Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ bộ đội địa PHƯƠNG TỈNH LẠNG sơn THAM GIA xóa đói GIẢM NGHÈO TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.81 KB, 84 trang )

1
MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU
Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN BỘ
ĐỘI ĐỊA PHƯƠNG TỈNH LẠNG SƠN THAM GIA
XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO

11

1.1.

Một số vấn đề lý luận bộ đội địa phương tỉnh Lạng
11

1.2.

Sơn tham gia xóa đói, giảm nghèo
Thực trạng bộ đội địa phương tỉnh Lạng Sơn tham gia
xóa đói, giảm nghèo trong giai đoạn hiện nay

33

Chương 2

YÊU CẦU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN THỰC
HIỆN TỐT HƠN THAM GIA XÓA ĐÓI, GIẢM


NGHÈO CỦA BỘ ĐỘI ĐỊA PHƯƠNG TỈNH LẠNG
SƠN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

2.1.

Yêu cầu tham gia xóa đói, giảm nghèo của bộ đội địa

2.2.

phương tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay
Một số giải pháp cơ bản thực hiện tốt hơn tham gia

56
56

xóa đói, giảm nghèo của bộ đội địa phương tỉnh Lạng
Sơn trong giai đoạn hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

61
82
84
88

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đói, nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần, mà còn là vấn đề
chính trị, xã hội, là một trong những nội dung cơ bản cần giải quyết trong

phát triển kinh tế bền vững ở mỗi địa phương, mỗi quốc gia và trên toàn thế


2

giới. Trong những năm qua, công tác XĐ, GN đã trở thành một chủ trương
lớn của Đảng và Nhà nước ta và là một nội dung quan trọng của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương,
chính sách hỗ trợ người nghèo, vùng nghèo vươn lên trong sản xuất, đời sống,
nên tỷ lệ đói, nghèo liên tục giảm, được thế giới công nhận là một trong
những nước giảm nghèo tốt nhất trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, do
nhiều nguyên nhân mà tỷ lệ đói, nghèo ở Việt Nam hiện nay vẫn còn cao, đặc
biệt là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo vùng căn cứ cách mạng cũ, sự
nghiệp XĐ, GN chưa thực sự vững chắc. Vì vậy, thực hiện XĐ, GN là một
trong những chương trình mục tiêu quốc gia quan trọng hàng đầu của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong giai đoạn hiện nay.
Lạng Sơn là tỉnh miền núi, biên giới nằm ở phía Đông Bắc của Tổ quốc, còn
có nhiều khó khăn trong việc phát triển kinh tế – xã hội, diện tích đất canh tác ít,
chủ yếu là đồi núi, tỷ lệ nghèo hiện nay đang ở mức cao. Trong những năm qua,
công tác XĐ, GN đã được mọi cấp ban ngành trong Tỉnh chú trọng thực hiện và đã
đem lại những kết quả nhất định. Kết quả thực hiện các mục tiêu XĐ, GN đã được
nâng lên một bước đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của địa phương trong giai đoạn
cách mạng mới. Tuy nhiên, tỉnh Lạng Sơn còn đứng trước rất nhiều khó khăn và
thử thách, tỷ lệ nghèo đói tuy đã giảm hàng năm nhưng hiện nay vẫn còn ở mức
cao. Làm thế nào để đưa Lạng Sơn thoát khỏi đói nghèo, thực hiện mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đang là câu hỏi lớn đặt ra cho
Đảng bộ, chính quyền, LLVT và toàn thể nhân dân Lạng Sơn.
BĐĐP tỉnh Lạng Sơn là bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, cán
bộ, chiến sỹ của BĐĐP tỉnh Lạng Sơn cơ bản là con em của đồng bào các dân
tộc trong Tỉnh, gắn bó máu thịt với nhân dân. Với chức năng là đội quân

chiến đấu, lao động sản xuất và là đội quân công tác, trong những năm qua
BĐĐP tỉnh Lạng Sơn đã quán triệt và thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, Nhà nước, Quân đội, Nghị quyết của Đảng bộ Tỉnh và Hội đồng nhân
dân các cấp, của Đảng bộ Quân khu 1; đã tham gia thực hiện có hiệu quả các


3

chương trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo và đã đạt được những kết quả nhất
định, góp phần xây dựng địa phương vững mạnh. Tuy nhiên so với yêu cầu,
nhiệm vụ của thời kỳ mới, hoạt động tham gia XĐ, GN của BĐĐP tỉnh Lạng
Sơn còn có những hạn chế, bất cập cả về nội dung, phương thức thực hiện,
cơ chế hoạt động, phối hợp cũng như hiệu quả thực tế. Kết quả tham gia XĐ,
GN chưa cao; nội dung, biện pháp tổ chức thực hiện còn lúng túng; thực
hiện tham gia chưa tường minh, còn lấn sân sang hoạt động của chính
quyền; cơ chế phối hợp còn chưa rõ ràng… Vì vậy, việc nghiên cứu toàn
diện cả lý luận và thực tiễn về tham gia XĐ, GN của BĐĐP tỉnh Lạng Sơn,
trên cơ sở đó đề xuất yêu cầu và một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt
hơn tham gia XĐ, GN của BĐĐP tỉnh Lạng Sơn hiện nay là vấn đề mang
tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Nhiệm vụ xây dựng và phát triển tỉnh Lạng Sơn trong những năm tới đã
và đang đặt ra cho các cấp ban ngành đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội nói
chung, BĐĐP tỉnh Lạng Sơn nói riêng những yêu cầu mới cao hơn trong nhiệm
vụ XĐ, GN. Đây cũng là một nhiệm vụ chính trị thuộc chức năng công tác của
quân đội ta. Với các lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Bộ đội địa phương tỉnh
Lạng Sơn tham gia xóa đói, giảm nghèo trong giai đoạn hiện nay” làm luận
văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
XĐ, GN là một vấn đề nóng bỏng luôn được Đảng, Nhà nước ta quan
tâm, giải quyết. Trong các văn kiện của Đảng, những chủ trương, chính sách

của Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới, nhiều lần đã nhấn mạnh vấn đề XĐ,
GN. Các chủ trương, chính sách đều hướng tới mục tiêu đảm bảo cho đất
nước được phát triển bền vững. Hiện nay, đã có nhiều công trình khoa học của
nhiều tác giả; nhiều tổ chức khi nghiên cứu về đói, nghèo và XĐ, GN trên thế
giới, cũng như ở Việt Nam dưới các góc độ khác nhau.


4

* Nghiên cứu về đói nghèo và xóa đói, giảm nghèo: Từ đầu những năm 90
của thế kỷ XX đến nay đã có nhiều công trình khoa học, đề tài nghiên cứu, bài
viết liên quan đến vấn đề XĐ, GN được công bố. Các công trình khoa học
nghiên cứu về vấn đề đói nghèo và XĐ, GN ở nhiều khía cạch khác nhau, cụ thể
gồm một số công trình như:
PGS.TSKH Lê Du Phong, PTS. Hoàng Văn Hoa (đồng chủ biên), Kinh
tế thị trường và sự phân hóa giàu - nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía
Bắc nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Các tác giả đã
đánh giá những thành tựu về kinh tế - xã hội qua hơn 10 năm đổi mới và tiềm
năng ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta.
Năm 2007, Trung tâm thông tin và dự báo quốc gia - Bộ Kế hoạch và
Đầu tư đã xuất bản cuốn sách “Tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo ở Việt
Nam - Thành tựu, thách thức và giải pháp”, cuốn sách đã đề cập khá rõ tình
trạng tăng trưởng kinh tế và thành tựu công cuộc XĐ, GN từ đó đưa ra những
giải pháp cụ thể để đẩy nhanh công cuộc XĐ, GN ở Việt Nam.
Viện Khoa học xã hội Việt Nam: Giảm nghèo ở Việt Nam thành tựu
và thách thức, NXB Thế giới, H.2011. Các tác giả đã phản ánh tổng quan
về tình hình đói, nghèo ở Việt Nam hiện nay; đưa ra các phương pháp
đánh giá về nghèo đói hiện nay; qua đó đề xuất một số giải pháp chung về
XĐ, GN ở Việt Nam.
Vũ Minh Cường (2003), “Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu

nhằm xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Hà Giang”, Luận văn tốt nghiệp cử nhân
chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Trần Đình Đàn (2002),
“Những giải pháp kinh tế- xã hội chủ yếu nhằm xóa đói giảm nghèo ở Hà
Tĩnh”, Luận án tiến sỹ Kinh doanh và quản lý, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh; Hoàng Thị Hiền (2005), “Xóa đói, giảm nghèo đối với đồng
bào dân tộc ít người tỉnh Hòa Bình - thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc
sỹ kinh tế, Học viên Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Thái Văn Hoạt (2007),


5

“Giải pháp xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn
hiện nay”, Luận văn thạc sỹ Kinh doanh và quản lý, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh. Các công trình này đã luận giải khá rõ nhưng vấn đề cơ bản
về đói nghèo và công tác XĐ, GN ở Việt Nam cũng như ở một số địa phương
có tỷ lệ đói nghèo còn cao, đánh giá đúng thực trạng, từ đó đề xuất các giải
pháp để XĐ, GN ở các địa phương trong thời gian tới.
Các báo cáo có liên quan đến vấn đề nghèo đói và XĐ, GN như: Báo
cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng thế giới, (2004), “Chính sách đất
đai cho tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo”, Nxb. Văn hóa - Thông tin; Báo
cáo phát triển Việt Nam năm 2004 với chủ đề “Nghèo” đã đánh giá những
thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực XĐ, GN, tồn tại và hạn chế trong cách
xách định chuẩn nghèo, tỷ lệ hộ nghèo, các tiêu chí sử dụng để xác định mức
nghèo... Báo cáo phát triển Việt Nam hàng năm đều có đánh giá về hoạt động
xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam và chỉ ra các thách thức phát triển.
Ngoài ra còn nhiều bài báo, tạp chí viết về vấn đề XĐ, GN như: TS.Tạ
Thị Lệ Yên, "Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội
với mục tiêu xóa đói, giảm nghèo", tạp chí Ngân hàng số 11/2005; Trịnh
Quang Chinh, "Một số kinh nghiệm từ chương trình xóa đói, giảm nghèo ở
Lào Cai", tạp chí Lao Động và Xã hội số 272 tháng 10/2005; TS. Đàm Hữu

Đắc, "Cuộc chiến chống đói nghèo ở Việt Nam thực trạng và giải pháp", tạp
chí Lao động và Xã hội số 272 tháng 10/2005; TS.Nguyễn Hải Hữu, “Hướng
tới giảm nghèo toàn diện, bền vững, công bằng và hội nhập”, Tạp chí
Cộng sản, số 9, tháng 5/2006. Đồng thời, còn có nhiều công trình khoa học
khác nghiên cứu vấn đề XĐ, GN ở nhiều khía cạnh khác nhau. Có thể
khẳng định, các công trình nghiên cứu về nghèo đói và XĐ, GN ở nước ta
là rất phong phú. Thành quả của những công trình đã cung cấp những luận
cứ khoa học, thực tiễn cho việc xây dựng, triển khai công tác XĐ, GN trên
toàn quốc và từng địa phương.


6

* Một số công trình khoa học đề cập đến vai trò của bộ đội địa
phương, về Quân đội tham gia xóa đói, giảm nghèo như:
Đề tài, “Xây dựng cơ sở chính trị ở các khu kinh tế - quốc phòng thuộc
địa bàn quân khu 1 hiện nay”, Viện Khoa học xã hội và nhân văn - Học viện
Chính trị quân sự, Hà Nội. 2004. Đề tài đã trình bài khái quát đặc điểm kinh
tế - quốc phòng nói chung và khu vực kinh tế - quốc phòng trên địa bàn Quân
khu 1 nói riêng. Phân tích làm rõ cơ sở chính trị, cấu trúc của cơ sở chính
trị, đặc điểm cơ sở chính trị ở khu kinh tế - quốc phòng trên địa bàn Quân
khu 1. Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng thực trạng, nguyên nhân của
thực trạng, rút ra những bài học kinh nghiệm và những giải pháp cơ bản để
nâng cao chất lượng xây dựng cơ sở chính trị ở khu kinh tế - quốc phòng
thuộc địa bàn Quân khu 1 hiện nay.
Nguyễn Trọng Xuân (2005): “Quân đội tham gia xoá đói, giảm nghèo
ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Luận án tiến sỹ Kinh tế chính trị, Học
viện Chính trị quân sự, Hà Nội. Luận án đã trình bày những vấn đề cơ bản lý
luận và thực tiễn về XĐ, GN, vai trò thực trạng của Quân đội tham gia XĐ,
GN cũng như đề ra những yêu cầu, giải pháp nâng cao vai trò của Quân đội

tham gia XĐ, GN hiện nay. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả tham gia XĐ, GN của
Quân đội, đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao cho, góp
phần hạ tỷ lệ đói, nghèo nhanh, bền vững, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho nhân dân, củng cố mối quan hệ đoàn kết “máu thịt” quân dân.
Nguyễn Tiến Dũng (2005), “ Bộ đội địa phương tỉnh Lâm Đồng tham
gia xây dựng cơ sở chính trị xã, phường vững mạnh trong giai đoạn hiện
nay”, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quân sự, Hà
Nội; Đặng Thanh Nam (2010), “Bộ đội địa phương tỉnh Cà Mau tham gia xây
dựng hệ thống chính trị cơ sở hiện nay”, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện
Chính trị, Hà Nội. Các tác giả đã luận giải những vấn đề cơ bản về BĐĐP và
hoạt động tham gia xây dựng cơ sở chính trị xã, phường, xây dựng hệ thống


7

chính trị của BĐĐP. Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng, những nguyên
nhân, rút ra một số kinh nghiệm tham gia xây dựng cơ sở chính trị, xã,
phường của BĐĐP. Từ đó xác định phương hướng, yêu cầu và những giải
pháp cơ bản nâng cao chất lượng tham gia xây dựng cơ sở chính trị, xã,
phường, hệ thống chính trị vững mạnh của BĐĐP trong giai đoạn hiện nay.
* Ở Lạng Sơn có các công trình nghiên cứu, các tư liệu, bài viết như:
Tạ Đức Thanh (2010), “Nâng cao vai trò Nhà nước trong xóa đói giảm
nghèo ở Lạng Sơn”, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, trường Đại học Kinh tế quốc dân
cũng đã đề cập những vấn đề cơ bản của XĐ, GN, vai trò của Nhà nước trong
thực hiện các mục tiêu chương trình về XĐ, GN ở địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Nông Đức Vinh (2011): “Công tác xóa đói giảm nghèo thực trạng và
giải pháp ở tỉnh Lạng Sơn”, Tạp chí Dân tộc online, ngày 21/7/2011.
Ngoài ra còn có các báo cáo của Ban chỉ đạo XĐ, GN về tổng kết 10
năm thực hiện công tác XĐ, GN 2001-2011 và mục tiêu XĐ, GN giai đoạn
2011 – 2015 ; Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 03 của Tỉnh ủy

Lạng Sơn về đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 2001 – 2005.
Như vậy, cho đến nay đó có nhiều công trình khoa học đi sâu nghiên
cứu, lý giải về XĐ, GN ở các góc độ khác nhau; các nhân tố tác động đến
công tác XĐ, GN; về vai trò của Quân đội trong tham gia XĐ, GN. Tuy nhiên,
chưa có công trình nào đề cập một cách có hệ thống cơ sở lý luận, thực tiễn
cũng như đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tham gia
XĐ, GN của bộ đội địa phương tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay. Vì
vậy, đề tài: "Bộ đội địa phương tỉnh Lạng Sơn tham gia xóa đói, giảm
nghèo trong giai đoạn hiện nay" mà tác giả chọn làm luận văn tốt nghiệp là
công trình độc lập, không trùng lặp với các công trình khoa học và các luận
văn, luận án đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích


8

Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn BĐĐP tỉnh Lạng
Sơn tham gia XĐ, GN hiện nay, xác định yêu cầu và đề xuất một số giải pháp
chủ yếu thực hiện tốt hơn việc tham gia XĐ, GN của BĐĐP tỉnh Lạng Sơn
trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về BĐĐP tỉnh Lạng Sơn tham gia XĐ, GN.
- Đánh giá đúng thực trạng, rút ra nguyên nhân việc tham gia XĐ, GN
của BĐĐP tỉnh Lạng Sơn.
- Đề xuất yêu cầu và một số giải pháp thực hiện tốt hơn tham gia XĐ,
GN của BĐĐP tỉnh Lạng Sơn trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng
Bộ đội địa phương tỉnh Lạng Sơn tham gia XĐ, GN trong giai đoạn

hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động tham gia XĐ, GN của các đơn vị thuộc Bộ chỉ huy Quân
sự tỉnh Lạng Sơn trên địa bàn tỉnh (gồm: Bộ chỉ huy Quân sự Tỉnh, các cơ
quan quân sự huyện, thành phố, Trường quân sự Tỉnh và các tiểu đoàn, đại
đội trực thuộc Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Lạng Sơn) số liệu điều tra khảo sát
từ năm 2006 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận: Đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về bản chất, vai trò, chức năng của Quân
đội nhân dân Việt Nam, về XĐ, GN; các chỉ thị, nghị quyết của Quân ủy Trung
ương, Bộ Quốc phòng, Đảng bộ Quân khu 1, Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn về các
vấn đề liên quan đến đề tài. Thực tiễn tham gia XĐ, GN của BĐĐP tỉnh Lạng
Sơn (từ năm 2006 đến nay). Các báo cáo tổng kết và các số liệu điều tra khảo


9

sát về công tác XĐ, GN của các cơ quan Đảng, chính quyền, tổ chức chính trị
xã hội và kết quả điều tra, khảo sát thực tế của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng tổng hợp các phương pháp: phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử; phương pháp trừu tượng hoá khoa học; phân tích
tổng hợp, thống kê so sánh, lôgíc, lịch sử, điều tra xã hội học; tổng kết thực
tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần khẳng định vai trò quan trọng của BĐĐP tỉnh Lạng
Sơn tham gia XĐ, GN trong thời gian qua cũng như hiện nay. Kết quả nghiên
cứu của luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học về tham gia XĐ, GN của
BĐĐP tỉnh Lạng Sơn; giúp cho lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị tham khảo, nghiên

cứu, vận dụng trong quá trình tiến hành tham gia XĐ, GN, góp phần xây dựng
địa phương vững mạnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng.
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy các vấn đề liên quan ở các học viện, nhà trường trong Quân đội, làm tài
liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.


10

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN BỘ ĐỘI ĐỊA PHƯƠNG
TỈNH LẠNG SƠN THAM GIA XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO
1.1. Một số vấn đề lý luận bộ đội địa phương tỉnh Lạng Sơn tham
gia xóa đói, giảm nghèo
1.1.1. Quan niệm về đói, nghèo và xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Lạng
Sơn hiện nay
* Quan niệm về đói, nghèo và xóa đói, giảm nghèo:
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đói,
nghèo và xóa đói, giảm nghèo.
Đói, nghèo là một hiện tượng kinh tế - xã hội đã được nhiều nhà khoa
học, nhiều học giả, nhiều trường phái trong lịch sử cũng như hiện tại quan tâm
nghiên cứu. Tuy nhiên, mỗi thời đại khác nhau người ta có cách lý giải khác
nhau về hiện tượng, nguyên nhân và cách giải quyết đói, nghèo. Điều đó phụ
thuộc vào thế giới quan và nhân sinh quan của mỗi người, mỗi trường phái.
Về nguồn gốc trực tiếp dẫn đến tình trạng nghèo đói, phân tích xã hội
tư bản C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập khá toàn diện và sâu sắc tình cảnh
nghèo đói và bị bóc lột đến cùng cực của giai cấp vô sản và những người làm

thuê trong chủ nghĩa tư bản. Trong các tác phẩm của mình, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã mô tả cặn kẽ, xác thực tình cảnh nghèo đói của những người
vô sản phải bán sức lao động cho chủ tư bản để kiếm sống. Phụ nữ và trẻ em
phải làm việc đến kiệt sức trong các xưởng thợ; nông dân bị cưỡng đoạt ruộng
đất, mất hết tư liệu sản xuất... Họ trở thành nạn nhân của tình trạng bị bóc lột
giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư tuyệt đối của các chủ tư bản
trong các thời kỳ tích lũy nguyên thủy và thời kỳ cạnh tranh tự do của CNTB.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, nguồn gốc trực tiếp dẫn đến tình trạng nghèo
đói ở đây là phương thức phân phối giá trị thặng dư trong xã hội một cách bất
công giữa nhà tư bản và người lao động. Tiếp tục những nghiên cứu phân tích


11

về CNTB, VI.Lênin đã phân tích những mâu thuẫn kinh tế xã hội gay gắt
trong thời kỳ CNTB độc quyền, lũng đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Qua đó ông nhận thấy nghèo khổ không chỉ trong các nước tư bản mà còn ở
trong các nước thuộc địa, phụ thuộc, các dân tộc bị áp bức.
Để xóa bỏ tình trạng nghèo đói, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, chỉ có xóa
bỏ chế độ tư hữu, bóc lột mới có thể giải phóng giai cấp vô sản và quần chúng
lao động khỏi cảnh nghèo đói lầm than, làm cho họ trở thành người lao động tự
do và làm chủ, tiến tới một xã hội công bằng, văn minh. VI.Lênin cho rằng,
muốn giải phóng toàn bộ giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức khỏi ách
thống trị của CNTB phải tiến hành cách mạng vô sản do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo.
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước cứu dân, Hồ Chí Minh đã tiếp
thu những tinh hoa của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo vào điều
kiện của nước ta. Người chủ trương: làm cách mạng để giành độc lập tự do
cho tổ quốc; để "đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành" [20, tr. 161]. Ngay từ khi nước ta mới giành được độc lập (1945), Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm ngay đến nhiệm vụ chống đói nghèo. Người
coi đói và dốt cũng là giặc, thứ giặc này nguy hiểm không kém giặc ngoại
xâm, giành được độc lập rồi mà nhân dân vẫn sống trong cảnh nghèo nàn, lạc
hậu thì độc lập cũng có nghĩa lý gì. Vì vậy, trong phiên họp đầu tiên của
Chính phủ lâm thời, Người đã nêu 6 vấn đề cấp bách của Chính phủ, trong đó
việc cấp bách hàng đầu là phải cứu dân khỏi chết đói. Người kêu gọi toàn dân
ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, quyên góp gạo để cứu đói, và
Người gương mẫu thực hiện. Người nói: " Tôi xin đề nghị đồng bào cả nước
và tôi xin thực hiện trước. Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ăn 3
bữa, đem gạo đó để cứu dân nghèo" [20, tr. 89].
Trong công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc nước ta, Hồ Chí Minh
quan niệm rằng CNXH là xa lạ với nghèo đói, bần cùng và lạc hậu. Theo


12

Người, CNXH phải chứng minh được bản chất ưu việt của mình ở chỗ đem
lại ngày càng nhiều, ngày càng tốt hơn những lợi ích thiết thân hàng ngày cho
nhân dân như ăn no, mặc ấm, có nhà ở, được học hành... Người đã từng căn
dặn: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời
sống nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và
Chính phủ có lỗi" và "dân đủ ăn đủ mặc thì chính sách của Đảng và Chính
phủ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù
có hay mấy thì cũng không thực hiện được” [22, tr. 572]. Đồng thời, Người
còn chủ trương "Làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu,
người khá giàu thì giàu thêm" [21, tr. 65]. Theo Người xóa đói phải tiến tới
giảm nghèo và tăng giàu, đói nghèo là một cửa ải cần vượt qua, phải tiến tới
giàu có, vì "Dân có giàu thì nước mới mạnh". Những tư tưởng này của Hồ
Chí Minh đã được Đảng ta quán triệt trong suốt quá trình xây dựng CNXH,
nhất là trong thời kỳ thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.

Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xóa đói, giảm nghèo
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng và Nhà nước ta
rất quan tâm đến công tác XĐ, GN. Từ khi hòa bình được lập lại ở miền
Bắc(1954) và đất nước hoàn toàn thống nhất (1975), Đảng và Nhà nước ta đã
có nhiều quyết sách để xóa dần nghèo đói như: Cải cách ruộng đất; xây dựng
các công trình thủy lợi; miễn giảm thuế... Làm cho dân bớt nghèo, vươn lên
giàu không phải là chính sách nhất thời có tính chất đối phó, mà là chủ trương
chiến lược, là mục tiêu hoạt động của Đảng và Nhà nước ta. Từ Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đến nay, đất nước ta bước vào công cuộc đổi
mới toàn diện, đời sống của đại đa số nhân dân từng bước được cải thiện.
Nhưng do điểm xuất phát của nền kinh tế thấp, lại chịu hậu quả to lớn của
thiên tai và chiến tranh, kèm theo tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường,
nên sự phân hóa thu nhập, đời sống giữa nông thôn, thành thị, giữa các vùng
ngày càng tăng nhanh. Trong quá trình đổi mới, hội nhập và phát triển, bộ
phận dân nghèo kể cả những gia đình có công với cách mạng, chịu nhiều


13

thua thiệt. Vì vậy, thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu, nghèo và trợ giúp
người nghèo đã trở thành nhu cầu bức thiết, và là một trong những biểu hiện
bản chất XHCN.
Từ thực tiễn phong trào XĐ, GN, Nghị quyết TW5 khóa VII đã nêu lên
một nhiệm vụ có ý nghĩa kinh tế - chính trị, xã hội to lớn: "Tăng thêm diện
giàu và đủ ăn, XĐ, GN, nhất là ở vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng trước đây là căn cứ cách mạng" [13, tr. 103]. Thực hiện chủ
trương của Đảng và Chính phủ, phong trào XĐ, GN đã trở thành cuộc vận
động lớn, có tác dụng thiết thực làm giảm đáng kể số hộ đói nghèo, giúp cho
các hộ còn nghèo, đói giảm bớt khó khăn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng đề ra mục tiêu "Giảm tỷ lệ hộ nghèo đói trong tổng số hộ của

cả nước từ 20-25% hiện nay xuống còn khoảng 10% vào năm 2000, bình
quân giảm 300 nghìn hộ/năm. Trong 2 đến 3 năm đầu của kế hoạch 5 năm tập
trung xóa cơ bản nạn đói kinh niên" [14, tr. 120].
Đại hội lần thứ IX Đảng ta khẳng định "Khuyến khích làm giàu hợp
pháp, đồng thời ra sức xóa đói, giảm nghèo" [15, tr. 163]. Mục tiêu chiến lược
XĐ, GN thời kỳ 2001-2010 do Đại Hội IX đề ra là "Nhà nước tạo môi trường
thuận lợi, khuyến khích mọi người dân vươn lên làm giàu chính đáng và giúp
đỡ người nghèo...phấn đấu đến năm 2010, về cơ bản không còn hộ nghèo,
thường xuyên củng cố thành quả xóa đói, giảm nghèo" [15, tr. 211]. Tới Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ X một lần nữa Đảng ta lại khẳng định: “Khuyến
khích mọi người làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả các chính
sách xóa đói, giảm nghèo, tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng các
nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vươn lên thoát
nghèo vững chắc ở các vùng nghèo và các bộ phận dân cư nghèo. Khắc phục
tư tưởng bao cấp, ỷ lại”[16, tr. 101]. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của
Đảng khẳng định: “Nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân
dân... Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng
thời kỳ; đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để bảo đảm giảm nghèo


14

bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn.
Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung
bình khá trở lên. Có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân
hoá giàu nghèo…” [ 17, tr.124-125]. Có thể nói chủ trương XĐ, GN của Đảng
ta ngày càng thể hiện rõ quan điểm XĐ, GN gắn với phát triển bền vững, gắn với
phương châm tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, góp phần thực hiện mục
tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" [17, tr. 153].

Để cụ thể hóa hơn định hướng của Đảng, Chính phủ đã đưa ra mục tiêu
cần đạt được trong giảm nghèo từ 2011 đến 2020 đó là: Giảm nghèo bền vững
được xác định là một trong những trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội giai đoạn 2011 – 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều
kiện sống của người nghèo, trước hết ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu
hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các
dân tộc và các nhóm dân cư. Cụ thể cần đạt được: Thu nhập của hộ nghèo
tăng lên 3,5 lần; tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm, riêng các huyện
nghèo, xã nghèo giảm 4%/năm theo chuẩn nghèo từng giai đoạn [26, tr. 18];
Điều kiện sống của người nghèo được cải thiện rõ rệt, trước hết là vấn đề y tế,
giáo dục, văn hóa, nước sinh hoạt, nhà ở; người nghèo tiếp cận ngày càng
thuận lợi hơn các dịch vụ xã hội cơ bản; Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở các
huyện nghèo; xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn được tập trung đầu tư
đồng bộ theo tiêu chí nông thôn mới, trước hết là hạ tầng thiết yếu như: giao
thông, điện, nước sinh hoạt.
Để thực hiện được các mục tiêu trên, trong thời gian tới sẽ tiếp tục thực
hiện những chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo đã và đang thực hiện
như: Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, thực hiện Chương trình
135 giai đoạn 3, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ và các
chương trình phát triển kinh tế xã hôi khác. Nguồn lực để thực hiện công tác


15

giảm nghèo sẽ được huy động tối đa, không chỉ bằng ngân sách Nhà nước mà
còn huy động được sự tham gia với tinh thần trách nhiệm cao của các tập
đoàn kinh tế, các Tổng Công ty nhà nước, Ngân hàng thương mại…và đặc
biệt là từ chính bản thân người nghèo. Phối hợp nhiều phương thức hỗ trợ
người nghèo như hỗ trợ người nghèo trong vay vốn tín dụng ưu đãi, hỗ trợ về

nhà ở, hỗ trợ về cung cấp và tạo điều kiện duy trì với các loại dịch vụ, hỗ trợ
giao đất, giao rừng; về đào tạo nguồn nhân lực… Đồng thời khắc phục những
hạn chế như: Các chương trình giảm nghèo triển khai chưa toàn diện, nhiều
chính sách, chương trình giảm nghèo được ban hành nhưng còn mang tình
ngắn hạn, chồng chéo, nguồn lực cho giảm nghèo chưa đáp ứng yêu cầu, lại
bị phân tán, dàn trải, thiếu giải pháp cụ thể gắn kết việc thực hiện chính sách
giảm nghèo với chính sách an sinh xã hội, việc phối hợp chỉ đạo thực hiện
giữa các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ, hiệu quả…[8, tr. 29].
Như vậy, nghiên cứu đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta
về XĐ, GN có thể thấy rằng: XĐ, GN vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là
nhiệm vụ trọng tâm trước mắt; tăng trưởng kinh tế là điều kiện giúp cho việc
XĐ, GN, nhưng đây là hai nhiệm vụ có tính độc lập tương đối và không phải
là một. Bên cạnh đó, XĐ, GN và thực hiện công bằng xã hội không có nghĩa
là kìm hãm sự phát triển kinh tế, không có nghĩa là cào bằng, và XĐ, GN là
công việc của toàn xã hội. Từ cách tiếp cận như trên, có thể rút ra một số quan
niệm về đói nghèo và XĐ, GN như sau:
Quan niệm tổng thể về đói, nghèo:
Đói, nghèo là một hiện tượng tồn tại ở tất cả các quốc gia dân tộc, đây
là một khái niệm rộng, luôn thay đổi theo không gian và thời gian. Đến nay,
nhiều nhà nghiên cứu và các tổ chức quốc tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác
nhau. Căn cứ vào thực trạng kinh tế - xã hội ở Việt Nam, trong chiến lược
toàn diện về tăng trưởng và XĐ, GN đến năm 2020, Việt Nam thừa nhận định
nghĩa chung về đói nghèo do Hội nghị chống đói nghèo khu vực châu Á -


16

Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng 9/1993
các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cho rằng: "Đói nghèo là tình trạng
một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản

của con người đã được xã hội thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển kinh tế
xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương" [39, tr. 9]. Đây là khái
niệm khá đầy đủ về đói nghèo, được nhiều nước trên thế giới nhất trí sử dụng,
trong đó có Việt Nam. Để đánh giá đúng mức độ nghèo, người ta chia nghèo thành
hai loại: Nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ
phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu để
duy trì cuộc sống (nhu cầu về ăn, mặc, nhà ở, chăm sóc y tế, giáo dục...). Nghèo
tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của
cộng đồng tại địa phương, ở một thời kỳ nhất định.
Dựa vào những khái niệm chung do các tổ chức quốc tế đưa ra và đồng
thời vấn đề đói nghèo ở Việt Nam còn được nghiên cứu ở các cấp độ khác
nhau như cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng nên bên cạnh khái niệm nghèo
đói, ở nước ta còn có một số khái niệm như: Đói là tình trạng của một bộ phận
dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo
nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm
thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng, thường vay mượn của cộng đồng và
thiếu khả năng chi trả cộng đồng; Hộ đói là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ
mặc, con cái không được học hành đẩy đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh,
nhà ở tạm bợ, rách nát...; Hộ nghèo là hộ đói ăn không đứt bữa, mặc không đủ
lành, không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất... Xã nghèo là xã có tỷ lệ
hộ nghèo cao, không có hoặc rất thiếu những cơ sở hạ tầng thiết yếu như điện,
đường, trường, trạm, nước sạch... trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao; Vùng
nghèo: Là địa bàn tương đối rộng nằm ở những khu vực khó khăn hiểm trở, giao
thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao.
Nghèo đói là một hiện tượng kinh tế - xã hội, vừa là vấn đề của lịch sử
để lại, vừa là vấn đề của phát triển mà quốc gia nào cũng vấp phải. Chính vì


17


vậy, để giải quyết vấn đề XĐ, GN chúng ta cần phải xác định đúng những
nguyên nhân dẫn tới đói nghèo. Có thể khái quát những nguyên nhân chính
gây ra nghèo đói ở nước ta trong thời gian qua như: Nhóm nguyên nhân do
điều kiện tự nhiên - xã hội và nguồn lực hạn chế đó là khí hậu khắc nghiệt,
thiên tai, bão lũ, hạn hán, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp và hậu quả của
chiến tranh; nhóm nguyên nhân chủ quan thuộc về người nghèo: Như thiếu
kiến thức sản xuất, không có việc làm, đông con, thiếu lao động, mắc tệ nạn
xã hội, lười lao động, tập quán lạc hậu, tâm lý trông chờ vào sự hỗ trợ của
Nhà nước...; nhóm nguyên nhân thuộc về cơ chế, chính sách: Đây là nhóm
nguyên nhân có ảnh hưởng khá mạnh mẽ đến tình trạng nghèo của cả nước
nói chung, của các địa phương nói riêng. Nhóm nguyên nhân này được thể
hiện qua: Các chủ trương, chính sách còn thiếu, không đồng bộ, nhất quán
hoặc việc thực hiện các chủ trương chính sách còn yếu kém, dàn trải...
Như vậy, đói nghèo có nguồn gốc căn nguyên từ kinh tế; nhưng với tư
cách là hiện tượng tồn tại phổ biến ở các quốc gia trong tiến trình phát triển,
đói nghèo thực chất là hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp. Vì vậy, khi nghiên
cứu những tác động ảnh hưởng đến thực trạng, xu hướng, cách thức giải quyết
vấn đề đói nghèo cần phải đánh giá những tác động của nhân tố chính trị, văn
hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Có như vậy mới đề ra được các giải pháp
đồng bộ cho công tác XĐ, GN ở nước ta, đặc biệt là ở vùng miền núi, biên
giới, vùng đồng bào dân tộc ít người.
Quan niệm về xóa đói, giảm nghèo:
Như đã phân tích, do có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn gốc dẫn
đến đói, nghèo nên cũng có nhiều quan niệm khác nhau về XĐ, GN. Hiện
nay, XĐ, GN không chỉ riêng có ở Việt Nam mà còn là vấn đề mang tính toàn
cầu, kể cả ở các nước tư bản phát triển. Và đói, nghèo có quan hệ mật thiết
với nhau, do đó XĐ, GN cũng có quan hệ với nhau, nói đến giảm nghèo đã
bao hàm xoá đói. Từ cách tiếp cận như trên thì: xóa đói, giảm nghèo chính là



18

quá trình Nhà nước, cộng đồng hỗ trợ, tạo điều kiện thuận tiện cho đối tượng
đói, nghèo vươn lên trong sản xuất, cuộc sống từ đó mà thoát khỏi đói, nghèo.
Nói một cách khác, XĐ, GN chính là quá trình chuyển một bộ phận dân cư
đói, nghèo lên một mức sống cao hơn.
Tuy nhiên, nếu tách riêng ra từng phạm trù thì xoá đói và giảm nghèo
có nội hàm khác nhau. Xoá đói, là làm cho bộ phận dân cư đói nâng cao thu
nhập, nâng cao mức sống từ đó mà vượt qua tiêu chí đói. Biểu hiện ở tỷ lệ
phần trăm và số lượng người đói giảm xuống bằng không trong một khoảng
thời gian xác định. Còn giảm nghèo, là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng
cao thu nhập, nâng cao mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo.
Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người nghèo giảm xuống theo thời
gian. Đối với nghèo, trong điều kiện hiện nay chúng ta không thể xoá hết
được mà chỉ có thể từng bước giảm nghèo. Bởi vì, nghèo ở đây bao gồm cả
nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối; đối tượng giảm nghèo không chỉ là cá
nhân, hộ mà còn bao gồm cả vùng nghèo, xã nghèo.
Mục đích của xóa đói, giảm nghèo:
Mục đích của XĐ, GN là làm cho các đối tượng thuộc diện nghèo đói ở
nước ta vươn lên thoát nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống; là giảm bớt khoảng
cách giàu - nghèo trong xã hội, nhằm mục tiêu tổng quát xây dựng một đất nước
vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Với nội dung đó, chính XĐ, GN phải được kế hoạch hoá bằng các
chương trình dự án, hình thành các quỹ, các cơ sở và các tổ chức xã hội. Xét
một cách tổng thể XĐ, GN có những mục đích cơ bản đó là: Tái tạo tiềm năng
nhân lực thông qua các chính sách ưu tiên về dân số, giáo dục, bảo vệ sức
khoẻ con người…đối với những đối tượng thuộc chính XĐ, GN; phát triển
tổng hợp các nguồn lực; góp phần vào sự nghiệp xây dựng vững chắc xã hội
bằng việc thực hiện những ưu tiên về xã hội cần thiết để XĐ, GN ở các vùng có
khó khăn, những vùng sâu, vùng xa và những cá nhân có hoàn cảnh đặc biệt; tạo



19

điều kiện cho một bộ phận dân cư có nhiều khả năng hoà nhập với xã hội, có
điều kiện tiêu thụ những sản phẩm vật chất và tinh thần một cách đúng đắn,
tiết kiệm, phù hợp với trình độ phát triển sức sản xuất của đất nước và
những chuẩn mực đạo đức, pháp lý của chế độ xã hội chủ nghĩa; tạo được
một mô hình lối sống xã hội chủ nghĩa với những đặc điểm chủ yếu là sự
phát triển toàn diện của cá nhân kết hợp hài hoà với sự phát triển hài hoà
của cộng đồng trên cơ sở kế thừa giá trị truyền thông đạo lý tốt đẹp của dân
tộc.
Hiện nay, tại một số khu vực miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng đồng
bao dân tộc thiểu số ngoài những khó khăn về điều kiện phát triển kinh tế, đời
sống vật chất tinh thần thấp kém, bên cạnh đó tình hình chính trị - xã hội còn
phức tạp như tệ nạn xã hội và âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch... Thực trạng này nếu gắn với đói nghèo thường xuyên sẽ có nguy cơ
gây nên mất ổn định chính trị xã hội. Mặc dù trong thời gian qua đã có một số
chương trình, dự án được triển khai ở các khu vực này, nhưng chưa đáp ứng
được yêu cầu thực tiễn. Vì vậy, cần tiếp tục có những chính sách phát triển
kinh tế và XĐ, GN cho những người dân ở đây, nhằm nâng cao đời sống, ổn
định an ninh chính trị xã hội và củng cố niềm tin của nhân dân đối với chế độ
xã hội XHCN. Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chương trình, dự án nhằm giúp
đỡ các xã đặc biệt khó khăn vùng miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, đáp ứng nhu cầu thiết thực của đồng bào các vùng
trên. Điều đó có nghĩa là chương trình XĐ, GN ở nước ta không chỉ đơn
thuần là một chương trình kinh tế, mà còn là chương trình mang ý nghĩa ổn
định chính trị, xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với chế độ ta, và
mang cả ý nghĩa quốc phòng – an ninh.
*Xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay.

Vài nét cơ bản về tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội tỉnh Lạng Sơn:


20

Về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên: Lạng Sơn là một tỉnh miền núi
nằm ở phía Đông Bắc của Tổ quốc, phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía Đông
Nam giáp tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), và giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Nam
giáp Bắc Giang, phía Tây Nam giáp tỉnh Thái Nguyên và phía Tây giáp Bắc
Cạn. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 8.187 km2, diện tích đất nông nghiệp đang
sử dụng chiếm 8,3%; diện tích đất tự nhiên, đất lâm nghiệp có rừng chiếm
36,8%; diện tích đất chưa sử dụng, núi đá chiếm 56,3% [36, tr. 2].
Về kinh tế: Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng chiếm tới
hơn 80% kinh tế của tỉnh, nghề trồng trọt chủ yếu là lúa nước, ngô, khoai,
sắn… Bên cạnh đó, nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng khá phát triển. Cách
làm ăn cũ, quảng canh, manh mún, cá thể, sản xuất nhỏ đã và đang chuyển
sang lối làm ăn mới, thâm canh tập trung và chuyên canh. Các biện pháp khoa
học kỹ thuật đang ngày càng được ứng dụng rộng rãi, công tác thuỷ lợi được
phát triển khá mạnh.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cũng đang được mở rộng. Mỏ than
Na Dương, phốt phát Vĩnh Thịnh, các xí nghiệp tinh dầu hồi, cơ khí, chế biến
lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gốm, nhà máy xi măng đã và đang
phục vụ đắc lực cho sản xuất nông lâm nghiệp.
Mạng lưới giao thông khá thuận tiện, trong tỉnh có 87 km đường sắt,
gần 400km đường quốc lộ nằm trên các tuyến Quốc lộ1A, 1B, 4A, 4B, có 253
km đường biên giới với Trung Quốc trải dài qua 20 xã và một thị trấn thuộc 5
huyện (Tràng Định, Văn Lãng, Lộc Bình, Cao Lộc và Đình Lập); có 2 cửa
khẩu quốc tế (cửa khẩu đường sắt ga Đồng Đăng và cửa khẩu đường bộ Hữu
Nghị), hai cửa khẩu quốc gia là cửa khẩu Chi Ma huyện Lộc Bình và cửa
khẩu Tân Thanh huyện Văn Lãng. Số xã có đường ôtô đi được 4 mùa là 206

xã chiếm 91,2%, số xã chưa có đường ôtô đi được 4 mùa là 20 xã chiếm
8,8%; có 226/226 xã, phường, thị trấn có điện lưới quốc gia, tỷ lệ hộ sử dụng
điện đạt 94,5%; thôn, bản, khối phố có nhà văn hóa đạt 65% [35, tr. 2].


21

Về tình hình chính trị - xã hội: Toàn tỉnh có 11 đơn vị hành chính gồm
10 huyện và 01 thành phố, có 226 xã, phường, thị trấn, trong đó có 106 xã đặc
biệt khó khăn thụ hưởng chương trình 135. Dân số Lạng Sơn hiện nay có hơn
700 nghìn người, với mật độ bình quân 90 người/km2. Lạng Sơn là một địa bàn
quần cư, thống nhất của nhiều dân tộc bao gồm anh em như Nùng (42,91%), Tày
(35,43%), Kinh (16,99%), Dao (3,5%), Hoa (0,29%); dân tộc Sán Chay (0,60%);
dân tộc Mông (0,17%) và các dân tộc anh em khác chiếm 0,11% [Phụ lục 8].
Những điều kiện trên cho phép Lạng Sơn có nhiều nguồn lực để phát
triển toàn diện (vừa phát triển kinh tế – xã hội với các tỉnh bạn vừa có cơ hội
buôn bán với tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc). Nếu được đầu tư đúng mức sẽ
rất thuận lợi để đáp ứng một nền sản xuất đa dạng và các hoạt động kinh tế
năng động mà trước mắt là đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp làm động lực phát triển cho tỉnh Lạng Sơn. Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn lần thứ XV (2010-2015) đã đánh giá tổng quát: “Nền
kinh tế tiếp tục phát triển khá tốt so với mức tăng trưởng chung của cả nước,
cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, nhất là cơ cấu sản xuất trong
nông nghiệp và nông thôn; các lĩnh vực văn hoá, xã hội đều có những chuyển
biến tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải
thiện, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được củng cố và giữ vững. Công
tác xoá đói, giảm nghèo cũng đang được chú trọng thực hiện và cũng đã mang
lại nhiều kết quả tốt”[12, tr. 8].
Tình hình đói, nghèo ở Lạng Sơn hiện nay:
Mặc dù tỉnh Lạng Sơn đã có những bước tiến đáng kể về kinh tế – xã hội

trong những năm qua, song trên thực tế đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó
khăn, đặc biệt là đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa. Vấn đề đói nghèo
và phân hoá giàu nghèo vẫn tồn tại và diễn ra phức tạp, tình trạng đói nghèo
vẫn còn cao, việc xoá nghèo chưa thực sự bền vững. Hiện nay, theo Quyết
định của Thủ tướng chính phủ Số 170/2005/QĐ-TTg ngày 08 tháng 7 năm


22
2005 Về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010 đối
với khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000
đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo [37,
tr.35]. Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 260.000
đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Theo đó thì tỷ lệ đói nghèo của Lạng Sơn còn cao, theo kết quả điều tra năm
2006 tỉ lệ hộ nghèo toàn tỉnh theo tiêu chí mới là 44.001 hộ, chiếm 29,07%
trong đó tỷ lệ hộ đói là 4.026% tương đương với 5.530 hộ so với tổng số hộ
dân. Các xã đặc biệt khó khăn thuộc Chương trình 135 là 22.058 hộ, chiếm
45,18%. Năm 2011 kết quả điều tra hộ nghèo, cận nghèo theo tiêu chí mới
toàn tỉnh có 43.540 hộ nghèo chiếm 24,06% so với tổng số hộ dân; hộ cận
nghèo: 18.054 hộ chiếm 9,98% trong đó các xã 135 số hộ thực tế là 27.913 hộ
chiếm 49,9% [Phụ lục 7].
Tình trạng nghèo đói trong toàn tỉnh phần lớn là rơi vào vùng sâu, vùng
xa, các nhóm hộ gia đình thuần nông, độc canh cây lúa và tự cung tự cấp, ít có
tư liệu sản xuất, đông con, thiếu lao động, thu nhập thấp, ngay tái sản xuất
cũng không có điều kiện. Ở đây tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm dẫn
đến hiện tượng người dân nông thôn ra thành thị đi làm thuê, bốc vác, đặc biệt
là hiện nay phần lớn họ đi làm “cửu vạn” ở biên giới cửa khẩu, đây đang là
vấn đề nhức nhối đối với tỉnh Lạng Sơn, cuộc sống của họ luôn bấp bênh
nguy cơ đói nghèo luôn cao, số người này có cả trẻ em, phụ nữ. Đây là vấn đề
đáng lưu tâm đòi hỏi sự quan tâm chặt chẽ của cấp uỷ, các cấp chính quyền

của Tỉnh bởi chính điều này góp phần không nhỏ đối với việc mất trật tự xã
hội, an ninh quốc phòng, gia tăng các tệ nạn xã hội.
Công tác xóa đói, giảm nghèo ở Lạng Sơn hiện nay:


23

Tổ chức Đảng, chính quyền nhân dân các cấp rất quan tâm đến đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là công tác XĐ, GN. Nhận thức rõ
tầm quan trọng của chương trình, mục tiêu XĐ, GN, Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân
dân tỉnh đã ra những Nghị quyết chuyên đề và những kế hoạch cụ thể về
chương trình XĐ, GN. Một số chủ trương, biện pháp đã được triển khai thực
hiện như: Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp theo hướng phát
triển sản xuất hàng hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế thay thế giống cây trồng
vật nuôi phù hợp; đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm; xây dựng các
dự án chuyển giao kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi cho các hộ nghèo. Tăng
cường đầu tư cơ sở hạ tầng đặc biệt là đường giao thông nông thôn cho các xã
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn và các xã biên giới. Tăng cường sự
lãnh đạo của các cấp uỷ đảng và vai trò quản lý của chính quyền các cấp đối
với công tác XĐ, GN, kiện toàn lại Ban Chỉ đạo công tác XĐ, GN các cấp,
đặc biệt là cấp xã. Chủ động phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc thực
hiện lồng ghép các chương trình, dự án có hiệu quả.
Về kết quả, đến nay chương trình XĐ, GN của tỉnh Lạng Sơn đã đạt
được kết quả bước đầu: tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 29,07% tương đương 44.001
hộ nghèo (năm 2006), xuống còn 17,85% (năm 2011) [Phụ lục 5]. Cụ thể: đã
thực hiện có hiệu quả chính sách hỗ trợ người nghèo về vốn để phát triển sản
xuất. Công tác khuyến nông, khuyến lâm, hỗ trợ phát triển sản xuất được trú
trọng đã làm thay đổi dần tập quán canh tác và nhận thức của người dân vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Cấp uỷ đảng, chính quyền các
cấp luôn tạo điều kiện cho người nghèo được tiếp cận các dịch vụ xã hội. Các

chính sách trợ giúp miễn giảm học phí, trợ giúp học bổng, cấp sách giáo khoa,
đồ dùng học tập được các cấp học thực hiện nghiêm túc theo sự chỉ đạo của
tỉnh. Chương trình hỗ trợ nhà dột nát cho hộ nghèo theo Quyết định số
34/2004/QĐ-TTg, của Thủ tướng Chính phủ tiếp tục nhận được sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội và nhân


24

dân. Đến hết năm 2012 toàn tỉnh đã hỗ trợ được 1.229 hộ, với tổng kinh phí là
12,29 tỷ đồng [36, tr. 4]. Năng lực nhận thức, ý thức trách nhiệm của các cấp,
các ngành, các tổ chức và người dân đối với công tác XĐ, GN luôn được chú
trọng nâng cao. Trong đó, đã chú trọng công tác tập huấn nâng cao năng lực
cho cán bộ làm XĐ, GN; đến nay đã đào tạo, bồi dưỡng được 6.989 lượt cán
bộ trực tiếp làm công tác XĐ, GN [31, tr. 5]. Công tác truyền thông XĐ, GN
được chú trọng; Sở Lao động Thương binh và xã hội ký hợp đồng với các cơ
quan truyền thông biên soạn và cung cấp miễn phí các phụ san về XĐ, GN
như: báo, tạp chí và cuốn cẩm nang cho cán bộ làm công tác xoá đói giảm
nghèo các cấp. Đây là cách làm phù hợp với điều kiện của tỉnh miền núi trình
độ dân trí thấp nhằm đưa tin, bài điển hình trong công tác XĐ, GN để nhân
dân học tập, là cẩm nang cho cán bộ làm công tác XĐ, GN các cấp sử dụng.
Công tác trợ giúp pháp lý cho các xã nghèo bước đầu trở thành cầu nối giữa
pháp luật với nhân dân, tác động tích cực đến đời sống pháp luật của xã hội,
thực sự là công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ở cơ sở.
Việc xã hội hoá các nguồn lực để đẩy mạnh thực hiện chương trình XĐ, GN
được chú trọng, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, các tổ chức
chính trị xã hội, đoàn thể nhân dân, các cơ quan, doanh nghiệp trong và ngoài
tỉnh, các tổ chức quốc tế đã ủng hộ, quyên góp với nhiều hình thức phong
phú, đa dạng làm cho nguồn lực đầu tư cho đối tượng, địa bàn hưởng lợi ngày
càng nhiều, góp phần đẩy nhanh mục tiêu XĐ, GN của Tỉnh. Công tác kiểm

tra, giám sát đánh giá kết quả thực hiện chương trình XĐ, GN ngày càng được
chỉ đạo chặt chẽ. Ban Chỉ đạo công tác XĐ, GN các cấp đều xây dựng Quy
chế hoạt động, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên có trách nhiệm
theo dõi, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện công tác XĐ, GN trên từng địa
bàn, cơ sở và định kỳ báo cáo theo các tiêu chí và thời gian quy định. Một số
thành viên Ban Chỉ đạo tỉnh như: Hội Liên hiệp Phụ nữ, Tỉnh đoàn, Hội Nông
dân tỉnh, Hội Cựu chiến binh… luôn thể hiện được vai trò và trách nhiệm của


25

mình, phân công lãnh đạo, cán bộ theo dõi và báo cáo đánh giá kết quả thực
hiện theo đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng.
Để có được những kết quả như trên là do chương trình XĐ, GN tiếp tục
được sự quan tâm của Chính phủ, các Bộ ngành Trung ương; sự lãnh đạo, chỉ
đạo có hiệu quả của các cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp; sự cố gắng nỗ lực
vươn lên của chính bản thân người nghèo trên địa bàn toàn Tỉnh. Chương
trình được triển khai đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở với nhiều nội dung, giải pháp
thiết thực đã mang lại hiệu quả. Luôn nhận được sự tham gia của mọi lực
lượng, sự đồng thuận của mọi cấp, mọi ngành trong quá trình thực hiện.
Trong đó chú trọng thực hiện tốt công tác đánh giá, giám sát theo chương
trình, mục tiêu XĐ, GN ở các cấp; chế độ thông tin, báo cáo được thực hiện
nghiêm túc, đúng tiến độ, đáp ứng các yêu cầu về thông tin theo quy định.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác XĐ, GN tỉnh
Lạng Sơn vẫn còn bộc lộ hạn chế, yếu kém: Một số cơ sở chưa tích cực phát
huy vai trò, trách nhiệm trong công tác XĐ, GN; nhận thức về vai trò, trách
nhiệm XĐ, GN còn chưa tốt; một số cấp uỷ đảng, chính quyền thiếu kiểm tra
đôn đốc. Việc bình xét hộ nghèo tại thôn, bản, khối phố nhiều nơi không
nghiêm túc, chưa theo đúng quy trình quy định, thiếu khách quan, không công
khai dân chủ, có nơi còn nặng bệnh thành tích; nhiều hộ không muốn thoát

nghèo để được hưởng chính sách ưu đãi hộ nghèo. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống cho các xã nghèo chưa có quy
hoạch tổng thể và chưa được đầu tư đúng mức. Công tác tuyên truyền chỉ đến
được với cán bộ thôn, bản, khối phố nhiều nơi còn chưa đến được với người
nghèo, hộ nghèo.
XĐ, GN chưa bền vững, tỷ lệ hộ tái nghèo, phát sinh nghèo còn quá
lớn, trong 3 năm (2006-2008) toàn tỉnh có 17.302 hộ thoát nghèo, đồng thời
đến năm 2009, có 6.162 hộ tái nghèo hoặc phát sinh nghèo [31, tr. 7]. Đây
chính là vấn đề cần quan tâm của mọi cấp, mọi ban ngành đoàn thể trong tỉnh.


×