chế độ sở hữu nào đi chăng
nữa thì cũng đòi hỏi phải thu được lợi nhuận trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Điều này mới nghe có vẻ giống như tư bản chủ nghĩa, vì mục tiêu
của sản xuất tư bản chủ nghĩa là vấn đề lợi nhuận. Song thực chất ỏ đây
có sự khác nhau rõ rệt, xuất phát từ mục đích của việc tạo ra lợi nhuận và
cách phân phối lợi nhuận đó.
Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, để theo đuổi mục đích thu lợi
nhuận cao các nhà tư bản sẵn sàng dùng các biện pháp cưỡng bức kinh tế và
cưỡng bức siêu kinh tế đối với công nhân. Nhà tư bản thu được lợi nhuận

càng nhiều thì tư bản của họ càng lớn lên càng tăng nhanh năng lực chèn ép
đối thủ cạnh tranh càng mạnh. Trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc các tổ chức
độc quyền tư bản chủ nghĩa dựa vào việc tăng cường bóc lột công nhân lao
động chiếm được một phần lợi nhuận trong tay giai cấp tư sản hạng trung
cướp bóc các nước kém phát triển và các nước thuộc địa và dựa vào quân sự
để đảm bảo lợi nhuận độc quyền cao.
Kinh tế thị trường Việt Nam cũng nhằm mục đích thu lợi nhuận. Lợi
nhuận trong nền kinh tế thị trường Việt Nam không phải là kết quả của việc
bóc lột sức lao động không phải là quan hệ người bóc lột người như trong chủ
nghĩa tư bản, vì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu xã hội. Lợi nhuận là số chênh
lệch giữa giá cả sản phẩm và giá thành sản phẩm của xí nghiệp. Nếu trong
giá cả sản phẩm bao gồm cả thu nhập thuần tuý tâp trung của Nhà nước (dưới
hình thức thuế chu chuyển) thì số chênh lệch giữa giá cả hàng hoá và giá thành
của nó phải trừ đi thuế chu chuyển, Số còn lại là lợi nhuận. Do đó trong điều kiện
giá cả nhất định, lợi nhuận trực tiếp phản ánh sự biến động của giá thành sản
phẩm. Một phần lợi nhuận được giữ lại ở xí nghiệp để mở rộng sản xuất cải thiện
điều kiện sinh hoạt và xã hội của công nhân viên chức cũng như để làm tiền
thưởng, phần lợi nhuận còn lại thì nộp vào ngân sách Nhà nước.


21

1. Lợi nhuận là động lực chi phối hoạt động của sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp là một đơn vị kinh doanh hàng hoá dịch vụ theo nhu cầu
của thị trường và xã hội để đạt lợi nhuận tối đa và đạt hiệu quả kinh tế xã hội
cao nhất. Một doanh nghiệp tiến hành kinh doanh có hiệu quả là doanh nghiệp
thoả mãn được tối đa nhu cầu của thị trường và xã hội về hàng hoá dịch vụ
trong giới hạn cho phép của nguồn lực hiện có và thu được lợi nhuận nhiều
nhất, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội.
Lợi nhuận là mục tiêu kinh tế cao nhất là điều kiện tồn tại và phát

triển của doanh nghiệp. Để cung cấp hàng hoá dịch vụ cho thị trường các nhà
sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Họ mong
muốn chi phí cho các đầu vào ít nhất là bán hàng hoá với giá cao nhất để sau
khi trừ đi các khoản chi phí còn số dư dôi để không chỉ sản xuất giản đơn mà
còn tái sản xuất mở rộng không ngừng tích luỹ phát triển sản xuất, cũng có
tăng cường vị trí của mình trên thị trường.
Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được trong cạnh tranh cần
phải giải quyết tốt ba vấn đề kinh tế căn bản: sản xuất cái gì, sản xuất như thế
nào và sản xuất cho ai. và doanh nghiệp phải trả lời được câu hỏi sản xuất,
loại hàng hoá gì với số lượng bao nhiêu, bao giờ được sản xuất. Trên cơ sở
nhu cầu của thị trường doanh nghiệp tính toán khả năng sản xuất và chi phí
sản xuất tương ứng để lựa chọn và quyết định sản xuất và cung ứng cái mà thị
trường cần có thể đạt được lợi nhuận cao. Quyết định sản xuất như thế nào
nghĩa là do ai và những tài nguyên nào với hình thức công nghệ naò phương pháp
sản xuất nào. Động cơ lợi nhuận đã khuyến khích các doanh nghiệp tìm kiếm lựa
chọn các yếu tố đầu vào tốt nhất với chi phí thấp nhất lựa chọn các phương pháp
sản xuất có hiệu quả nhất. Phương pháp kết hợp tất cả các yếu tố đầu vào để sản
xuất đầu ra nhanh nhất chất lượng cao nhất, chi phí thấp nhất. Để đứng vững và
cạnh tranh thắng lợi trên thị trường các doanh nghiệp phải luôn đổi mới kỹ thuật


22

công nghệ, nâng cao trình độ của công nhân và lao động quản lý nhằm tăng hàm
lượng chất xám trong hàng hóa dịch vụ. Quyết định sản xuất cho ai đòi hỏi phải
xác định rõ, ai sẽ được hưởng và được lợi từ hàng hoá.
Lợi nhuận được xác định bằng tổng doanh thu từ tổng chi phí cho nên
các nhà sản xuất giảm chi phí tăng tổng doanh thu để thu lợi nhuận nhiều nhất.
Lợi nhuận bình thường là mức lợi nhuận chỉ vừa đủ để giữ cho nhà kinh
doanh tiếp tục công việc cuả mình và tồn tại với tư cách là một bộ phận của

tổng chi phí. Tất cả các khoản tiền mà nhà kinh doanh nhận được ngoài tổng
chi phí (bao gồm cả lợi nhuận bình thường) là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi
nhuận siêu ngạch, lợi nhuận độc quyền đó là khoản thu nhập của sức mạnh thị
trường hoặc sức mạnh độc quyền.
Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả
của quá trình kinh doanh kể từ lúc bắt đầu tìm kiếm nhu cầu thị trường chuẩn bị và
tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh đến khâu tổ chức bán hàng và dịch vụ cho thị
trường. Nó phản ánh cả về mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận.
Lợi nhuận của doanh nghiệp chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố.
Trước hết là qui mô sản xuất hàng hoá dịch vụ. Quan hệ cung cầu về hàng
hoá thay đổi sẽ làm cho giá cả thay đổi. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp tới việc quyết
định qui mô sản xuất và tác động trực tiếp tới lợi nhuận doanh nghiệp.
Hai là giá cả và chất lượng các đầu vào (lao động, nguyên vật liệu,
thiết bị công nghệ) và phương pháp kết hợp các đầu vào trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Những vấn đề này tác động trực tiếp đến chi phí sản xuất và
đương nhiên tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Ba là giá bán hàng hoá, dịch vụ cùng toàn bộ hoạt động nhằm đẩy
nhanh quá trình tiêu thụ và thu hồi vốn đặc biệt là hoạt động Marketing và
công tác tài chính của doanh nghiệp.


23

3. Ảnh hưởng của cơ chế thị trường đến lợi nhuận.
Cơ chế thị trường tạo ra sự cân bằng giữa giá cả của người sản xuất và
giá cả mà người tiêu dùng có thể chấp nhận được. Nếu doanh nghiệp nắm bắt
đúng thị trường thì lợi nhuận được đảm bảo. Giá cả luôn biến động nên cần
phải nắm bắt nó một cách chính xác và có những phản ứng kịp thời. Cơ chế
thị trường tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự do di chuyển sang các ngành có

lợi nhuân cao. Cơ chế thị trường tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự do di chuyển
tư bản của mình sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Cơ chế thị trường đòi hỏi
các doanh nghiệp năng động, cạnh tranh, vươn lên không ngừng cả về lượng và
chất nghĩa là họ phải tìm tòi trong thị trường ngành nào có lợi nhuận cao và từ
đó quyết định chuyển đổi sản xuất. Cơ chế thị trường làm cho doanh nghiệp
canh tranh với nhau. Cạnh tranh là cuộc đấu tranh giữa những người sản xuất
hàng hoá để giành điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi hơn, cuộc đấu tranh giữa
các xí nghiệp nhằm thu được lợi nhuận lớn nhất, phản ánh tính chất tự phát của
sản xuất và trao đổi. Người sản xuất đưa ra thị trường hàng hoá của mình và
khách hàng sẽ bỏ phiếu cho sản phẩm của họ bằng tiền. Cạnh tranh làm cho
doanh nghiệp phải đổi mới về kỹ thuật, công nghệ để tạo ra những sản phẩm
mẫu mã đẹp phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, chất lượng tốt và một mức giá
hợp lý để giành được phần thắng trên thị trường. Cơ chế thị trường thực hiện
bình tuyển tự nhiên và rất công bằng tức là doanh nghiệp nào sản xuất kinh
doanh có lợi nhuận cao sẽ tiếp tục sản xuất và mở rộng doanh nghiệp còn những
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ tự giác sẽ rời khỏi thương trường.
Trong quá trình sản xuất các doanh nghiệp chỉ quan tâm những mặt
hàng có nhiều lợi nhuận do đó dẫn đến tình trạng mất cân đối trong nền kinh
tế, thất nghiệp, tệ nạn xã hội...Cũng vì mục tiêu lợi nhuận tối đa một số doanh
nghiệp trốn thuế, sản xuất hàng giả, hàng kém chất lượng; dùng các thủ đoạn
cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm pháp luật...Mặt trái của lợi nhuận muốn
được giải quyết cần phải có sự can thiệp của nhà nước.


24

4. Các biện pháp để tăng lợi nhuận trong nền kinh tế hị trường.
Có rất nhiều phương pháp khác nhau để thu lợi nhuận cao, mỗi doanh
nghiệp có các biện pháp không giống nhau. Tuy nhiên có một số phương pháp
cơ bản sau:

Doanh nghiệp phải nắm vững tâm lý thị hiếu khách hàng. Những sản
phẩm mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, giá rẻ luôn được tiêu thụ rất nhanh. Muốn
giành được phần thắng trên thị trường phải quan tâm tới chất lượng, mẫu mã,
giá cả sản phẩm.
Đẩy nhanh thời gian sản xuất và thời gian lưu thông là một biện pháp hữu
hiệu để thu lợi nhuận. Đẩy nhanh thời gian sản xuất bằng cách cải tiến kỹ thuật
tăng cường áp dụng những kỹ thuật mới vào sản xuất không ngừng sáng kiến và
nâng cao trình độ công nhân. Đẩy nhanh thời gian lưu thông bằng cách quảng cáo
khuyến mại. Doanh nghiệp tạo ra những sản phẩm tốt để tạo uy tín của doanh
nghiệp trên thị trường và tạo ra những khách hàng thuỷ chung với sản phẩm của
doanh nghiệp. Một yếu tố có tính chất quyết định đối với sự tồn tại phát triển của
doanh nghiệp đó là thái độ của chủ doanh nghiệp trước các nhu cầu của thị
trường, chủ doanh nghiệp, năng động sáng tạo và có khả năng ngoại giao tốt. Sẽ
rất thiếu sót nếu như không đề cập đến các chính sách, những công cụ mà nhà
nước sử dụng để đảm bảo cho các doanh nghiệp đạt lợi nhuận cao:
Nhà nước thiết lập các khuôn khổ luật pháp để tạo ra những điều kiện
cần thiết cho hoạt động kinh tế. Nhà nước tạo ra hành lang pháp luật cho các
hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra các điều luận cơ bản về quyền sở hữu tài
sản và sự hoạt động của thị trường, đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt
động của các doanh nghiệp. Đảm bảo ổn định, về chính trị xã hội, cũng là
biện pháp để Nhà nước tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu lợi nhuận.
Nhà nước thông qua các chính sách tài chính tiền tệ và tín dụng để tạo
điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thu lợi nhuận cao. Xây dựng
kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, sản xuất ra các hàng hoá công cộng, thực hiện
công bằng xã hội tạo điều kiện cho giới kinh doanh làm ăn có hiệu quả.


25

5. Các giải pháp khắc phục hậu quả chạy theo lợi nhuận:

Lợi nhuận là mục tiêu của các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất.
Nhưng cũng chính và chạy theo lợi nhuận mà các nhà kinh tế đã để lại hậu quả
rất lớn đối với môi trường xung quanh. Quá trình cạnh tranh để thu được lợi
nhuận cao nó sẽ làm cho doanh nghiệp lợi nhuận này tiếp tục phát triển, nhưng
đồng thời nó làm cho doanh nghiệp kia phải kèm doanh nghiệp bị phá ản trở
thành những người làm thuê và nghèo khổ mặt khác nó gây tình trạng mất việc
làm của hàng loạt các công nhân trong doanh nghiệp đó, gây ra tình trạng bất ổn
định với xã hội có sáo trộn về việc làm, về thu nhập của mỗi người.
Để thu được lợi nhuận nhiều hơn nữa các nhà tư bản tìm mọi cách
quan tâm chi phí sản xuất, tăng thời gian lao động của công nhân làm thuê,
cắt giảm mức lương, điều kiện sống và sinh hoạt của họ làm cho con người
chỉ biết làm việc và không cói thời gian để quan tâm đến hạnh phúc gia đình
và làm nảy sinh các rạn nứt trong gia đình. Tất cả các thủ đoạn chỉ để làm
giàu cho một số ít người, họ đã giàu thì cứ giàu lên còn những người nghèo
thì ngày càng nghèo hơn và làm cho xã hội phân cấp, khoảng cách giàu
nghèo ngày càng cách xa. Mặt khác sự canh tranh gây ra sự thù địch, đối chọi
nhau làm phát sinh các tệ nạn xã hội...Ngày nay trong quá trình cạnh tranh các
doanh nghiệp đều thấy họ không có lợi do đó các doanh nghiệp cùng sát nhập
bị và trở thành những tổ chức độc quyền khổng lồ, các tổ chức này tự quy
định về giá cả. Do đó nó phá vỡ cạnh tranh hoàn hảo, tức là làm mất tính hiệu
quả và ganh đua, mất hiệu quả về kinh tế.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà không
chú ý đến tác động tiêu cực của chúng đến môi trường xung quanh như làm ô
nhiễm nguồn nước, không khí, khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên
như khoáng sản, rừng, biển...Như vậy, việc chạy theo lợi nhuận một cách đơn
thuần của các doanh nghiệp sẽ mang đến nhiều tác động tiêu cực. Vì vậy để định
hướng được các doanh nghiệp phải thống nhất một số quan điểm sau.



×