LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân, được xuất phát
từ yêu cầu phát sinh trong công việc để hình thành hướng nghiên cứu.
Các số liệu có nguồn gốc rõ ràng tuân thủ đúng nguyên tắc. Kết quả trình bày
trong luận văn thu thập được trong quá trình nghiên cứu là trung thực chưa được ai
công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hòa Bình
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình viết luận văn, học viên đã được sự quan tâm, giúp đỡ của các
thầy cô giáo ở Học viện Hành chính, sự động viên và tạo điều kiện của bạn bè,
người thân trong gia đình. Học viên bày tỏ sự cảm ơn chân thành đối với sự quan
tâm, động viên, giúp đỡ đó.
Học viên xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo hướng dẫn khoa học
TS. Bùi Huy Khiên về sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo và những ý kiến đóng góp
quý báu để luận văn được hoàn thành đúng kế hoạch.
Sau cùng, học viên xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cán bộ thuộc Bảo hiểm
xã hội Hà Nội, Viện Khoa học Bảo hiểm xã hội Việt Nam về những góp ý quý báu
về lý luận và thực tiễn cho luận văn, đặc biệt đã cung cấp các số liệu thống kê giúp
học viên có những thông tin cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu, góp phần quan
trọng cho việc nghiên cứu luận văn thành công.
Vì điều kiện thời gian có hạn cũng như kinh nghiệm nghiên cứu khoa học còn
hạn chế nên luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được
những ý kiến đóng góp nhiệt tình để có thể hoàn thiện hơn nữa đề tài nhằm phục vụ
tốt hơn trong công tác thực tế cũng như những nghiên cứu khoa học sau này.
Tác giả
Nguyễn Hòa Bình
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
3.2. CÁC NHÓM GIẢI PHÁP 74
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
ILO Tổ chức lao động quốc tế
BHXH Bảo hiểm xã hội
BHYT Bảo hiểm y tê
BHTN Bảo hiểm thất nghiệp
ÔĐ-TS-DS Ốm đau - thai sản - dưỡng sức
TNLĐ-BNN Tai nạn lao động- Bệnh nghề nghiệp
KNLĐ Khả năng lao động
LĐ-TB-XH Lao động – Thương binh- Xã hội
DANH MỤC CÁC BẢNG
3.2. CÁC NHÓM GIẢI PHÁP 74
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài
Chính sách Bảo hiểm xã hội (BHXH) hoạt động dựa trên nguyên tắc cơ bản
“đóng - hưởng” được hình thành và phát triển đã tạo bước đột phá quan trọng cho
sự bình đẳng của người lao động. Người lao động làm việc ở các thành phần kinh tế
khác nhau, các ngành nghề khác nhau, ở từng địa bàn khác nhau đều được tham gia
BHXH. Phạm vi, đối tượng không ngừng mở rộng đã thu hút được sự tham gia của
hàng triệu người lao động thuộc các thành phần kinh tế, tạo được sự yên tâm và tin
tưởng trong lao động, sản xuất, kinh doanh.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, BHXH đều có sự điều chỉnh, sửa đổi,
bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, bao gồm những nội
dung về phạm vi đối tượng tham gia; loại hình BHXH; nội dung các chế độ; việc tổ
chức quản lý quá trình thực hiện cũng như khung pháp lý cho việc ban hành và thực
hiện chính sách BHXH.
Việc Quốc hội thông qua Luật Bảo hiểm xã hội (có hiệu lực từ ngày
01/01/2007) đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện chính sách BHXH nói
chung, BHXH bắt buộc nói riêng.
Đến nay, Luật Bảo hiểm xã hội đã được triển khai thực hiện hơn 6 năm và từng
bước đi vào đời sống xã hội, trở thành một công cụ pháp luật có hiệu quả, góp phần
điều tiết xã hội, phục vụ công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở nước ta. Đối tượng tham gia các loại hình BHXH tăng nhanh qua các năm. Nếu như
năm 2006 cả nước mới chỉ có hơn 6,7 triệu người tham gia BHXH bắt buộc thì đến
cuối năm 2011 số người tham gia đã tăng trên 10 triệu người. Trên địa bàn thành phố
Hà Nội, năm 2008 mới chỉ có 896.000 người tham gia BHXH bắt buộc thì đến cuối
năm 2011 số người tham gia là hơn 1,1 triệu người.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình thực hiện, đặc biệt từ
thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội - trung tâm chính trị - kinh tế của cả nước,
BHXH bắt buộc hiện hành đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế cần được bổ sung, sửa
1
đổi cả về mặt nội dung luật và việc tổ chức thực hiện.
Trong hơn 6 năm thực hiện Luật BHXH, quyền và lợi ích chính đáng của
người lao động vẫn chưa được đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật; Một số
quy định liên quan đến việc đóng, hưởng các chế độ BHXH còn bộc lộ những bất
cập trong quá trình thực hiện; Quỹ hưu trí và tử tuất tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối
trong những năm tới; Công tác kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHXH còn
chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao; Việc quy định các chế tài để xử lý các hành vi vi
phạm Luật BHXH còn nhẹ, thiếu tính thuyết phục, một số nội dung không thống
nhất giữa các quy định của Luật BHXH và các văn bản quy phạm pháp luật khác.
Thực tế vẫn còn tình trạng một số cơ quan, đơn vị sử dụng lao động cố tình trốn
đóng, nợ đóng BHXH; Hoạt động tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách pháp
luật về BHXH còn chưa hiệu quả, mang nặng tính hình thức.
Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, nhất là giai đoạn 2011-2020,
chúng ta sẽ có những sự phát triển vượt bậc về kinh tế - xã hội mà đích đến là năm
2020, nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp, việc nghiên cứu đánh giá
BHXH bắt buộc hiện hành trên địa bàn thành phố Hà Nội nhằm thấy rõ những ưu
điểm cũng như những tồn tại, hạn chế để đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng BHXH, phù hợp với giai đoạn phát triển mới của thủ đô có ý nghĩa rất quan
trọng đối với sự ổn định và phát triển bền vững xã hội.
Với mục đích đó, tác giả chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng bảo hiểm xã hội
bắt buộc ở Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận văn cao
học của mình. Nghiên cứu thành công đề tài này có ý nghĩa về mặt lý luận và giá trị
về mặt thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có một số cơ quan và tác giả nghiên cứu về Bảo hiểm xã hội
bắt buộc.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã nghiên cứu đề tài:
- Phát triển hệ thống an sinh xã hội Việt Nam phù hợp với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đề tài khoa học cấp bộ, năm 2006.
2
Bảo hiểm xã hội Việt Nam cũng nghiên cứu:
- Đề án xây dựng chiến lược phát triển Bảo hiểm xã hội Việt Nam đến năm
2020, năm 2012.
Ngân hàng thế giới (World Bank), OECD và Trung tâm nghiên cứu quốc gia
về chính sách y tế và xã hội Hàn Quốc:
- Những đánh giá sơ bộ về hệ thống hưu trí Châu Á-Thái Bình Dương, năm 2011.
Một số tác giả cũng đã quan tâm nghiên cứu đề tài này, như:
- Mai Ngọc Cường, Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã
hội ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2009.
- Hồ Ngọc Cẩn, Võ Thanh Nhu, Chế độ, chính sách mới về bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, NXB Lao động, Hà Nôi - 2006.
Ngoài các sách chuyên khảo trên, một số tác giả đã viết bài đăng trên các tạp
chí, như:
- Đinh Quốc Dũng, Thực trạng và giải pháp về chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí
ở Việt Nam, tạp chí BHXH tháng 3 năm 2010
- Lê Bạch Hồng, Vai trò của chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế với an
sinh xã hội của đất nước, tạp chí Bảo hiểm Xã hội, số tháng 9 năm 2010
- Bùi Thị Lâm Hà, Chế độ tai nạn ở Việt Nam - nhìn từ cơ sở lý luận, tạp chí
BHXH tháng 6 năm 2011
- Phạm Đình Thành, 65 năm chính sách bảo hiểm xã hội phát triển cùng đất
nước, tạp chí Bảo hiểm Xã hội, tháng 8 năm 2010
- Ban quản lý dự án TF058179, Đánh giá hệ thống chính sách BHXH, Bản tin
số 25- Viện Khoa học BHXH, năm 2010
Các công trình nghiên cứu trên đã tập trung vào phân tích vị trí, vai trò của
BHXH ở cả hai khía cạnh lý luận và thực tiễn, đồng thời đã đề xuất một số kiến
nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ, chính sách về BHXH bắt buộc hiện nay.
Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ đề cập tới từng lĩnh vực, từng chế
độ BHXH, chưa phân tích đầy đủ những khó khăn, vướng mắc của BHXH bắt buộc
hiện hành cả về nội dung những văn bản quy phạm pháp luật cũng như công tác tổ
3
chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Vì vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của BHXH bắt buộc; thực
trạng BHXH bắt buộc ở Hà Nội hiện nay để thông qua đó đề xuất những giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng BHXH bắt buộc trong thời gian tới là việc làm cần thiết,
có ý nghĩa thiết thực về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích:
Phân tích thực trạng chính sách BHXH bắt buộc, đánh giá những ưu điểm và
tồn tại, hạn chế của BHXH bắt buộc hiện nay ở Hà Nội, thông qua đó đề xuất
những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng BHXH bắt buộc ở Hà Nội
trong thời gian tới.
Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của BHXH bắt buộc ở nước ta.
- Phân tích thực trạng chính sách BHXH bắt buộc trên địa bàn thủ đô Hà Nội
trong những năm gần đây.
- Đề xuất những kiến nghị, giải pháp nâng cao chất lượng BHXH bắt buộc ở
Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chất lượng bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về không gian: trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Phạm vi về thời gian: từ năm 2007 đến nay.
Phạm vi về nội dung: Trên thực tế có rất nhiều yếu tố tác động đến chất lượng
BHXH bắt buộc, tuy nhiên, phạm vi đề tài chỉ đề cập tới sự tác động của các quy
định pháp luật hiện hành (luật BHXH và các văn bản hướng dẫn) và công tác tổ
chức thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu đề tài này, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
4
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, lấy học thuyết Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm của Đảng về chính sách phát triển kinh tế - xã hội làm cơ sở
lý luận.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp thống kê, phân tích tổng
hợp, so sánh, lấy ý kiến chuyên gia trong việc đánh giá BHXH bắt buộc cả về nội
dung và công tác tổ chức thực hiện.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn đã đề cập tới những nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách,
pháp luật về BHXH và các giải pháp về tổ chức thực hiện. Qua đó, nội dung một số
quy định của luật BHXH được bổ sung, sửa đổi một cách cơ bản; nội dung các chế
độ BHXH được đề xuất điều chỉnh, hoàn thiện cho phù hợp với thực tế nhằm khắc
phục nhanh những tồn tại, hạn chế trong công tác BHXH thời gian qua, phát huy
tính ưu việt của BHXH bắt buộc trong đời sống xã hội.
7. Ý nghĩa của luận văn
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn của BHXH bắt buộc ở nước ta; đánh
giá thực trạng BHXH bắt buộc trên địa bàn TP Hà Nội trong thời gian qua, tác giả
đề xuất những kiến nghị và giải pháp khắc phục những hạn chế, bất cập của các quy
định hiện hành nhằm nâng cao chất lượng BHXH bắt buộc ở Hà Nội trong những
năm tiếp theo cho phù hợp với điều kiện thực tế ở Hà Nội và Việt Nam, đáp ứng
yêu cầu mới của phát triển kinh tế xã hội và hội nhập của đất nước.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của BHXH bắt buộc ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng BHXH bắt buộc ở Hà Nội hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng BHXH bắt
buộc ở Hà Nội trong thời gian tới.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
Ở VIỆT NAM
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Bảo hiểm xã hội ra đời trên cơ sở nền kinh tế hàng hoá phát triển và việc thuê
mướn nhân công trở nên phổ biến. Theo quan niệm trên thế giới thì BHXH là sự
đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp
phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở
hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người
lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Như vậy, BHXH là một
nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp. Nó thể hiện mối quan hệ giữa 3 bên: bên
tham gia, bên BHXH và bên được BHXH.
Ở Việt Nam, quá trình xây dựng và thực hiện chính sách BHXH là sự đổi mới
không ngừng cho phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước
trong từng giai đoạn nhất định. Trong hoạt động BHXH, Nhà nước tiến hành xây
dựng nhiều chính sách, chế độ, tổ chức triển khai và giám sát quá trình thực hiện
nhằm thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của người tham gia BHXH. Như vậy, Nhà
nước giữ vai trò quản lý về BHXH, bảo hộ cho quỹ BHXH mà không phải chi từ
ngân sách nhà nước (NSNN) cho lĩnh vực này. Mặt khác, chính sách BHXH là
một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, giúp Nhà nước điều tiết mối quan
hệ giữa chính sách kinh tế và xã hội trên phương diện vĩ mô, bảo đảm cho nền
kinh tế liên tục phát triển và giữ gìn ổn định xã hội trong từng thời kỳ cũng như
trong suốt quá trình.
1.1.1. Các khái niệm
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết trên cơ sở
đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.
6
Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động và
người sử dụng lao động phải tham gia.
Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống
hay qúa trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan. (định
nghĩa của Tổ chức Quốc tế về Tiệu chuẩn hóa ISO).
Chất lượng BHXH là mức độ mà các chế độ, chính sách BHXH đáp ứng
được nhu cầu và sự mong đợi của khách hàng.
Chất lượng BHXH phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và đáp ứng
những thay đổi của xã hội.
Chất lượng chính sách BHXH tốt phải phản ánh được tác động của nó đến các
tổ chức cũng như quyền lợi của các đối tượng thụ hưởng BHXH và mối quan tâm
chung của xã hội, đảm bảo phát huy những mặt tích cực và hạn chế những yếu tố
tiêu cực.
Chính sách bảo hiểm xã hội là những quy định chung của Nhà nước gồm
những chủ trương, định hướng lớn về các vấn đề cơ bản của BHXH, những mục
tiêu, đối tượng, phạm vi và chế độ trợ cấp, các nguồn đóng góp, cách thức tổ chức
thực hiện các chế độ BHXH.
Chính sách BHXH có thể biểu hiện dưới dạng hiến pháp, văn bản pháp luật
song lại rất khó thực hiện nếu không được cụ thể hóa và không thông qua các chế
độ BHXH cụ thể.
Chế độ bảo hiểm xã hội là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy
định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối
với người lao động. Nói cách khác, đó là hệ thống các quy định được pháp luật hóa
về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng trường hợp BHXH cụ thể.
BHXH bắt buộc bao gồm các chế độ sau:
- Chế độ trợ cấp ốm đau;
- Chế độ trợ cấp thai sản;
- Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (TNLĐ-BNN);
- Chế độ hưu trí;
7
- Chế độ tử tuất.
1.1.2. Các yếu tố cấu thành chất lượng BHXH
- Sự thoả mãn nhu cầu của đối tượng tham gia BHXH
Các quy định của chính sách, chế độ BHXH phải phù hợp điều kiện kinh tế
-xã hội từng thời kỳ, đảm bảo nguyên tắc công bằng trong việc đóng, hưởng BHXH
của các đối tượng tham gia. Phải đảm bảo mức độ hài lòng chung thông qua các yếu
tố như: khả năng tiếp cận dịch vụ, thủ tục và quy trình phải đơn giản, dế hiểu; ý
kiến của đối tượng tham gia phải được tôn trọng, đối xử thân thiện, vui vẻ; sự tín
nhiệm trong cung cấp dịch vụ.
- Quá trình cung cấp, thực hiện các chế độ BHXH
Ở đây liên quan đến trách nhiệm của các cơ quan BHXH trong công tác tổ
chức thực hiện chính sách BHXH đảm bảo việc thu, chi trả đúng và đủ. Thái độ,
trách nhiệm, tác phong, sự chuyên nghiệp của cán bộ, công chức BHXH; cơ sở vật
chất và điều kiện hỗ trợ hoạt động cung ứng dịch vụ BHXH; các nội dung về công
khai công vụ; thủ tục hành chính và quy trình xử lý các nghiệp vụ BHXH; thời gian
giải quyết; lệ phí; cơ chế giám sát, góp ý.
- Diện bao phủ đối tượng tham gia BHXH
Thể hiện ở số lượng người tham gia BHXH và ý thức của đối tượng tham gia
BHXH.
Ở nước ta, dân số chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn, làm nông nghiệp, do
đó số lượng người lao động trong độ tuổi tham gia còn ít, độ bao phủ không cao.
Ngoài ra, ý thức tham gia đóng BHXH đầy đủ, đúng qui định về đối tượng, số
lượng, mức tiền lương là yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng BHXH. Việc các đối
tượng cố tình trốn đóng, nợ đọng, lạm dụng quỹ BHXH, không thực hiện các quy
định của pháp luật về BHXH sẽ gây ảnh hưởng tới quyền lợi của các đối tượng thụ
hưởng, làm giảm chất lượng BHXH.
Các yếu tố cấu thành chất lượng BHXH trên đây còn phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế - xã hội và chuẩn mực xã hội từng thời kì.
8
1.1.3. Các nhân tố tác động đến chất lượng BHXH
- Nhóm các nhân tố liên quan đến điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước
Trong giai đoạn kinh tế phát triển, các doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng sản
xuất do vậy cần phát triển lao động mới đặc biệt lao động có trình độ. Do đó, họ có
điều kiện tham gia BHXH cho người lao động đầy đủ, đúng mức lương thực lĩnh.
Nền kinh tế càng phát triển, thu nhập bình quân đầu người càng được nâng cao
thì Nhà nước mới có điều kiện nâng mức đóng góp và mức hưởng BHXH của người
lao động và ngược lại.
Ngược lại, khi kinh tế suy thoái, bất ổn đòi hỏi doanh nghiệp phải giảm lao
động, giảm tiền lương đóng BHXH làm ảnh hưởng tới quyền lợi người lao động.
- Nhóm các nhân tố liên quan đến chính sách, văn bản pháp luật về BHXH
Đây là khung pháp lý quy định rõ đối tượng áp dụng, quyền và nghĩa vụ các
bên tham gia BHXH, nội dung các chế độ BHXH. Một chính sách, chế độ không
hợp lý, không đảm bảo công bằng giữa các đối tượng thụ hưởng sẽ ảnh hưởng lớn
tới chất lượng BHXH.
- Nhóm các nhân tố liên quan đến tổ chức thực hiện BHXH
Việc quy định đầy đủ, công khai minh bạch quy trình, thủ tục, hồ sơ, trách
nhiệm và thời hạn giải quyết sẽ tạo thuận lợi cho người lao động và người sử dụng
lao động và cơ quan BHXH thống nhất thực hiện.
Công tác đôn đốc thu nợ BHXH, công tác chi trả các chế độ đúng, đủ, kịp
thời, thuận tiện cho người thụ hưởng sẽ góp phần nâng cao chất lượng BHXH.
- Đội ngũ cán bộ, công chức
Năng lực, thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức BHXH; sự thân thiện
tín nhiệm, lịch sự trong cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu của người được phục vụ
cũng được coi là những tiêu chí quan trọng đặc biệt trong tiến trình cải cách hành
chính chung của cả Ngành BHXH góp phần nâng cao chất lượng BHXH.
- Nhóm các nhân tố khác: Công bằng xã hội, bình đẳng xã hội, vai trò của
Nhà nước trong việc thực hiện công bằng xã hội, khả năng chống đỡ về tài chính
của quỹ BHXH
9
1.1.4. Những nguyên tắc của bảo hiểm xã hội
Khi thiết kế và thực hiện chính sách, chế độ BHXH cần quán triệt các nguyên
tắc sau:
- Nguyên tắc bảo đảm về mặt xã hội
BHXH là sự đảm bảo về mặt xã hội để người lao động có thể duy trì và ổn
định cuộc sống khi bị mất sức lao động tạm thời (ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động ) hoặc hết tuổi lao động (hưu trí).
Đây là nguyên tắc bảo đảm ý nghĩa và tính chất của bảo hiểm. Nó vừa mang giá
trị vật chất, vừa mang ý nghĩa xã hội. Mức bảo đảm về vật chất (theo các chế độ trợ cấp
của BHXH) là yếu tố quan trọng giải quyết khó khăn về đời sống cho người lao động
khi họ mất hoặc giảm thu nhập. Về mặt xã hội, theo nguyên tắc này, BHXH lấy số
đông bù cho số ít, lấy thời gian lao động thực tế có thu nhập để bù cho thời gian mất
sức lao động hay cao tuổi góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã
hội được phát triển và an toàn hơn.
- Nguyên tắc xác định đúng mức tối thiểu
Việc xác định đúng mức tối thiểu có liên quan đến việc thiết kế các chính sách
và nội dung của từng chế độ BHXH. Đó là mức đóng góp định kỳ (hàng tháng),
thời gian cần thiết tối thiểu để tham gia và được hưởng một chế độ BHXH cụ thể.
Nguyên tắc này liên quan trực tiếp đến việc tạo nguồn, xây dựng quỹ BHXH,
khuyến khích các đối tượng tham gia.
- Nguyên tắc bảo đảm sự thống nhất và liên tục
BHXH phải đảm bảo sự thống nhất và liên tục về mức tham gia và thời gian thực
hiện, bảo đảm quyền lợi của người lao động. Nguyên tắc này đảm bảo cho người tham
gia BHXH có thể duy trì một cách liên tục theo thời gian tham gia đóng BHXH khi có sự
di chuyển công việc. Thống nhất về các chế độ sẽ tạo sự linh hoạt cần thiết và thuận tiện
cho người lao động tham gia đóng BHXH đầy đủ, tích cực hơn.
- Nguyên tắc công bằng
Công bằng trong BHXH là nguyên tắc rất quan trọng nhưng rất phức tạp khi
đề ra chính sách BHXH. BHXH được thực hiện trong thời gian dài cả trong và
10
ngoài quá trình lao động. Trong quá trình đó, mức đóng góp BHXH và thời gian
tham gia BHXH của từng người lao động, mức hưởng của họ có thể không giống
nhau. Do vậy, việc bảo đảm công bằng trong BHXH là rất cần thiết nhưng rất khó
khăn trong thực hiện, nhất là trong điều kiện hệ thống BHXH nước ta đang còn
khác biệt về đối tượng, thành phần, khu vực tham gia.
- Nhà nước thống nhất quản lý BHXH
BHXH là một chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội.
Nhà nước, với tư cách là chủ thể quản lý mọi mặt đời sống xã hội, phải có trách
nhiệm thực hiện chính sách xã hội, quản lý các hoạt động BHXH để đảm bảo sự ổn
định và công bằng xã hội. Nhà nước quản lý BHXH là yêu cầu khách quan, tạo điều
kiện cho người lao động yên tâm, ổn định cuộc sống, nhất là khi di chuyển theo yêu
cầu của thị trường không bị ảnh hưởng đến quyền lợi về bảo hiểm.
1.1.5. Cơ sở hình thành chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội
Chính sách BHXH có phạm vi tác động rất lớn đến người lao động, người sử
dụng lao động và cả nền kinh tế của đất nước. Vì thế, khi ban hành chính sách
BHXH nói chung, BHXH bắt buộc nói riêng phải dựa trên những cơ sở sinh học về
giới tính, lứa tuổi của người lao động; điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong
từng thời kỳ; điều kiện lịch sử Ngoài ra, chính sách BHXH do nhà nước ban hành
nên nó còn phụ thuộc vào thể chế chính trị của từng quốc gia.
- Cơ sở sinh học về giới tính, lứa tuổi của người lao động:
Cơ sở sinh học là một trong những căn cứ quan trọng để xác lập mối tương
quan đóng - hưởng trong chính sách BHXH nói chung. Nghiên cứu cơ sở sinh học
để qua đó đề ra các chính sách BHXH đúng đắn đối với người lao động ở các độ
tuổi khác nhau và giới tính khác nhau
- Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ:
Việc xây dựng mức đóng - hưởng các chế độ BHXH phải phù hợp với điều
kiện phát triển của kinh tế - xã hội của đất nước. Khi nền kinh tế phát triển, các
doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, có lãi và tích luỹ để tái sản xuất, thì doanh
nghiệp mới có điều kiện đóng đủ BHXH theo quy định. Theo kinh nghiệm các
11
nước, trình độ phát triển BHXH của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó. Một quốc gia có hệ thống BHXH phát
triển thì quốc gia đó phải có nền kinh tế phát triển, phải có GDP bình quân đầu
người tương đối cao. Nền kinh tế càng phát triển, thu nhập bình quân đầu người
càng được nâng cao thì Nhà nước mới có điều kiện nâng mức đóng góp và mức
hưởng BHXH của người lao động và ngược lại. Đó là mối quan hệ có tính quy luật
phải được vận dụng vào việc xây dựng chính sách BHXH ở nước ta.
- Điều kiện lịch sử:
Đây là điều kiện mang tính phổ biến ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Đối
với nước ta, chính sách BHXH từ khi thành lập nước đến nay đều mang tính lịch sử
và điều này được thể hiện rõ nét qua từng thời kỳ phát triển của đất nước. Khi xây
dựng hoặc sửa đổi, bổ sung chính sách BHXH Nhà nước ta đều căn cứ vào điều
kiện lịch sử cụ thể của từng thời kỳ, chế độ BHXH trong từng thời kỳ đã góp phần
phục vụ các mục tiêu và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của thời kỳ đó. Xây
dựng chính sách BHXH ở từng thời kỳ còn phải đảm bảo tính kế thừa, phát huy
những mặt tích cực, khắc phục những tồn tại, hạn chế để từng bước hoàn thiện
chính sách BHXH, phù hợp với điều kiện lịch sử của đất nước trong từng thời kỳ và
phù hợp với các thông lệ quốc tế.
1.1.6. Vai trò của chính sách BHXH trong hệ thống an sinh xã hội
Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI đã khẳng định: "Bảo
đảm an sinh xã hội; tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả
năng bảo vệ giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là những đối tượng yếu thế,
dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống”.
Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/11/2012 về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế
(BHYT) giai đoạn 2012 – 2020 đã khẳng định: Bảo hiểm xã hội là chính sách xã
hội quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế
- xã hội.
12
Bảo hiểm xã hội là trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội, vì vậy việc hoàn
thiện chính sách BHXH có vai trò quan trọng trong việc phát triển xã hội ổn định,
an sinh xã hội bảo đảm.
Vai trò của chính sách BHXH đối với an sinh xã hội thể hiện ở các nội dung sau:
Một là, thực hiện chính sách BHXH nhằm ổn định cuộc sống của người lao động,
giúp họ vượt qua khó khăn khi bị ốm đau, bệnh tật hay gặp phải tai nạn lao động.
Hai là, thực hiện tốt chính sách BHXH góp phần ổn định cuộc sống của người
lao động khi hết tuổi lao động hoặc không còn khả năng lao động.
Ba là, thực hiện chính sách BHXH góp phần ổn định và nâng cao năng xuất
lao động, bảo đảm sự bình đẳng của người lao động trong các thành phần kinh tế,
thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển.
Bốn là, BHXH là một công cụ quan trọng góp phần phân phối lại thu nhập
một cách công bằng, hợp lý giữa các tầng lớp dân cư, làm giảm chi ngân sách nhà
nước, bảo đảm an sinh xã hội.
1.2. CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI THEO QUY ĐỊNH CỦA TỔ
CHỨC LAO ĐỘNG QUỐC TẾ (ILO)
Do tính đa dạng và phức tạp của BHXH và để thống nhất các hoạt động
BHXH của các nước, Tổ chức Lao động quốc tế đã có những quy định về các nội
dung của BHXH. Năm 1944, Tổ chức Lao động quốc tế đã nêu ra nguyên tắc của
An sinh xã hội là khuyến khích mở rộng các chế độ BHXH bắt buộc để đảm bảo
các phương tiện sinh sống tối thiểu trong những trường hợp người tham gia BHXH
gặp phải rủi ro.
Năm 1952, Tổ chức lao động quốc tế đã thông qua Công ước 102 về An sinh
xã hội. Đây là Công ước quốc tế có nội dung đầy đủ nhất, quy định những tiêu
chuẩn quốc tế về BHXH, mở ra một cơ cấu thống nhất và có sự phối hợp trong lĩnh
vực này giữa các thành viên của ILO.
Công ước 102 quy định 9 nhánh chế độ chính của hệ thống An sinh xã hội bao
gồm: Chăm sóc y tế; trợ cấp ốm đau; trợ cấp thất nghiệp; trợ cấp tuổi già; trợ cấp tai
nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; trợ cấp gia đình; trợ cấp thai sản; trợ cấp tàn tật;
trợ cấp chôn cất và trợ cấp mất người nuôi dưỡng.
13
Công ước cũng quy định, một quốc gia được gọi là có hệ thống BHXH phải
thiết lập ít nhất 3 chế độ trợ cấp, trong đó ít nhất phải có một trong các chế độ trợ
cấp sau: trợ cấp tuổi già, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tai nạn lao động; trợ cấp tàn
tật; trợ cấp chôn cất và trợ cấp mất người nuôi dưỡng. Các chế độ trợ cấp phải đảm
bảo sự bình đẳng cho mọi thành viên trong xã hội, bình đẳng giữa người nước ngoài
và người trong nước. Nguồn tài chính chủ yếu cho chế độ trợ cấp do sự đóng góp
của các bên tham gia BHXH, Nhà nước có trách nhiệm quản lý chung về BHXH,
bảo đảm sự cân đối giữa các bộ phận trong BHXH. Việc quản lý BHXH phải có đại
diện của người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
1.3. QÚA TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ
HỘI Ở NƯỚC TA
1.3.1. Chính sách BHXH giai đoạn trước năm 1961
Ngay sau khi giành được chính quyền (tháng 8/1945), Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa đã tiếp thu chính sách BHXH nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống
của công chức, viên chức nhà nước. Đặc điểm của giai đoạn này là các cơ quan
quản lý, sử dụng lao động đồng thời là cơ quan thực hiện các chế độ BHXH. Chính
sách BHXH được thể hiện thông qua các Sắc lệnh, như Sắc lệnh 29/SL ngày 12-3-
1947; Sắc lệnh 76/SL ngày 20-5-1950; Sắc lệnh 77/SL ngày 22-5-1950.
Những quy định về chế độ BHXH trong các sắc lệnh trên đây đã góp phần làm
ổn định đời sống của cán bộ, công nhân, viên chức trong thời kỳ đầu của Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh, nền kinh tế nghèo
nàn, lạc hậu nên việc thực hiện các chính sách BHXH trong thời kỳ này còn nhiều
bất cập, hạn chế.
1.3.2. Chính sách BHXH giai đoạn từ 1962 đến 1994
Sau ngày hoà bình lập lại ở miền Bắc, với mục đích cải tiến và thống nhất các
chế độ BHXH hiện hành nhằm cải thiện đời sống của cán bộ, công chức, viên chức
nhà nước, ngày 27 tháng 12 năm 1961 Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 218/CP kèm theo Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với cán bộ, công
nhân, viên chức nhà nước. Đây là Điều lệ tương đối đầy đủ, cụ thể hoá nhiều nội
14
dung về BHXH đối với cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước và phù hợp với điều
kiện kinh tế, xã hội của nước ta thời kỳ này, nó thay thế toàn bộ những quy định
trước đây về BHXH.
Việc tổ chức thực hiện quản lý quỹ BHXH thời kỳ này được giao cho Tổng
Công đoàn Việt Nam (sau này là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam).
Sau ngày hoà bình lập lại (tháng 4/1975), đất nước thống nhất, tình hình kinh
tế, chính trị, xã hội có nhiều thay đổi, một số quy định về BHXH trong Điều lệ tạm
thời ban hành kèm theo Nghị định 218/CP không còn phù hợp cần phải sửa đổi và
ban hành Nghị định mới. Ngày 18/9/1985, cùng với cải tiến chế độ tiền lương, Hội
đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 236/HĐBT về việc bổ sung, sửa đổi chế
độ BHXH cho cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước. Nghị định này bổ sung đầy
đủ hơn, cụ thể hơn các quy định về chế độ BHXH dài hạn cho người lao động làm
việc trong khu vực nhà nước. Chính sách BHXH ban hành lần này có những quy
định ưu đãi, khuyến khích người lao động làm việc tại những vùng sâu, vùng xa,
những nơi nơi còn nhiều khó khăn. Những nội dung sửa đổi của Nghị định này đáp
ứng được nhu cầu đổi mới chính sách BHXH, làm tiền đề cho các đổi mới chính sách
BHXH trong những năm tiếp theo.
Nhìn lại chặng đường hơn 30 năm (từ 1962 - 1994), chính sách BHXH đã đạt
được những thành tựu nhất định, tạo điều kiện để cán bộ, công nhân, viên chức yên
tâm, phấn khởi lao động sản xuất, góp phần giải phóng và xây dựng đất nước. BHXH
cũng góp phần giải quyết hậu quả chiến tranh, hàng vạn cán bộ, công nhân, viên chức
bị suy giảm sức khỏe đã được hưởng chế độ BHXH, ổn định cuộc sống. BHXH đã
khẳng định và bảo vệ những quyền lợi thiết yếu đối với cán bộ, viên chức, quân nhân
trong suốt quá trình làm việc và nghỉ việc khi tuổi cao, sức yếu.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chính sách BHXH thời kỳ này cũng
còn bộc lộ một số tồn tại, yếu kém đặc biệt từ khi Nhà nước thực hiện công cuộc
đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Những tồn tại, yếu kém này bao gồm:
- Chỉ thực hiện chính sách BHXH đối với cán bộ, viên chức nhà nước và lực
15
lượng vũ trang (lực lượng này chỉ chiếm khoảng 10% lực lượng lao động) nên chưa
tạo ra sự bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi xã hội giữa những
người lao động trong các thành phần kinh tế khác nhau và chưa phù hợp với việc
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Người lao động làm việc trong
các khu vực kinh tế ngoài Nhà nước chưa được quan tâm đúng mức. Việc thực hiện
chính sách BHXH như vậy đã tạo ra sự ngăn cách trong việc dịch chuyển lao động
từ khu vực kinh tế nhà nước ra khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và ngược lại.
- Không quy định cụ thể mối quan hệ giữa đóng góp và thụ hưởng theo
nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm là "đóng - hưởng", do đó đã tạo gánh nặng quá lớn
cho ngân sách Nhà nước. Khi Ngân sách Nhà nước phải bao cấp quá nhiều dẫn đến
tình trạng Nhà nước chi trả BHXH cho người lao động không kịp thời, ảnh hưởng
không tốt đến đời sống của người thụ hưởng.
- Việc quản lý chính sách, chế độ BHXH bị phân tán, phần chi về BHXH có
bộ phận dư thừa không thể điều tiết sang bộ phận thiếu được. Quá trình quản lý
BHXH đan xen với các lĩnh vực ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội, phúc lợi xã hội nên
việc giải quyết chế độ BHXH nhiều khi bị chồng chéo, kém hiệu quả. Hoạt động
của các tổ chức BHXH cứng nhắc, bị hành chính hóa, gây ra nhiều phiền hà cho
đơn vị sử dụng lao động và người lao động.
Để chính sách BHXH phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội và
khắc phục được những nhược điểm của chính sách BHXH trong nền kinh tế bao cấp
trước đây, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương đổi mới chính sách BHXH. Chủ
trương này được thể hiện trong Hiến pháp năm 1992: "Nhà nước thực hiện BHXH
đối với công chức và người làm công ăn lương đồng thời khuyến khích các hình
thức BHXH khác đối với người lao động".
Thực hiện chủ trương đó, ngày 22/6/1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
43/CP quy định tạm thời các chế độ BHXH đối với người lao động ở các thành phần
kinh tế. Theo đó, Nhà nước mở rộng đối tượng tham gia đóng góp và hưởng các chế độ
BHXH cho người lao động làm việc ở các thành phần kinh tế khác nhau và quy định rõ
4 chế độ BHXH là: tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất. Nghị định
16
43/CP quy định, nguồn quỹ để chi trả BHXH được hình thành từ sự đóng góp của
người lao động, chủ sử dụng lao động và Nhà nước hỗ trợ.
1.3.3. Chính sách BHXH giai đoạn từ 1995 đến 2006
Tại kỳ họp thứ V Quốc hội khoá IX, Bộ luật Lao động đã được thông qua và
có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1995, trong đó chương XII quy định về BHXH.
Trên cơ sở Luật Lao động Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/CP ngày
26/01/1995 kèm theo Điều lệ Bảo hiểm xã hội thay thế các văn bản quy định về
BHXH đã ban hành trước đây. Ngày 16/02/1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định
19/CP về việc thành lập BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH
ở Trung ương và địa phương thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB-
XH) và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam với những chức năng, nhiệm vụ chính
là tổ chức thu, chi, giải quyết các chế độ BHXH, thực hiện quản lý quỹ, đầu tư, bảo
toàn và phát triển quỹ BHXH.
Điều lệ BHXH mới ban hành đã xác định rõ mục tiêu cơ bản là thực hiện đầy
đủ các chế độ BHXH đã quy định trong Bộ luật Lao động đối với người lao động
khi gặp rủi ro trong quá trình lao động như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp; quyền lợi của người phụ nữ khi sinh con và chăm sóc con; quyền lợi của
người lao động khi hết tuổi lao động.
Chính sách BHXH lần này được ban hành phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế
mới vơi sự phát triển của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Theo đó, người lao
động làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau đều được bình đẳng trước các
chính sách xã hội trong đó có chính sách BHXH. Theo quy định, mọi người lao
động không phân biệt thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng góp và hưởng các
quyền lợi BHXH. Điều lệ mới đã tạo tâm lý yên tâm cho người lao động, tạo sự
bình đẳng cho mọi người lao động. Chính sách BHXH ở nước ta đã tuân thủ nguyên
tắc đóng - hưởng, quỹ BHXH được quản lý tập trung, thống nhất, độc lập, tách ra
khỏi ngân sách nhà nước. Hệ thống các cơ quan BHXH được tổ chức theo ngành
dọc từ Trung ương đến tỉnh, thành phố và các quận, huyện; tách chức năng tổ chức
thực hiện BHXH ra khỏi chức năng quản lý nhà nước về BHXH. Đây là một thay
17
đổi lớn về chính sách và tổ chức thực hiện BHXH, đáp ứng được yêu cầu của công
cuộc cải cách kinh tế - xã hội ở nước ta.
1.3.4. Chính sách BHXH từ 2006 đến nay
Ngày 29 tháng 6 năm 2006, Luật Bảo hiểm xã hội đã được Quốc hội thông
qua và có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007. Luật BHXH ra đời đánh dấu bước phát
triển mới về chính sách BHXH, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước trong thời kỳ mở cửa, hội nhập, đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao
động, tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện chính sách BHXH, hướng đến mục
tiêu BHXH cho mọi người lao động.
Để triển khai Luật BHXH, một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về
BHXH đã được ban hành, đó là: Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006
của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc; Nghị
định số 68/2007/NĐ-CP ngày 19/4/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc đối với quân nhân,
công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân
nhân, công an nhân dân; Nghị định số 86/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 của Chính
phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trên đã được triển khai thực hiện, đảm
bảo quyền lợi cho người lao động khi tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH.
1.4. QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG LUẬT BẢO HIẾM XÃ
HỘI
BHXH là chính sách xã hội rộng lớn, liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa
vụ của phần lớn nguồn lao động. Chính sách BHXH trước năm 2007 được điều
chỉnh chủ yếu trong các dạng văn bản dưới luật. Do sự phát triển của kinh tế - xã
hội nên các mối quan hệ về BHXH, cụ thể là quyền, nghĩa vụ của người lao động,
người sử dụng lao động, các cơ quan và tổ chức phải được quy định trong các văn
bản pháp lý do Quốc hội ban hành, vì vậy việc ban hành Luật để điều chỉnh các
quan hệ trong lĩnh vực BHXH là rất cần thiết.
Xây dựng Luật BHXH là sự thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trước người
18
lao động, trước những người đã, đang và sẽ tham gia cũng như thụ hưởng các chế
độ BHXH, có ảnh hưởng đến an sinh xã hội và sự an toàn của quỹ BHXH cũng như
sự phát triển bền vững của BHXH.
Chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và
xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, đảm bảo an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước là
cơ sở để đề ra quan điểm xây dựng Luật BHXH. Quan điểm đó phải phù hợp với đường
lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước: Mọi người lao động trong xã hội đều có quyền
tham gia và hưởng quyền lợi BHXH, nhất là khi về già; đảm bảo bình đẳng, công bằng
xã hội giữa các thành viên trong xã hội trên nguyên tắc đóng - hưởng
Từ quan điểm nêu trên, BHXH bắt buộc của nước ta được quy định trong Luật
BHXH bao gồm các nguyên tắc sau:
- Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng và có sự
chia sẻ giữa những người tham gia BHXH với các mức độ khác nhau tuỳ theo từng
chế độ.
- Mức đóng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương, tiền công của
người lao động và nằm trong khoảng thu nhập từ mức lương tối thiểu đến 20 lần
lương tối thiểu chung từng thời kỳ.
- Người lao động vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc, vừa có thời gian
đóng BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời
gian đã đóng BHXH (có sự liên thông giữa BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện).
- Quỹ BHXH được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được
sử dụng đúng mục đích và được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần của
BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp.
- Việc thực hiện BHXH phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời
và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH.
1.5. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
1.5.1. Đối tượng áp dụng
Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc bao gồm người lao động và người sử
dụng lao động:
19
- Người lao động là công dân Việt nam, bao gồm: người làm việc theo hợp đồng
lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở
lên; cán bộ, công chức, viên chức; công nhân quốc phòng, công nhân công an; sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ
sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng
lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân; hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội
nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; người làm việc
có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXH bắt buộc.
- Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc bao gồm: cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ
chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp,
hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn,
sử dụng và trả công cho người lao động.
1.5.2. Quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội
Luật BHXH quy định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về BHXH. Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện quản lý nhà nước về BHXH. Các bộ,
cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý
nhà nước về BHXH. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về
BHXH trong phạm vi địa phương theo phân cấp của Chính phủ.
Nội dung quản lý nhà nước về BHXH bao gồm (điều 7 luật BHXH):
- Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chế độ, chính sách BHXH.
- Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về BHXH.
- Tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật về BHXH.
- Tổ chức bộ máy thực hiện bảo hiểm xã hội.
- Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác BHXH.
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BHXH.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về BHXH.
20