Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ THỰC TRẠNG xây DỰNG và THỰC THI CHÍNH SÁCH KINH tế vĩ mô ở VIỆT NAM GIAI đoạn 2001 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.15 KB, 57 trang )

1
Thực trạng xây dựng và thực thi chính sách kinh tế vĩ
mô của Nhà nớc Việt Nam giai đoạn 2001 -2008
=======================
I. Đặc điểm, mục tiêu chính sách kinh tế vi mô
của Nhà nớc ở Việt Nam
1.1. Đặc điểm xây dựng và thực thi chính sách kinh
tế vĩ mô ở Việt Nam
ở mọi quốc gia, xây dựng và thực thi chính sách kinh tế
vĩ mô của Nhà nớc đợc dựa trên cơ sở những đặc trng của
nền kinh tế. Do đó, có thể nói đặc điểm xây dựng và thực
thi chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nớc ở Việt Nam mang
đặc trng của nền kinh tế Việt Nam. Dới đây là những đặc
điểm cơ bản của việc xây dựng và thực thi chính sách kinh
tế vĩ mô đợc xét trong mối quan hệ với đặc trng của nền
kinh tế Việt Nam.
1.1.1. Xây dựng và thực thi chính sách vĩ mô ở Việt
Nam đợc thực hiện trong bối cảnh quan hệ và trong nớc có
nhiều biến động
Hệ thống kinh tế vĩ mô của một quốc gia đợc
nghiên cứu với ba yếu tố đầu vào quan trọng là các biến phi
kinh tế, các nguồn lực và các chính sách kinh tế vĩ mô. Theo
lý thuyết của John Mc. Keynes, các chính sách kinh tế vĩ mô
của Chính phủ đợc nghiên cứu, xem xét trong điều kiện các
biến phi kinh tế và các nguồn lực là xác định. Khi các yếu tố
đầu vào khác ngoài yếu tố chính sách kinh tế vĩ mô, thay
đổi thì các chính sách kinh tế vĩ mô phải thay đổi theo.
Trong hơn 20 năm đổi mới (1986-2008), các biến phi
kinh tế tác động tới nền kinh Việt Nam có nhiều biến động
lớn. Biến động lớn nhất, quan trọng nhất tác động mạnh tới



2
nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đầu của công cuộc đổi
mới là hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lâm vào khủng
hoảng. Cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ trớc, các nớc xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu tan rã, thực
hiện chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế tập trung sang
nền kinh tế thị trờng theo những phơng thức khác nhau.
Viện trợ từ các nớc xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam bị giảm
mạnh, nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng hết sức khó
khăn.
Mặt khác, các cuộc chiến tranh trong xung đột sắc tộc
dễn ra ở nhiều nơi trên thế giới có tác động tới nền kinhtế
Việt Nam và tới việc xây dựng chính sách kinh tế vĩ mô.
Cuộc chiến tranh vùng vịnh (1991), chiến chanh ở Balkan do
Mỹ và nhiều nớc Châu Âu phát động chống Nam T năm 1999,
cuộc chiến tranh ở Irắc nhằm lật đổ Tổng thống Sadam
Husein năm 2003,... đã làm thay đổi cục diện thế giới. Thế
giới chuyền từ hai cực sang đơn cực. Trên trờng quốc tế, Mỹ
cố gắng tỏ rõ sức mạnh của mình nhằm muốn chỉ huy thế
giới, đe dọa các nớc có t tởng chống Mỹ. Thái độ và những
những hành động của Mỹ đã khiến nhiều nớc và nhiều lực lợng trên thể giới bất bình. Đỉnh cao của thái độ bất bình và
chống Mỹ là vụ khủng bố ngày 11- 9 - 2001 xảy ra tại Mỹ.
Cuộc chiến chống khủng bố do Mỹ phát động sau đó, tấn
công vào Afganistan (10/2001) càng làm cho nạn khủng bố
quốc tế lan rộng trên thế giới. Các vụ đánh bom ở Bali
(Indonesia, năm 2002), ở Tây Ban Nha (2004) ở London (Anh,
năm 2005),... làm cho tình hình chính trị và kinh tế thế giới
vốn đã bất ổn ngày càng bất ổn.



3
Bên cạnh đó, thiên tai dịch bệnh liên tiếp xảy ra trên
thế giới, nh động đất, sóng thần ở ấn Độ Dơng (2004), dịch
SARS ở Trung Quốc (2002) và lan rộng ra nhiều nớc khác ở
Châu á sau đó...
Các biến phi kinh tế đó là tác động rất mạnh tới nền
kinh tế thế giới và nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới.
Chính phủ các nớc lớn nh Mỹ và nhiều nớc khác phải chi phí
nhiều hơn cho chiến tranh, cho cuộc chién chống khủng bố
và phòng chống khủng bố, cho phòng chống thiên tai, dịch
bệnh, Theo đó, nền kinh tế thế giới có nhiều biến động
hơn, ảnh hởng đến nền kinh tế nhiều quốc gia trên thế giới,
trong đó có Việt Nam.
Hơn nữa, nền kinh tế Việt Nam còn chịu tác động của
thiên tai lũ lụt, dịch bệnh ở trong nớc. Chẳng hạn, thiên tai, lũ
lụt ở miền Trung, miền Bắc; hạn hán, rét đậm rét hại ở miền
Bắc; dịch cúm gia cầm, dịch lợn tai xanh trong cả nớc...
Trong điều kiện đó, chính sách kinh tế vĩ mô của Việt
Nam cũng nh của các nớc khác trên thế giới đều phải có
những thay đổi, điều chỉnh. Tuy nhiên, điều đáng nhấn
mạnh ở đây là khác với nhiều nớc khác, Việt Nam phải xây
dựng thực thi cuộc sống kinh tế vĩ mô trong điều kiện phải
chuyển đổi nền kinh tế với điểm xuất phát rất thấp, nền
kinh tế lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Mặt khác, việc xây
dựng và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam từ chỗ
có chỗ dựa là các nớc xã hội chủ nghĩa, trong một thế giới hai
cực, nhng nay chuyển sang phải thực hiện trong điều kiện
không còn chỗ dựa nào về vật chất và tinh thần trong một thế
giới một cực. Thậm chí, Việt Nam còn ở vào vị thế bị cô lập do
bao vây cấm vận kinh tế. Đó là điểm đặc trng đầu tiên của



4
việc xây dựng và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô của Việt
Nam.
1.1.2. Xây dựng và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô ở
Việt Nam mang đặc trng của nền kinh tế chuyển đổi
Những biến động lớn trong hệ thống xã hội chủ nghĩa
thế giới cùng với những khó khăn gay gắt của nền kinh tế vào
những năm 80 của thế kỷ trớc đã dẫn tới công cuộc đổi mới ở
Việt Nam. Việt Nam đã thực hiện chuyển đổi nền kinh tế từ
mô hình kinh tế hoạch hóa tâp trung sang mô hình nền
kinh tế thị trờng định hớng XHCN. Sự chuyển đổi đó là
một quá trình trong đó những đặc trng của kế hoạch tập
trung không thể đợc thay thế hoàn hảo ngay bởi những đặc
trng của nền kinh tế thị trờng. Trong điều kiện nh vậy,
chính sách kinh tế vĩ mô phải phù hợp với đặc điểm chuyển
đổi của đối tợng mà nó tác động. Hơn nữa, ảnh hởng dấu
ấn của cơ chế kế hoạch hóa tập trung đối với xã hội là khá
sâu sắc. Do đó, việc hoạch định và thực thi chính sách
kinh tế vĩ mô khó tránh khỏi những ảnh hởng không mong
muốn của cách thức xây dựng và thực thi chính sách theo
kiểu cũ. Ngời ban hành chính sách cha dứt khoát hẳn với t
duy kế hoạch hóa tập trung, nhận thức và trình độ xây
dựng, điều hành chính sách kinh tế vĩ mô theo cơ chế thị
trờng còn hạn chế. Những ngời thực thi và chấp hành chính
sách cũng cha thoát khỏi tâm lý, thói quen của kế hoạch hóa
kiểu cũ. Trong nhiều trờng hợp, những ngời chấp hành chính
sách muốn đợc bao cấp nhiều hơn, lâu hơn. Họ có thể tác
động tới việc xây dựng chính sách theo hớng bao cấp. Mặt

khác những cơ quan hoạch định và điều hành chính sách


5
cũng muốn cố gắng giữ quyền lực thông qua cơ chế xin cho theo kiểu cũ.
Những phân tích trên cho thấy việc xây dựng và thực
thi chính sách kinh tế vĩ mô không chỉ phụ vào tính chất
chuyển đổi của bản thân đối tợng chính sách là nền kinh
tế quốc dân mà còn là phụ thuộc nhiều vào nhận thức chủ
quan của những ngời hoạch định và thực thi chính sách. Bản
thân việc xây dựng và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô
cũng có đặc điểm chuyển đổi. Nó chứa đựng cả những
đặc trng của kế hoạch hoá tập trung và cả những đặc trng
của kế hoạch hóa theo kinh tế thị trờng. Những đặc trng
này sẽ thay đổi cùng với mức độ chuyển đổi của nền kinh
tế. Đồng thời, nó làm thay đổi cả tốc độ chuyển đổi của
nên kinh tế.
1.1.3. Xây dựng và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô của
Việt Nam gắn liền với quá trình mở cửa, hội nhập nền kinh tế
quốc dân vào nền kinh tế thế giới.
Sang song trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trờng, nền kinh
tế Việt Nam còn chuyển đổi theo hớng mở cửa và hội nhập
với nền kinh tế khu vực và thế giới. Đó là quá trình chuyển
đổi kép. Theo đó, xây dựng và thực thi chính sách kinh
tế vĩ mô của Nhà nớc cũng phải tơng thích với mức độ mở
cửa của nên kinh tế đất nớc, tơng thích với nền kinh tế thị
trờng khu vực và thế giới. Sự tơng thích đó thể hiện ở chỗ
chính sách kinh tế vĩ mô đợc chủ động xây dựng và thực
thi theo hớng từng bớc phù hợp với tập quán và thông lệ quốc tế.

Mặt khác, việc xây dựng và thực thi chính sách kinh tế vĩ
mô đợc chủ động điều chỉnh để Việt Nam có thể tham gia


6
các tổ chức kinh tế, thợng mai khu vực và quốc tế. Mặt khác,
việc xây dựng và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà
nớc đợc chủ động điều chỉnh để Việt Nam có thể tham gia
các tổ chức kinh tế thơng mại khu vực và quôc tế.
Để gia nhập WTO, Việt Nam đã từng bớc thực hiện minh
bạch hóa chính sách vĩ mô và điều chỉnh chính sách kinh
tế vĩ mô theo quy định của WTO. Thay vì hàng năm Bộ Thơng mại (cũ) ban hành Quy chế điều hành XNK cho từng
năm, từ năm 2001, Bộ Thơng mại đã xây dựng và đa vào
thực hiện Quy chế điều hành XNK cho cả một giai đoạn năm
năm. Theo đó, những quy định về những hàng hoá XNK đợc rõ ràng và ổn định hơn, dễ tiên liệu và đánh giá hơn.
Mặt khác, Việt Nam, cũng từng bớc thay kiểm soát XNK bằng
hạn ngạch sang kiểm soát bằng thuế quan. Số mặt hàng
kiểm soát bằng hạn ngạch giảm từ 10 mặt hàng XK, 14 mặt
hàng XK (năm 1989) chỉ còn 1 mặt hàng XK,7 mặt hàng NK
(năm 1995). Đó là yêu cầu bắt buộc của WTO đối với các quốc
gia muốn gia nhập tổ chức kinh tế thơng mại lớn nhất thế giới
này.
Sự tơng thích đó còn thể hiện ở chỗ cách thức, quy
trình xây dựng và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô cũng
phải thay đổi, điều chỉnh để đảm bảo có các chính sách
kinh tế vĩ mô có hiệu quả hơn đối với một nền kinh tế mở
cửa, có quan hệ ngày càng nhiều hơn với phần còn lại của
thế giới.
Hơn nữa, xây dựng và thực thi chính sách kinh tế vĩ
mô của Việt Nam còn có những bớc chủ động đa đất nớc

phát triển lên một tầm cao mới, trong điều kiện mở cửa trong
hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Đó là một sự t-


7
ơng thích của việc xây dựng và thực thi chính sách kinh tế
vĩ mô với quá trình mở cửa, hội nhập của nền kinh tế Việt
Nam.
1.1.4. Xây dựng và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô
của Việt Nam gắn với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nền kinh tế quốc dân
Quyết định đổi mới trong mở cửa đã giúp cho nền
kinh tế Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng, bị cô lập và có
những bớc tiến nổi bật. Tuy nhiên, để nền kinh tế có thể
cất cánh, Việt Nam còn phải thc hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nền kinh tế quốc dân. Xây dựng và thực thi chính
sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam giờ đây còn mục tiêu phục
vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế
đất nớc. Điều đó thể hiện ở chỗ các chính sách kinmh tế vĩ
mô đợc xây dựng và thực thi theo hớng phân bổ hợp lý các
nguồn lực của đất nớc, nhằm phát triển các vùng miền một
cách cân đối, hài hoà, phát triển các ngành kinh tế, tạo nên
một cơ cấu kinh tế theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
đảm bảo cho nền kinh tế có một gia tốc lớn trong quá trình
phát triển.
Xây dựng và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô của Việt
Nam còn định hớng phát triển các ngành kinh tế, nhằm
nâng cao trình độ công nghệ cho các ngành kinh tế và cho
cả nền kinh tế quốc dân, cho các khu vực trên cả nớc, đặc
biệt là khu vực nông nghiệp, nông thôn.

Xây dựng thực thi chính sách kinh tế vĩ mô của Việt
Nam cũng định hớng sự tăng trởng có chất lợng cho nền kinh
tế, nhằm đạt đợc sự phát triển bền vững của nền kinh tế.


8
Nh vậy, có thể nói rằng xây dựng thực thi chính sách
kinh tế vĩ mô của Việt Nam không chỉ có những đặc trng
chuyển đổi của nền kinh tế, gắn với quá trình mở cửa hội
nhập kinh tế quốc tế mà còn gắn quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân.
1.1.5. Xây dựng và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô
của Việt Nam luôn phải thực hiện đồng thời rất nhiều mục
tiêu trong điều kiện điểm xuất phát của nền kinh tế thấp
và nguồn lực có hạn
Xuất phát điểm của nền kinh tế khi Việt Nam bắt đầu
thực hiện công cuộc đổi mới một cách mạnh mẽ, toàn diện
(năm 1986) rất thấp. Năm 1986 GDP của Việt Nam là 609.708
tỷ đồng (theo giá hiện hành) và 108,126.000 tỷ đồng (theo
giá so sánh). Khi đó, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng
hoảng nặng nề. Siêu lạm phát kéo dài trong nhiều. Năm
1986, tỷ lệ lạn phát của Việt Nam lên tới 774.7%. Xuất khẩu
gặp khó khăn do thị trờng Liên xô, Đông Âu tan vỡ và do sản
xuất trong nớc đình đốn. Sự bao vây cấm vận của Mỹ và
nhiều nớc khác trên thé giới cùng với sự cắt giảm đột ngột
viện trợ từ Liên Xô, Đông Âu làm cho nền kinh tế Việt Nam vô
cùng khó khăn. Việt Nam đứng trớc nhiều khó khăn gay gắt,
cần phải giải quyết. Theo đó, xây dựng và thực thi các
chính sách kinh tế vĩ mô phải giải quyết đồng thời nhiều
mục tiêu: kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trởng kinh tế,

giảm thất nghiệp, kích thích xuất khẩu, ổn định tỷ giá...
Trong khi đó, nguồn lực của nền kinh tế có hạn. Nguồn
lực trong nớc chủ yếu là lao động cha qua đào tạo, công
nghệ lạc hậu, máy móc thiết bị cũ kỹ ... Nguồn lực đất đai


9
bị bỏ lãng phí. Nguồn tài nguyên khác cha đợc khai thác do
thiếu vốn và công nghệ...
Trong những thời kỳ sau này, xây dựng và thực thi
chính sách kinh tế vĩ mô cũng vẫn phải tiếp tục thực hiện
đồng thời các mục tiêu: tăng trởng kinh tế, kiểm soát lạn phát,
tạo việc làm, kiểm soát nhập khẩu để hạn chế thâm hụt cán
cân, vãng lai, ổn định tỷ giá, ổn định đồng tiền quốc gia,
thực hiện xoá đói giảm nghèo...
Nh vậy có thể thấy rằng, chuyển sang nền kinh tế thị
trờng, Việt Nam là một nớc có điểm xuất phát thấp, chậm
phát triển. Việt Nan có quá nhiều vấn đề cần giải quyết
đồng thời. Theo đó, xây dựng và thực thi chính sách kinh tế
vĩ mô của Việt Nam luôn phải theo đuổi rất nhiều mục tiêu,
trong đó, có những mục tiêu mẫu thuẫn nhau trong thực
hiện.
Nếu xem xét trong cùng thời điểm, có thể thấy không
có nớc nào thực hiện chuyển đổi nền kinh tế mà phải xây
dựng và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô trong điều kiện
nh Việt Nam. Do đó, có thể nói rằng, luôn phải thực hiện
nhiều mục tiêu trong điều kiện điểm xuất phát của nền
kinh tế rất thấp , nguồn lực của nền kinh tế có hạn và bị bao
vây cấm vận kinh tế là một đặc trng của việc xây dựng và
thực thi chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam.

1.2. Mục tiêu chính sách kinh tế vĩ mô của Việt
Nam
Chính sách kinh tế vĩ mô của các quốc gia có một
hệ thống gồm rất nhiều mục tiêu. Mỗi chính sách kinh tế vĩ
mô có hệ mục tiêu riêng, trong đó có những mục tiêu trung
gian, có những mục tiêu cuối cùng. Đó là các mục tiêu kinh


10
tế vĩ mô cụ thể. Đồng thời, các chính sách kinh tế vĩ mô
đều có chung mục tiêu chung. Đó là những mục tiêu kinh
tế vĩ mô tổng quát. Song, tuỳ hoàn cảnh, điều kiện ở
mỗi nớc và quan điểm của Chính phủ, chính sách kinh tế
vĩ mô chỉ theo đuổi một số trong các mục tiêu đó mà
thôi. Hơn nữa, thứ tự u tiên các mục tiêu ở mỗi quốc gia là
khác nhau. ở Việt nam, do điều kiện đặc thù của nền
kinh tế, ngoài các mục tiêu kinh tế vĩ mô nh ở các nớc,
chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nớc còn có những mục
tiêu riêng. Sau đây là một số mục tiêu của các chính sách
kinh tế vĩ mô ở Việt Nam.
1.2.1. Nhóm các mục tiêu kinh tế vĩ mô tổng quát
* Mục tiêu tăng trởng kinh tế bền vững
Tăng trởng kinh tế là một trong những mục tiêu mà
chính sách kinh tế vĩ mô của mọi quốc gia hớng tới. Tăng trởng kinh tế là sự gia tăng sản lợng của nền kinh tế qua các
năm. Tuy nhiên, nếu chỉ thực hiện tăng trởng sản lợng nền
kinh tế thuần tuý mà không quan tâm tới các vấn đề nh môi
trờng sinh thái, vấn đề sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên,....
thì sự tăng trởng đó sẽ có thể phải trả giá đắt. Bài học tăng
trởng kinh tế của Trung Quốc cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Chính vì vậy, mục tiêu tăng trởng kinh đợc đặt thành tăng

trởng kinh tế bền vững. Có nhiều khái niệm khác nhau về
tăng trởng kinh tế bền vững, nhng nhìn chung nhiều quan
điểm cho rằng tăng trởng kinh tế bền vững là tăng trởng,
trong đó, mức tăng trởng cao, ổn định trong thời gian dài,
môi trờng sinh thái đợc bảo đảm, tài nguyên đợánử dụng,
khai thác hợp lý.


11
Trong khoảng mời năm gần đây, nhiều quốc gia còn
đề cập tới tăng trởng có chất lợng. Tăng trởng có chất lợng
cũng giống nh tăng trởng bền vững, song, có điểm khác là
sự tăng trởng đó cần phải đóng góp trực tiếp vào cải thiện
một cách bền vững phúc lợi xã hội, cụ thể là phân phối thành
quả của phát triển và xoá đói giản nghèo. ở đây, có một số
điểm cần nhấn mạnh. Chất lợng tăng trởng kinh tế của một
quốc gia thể hiện ở tốc độ tăng trởng cao đợc duy trì trong
một thời gian. Điều đó phải đợc hiểu là tốc độ tăng trởng
của nền kinh tế không nhất thiết phải đạt đợc ở mức quá
cao. Điều quan trọng là tốc độ tăng trởng đó ở mức cao hợp
lý đối với nền kinh tế vào đợc duy trì ổn định trong một
thời gian dài. Mặt khác, tăng trởng kinh tế phải đi kèm với môi
trờng sinh thái đợc bảo đảm. Sự tăng trởng kinh tế của Việt
Nam, trong đó có những vụ gây ô nhiễm môi trờng nghiêm
trọng nh Vedan, Miwon, những làng ung th, ... không thể nói
là sự tăng trởng có chất lợng. Tăng trởng kinh tế có chất lợng
còn phải bảo đảm sử dụng hợp lý các nguồn lực, nguồn tài
nguyên. Điều đó có nghĩa là thay vì tăng trởng dựa vào các
yếu tố phát triển theo chiều rộng, dựa vào các ngành tiêu hao
vật chất cao, sử dụng nhiều tài nguyên, vốn và lao động,

công nghệ thấp, tăng trởng có chất lợng dựa trên nền tảng sử
dụng các nhân tố phát triển chiều sâu, sử dụng công nghệ
cao, hiện đại, tiêu tốn ít tài nguyên. Hơn nữa, các nguồn tài
nguyên phải đợc sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả. Việc sử
dụng tài nguyên của thế hệ hôm nay phải bảo đảm cho thế
hệ mai sau còn có thể sử dụng cho tăng trởng và phát triển
một cách ổn định. Sự tăng trởng của thế hệ hôm nay không


12
thể để gánh nặng về ô nhiễm môi trờng, về cạn kiệt tài
nguyên, về nợ nần chồng chất,..cho các thế hệ mai sau.
Một điểm đáng chú ý tăng trởng có chất lợng còn phải
bảo đảm các vấn đề an sinh xã hội, phải bảo đảm đóng
góp trực tiếp vào cải thiện một cách bền vững phúc lợi xã hội.
Cụ thể, đó là sự tăng trởng mà trong đó, thành quả của tăng
trởng và phát triển phải đợc phân phối hợp lý, bảm đảm cho
các thành viên trong xã hội phải đợc hởng thành quả chung
đó.
Kinh nghiệm phát triển của nhiều quốc gia cho thấy,
để tránh không phải trả giá đắt cho tăng trởng nóng, tăng
trởng bẩn, các chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam phải
u tiên mục tiêu tăng trởng bên vững, tăng trởng có chất lợng.
* Mục tiêu duy trì các cân đối vĩ mô của nền kinh tế ổn
định nền kinh tế
Một nền kinh tế muốn tăng trởng cao và bền vững thì
các cân đối kinh tế vĩ mô phải đợc bảo đảm. Các cân đối
kinh tế vĩ mô đó là cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, cân
đối giữa tiết kiệm và đầu t, cân đối giữa xuất khẩu và
nhập khẩu, cân đối giữa luồng tiền và luồng tiền ra trong

cán cân thành toán quốc tế, cân đối giữa thu và chi trong
ngân sách Nhà nớc, cân đối giữa tiêu dùng hiện tại và những
lợi ích mà thế hệ mai sau sẽ đợc hởng,...
Thứ nhất, về cân đối giữa tiết kiệm và đầu t, theo
John Mc. Keynes, đầu t của nền kinh tế do tiết kiệm chuyển
sang (đồng nhất thức S I cho ta thấy điều đó). Nền kinh
tế chỉ ổn định khi số rô rỉ khỏi luồng thu nhập (chính là
tiết kiệm S) phải đợc cân bằng với số bơm vào không phải là
tiêu dùng (đó là đầu t t nhân I). Sự không ăn khớp giữa quyết


13
định tiêu dùng của hộ gia đình và đầu t t nhân của doanh
nghiệp là nguồn gốc quan trọng gây ra sự không ổn định
trong đầu ra và thu nhập của nền kinh tế. Do vậy, sự cân đối
giữa tiết kiệm và đầu t là một cân đối vĩ mô quan trọng
mà chính sách kinh tế vĩ mô của các quốc gia, nhất là các
quốc gia nh Việt Nam, cần quan tâm.
Thứ hai, cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng. Tích luỹ và
tiêu dùng phải đợc cân đối trong quá trình tăng trởng. Trong
ngắn hạn, tiêu dùng thấp, tiết kiệm cao sẽ dẫn đến hạn chế
tăng trởng. Tiêu dùng cao có tác dụng kích thích tổng cầu,
thúc đẩy tăng trởng kinh tế. Đó là nghịch lý của tiết kiệm.
Song, trong dài hạn, tiều dùng cao sẽ hạn chế khả năng tăng trởng của nền kinh tế. Bởi lẽ, khi tiêu dùng cao cũng có nghĩa là
tích luỹ thấp, theo đó, nền kinh tế không đợc gia tốc bởi
những nguồn lực dồi dào đợc tích luỹ trong quá trình tăng
trởng kinh tế . Đó là t tởng của nguyên tắc gia tốc.
Tiêu dùng cao vợt quá khả năng của nền kinh còn khiến
cho nền kinh tế có thể làm vào khủng hoảng nợ khủng hoảng
kinh tế. Bài học về mất cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng

của nền kinh tế Achentina trong suốt thập niên 90 của thế kỷ
trớc và những năm đầu của thế kỷ 21 cho ta thấy rõ điều
đó. Tuy nhiên, nếu tiêu dùng quá thấp để có tích luỹ cao
cũng sẽ dẫn đến những bất ổn định kinh tế. Đời sống dân
c quá thấp do phải thắt lng buộc bụng cho phát triển kinh
tế sẽ làm suy yếu sức dân, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội
phức tạp, gây mất ổn định kinh tế, xã hội.
Nh vậy, có thể thấy rằng, bảo đảm cân đối giữa tích
luỹ và tiêu dùng là một trong những cân đối vĩ mô bảm


14
đảm kinh tế tăng trởng ổn định trong dài hạn và trong
ngắn hạn mà các chính sách kinh tế vĩ mô phải nhắm tới.
Thứ ba, cân đối giữa luồng tiền vào và luồng tiền ra
trong cán cân thanh toán quốc tế, cân đối giữa xuất khẩu
và nhập khẩu.
Chúng ta biết rằng, cán cân thành toán quốc tế gồm hai
cấu phần chính là cán cân vãng lai và cán cân vốn. Về lý
thuyết, trong điều kiện tỷ giá hối đoái cố định, nền kinh tế
sẽ ổn định khi luồng tiền chảy vào cân bằng với luồng tiền
chảy ra trong cán cân thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, trên
thực tế ít có nớc nào duy trì đợc sự cân bằng của cán cân
thanh toán quốc tế. Cán cân thanh toán quốc tế có thể thăng
dôặhc thâm hụt. Mức độ thâm hụt hay thăng d quá lớn
trong cán cân thị trờng quốc tế có thể gây nguy hiểm cho
nền kinh tế. Căn bệnh Hà Lan hay Căn bệnh Cô oét cho
chúng ta thấy hệ luỵ của thặng d quá lớn trong cán cân thơng
mại và cán cân thanh toán quốc tế là nh thế nào. Khủng hoảng
tài chính tiền tệ ở Thái Lan năm 1997 có nguyên nhân quan

trọng từ việc các nhà đầu t nớc ngoài ồ ạt rút vốn ngắn hạn
khỏi nền kinh tế Thấi Lan. Điều đó cũng chứng minh cho hệ
quả nghiêm trọng của tình trạng thâm hụt quá lớn trong cán
cân thanh toán quốc tế của một quốc gia.
Mặt khác, trong nền kinh tế mở, đồng nhất thức S - I
NX cho biết đầu t nớc ngoài ròng đợc cân bằng khi có sự
cân bằng trong cán cân thơng mại. Khi đầu t nớc ngoài ròng
dơng, điều đó có nghĩa là nớc đó là nớc cho vay ròng trên
thị trờng tài chính quốc tế. Ngợc lại, khi đầu t nớc ngoài ròng
có giá trị âm tức là nớc đó là đợc nớc vay ròng trên thị trờng
tài chính quốc tế.


15
Nền kinh tế sẽ ổn định khi đầu t nớc ngoài ròng hay
xuất khẩu ròng bằng 0. Khi nớc đầu t ngoài ròng dơng,
nguồn lực đất nớc bị chảy ra ngoài theo đó, đầu t trong nớc
sẽ bị hạn chế. Nguồn lực quốc gia không đợc sử dụng nhiều
nhất, tốt nhất cho tăng trởng kinh tế. Khi đầu t nớc ngoài
ròng âm quá lớn sẽc khiễn cho nền kinh tế có thể rơi vào
tình trạng không trả đợc nợ nớc ngoài. Achentina và nhiều
nền kinh tế châu Mỹ Latin là những ví dụ tốt cho trờng hợp
này.
Nh vậy, có thể thấy rằng, bảo đảm cân đối giữa xuất
khẩu và nhập khẩu, cân đối giữa luồng vốn chảy vào và
luồng vốn chảy ra có ý nghĩa quan trọng đối với sự tăng trởng ổn định của nền kinh tế. Đó là một cân đối vĩ mô mà
các chính sách kinh tế vĩ mô phải thực hiện.
Thứ t, cân đối thu chi trong ngân sách Nhà nớc là một
cân đối vĩ mô quan trọng. Trong nền kinh tế mở, chúng ta
có đồng nhất thức:

T - G I - S + NX
Từ đồng nhất thức này, chúng ta có thể có một số nhân
xét quan trọng về cân đối thu chi trong ngân sách nhà nớc.
Một là, ngân sách nhà nớc đợc cân bằng khi có sự cân bằng
đồng thời trong cán cân thơng mại và cân bằng giữa tiết
kiệm và đầu t trong nớc, hoặc khi tiết kiệm trong nớc và
xuất khẩu ròng đủ đáp ứng cho đầu t trong nớc. Khi đó, nền
kinh tế sẽ đợc ổn định. Hai là, trờng hợp ngân sách thăng d.
Điều đó có nghĩa là xuất khẩu ròng và đầu t trong nớc cao
hơn tiết kiệm cá nhân. Khi đó, đầu t trong nớc là do tiết
kiệm cá nhân chuyển thành, đồng thời đợc tài trợ bởi xuất
khẩu ròng. Ba là, khi thâm hụt ngân sách, nếu tiết kiệm


16
bằng đầu t thì thâm hụt ngân sách đợc bù đắp thâm hụt
cán cân thơng mại. Nền kinh tế rơi vào tình trạng thâm
hụt kép. Bốn là, khi ngân sách thâm hụt, nền kinh tế có thể
có tiết kiệm lớn hơn đầu t và cán cân thơng mại bị thâm
hụt. Điều đó có nghĩa là thâm hụt ngân sách sẽ đợc bù đắp
từ tiết kiệm của dân c (Chính phủ vay dân) và thâm hụt
cán cân thơng mại (Chính phủ vay nớc ngoài). Trong cả hai trờng hợp, nền kinh tế đều rơi vào tình trạng rất xấu, thiếu
hụt nghiệm trọng và lệ thuộc nớc ngoài.
Những phân tích trên cho thấy cân đối ngân sách là
một mục tiêu cần đợc quan tâm trong điều hành chính sách
vĩ mô của Chính phủ để bảo đảm sự ổn định của nên
kinh tế.
Nh vậy, có thể nói rằng bảo đảm các cân đối vĩ mô là
một trong những mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế vĩ
mô, bảo đảm cho nền kinh tế tăng trởng cao và ổn định. Tuy

nhiên, cân đối ở đầy không phải hiểu một cách cứng nhắc là
sự cân bằng, ngang bằng nhau của các đại lợng kinh tế vĩ mô
mà phải đợc hiểu là có sự tơng quan hợp lý với một tỷ lệ nhất
định giữa các đại lợng đó sao cho nền kinh tế có thể đợc duy
trì ở trạng thái ổn định tích cực.
* Mục tiêu công bằng xã hội
Công bằng xã hội đợc xét trên hai phơngdiện: công bằng
về cơ hội và công bằng về phân phối. Công bằng về cơ hội
là việc bảo đảm cho mọi thành viên trong xã hội đều đợc
bình đẳng trong cơ hội làm việc, cơ hội đầu t, bình
đẳng trong việc tiếp cận với những cơ hội đó để có thể
đạt đến một mức sống cao hơn.


17
Công bằng về phân phối đợc xét ở hai phía cạnh: công
bằng trong phân phối nguồn lực và công bằng trong phân
phối thu nhập. Công bằng phân phối nguồn lực bảo đảm cho
các thành viên trong xã hội, các thành phần kinh tế, các loại
hình doanh nghiệp đợc bình đẳng trong việc tiếp cận các
nguồn lực quốc gia; bảo đảm các vùng, miền đợc phát triển
một cách hài hoà.
Công bằng trong phân phối thu nhập gồm công bằng
theo công bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều
dọc. Công bằng theo chiều ngang đảm bảo cho mọi thành
viên trong xã hội đợc hởng sản phẩm làm ra tơng xứng với tài
năng đóng góp cuả mỗi ngời. Công bằng theo chiều dọc bảo
đảm cho các thành viên trong xã hội đều đợc hởng thành
quả chung từ quá trình phát triển, từ quá trình đổi mới, cải
cách của Nhà nớc, bảo đảm cho những ngời bị thiệt thòi do

chính sách của Nhà nớc do rủi ro trong kinh tế, trong cuộc
sống,... không bị bần cùng hóa, giảm thiểu những tổn thơng
mà họ phải gánh chịu trong quá trình cải cách, đổi mới, mở
cửa.
Thực hiện công bằng theo chiều ngang sẽ tạo ra động
lực cho sự phát triển. Song nếu quá nhấn mạnh công bằng
theo chiều ngang sẽ dẫn đến phân hoá giàu nghèo, gây
mâu thuẫn, xung đột xã hội. Mặt khác, nếu quá thiên về
thực hiện công bằng theo chiều dọc sẽ làm giảm hoặc triệt
tiêu động lực của sự phát triển. Do đó, chính sách kinh tế
vĩ mô của Chính phủ phải thực hiện

đồng thời mục tiêu

công bằng theo chiều dọc và công bằng theo chiều ngang
song phải bảo đảm tạo ra đợc đợc động lực cho sự phát
triển, đồng thời không gây mâu thuẫn, xung đột xã hội do


18
sự phân hoá giàu nghèo gây ra. Điều đó có đợc hay không là
do tài năng của Chính phủ, ngời xây dựng và thực thi các
chính sách kinh tế vĩ mô.
1.2.2. Nhóm các mục tiêu kinh tế vĩ mô cụ thể
Để thực hiện các mục tiêu tổng quát, các chính sách
kinh tế vĩ mô phải thực hiện các mục tiêu cụ thể sau: Toàn
dụng nhân lực; Kiểm soát lạm phát ở mức có lợi cho nền kinh
tế; Sản lợng của nền kinh tế; Cán cân tanh toán quốc tế bền
vững; Tỷ giá hối đoái ổn định và có khả năng cạnh tranh;
Giảm tối thiểu sự can thiệp của Nhà nớc vào việc phân bổ

nguồn lực; Phân phối thu nhập công bằng và Cân đối ngân
sách Nhà nớc.
Cần phải nói thêm rằng, không nhất thiết tất cả nớc đều
phải thực hiện tất cả các mục tiêu trên khi xây dựng và thực
thi các chính sách kinh tế vĩ mô. Do vậy, mỗi quốc gia cần
lựa chọn mục tiêu cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của
mình. ở Việt Nam, mục tiêu tăng trởng sản lợng, toàn dụng
nhân lực và phân phối thu nhập công bằng luôn là những
mục tiêu đợc u tiên hàng đầu trong xây dựng và thực thi
chính sách kinh tế vĩ mô. Các mục tiêu kiểm soát lạm phát ở
mức có lợi cho nền kinh tế, cán cân thanh toán quốc tế bền
vững, tỷ giá hối đoái ổn định và có khả năng cạnh tranh,
cân đối ngân sách Nhà nớc là những mục tiêu quan trọng
trong xây dựng và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô ở Việt
Nam. Mục tiêu giảm tối thiểu sự can thiệp của Nhà nớc vào
việc phân bổ nguồn lực không phải là mục tiêu đợc chú
trọng trong xây dựng và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô.
Bởi lẽ, nền kinh tế thị trờng Việt Nam còn ở trình độ thấp,
hệ thống thị trờng còn thiếu và cha đồng bộ, do vậy, việc


19
phân bổ nguồn lực thông qua thị trờng còn hạn chế, Nhà nớc
còn phải tham gia nhiều hơn vào phân bổ nguồn lực của
quốc gia. Sự tham gia này sẽ giảm dần cùng với sự phát triển
và hoàn thiện hơn của nền kinh tế thị trờng Việt Nam. Tuy
nhiên, trong những thời kỳ cụ thể, mục tiêu kiểm soát lạm
phát đợc u tiên hơn mục tiêu tăng trởng kinh tế. Chẳng hạn,
thời kỳ thì cuối năm 2007 đầu năm 2008 chống lạm phát đợc
đặt lên hàng đầu trong xây dựng và thực thi chính sách

kinh tế vĩ mô ở Việt Nam
1.2.3. Một số mục tiêu khác
Cùng với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô nói
trên, xây dựng và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà
nớc ở Việt Nam còn nhằm bảo đảm sự hội nhập thành công
của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Điều đó
thể hiện ở chỗ khi xây dựng và thực thi chính sách kinh tế
vĩ mô, Nhà nớc chú ý tới tác động hỗ trợ của các chính sách
kinh tế vĩ mô đói với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp trên thị trờng trong nớc và quốc tế, nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Mặt khác, xây dựng và
thực thi chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nớc còn hớng tới
mục tiêu bảo đảm nền kinh tế thích ứng đợc với những thay
đổi, những biến động do nền kinh tế thế giới dây ra, bảo
đảm nền kinh tế có thể phát triển trong điều kiện cạnh
tranh quyết liệt với các nền kinh tế khác trên thế giới.
II. Thực trạng xây dựng và thực thi chính sách kinh tế
vĩ mô của Nhà nớc ở Việt Nam giai đoạn 2001-2008
Trong thời 2001-2008, việc xây dựng và thực thi chính
sách kinh tế vĩ mô đợc thực hiện trên cơ sở tuân thủ một số
luật mới ban hành hoặc luật sửa đổi bổ sung một số luật đ-


20
ợc ban hành từ thời kỳ trớc. Đó là các luật nh Luật Ngân sách
Nhà nớc, ban hành ngày 27/12/2002; Luật sửa đổi bổ sung
một số điều Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, ban
hành ngày 27/12/2002; Luật sửa đổi bổ sung Luật Thuế
Tiêu thụ đặc biệt, ban hành ngày 26/6/2003; Luật sửa đổi
bổ sung Luật Thuế Giá trị gia tăng, ban hành ngày

26/6/2003; Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp, ban hành
ngày 26/6/2003; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật Ngân hàng Nhà nớc Việt Nam, ban hành ngày
26/6/2003; Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật Thuế
Tiêu thụ Đặc biệt và Luật Thuế Giá trị Gia tăng, ban hành
ngày 09/12/2005; Luật Thuế Xuất khẩu, Thuế Nhập khẩu,
ban hành ngày 27/6/2005; Luật Thơng mại, ban hành ngày
27/6/2005; Luật Thuế Thu nhập cá nhân, ban hành ngày
5/12/2007; Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, ban hành ngày
12/6/2008; Luật Thuế Tiêu thụ Đặc biệt (ban hành ngày 2811-2008); Luật Thuế Giá trị Gia tăng (ban hành 12/6/2008);
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, ban hành ngày
12/6/2008.
2.1. Thực trạng xây dựng chính sách kinh tế vĩ

* Về thực trạng dự báo khi xây dựng chính sách kinh tế
vĩ mô
Việc dự báo phục vụ xây dựng chính sách kinh tế vĩ
mô đợc quan tâm hơn thời kỳ trớc. Dự báo kinh tế Việt Nam
đợc thực hiện chủ yếu tại Bộ Kế hoạch và Đầu t. Trên cơ sở
những dự báo này, Ngân hàng Nhà nớc, Bộ Tài chính, Bộ Thơng mại (nay là Bộ Công thơng) thực hiện dự báo riêng trên


21
từng lĩnh vực chuyên sâu, phục vụ việc xây dựng các chính
sách kinh tế vĩ mô cụ thể.
Tại Bộ Kế hoạch và Đầu t, các chuyên gia dự báo đã đa
vào sử dụng nhiều hơn mô hình kinh tế lợng vĩ mô để
phân tích tác động của thay đổi chính sách và các cú
"sốc" từ bên ngoài và để dự báo kinh tế vĩ mô. Sử dụng các
mô hình kinh tế lợng vĩ mô này, từ 1999 đến nay, Viện

Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ơng (CIEM) đã đa ra các
bản báo cáo kinh tế Việt Nam hàng năm, trong đó, có phân
tích các chính sách kinh tế vĩ mô, đồng thời có các kịch
bản dự báo kinh tế vĩ mô của Việt Nam cho năm tiếp theo.
Ví dụ về một số dự báo kinh tế vĩ mô của Việt Nam mà
CIEM đã đa ra cho năm 2008.
Bảng 2.1. Kết quả dự báo một số chỉ tiêu kinh tế 2008
Kịch bản
Kết quả
GDP

(giá

1994)
Lạm Phát (CPI)
(mức

trung

Kịch bản cơ

Kịch bản lạc

Kịch bản bi

bản

quan

quan


7,2

7,6

6,7

19,4

16,7

22,3

bình)
Nguồn: Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ơng, Báo
cáo kinh tế Việt Nam 2007.
Việc dự báo kinh tế vĩ mô còn đợc thực hiện tại vụ
Tổng hợp Kinh tế quốc dân, Tổng cục Thống kê, Trung tâm
Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (Bộ Kế hoạch và
Đầu t).
Tháng 4 năm 2005, NHNN bắt đầu đa mô hình kinh tế
lợng vào thử nghiệm dự báo. Tuy nhiên, mô hình này phải sử
dụng các số liệu lịch sử của những biến cần phân tích dự


22
báo. Do đó, mô hình này cha thật phù hợp lắm trong điều
kiện môi trờng tài chính có nhiều biến động nh hiện nay.
Tại Bộ Tài chính, thời gian gần đây (2007), nhóm t vấn
chính sách mới xây dựng một số mô hình phục vụ dự báo và

phân tích chính sách tài chính.
Dự báo ở Bộ Kế hoạch và Đầu t tập trung vào các biến số
kinh tế vĩ mô nh tốc độ tăng trởng, tỷ lệ lạm phát, thâm hụt
cán cân thơng mại so với GDP, thâm hụt ngân sách so với
GDP, ...
Tại Ngân hàng Nhà nớc, từ năm 2000, nội dung dự báo
không dừng lại ở nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế, mà quan
trọng hơn là những dự báo về vốn khả dụng, về sự thay đổi
vốn khả dụng của các TCTD cũng nh diễn biến tiền tệ trong
thời kỳ tới...
Nội dung dự báo của cơ quan dự báo Bộ Tài chính và Bộ
Thơng mại cũng tơng tự nh thời kỳ trớc. Tuy nhiên, việc dự báo
bằng các mô hình kinh tế lợng ở đây còn rất hạn chế.
Mặc dù dự báo phục vụ xây dựng chính sách đã đợc
quan tâm hơn, song việc dự báo ở Việt Nam vẫn là khâu
yếu trong chu trình chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam.
Chất lợng dự báo kém thể hiện rõ nhất là trong năm 2007 và
đầu năm 2008. Do dự báo luồng vốn ngắn hạn đổ vào Việt
Nam không chính xác, do đó, Ngân hàng Nhà nớc đã đa ra
quyết định không sát hợp khi tung nội tệ để mua USD dự
trữ. Cũng do dự báo sai mà Chính phủ đã quyết định tạm
dừng xuất khẩu gạo khi cơ hội giá gạo thế giới hiếm khi lên
cao đến mức gần 1500 $/tấn, gây thiệt hại cho cả Nhà nớc,
cả nông dân và lợi ích quốc gia.


23
* Về xác định mục tiêu kinh tế vĩ mô và lựa chọn công
cụ chính sách
Các mục tiêu kinh tế vĩ mô đợc Quốc hội phê duyệt

hàng năm trong thời kỳ này đợc thể hiện trên Bảng 2.2.
Bảng 2.2. Một số mục tiêu kinh tế vĩ mô của Việt Nam 2002 2007
GDP (%)

2002
7-

2003
7-

2004 2005 2006
7,5 8,5
8,5

NKXK

7,3
10 -

7,5
7,5 -

8
12

16

(%)
LP (%)


13
<3 -

8
5

5

<6,5

16,4

2007
8,2 - 8,5
17,4

<8,5 < tốc độ tăng tr-

4
ởng
Nguồn: Tổng hợp từ các Nghị quyết của Quốc hội về
nhiệm vụ các năm, từ 2002 2007.
Với các mục tiêu này, NHNN đã xác định các mục tiêu
hoạt động và mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ. Các
mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ mà NHNN xác
định trong thời kỳ 2000 đến 2007 bao gồm kiểm soát mức
cung tiền, lãi suất thị trờng mở, lãi suất cơ bản và lãi suất tái
cấp vốn. Các mục tiêu trung gian thời kỳ này là tổng phơng
tiện thanh toán M2, tín dụng, lãi suất nền kinh tế và tỷ giá.
Ngoài các mục tiêu kinh tế vĩ mô (và là mục tiêu cuối cùng

của chính sách tiền tệ) mà Quốc hội quyết định, NHNN còn
xác định thêm mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ là
ổn định hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Mục tiêu của chính sách tài khoá trong thời kỳ này vẫn
tiếp tục đợc xác định là tăng thu để bù chi, bảo đảm mức
thâm hụt ngân sách mà Quốc hội đã quy định. Đồng thời,


24
trong cơ cấu thu, tiếp tục mở rộng nguồn thu và nuôi dỡng
nguồn thu. Trong cơ cấu chi, u tiên chi đầu t phát triển.
Mục tiêu của chính sách thơng mại trong thời kỳ này, về
cơ bản vẫn đợc xác định nh thời kỳ trớc, song có một số
điều chỉnh. Đó là các u tiên xuất khẩu tập trung cho những
mặt hàng nông sản chế biến, hàng chế tạo, ... Mặt khác,
Việt Nam phải nới lỏng bảo hộ, đẩy nhanh tự do thơng mại
để chuẩn bị điều kiện gia nhập WTO.
Về lựa chọn và sử dụng công cụ chính sách
- Các công cụ chính sách tiền tệ hiện đang đợc sử dụng
hầu hết đã đợc đa vào sử dụng trong thời kỳ trớc. Trong thời
kỳ này, chỉ có nghiệp vụ SWAP đợc NHNN đa vào sử dụng
từ tháng 7/2001. Trong thời kỳ này, Ngân hàng Nhà nớc chủ
yếu tiếp tục hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ đã và
đang sử dụng. Chẳng hạn, trong thời kỳ trớc tháng 8/2000,
Ngân hàng Nhà nớc sử dụng cơ chế trần lãi suất cho vay. Từ
tháng 8/2000 Ngân hàng Nhà nớc chuyển sang sử dụng cơ
chế điều hành lãi suất cơ bản. Năm 2001, Ngân hàng Nhà nớc tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất theo hớng điều
chỉnh lãi suất cơ bản một cách linh hoạt, trên cơ sở bám sát
tín hiệu thị trờng. Tuy nhiên, do những hạn chế của cơ chế
điều hành lãi suất cơ bản bằng VND, NHNN quyết định tiếp

tục thay đổi một bớc quan trọng cơ chế điều hành lãi suất cơ
bản bằng việc chuyển sang thực hiện cơ chế lãi suất cho vay
thoả thuận của TCTD đối với khách hàng. Công cụ nghiệp vụ
thị trờng mở (OMO) cũng không ngừng đợc hoàn thiện. Phiên
giao dịch trên OMO đợc tăng từ 10 ngày/phiên (năm 2000) lên 1
tuần/phiên (năm 2001) và 2 phiên/tuần (năm 2002) và từ năm


25
2005 đến năm 2007, số phiên giao dich trong một tuần là 3
phiên.
- Các công cụ của chính sách tài khoá (thuế và chi tiêu
của Chính phủ) cũng đợc điều chỉnh để thực hiện các mục
tiêu kinh tế vĩ mô. Chẳng hạn, trong thời kỳ này, Việt Nam
thực hiện miễn thuế nông nghiệp cho nông dân (2002),
miễn thuế trong hạn điền (2003), bỏ mức thuế 20% của
thuế VAT, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ 32% xuống
28%,...Về chi, hạn chế chi cho các DNNN và chủ yếu tập
trung là chi đầu t cho cơ sở hạ tầng
- Các công cụ của chính sách thơng mại cũng đợc điều
chỉnh theo hớng phù hợp với điều kiện của nền kinh tế và bảo
đảm các cam kết quốc tế, đồng thời chuẩn bị cho việc Việt
Nam gia nhập Tổ chức Thơng mại thế giới (WTO). Chẳng hạn,
Nhà nớc đã bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu gạo (5/2001), bãi bỏ
11.700 dòng thuế nhập khẩu, bỏ thởng xuất khẩu (2007), cải
tiến chế độ giấy phép xuất nhập khẩu (2001), ...
ở đây có thể có một số nhận xét về việc xác định
mục tiêu và sử dụng công cụ chính sách trong thời kỳ này nh
sau:
Một là, trong thời kỳ này, các mục tiêu tăng trởng kinh tế

và xuất khẩu đợc xác định ở mức thấp hơn thời kỳ trớc (trừ
trờng hợp hai năm 1999 và năm 2000, mục tiêu tăng trởng và
xuất khẩu đợc xác định ở mức thấp hơn so với thời kỳ này).
Bởi lẽ, nền kinh tế Việt Nam đã phát triển ở mức mà các
nguồn lực đã đợc khai thác ở mức cao. Việc khai thác nguồn
lực theo chiều rộng cho tăng trởng kinh tế và xuất khẩu lúc
này khó khăn hơn. Mặt khác, quy mô nền kinh tế Việt Nam ở
thời kỳ này lớn hơn nhiều so với thời kỳ trớc. Do đó, tốc độ


×