Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

QUẢN lý CÔNG tác xã hội hóa GIÁO dục THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐÀ NẴNG
--------

LUẬN VĂN THẠC SĨ
ĐỀ TÀI:

QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC THCS
Ở HUYỆN CHƯ PƯH, TỈNH GIA LAI

Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Ngành:
Mã số:
Khóa:

PGS.TS. Võ Nguyên Du
Phùng Văn Tuấn
Quản lý giáo dục
60.14.01.14
27 – Kon Tum (2013-2015)

Kon Tum, tháng 11 năm 2014


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội hóa giáo dục là một tư tưởng chiến lược được Đảng và Nhà nước ta
xác định ngay từ khi hình thành nền giáo dục cách mạng. Quan điểm đó được
Đảng chỉ đạo xuyên suốt qua đường lối phát triển giáo dục và được khẳng định là
xây dựng mét nền giáo dục “Của dân, do dân, vì dân, được xây dựng trên nguyên


tắc khoa học, dân tộc và đại chúng”. Từ sau các mạng tháng 8 năm 1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ban hành sắc lệnh 146/ SL ngày 10/8/1946, trong đó khẳng
định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Người kêu gọi “Toàn dân tham gia
diệt giặc dốt theo phương châm: Người biết dạy cho người chưa biết… ai còng
phải học”. Người xác định ba nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục nước nhà là
“Đại chúng hóa, dân tộc hóa, khoa học hóa và tôn chỉ phông sù lý tưởng quốc
gia và dân chủ”. từ đó đến nay tư tưởng này đã được Đảng ta khẳng định qua
nhiều văn kiện.
Ngày 11 tháng 01 năm 1979, bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 14-NQ/
TW về cải cách giáo dục và đã xác định phương châm “ Phối hợp những cố gắng
đầu tư của Nhà nước với sự đóng góp của nhân dân, của các ngành, các cơ sở
sản xuất và sức lao động của thầy trò trong việc xây dựng trường sở, phòng thí
nghiệm, xưởng trường, vườn trường”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII khẳng
định: “Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Mọi
người đi học, học thường xuyên, học suốt đời. Phê phán thói lười học. Mọi người
chăm lo cho giáo dục. Các cấp ủy và tổ chức kinh tế xã hội, các gia đình và cá
nhân đều có trách nhiệm tích cực góp phần phát triển sự nghiệp Giáo dục - Đào
tạo. Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, tạo nên
môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, trong cộng đồng, trong tập thể ”.
Đến Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định “Nhà nước ta
dành tỷ lệ thích đáng, kết hợp đẩy mạnh xã hội hóa phát triển giáo dục - đào tạo.


Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho giáo dục - đào tạo. Đẩy
mạnh hợp tác quốc tế về phát triển giáo dục - đào tạo”.
Như vậy xã hội hóa giáo dục chính là tạo điều kiện cho toàn dân được tham
gia học tập và học tập suốt đời, toàn dân chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục và
toàn dân làm giáo dục theo tinh thần giáo dục là sự nghiệp của Đảng, của Nhà
nước và của toàn dân.

Theo quan điểm và định hướng chung của Đảng và Nhà nước ta, Xã hội hóa
giáo dục được thực hiện trên nhiều lĩnh vực công tác khác nhau, có liên quan đến
nhiều hoạt động, nhiều ban ngành, đoàn thể, các tầng lớp nhân dân và các tổ chức
xã hội nhằm huy động mọi nguồn lực để xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo
dục. Một trong những công tác cấp thiết của xã hội hóa giáo dục hiện nay là công
tác xã hội hóa giáo dục để xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia ở các bậc học, cấp
học; bởi vì trường học, với cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và
học sinh là cơ sở ban đầu, là yếu tố quyết định chất lượng đào tạo của sự nghiệp
giáo dục.
Trong những năm qua, công tác xã hội hóa giáo dục để xây dựng trường đạt
chuẩn quốc gia ở huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai đã được nhân dân đồng tình
hưởng ứng và thực sự đi vào cuộc sống. Quy mô giáo dục và đào tạo không
ngừng phát triển. Nhiều trường học đã được tầng hóa, kiên cố hóa, khang trang,
sạch đẹp. Nhiều trường Mẫu Giáo, Mầm Non, Tiểu học và THCS đạt chuẩn quốc
gia đã xuất hiện và phát triển. Số lượng trường THCS đạt chuẩn quốc gia ở huyện
Chư Pưh, tỉnh Gia Lai hiện nay có thể nói là có bước khởi đầu tốt đẹp. Tuy nhiên
số lượng trường THCS đạt chuẩn còn quá ít so với tổng số trường THCS trong
huyện nói riêng và trong toàn tỉnh nói chung. Đa số các trường THCS đạt chuẩn
quốc gia đều nằm ở các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội tương đối phát triển và
có nhiều thuận lợi. Số trường còn lại đang gặp rất nhiều khó khăn trong công tác
xây dựng và phát triển giáo dục, nhất là công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc
gia. Vì vậy để việc xây dựng trường THCS đạt chuẩn quốc gia ở huyện Chư Pưh,


tỉnh Gia Lai trong những năm tới đạt được kết quả tốt hơn cần phải có những biện
pháp tích cực hơn. Một trong những biện pháp tích cực nhất đó là thực hiện tốt
biện pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục để xây dựng trường THCS đạt
chuẩn quốc gia.
Công tác xã hội hóa giáo dục để xây dựng trường THCS đạt chuẩn quốc gia
ở huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai là sự đòi hỏi bức thiết để đẩy mạnh sự phát triển

giáo dục theo tình hình thực tế của địa phương hiện nay. Bởi lẽ, điều kiện kinh tế
xã hội của huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai đang còn nhiều khó khăn, vì vậy cần phải
có các biện pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục thật tốt để huy động mọi
nguồn lực tham gia xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục nói chung và
trường THCS đạt chuẩn quốc gia nói riêng.
Thực tế hiện nay, nhiều người nhận thức chưa đúng, thậm chí còn hiểu sai
về khái niệm và bản chất của xã hội hóa giáo dục, họ cho rằng xã hội hóa giáo
dục chỉ là đóng góp các loại tiền cho giáo dục, chỉ là sự huy động vật lực mà thôi.
Ở một số địa phương, cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể chưa
hiểu được ý nghĩa to lớn và vai trò vô cùng quan trọng của công tác xã hội hóa
giáo dục, còn coi đó là trách nhiệm của nhà trường.
Thực trạng của giáo dục huyện Chư Pưh hiện nay chưa đáp ứng được sự
phát triển của đất nước. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới giáo dục. Muốn làm cho
giáo dục trở lại với bản chất xã hội đích thực của nó và phù hợp với tình hình
thực tiễn của đất nước ta phải làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, cần huy động
sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, của nhân dân vì giáo dục là sự nghiệp của
toàn Đảng, toàn dân, của mọi nhà, mọi người. Làm sao cho mỗi con người đều
được thụ hưởng thành quả từ giáo dục và ngược lại mọi người cũng phải có trách
nhiệm chăm lo cho giáo dục, đóng góp sức lực, trí tuệ, tiền của cho giáo dục.
Theo các văn kiện và nghị quyết của Đảng ta về xã hội hóa giáo dục, thì việc
xây dựng các biện pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục để xây dựng trường
THCS đạt chuẩn quốc gia ở huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai hiện nay là sự phù hợp


và đáp ứng các chủ trương của Đảng và Nhà nước. Trong Quyết định số
20/2005/QĐ-BGD & ĐT ngày 24 tháng 6 năm 2005 về việc phê duyệt Đề
án “Quy hoạch phát triển xã hội hóa giáo dục giai đoạn 2005 - 2010” của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo có ghi: “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, thực
hiện liên kết các lực lượng xã hội (Mặt trận Tổ quốc, Tổng Liên Đoàn Lao Động
Việt Nam, Đoàn TN CS HCM, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân,

Hội Khuyến học, Hội Cựu chiến binh, Ban đại diện cha mẹ học sinh, …) để tạo ra
ảnh hưởng tích cực đối với giáo dục và đào tạo, tập hợp các lực lượng xã hội
tham gia xây dựng môi trường nhà trường từ cơ sở hạ tầng, cảnh quan, nề nếp kỷ
cương dạy - học đến các mối quan hệ bên trong nhà trường và quan hệ nhà trường
với xã hội, hỗ trợ nhà trường tổ chức các hoạt động ngoại khóa … Củng cố và
phát triển diễn đàn Đại hội giáo dục các cấp để thu thập ý kiến đóng góp của mọi
lực lượng xã hội, thể hiện trách nhiệm của xã hội đối với sự nghiệp phát triển
giáo dục.”
Với những lý do nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Quản lý công tác xã
hội hóa giáo dục THCS ở huyện Chư Pưh tỉnh Gia Lai”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề xuất các biện pháp quản lý công tác xã hội hoá giáo dục ở
các trường THCS huyện Chư Pưh tỉnh Gia Lai để thực hiện quan điểm phát triển
Giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội.
Nâng cao kết quả giáo dục THCS và xây dựng xã hội học tập.
3. Khách thể, đối tượng và giới hạn nghiên cứu:
3.1. Khách thể nghiên cứu: Quá trình quản lý công tác xã hội hoá giáo dục
THCS của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý công tác xã hội hoá giáo dục
THCS của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai.
3.3. Giới hạn nghiên cứu:


+ Nội dung nghiên cứu: Đề xuất một số biện pháp quản lý của Phòng Giáo
dục và Đào tạo để nâng cao kết quả quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở các
trường THCS trên địa bàn nghiên cứu.
+ Phạm vi khảo sát: Quá trình quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở 07
trường THCS huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai.

4. Giả thuyết khoa học:

Quá trình quản lý công tác xã hội hoá giáo dục các trường THCS của
Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai trong thời gian qua đã
thu được những thành quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên trong quá trình quản lý này
còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế nhất định.
Nếu xác định được cơ sở lý luận và đánh giá đúng thực trạng quản lý công
tác xã hội hoá giáo dục các trường THCS huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai thì có thể
đề xuất các biện pháp quản lý quá trình này của Phòng Giáo dục và Đào tạo một
cách hợp lý và khả thi góp phần thúc đẩy sự phát triển giáo dục THCS trên địa
bàn nghiên cứu trong hoàn cảnh hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về xã hội hoá giáo dục THCS và quản lý của
Phòng Giáo dục và Đào tạo đối với công tác xã hội hoá giáo dục ở bậc THCS.
5.2. Nghiên cứu đánh giá thực trạng quản lý của Phòng Giáo dục và Đào
tạo huyện về công tác xã hội hoá giáo dục các trường THCS huyện Chư Pưh, tỉnh
Gia Lai.
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý của Phòng Giáo dục và Đào tạo
huyện về công tác xã hội hoá giáo dục bậc THCS huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai.
6. Phương pháp nghiên cứu:
6.1. Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết


- Phương pháp đọc, nghiên cứu tài liệu
- Sử dụng các thao tác của phương pháp logic: phân tích, tổng hợp, khái
quát hoá, trừu tượng hoá
6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn
- Phương pháp điều tra;
- Phương pháp chuyên gia;
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm;

- Phương pháp khảo nghiệm.
6.3. Các phương pháp sử dụng số liệu:
- Phương pháp thống kê toán học;
- Phương pháp mô hình hoá.
7. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn dự kiến được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của quản lý công tác xã hội hóa giáo dục
các trường THCS huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai.
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội hóa giáo dục và quản lý công tác xã
hội hóa giáo dục các trường THCS của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Chư
Pưh, tỉnh Gia Lai.
Chương 3: Biện pháp quản lý của Phòng Giáo dục và Đào tạo về công tác
xã hội hóa giáo dục các trường THCS huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai.


CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC
Ở BẬC TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề:
GD là sản phẩm của xã hội, đồng thời là một trong những nhân tố đánh dấu
nấc thang trình độ văn minh của các thời đại trong lịch sử. Sự tồn tại và phát triển
của GD chịu sự chi phối của sự phát triển kinh tế - xã hội, và ngược lại với chức
năng của mình, GD có vai trò hết sức to lớn trong việc tái sản xuất sức lao động
cho xã hội; khơi dậy, thức tỉnh và phát huy tiềm năng sáng tạo của mỗi con người,
tạo ra môi trường cho sự phát triển kinh tế xã hội. Chính vì điều đó mối quan hệ
biện chứng giữa GD và cộng đồng xã hội thường xuyên được diễn ra cùng với
quá trình phát triển của xã hội loài người.
Với tầm quan trọng như vậy, ngày nay GD luôn được coi là quốc sách hàng
đầu của nhiều quốc gia. Việc quan tâm, đầu tư, huy động mọi nguồn lực và mọi

điều kiện cho phát triển GD là sách lược lâu dài của nhiều quốc gia trên thế giới.
Mặc dù bản chất của GD ở các nước có khác nhau nhưng đều cho thấy XHH sự
nghiệp GD là cách làm phổ biến, kể cả ở những nước có nền công nghiệp hiện đại
- kinh tế phát triển cao.
XHHGD không phải là vấn đề hoàn toàn mới, nó có nguồn gốc lâu đời và
là bước phát triển của một chủ trương phát triển GD được thực hiện từ nhiều năm
qua. Với tư tưởng ''lấy dân làm gốc'', ''Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng'' đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo, là sức mạnh tiềm tàng cho sự
phát triển nền GD nước nhà.
Dưới thời phong kiến và Pháp thuộc, giai cấp thống trị và thực dân chỉ mở
rất ít trường học, chủ yếu trường học được mở ra cho con em quý tộc phong kiến


và con nhà giàu. Con em lao động không được chính quyền quan tâm, người dân
muốn được học phải tự lo dưới hình thức học ở trường tư do các thầy đồ tự mở
lớp hoặc do dân tự tổ chức nên hầu hết phải chịu cảnh mù chữ. Cách mạng tháng
tám thành công là tiền đề tiên quyết để Đảng ta thực hiện các quan điểm ''giáo
dục là sự nghiệp của quần chúng''. Ngay từ những ngày đầu của nước Việt Nam
độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra ''Lời kêu gọi chống nạn thất học''. Trong lời
kêu gọi, Người đã nêu rõ phương châm, nhiệm vụ chống nạn thất học, chống nạn
mù chữ ''Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ...
những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết, vợ chưa biết chữ thì
chồng bảo, em chưa biết chữ thì anh bảo, cha mẹ chưa biết thì con cái bảo, người
ăn người làm chưa biết chữ thì chủ nhà bảo; các người giàu có thì mở lớp học tư
gia dạy cho những người chưa biết chữ'' {25}. Hưởng ứng lời kêu gọi chống nạn
thất học của Hồ Chủ Tịch, cả nước đã trở thành một xã hội học tập. Tiêu biểu, sôi
động nhất đó là phong trào bình dân học vụ từ thành thị đến nông thôn, từ miền
xuôi đến miền ngược, từ hậu phương cho đến nơi tiền tuyến...người người đi học,
nhà nhà đi học; trường lớp chỉ là những nhà, lán đơn sơ. Tư tưởng giáo dục ''ai
cũng được học hành'' của Hồ Chí Minh đã thực sự đi vào cuộc sống.

Đất nước hoàn toàn thống nhất, cả hai miền Nam, Bắc cùng thực hiện một
hệ thống giáo dục và đã đạt được những thành quả nhất định. Song do cơ chế tập
trung, quan liêu bao cấp, nền giáo dục của chúng ta không khai thác triệt để bài
học phát huy sức mạnh của toàn dân tộc để phát triển GD. Thay vì thực hiện sự
''quản lý GD của nhà nước'', chúng ta đã ''nhà nước hoá GD'' làm cho GD rơi vào
thế bị động, không thu hút được các nguồn lực của toàn xã hội tham gia vào các
hoạt động GD. Tình trạng cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục xuống cấp, lạc hậu, sự
phát triển của giáo dục không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của
đất nước, chưa bắt kịp xu thế phát triển chung của thời đại.
Sự định hướng mang tính cách mạng và năng động đối với nền kinh tế
quốc gia, tất yếu đặt ra những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển giáo dục.


Đòi hỏi sự nghiệp giáo dục và đào tạo cũng phải đổi mới cách nhìn nhận về vị trí,
vai trò của mình trong công cuộc đổi mới đất nước. Bên cạnh đó, việc đa dạng
hoá phát triển GD lại một lần nữa ngày càng phát huy ưu thế của nó. Việc ''huy
động toàn xã hội làm GD, động viên các tầng lớp nhân dân cùng góp sức xây
dựng nền GD quốc phòng toàn dân dưới sự quản lý của nhà nước'' đã trở lên vô
cùng bức thiết. Đảng ta đã khẳng định ''xã hội hoá'' là một trong những quan điểm
để hoạch định hệ thống các chính sách xã hội. Nghị quyết lần 2 Ban chấp hành
trung ương Đảng khóa VIII (tháng 12-1996) chỉ rõ: ''Giáo dục và đào tạo là sự
nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân'' [4]. Đến Nghị quyết TW 6 khoá IX,
Đảng ta khẳng định: ''Đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp giáo dục, xây dựng xã hội
học tập, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn dân, là giải pháp quan trọng để tiếp tục
phát triển giáo dục'' [5]. Đặc biệt, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
(tháng 4-2006) đã chỉ rõ: ''Thực hiện xã hội hoá giáo dục. Huy động nguồn lực
vật chất và trí tuệ của xã hội tham gia chăm lo sự nghiệp giáo dục. Phối hợp chặt
chẽ giữa ngành giáo dục với các ban, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội
- nghề nghiệp...để mở mang giáo dục, tạo điều kiện học tập cho mọi thành viên
trong xã hội'' [6].

Để thực hiện chủ trương XHH, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 90/CP
ngày 21/8/1997 về Phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo
dục, y tế, văn hoá; Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về chính sách XHH, nhằm
khuyến khích, huy động các nguồn lực trong nhân dân, trong các tổ chức thuộc
mọi thành phần kinh tế để phát triển các hoạt động XHH lĩnh vực giáo dục, y tế,
văn hoá, thể thao. Ngày 18/4/2005 Chính phủ ban hành Nghị quyết số
05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh XHH các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục
thể thao [20]. Bộ GD&ĐT ban hành một số văn bản hướng dẫn thực hiện công
tác XHHGD; xây dựng đề án ''Quy hoạch phát triển xã hội hoá giáo dục giai đoạn
2005-2010'' [14] vv...


Trong thời kỳ đổi mới, cùng với các Văn kiện, Nghị định, Thông tư, Nghị
quyết của Đảng, Nhà nước về công tác GD; các cơ quan Liên Bộ, các nhà khoa
học, nhà quản lý giáo dục (QLGD) đã họp bàn và nghiên cứu về vấn đề XHHGD.
Nguyên Bộ trưởng Phạm Minh Hạc đã khẳng định: ''Xã hội hoá công tác giáo dục
là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục, một con đường
phát triển giáo dục nước ta''[35;16]; tác giả Phạm Tất Dong cũng nhấn mạnh:
Phát triển giáo dục theo tinh thần xã hội hoá và đề cao việc huy động toàn dân
vào sự nghiệp cách mạng, coi đó là tư tưởng chiến lược của Đảng. Tư tưởng đó
được tổng kết lại không chỉ là một bài học kinh nghiệm tầm cỡ lịch sử, mà trở
thành một nguyên lý cách mạng của Việt Nam.
Vấn đề XHHGD cũng đã được nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn. Có
nhiều tác giả đã quan tâm nghiên cứu về XHHGD như nhóm tác giả Bùi Gia
Thịnh, Võ Tấn Quang, Nguyễn thanh Bình trong cuốn "Xã hội hoá giáo dục nhận
thức và hành động". Các nhà nghiên cứu Nguyễn Mậu Bành, Thái Duy Tuyên,
Đào Huy Ngân cũng đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác
XHHGD. Bên cạnh đó còn có nhiều đề tài, luận văn đã đề cập và nêu ra nhiều
giải pháp công tác XHHGD như: Luận văn của tác giả Phạm Thuý Hiền với đề
tài: ''vấn đề xã hội hoá giáo dục mầm non với sự nghiệp phát triển giáo dục'';

Luận văn Thạc sĩ của Trần Hồng Diễm về ''Biện pháp tăng cường công tác xã hội
hoá sự nghiệp giáo dục mầm non trên địa bàn thành phố Bắc Ninh''....
1.2. Các khái niệm chính của đề tài
1.2.1. Giáo dục
Giáo dục (tiếng Anh: education) theo nghĩa chung là hình thức học tập theo
đó kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục
thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông qua
tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà người ta suy


nghĩ, cảm nhận, hay hành động đều có thể được xem là có tính giáo dục. Giáo
dục thường được chia thành các giai đoạn như giáo dục tuổi ấu thơ, giáo dục tiểu
học, giáo dục trung học, và giáo dục đại học.
Giáo dục với tư cách là một ngành khoa học không thể tách rời những
truyền thống giáo dục từng tồn tại trước đó. Trong xã hội, người lớn giáo dục
người trẻ những kiến thức và kỹ năng cần phải thông thạo và cần trao truyền lại
cho thế hệ tiếp theo. Sự phát triển văn hóa, và sự tiến hóa của loài người, phụ
thuộc vào lề lối trao truyền tri thức này. Ở những xã hội tồn tại trước khi có chữ
viết, giáo dục được thực hiện bằng lời nói và thông qua bắt chước. Những câu
chuyện kể được tiếp tục từ đời này sang đời khác. Rồi ngôn ngữ nói phát triển
thành những chữ và ký hiệu. Chiều sâu và độ rộng của kiến thức có thể được bảo
tồn và trao truyền gia tăng vượt bậc. Khi các nền văn hóa bắt đầu mở rộng kiến
thức vượt quá những kỹ năng cơ bản về giao tiếp, đổi chác, kiếm ăn, thực hành
tôn giáo, v.v..., giáo dục chính quy và việc đi học cuối cùng diễn ra.
1.2.2. Quản lý
Trải qua các thời kỳ phát triển của xã hội loài người, từ nền văn minh mông
muội, đến nền văn minh lúa nước, nền văn minh công nghiệp và hiện nay xã hội
loài người đang bước vào nền văn minh tri thức thì hoạt động quản lý càng trở lên
phổ biến và tiếp tục khẳng định vai trò của mình trong các hoạt động của đời sống

con người.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về khoa học quản lý tùy theo các quan điểm
tiếp cận:
Nói đến hoạt động quản lý người ta hay nhắc đến ý tưởng sâu sắc của K.
Mác (1818-1883): “Một nghệ sỹ vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc
thì cần nhạc trưởng”.


Theo H. Fayor (1841-1925), tác giả của thuyết tổng quát, định nghĩa như
sau: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các
hoạt động: kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra” [14].
Theo M.P Follett (1868- 1933), đại diện của thuyết hành vi trong quản lý
cho rằng: “Quản lý là quá trình động, liên tục, kế tiếp nhau chứ không tĩnh tại.
Bởi một vấn đề đã được giải quyết, thì trong giải quyết đó, người quản lý sẽ phải
đương đầu với những vấn đề mới nảy sinh” [14].
Theo quan điểm chính trị xã hội: Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ
chức, có định hướng của chủ thể (người quản lý, người tổ chức quản lý) lên
khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế...bằng
một hệ thống luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện
pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng.
Các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc đã đưa ra khái niệm:
“Hoạt động quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận
dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và
kiểm tra” [13, tr 9]
Từ các định nghĩa chúng ta có thể hiểu như sau: Quản lý là các tác động có
định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản
lý (người bị quản lý)- trong một tổ chức- nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt
được mục đích của tổ chức”. Trong giáo dục nhà trường đó là tác động của người
quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và các lực lượng khác nhằm thực hiện hệ
thống các mục tiêu giáo dục.

1.2.3. Biện pháp
Biện pháp là cách thức, phương pháp , cách giải quyết một vấn đề nào đó
của chủ

thể, chủ thể chịu trách nhiệm tháo gỡ, giải toả khách thể quản lý vận

động và phát triển theo những định hướng và mục tiêu đã định. Tuỳ theo tính chất


và mức độ của khách thể được quản lý mà chủ thể quản lý có những biện pháp
chiến lược lâu dài hoặc những biện pháp có tính tình thế nhất thời, thời kỳ, giai
đoạn.
Biện pháp quản lý XHH GDTHCS là các nội dung, cách thức tiến hành,
giải quyết cụ thể của chính quyền, cơ quan quản lý giáo dục, cán bộ quản
lý...nhằm tác động làm biến đổi các nhân tố trong kết cấu của giáo dục THCS,
vận hành và phát triển đạt được mục tiêu đề ra theo đúng đường lối, chủ trương
của Đảng và Nhà nước.
Các biện pháp quản lý XHH GDTHCS không thể là ý tưởng chủ quan,
được đề ra tuỳ tiện, duy ý chí, mà biện pháp giải quyết phải dựa trên sự phân tích,
hoàn cảnh cụ thể, dựa trên mâu thuẫn nội tại, những bước đi trệch hướng của sự
phát triển. Tìm ra những nguyên nhân chủ quan và khách quan ảnh hưởng, cản trở
tiến trình vận hành của các cơ sở GDTHCS trong việc thực hiện mục tiêu, kế
hoạch.đặt ra. Đảm bảo các biện pháp quản lý XHHGD thực sự khoa học và cách
mạng
1.2.4. Xã hội hóa
Xã hội hoá là một khái niệm của nhân loại học và xã hội học, được hiểu
theo hai nghĩa:
Là sự tham gia rộng rãi của cộng đồng xã hội vào một số hoạt động mà
trước đó chỉ có một ngành, một đơn vị chức năng nhất định thực hiện (ví dụ: Xã
hội hoá giáo dục, xã hội hoá y tế...).

Ở nghĩa này Côlin Fasen đã chỉ rõ: Xã hội hoá là một quá trình động viên
mọi tầng lớp nhân dân tham gia tích cực và chủ động vào một lĩnh vực xã hội nào
đó, huy động hợp lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của Nhà nước và của
nhân dân nhằm đạt được mục tiêu phát triển xã hội.
Xã hội hoá dùng để chỉ quá trình chuyển biến từ con ngƣời sinh vật sang
con người xã hội. Ví dụ quan niệm của G.En Daweit cho rằng: Xã hội hoá được


hiểu chung như là một quá trình biện chứng, trong đó mỗi người với tư cách là
một thành viên của xã hội trở nên có năng lực hành động trong xã hội và mặt
khác, thông qua quá trình này duy trì và tái sản xuất xã hội.
Xã hội hoá là một quá trình thông qua đó con người hình thành nên tính
cách của mình, học được cách ứng xử trong một xã hội hay một nhóm. Nói cách
khác, chính là quá trình con người sinh vật học hỏi để trở thành con người xã hội.
Như vậy, xã hội hoá bắt đầu từ khi con người ta sinh ra và chỉ kết thúc khi con
người không còn tồn tại.
Nhờ quá trình xã hội hoá, rất hiếm khi chúng ta phải giải đáp ý nghĩa của
các hành vi trong những tiếp xúc xã hội thông thường - đối với chúng ta, hầu hết
mọi hành động dường như hoàn toàn dễ hiểu vào thời điểm chúng xảy ra – bởi vì
chúng ta đã học được các quy luật mà người khác cũng đang phải tuân thủ. Nói
cách khác, chúng ta có thể dự đoán cái gì đang xảy ra trong phần lớn các trường
hợp do ý thức rằng những quy luật sẽ phải tuân theo. Ví dụ, chúng ta luôn quen
với việc bác sỹ trong bệnh viện phải mặc áo blouse trắng, cảnh sát phải mặc quân
phục, và nếu điều đó không xảy ra sẽ khiến chúng ta rất ngạc nhiên. Bên cạnh đó,
chúng ta trông đợi mọi cá nhân trong các trường hợp cụ thể phải thực hiện đúng
vai trò của mình.
1.2.5. Xã hội hoá giáo dục
Khái niệm XHHGD được hiểu từ ý nghĩa thứ nhất của xã hội hoá. Đề cập
đến ý nghĩa này, tháng 10 năm 1998, Hội thảo quốc gia xây dựng chiến lƣợc vận
động xã hội cho chƣơng trình nƣớc sạch và vệ sinh môi trường do Bộ Y tế Unicef tổ chức, cho rằng: Xã hội hoá là một quá trình tập hợp tất cả các liên minh

xã hội nhằm nâng cao nhận thức và nhu cầu của người dân về một chương trình
phát triển trong một lĩnh vực nhất định để hỗ trợ cho việc cung ứng các nguồn lực
và dịch vụ và để tăng cường sự tham gia của cộng đồng một cách tự lực và bền
vững .


GD được coi như là một lĩnh vực đặc thù của đời sống xã hội, nó vừa nằm
trong lĩnh vực thuộc hình thái ý thức xã hội, kiến trúc thượng tầng, vừa nằm trong
các mối quan hệ xã hội, quan hệ sản xuất thuộc hạ tầng cơ sở. Sự tồn tại và phát
triển của GD chịu sự chi phối của sự phát triển kinh tế-xã hội và ngược lại, với
chức năng của mình, GD có vai trò hết sức to lớn trong việc tái sản xuất sức lao
động xã hội; khơi dậy, thức tỉnh và phát huy tiềm năng sáng tạo của mỗi con
người, tạo ra môi trường cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
XHHGD thực chất là xã hội hoá các hoạt động GD, XHH sự nghiệp giáo
dục. XHH sự nghiệp giáo dục là quá trình hướng mọi hoạt động giáo dục tham
gia vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời xã hội tiếp nhận GD như là
công việc của chính mình và của mọi cá nhân, các tổ chức đoàn thể, các cấp
chính quyền đều có trách nhiệm tham gia. Có thể nói một cách khái quát: Xã hội
hoá giáo dục là một quá trình mà cả cộng đồng và xã hội cùng tham gia vào giáo
dục. Trong đó mọi tổ chức ,gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự
nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng
môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn.
XHHGD, thuật ngữ này cho dù ở cấp độ nào đó đồng nghĩa với thuật ngữ
''xã hội học tập''. hai thuật ngữ này lần đầu tiên xuất hiện trong báo cáo của
UNESCO có tựa đề ''Học để tồn tại; thế giới giáo dục hôm nay và ngày mai''. Nội
dung của nó bao gồm hai khía cạnh song hành, quan hệ mật thiết với nhau. Thứ
nhất: Mọi tổ chức, mọi tập thể, mọi cá nhân theo khả năng của mình đều có thể
cung ứng cơ hội học tập cộng đồng. Thứ hai: Mọi ngƣời dân trong cộng đồng đều
có thể tận dụng cơ hội để có thể có cơ hội học tập và tham gia phát triển giáo dục
cộng đồng, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân.



XHHGD không phải là một giải pháp tình thế nhất thời chỉ được tổ chức
thực hiện trong một thời gian nhất định mà là một tư tưởng cách mạng chiến lược
lâu dài. Điều 12, Luật giáo dục 2005 ghi rõ: Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội
học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân; thực hiện đa dạng hoá các loại
hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để
tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục.
Bản chất xã hội của XHHGD là tổ chức thực hiện xây dựng một nền GD xã
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Giảm bớt được gánh nặng và sự ''khoán trắng''
về đầu tư ngân sách cho GD. Bên cạnh đó XHHGD chính là ''giáo dục cho tất cả
mọi người; tất cả mọi ngƣời cho sự nghiệp GD'', đó là đưa GD gắn với xã hội, với
cộng đồng; GD phục vụ mục tiêu xã hội, phục vụ cộng đồng. Cơ sở tư duy của
XHHGD là đặt GD vào đúng vị trí của nó. GD là bộ phận không thể tách rời của
hệ thống xã hội. GD cùng với khoa học công nghệ là động lực phát triển kinh tế xã
hội.
Nội dung hoạt động XHHGD được Đảng, Nhà nước đề cập hết sức phong
phú, như từ việc huy động các LLXH đầu tư các nguồn lực bao gồm vật lực, tài
lực...; tham gia vào quá trình đa dạng hoá các loại hình trường, lớp, các loại hình
học tập; tạo lập và đẩy mạnh phong trào học tập rộng khắp trong xã hội, mọi thành
viên trong xã hội, không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, chỗ đứng trong xã hội đều
được học, học thƣờng xuyên, học suốt đời; huy động các LLXH tham gia xây
dựng môi trường GD lành mạnh và QLGD có hiệu quả. Quá trình này thể hiện tính
chất dân chủ và bình đẳng của nền GD nƣớc ta. Sự gắn kết giữa 3 môi trường
trong GD: Nhà trường - gia đình - xã hội, làm cho mọi người, mọi tổ chức chính trị
- xã hội, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và mọi cá nhân trong xã hội nhận
thức và tổ chức thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong sự nghiệp phát triển
GD và QLGD. Xây dựng môi trường GD lành mạnh, đổi mới cơ chế QLGD sẽ là
những biện pháp hữu hiệu để chống lại 4 tiêu cực trong ngành GD hiện nay, bao
gồm: Tiêu cực trong thi cử; bệnh thành tích trong giáo dục; học sinh ngồi ''nhầm

lớp'' và vi phạm đạo đức nhà giáo.
17


Chủ trương XHHGD của Đảng và Nhà nước đã và đang thu hút được sự
quan tâm nghiên cứu của các Vụ, Viện, các Ban ngành của Bộ GD&ĐT và các ban
ngành có liên quan. Nhiều chuyên gia có tâm huyết đã có những bài viết, công
trình nghiên cứu xung quanh vấn đề XHHGD; Nguyên Bộ trưởng Phạm Minh Hạc
trong cuốn Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI đã khẳng định: Sự
nghiệp giáo dục không phải chỉ là của Nhà nước mà là của toàn xã hội, mọi người
cùng làm giáo dục, Nhà nước và xã hội, trung ương và địa phương cùng làm giáo
dục.
Chuyên gia Nguyễn Trần Bạt trong bài ''Xã hội hoá giáo dục'', sau khi nêu
rõ: XHHGD là tinh thần, là nội dung quan trọng nhất của cải cách giáo dục, bảo
đảm sự thành công của cải cách giáo dục, tác giả đã khẳng định: XHHGD có nghĩa
là Nhà nước tạo ra không gian xã hội, pháp luật và chính trị cho việc hình thành
một khu vực GD mà ở đấy ai cũng có quyền đóng góp cho sự nghiệp GD, thực
hiện sự cạnh tranh về chất lượng GD, tức là GD phải thuộc về xã hội. Tác giả còn
đề cập và nhấn mạnh: XHHGD không chỉ là đa dạng hoá hình thức và các nguồn
đầu tư cho GD&ĐT, mà quan trọng nhất là đa dạng hoá nội dung hay đa dạng hoá,
hiện đại hoá chương trình giáo dục thích ứng với những đòi hỏi của xã hội.
Như vậy, XHHGD là một tư tưởng chiến lược của Đảng và Nhà nước, bản
thân tư tưởng đó qua mỗi giai đoạn được phát triển, mở rộng phong phú cả về hình
thức và nội dung. XHHGD là một nhân tố mới đã và đang phát huy sức mạnh đối
với sự nghiệp phát triển GD, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho sự nghiệp
CNH-HĐH đất nƣớc. Chính XHH công tác GD lại tạo ra những điều kiện, những
tác nhân làm xuất hiện những nhân tố mới trong quá trình đi lên của phong trào
GD. Những kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn thực hiện XHHGD, trên cơ sở đó
nâng cao sự đổi mới tư duy GD, giải quyết kịp thời những vấn đề đặt ra của sự
nghiệp phát triển GD&ĐT.

Trong thời đại ngày nay, không chỉ riêng ở Việt Nam mà nhiều nước trên thế
giới, kể cả những nước đang phát triển cũng như các nƣớc có nền kinh tế phát triển
đều nhấn mạnh chính sách phát triển dựa vào GD&ĐT, dựa vào khoa học và công
18


nghệ. Có thể nói, tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và truyền thống
văn hoá giáo dục mà mỗi nước có những đặc điểm về cơ cấu hệ thống, loại hình
đào tạo, phân chia thời gian các bậc học, yêu cầu chất lượng của người học ở các
cấp học khác nhau. Nhưng nhìn chung, hệ thống GD các nước đã và đang phát
triển theo hướng hiện đại hoá và xu hướng hội nhập GD&ĐT và kinh tế xã hội
giữa các nước, khu vực và toàn thế giới.
Ở Indonexia: Ngoài hệ thống GD nhà trường, họ còn coi trọng các loại hình
GD ngoài nhà trường; ở gia đình; xã hội; các doanh nghiệp; các trường Đại học mở
với nhiều chương trình đa dạng phục vụ phát triển cộng đồng và mọi tầng lớp xã
hội.
Thái Lan: Chính phủ Vương quốc Thái Lan đã và đang thực hiện chính sách
đa dạng hoá các loại hình đào tạo, đào tạo nghề nghiệp - kỹ thuật, tổ chức nhiều
loại hình nghề nghiệp chính quy và phi chính quy để thích ứng nhu cầu nhân lực
của thị trường lao động trong quá trình CNH đất nƣớc.
Đối với Trung quốc: Chính phủ Trung Quốc đặt ra chiến lược: Làm cho đất
nước giàu mạnh thông qua khoa học và GD. Với phương châm GD phải thực hiện
ba điều hướng tới đó là: Giáo dục phải hướng tới hiện đại hoá, hướng tới thế giới,
hướng tới tương lai. Chính sách phát triển GD của Trung Quốc hiện nay có thể
khái quát: Đầu tư chi phí cao cho GD phải được coi là chính sách quốc gia hàng
đầu, đầu tư cho GD phải được xem như đầu tư phát triển cho sản xuất. Phát triển
GD chuyên nghiệp theo hướng đáp ứng nhu cầu nhân lực đủ chuẩn, phát triển GD
theo hoàn cảnh địa phương. Đảm bảo sự tham gia rộng rãi của cộng đồng vào việc
QLGD và đầu tư cho GD.
Nhật Bản: Đã đạt đƣợc những thành tựu ''khổng lồ'' về mặt kinh tế - khoa

học công nghệ, chủ yếu là do nước Nhật đã phát huy cao độ, mạnh mẽ nội lực của
toàn dân tộc, thông qua chính sách GD&ĐT. Từ năm 1971, Nhật Bản đã thành lập
Bộ Giáo dục và thành lập hệ thống GD mới, hệ thống GD đã đề ra chính sách: Đối
với các trường Tiểu học bắt buộc thì sự ''bình đẳng'' là nguyên tắc tối cao. Còn đối
với các trường sơ trung và cao trung thì nguyên tắc tài năng là cao nhất. Quan điểm
19


này không những xoá bỏ sự bất bình đẳng trong xã hội về GD, mà còn tạo ra sự
phát triển tiềm năng của con người.
Điểm qua tình hình GD một số nước trong khu vực để thấy rằng, các quốc
gia trong khu vực cũng như trên thế giới đã có sự nhận thức tương đồng về giáo
dục, coi giáo dục là con đường để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học
công nghệ...
1.2.6. Quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường (cơ sở giáo dục) là một bộ phận trong quản lý giáo dục.
Trường học là tổ chức giáo dục mang tính chất nhà nước – xã hội, trực tiếp làm
công tác giáo dục – đào tạo, thực hiện chức năng giáo dục cho thế hệ đang dần lớn
lên. Nhà trường là tế bào cơ sở, là đối tượng quản lý của tất cả các cấp quản lý giáo
dục từ trung ương đến các địa phương. Đồng thời nhà trường lại là tổ chức giáo
dục có tính độc lập tương đối và tự quản của xã hội. Do đó quản lý trường học nhất
thiết phải có tính nhà nước, tính xã hội và tính sư phạm [12].
Quản lý các hoạt động giáo dục trong nhà trường chính là xây dựng một
quan hệ hợp lý giữa các hình thức công tác tập thể đối với các học sinh và giáo
viên. Do con đường giáo dục lâu dài, đặc biệt hàm xúc về trí tuệ và cảm xúc, do
các tình huống trong đời sống nội tại, tâm hồn, đời sống tập thể trong nhà trường
có sự biến đổi liên tục. Tất cả những điều đó đặt ra yêu cầu cao đối với việc quản
lý nhà trường, việc tổ chức hợp lý các quá trình giáo dục – đào tạo, việc xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật tổ chức sư phạm và các điều kiện khác của lao động, của
giáo viên và học sinh.

Quản lý trực tiếp ở nhà trường bao gồm quản lý chương trình, quản lý quá
trình dạy học, tài chính, nhân lực, hành chính và quản lý môi trường giáo dục. Nhà
quản lý ở mỗi loại hình nhà trường, ở mỗi bậc học sẽ phải đảm bảo vấn đề cốt yếu
là: xác định mục tiêu quản lý của nhà trường, xác định cụ thể các mục tiêu quản lý
và có các biện pháp phù hợp để đạt được các mục tiêu[7].
Các nghiên cứu về tổ chức trường học đã khái quát những nhân tố cấu trúc
cần quan tâm khi tổ chức nhà trường như dưới đây.
20


Nhóm nhân tố thứ nhất:
Mục tiêu đào tạo (M) chịu sự quy định của mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội.
Nội dung đào tạo hay chương trình đào tạo (N) được xác định từ mục tiêu
đào tạo và thành quả của khoa học kỹ thuật, văn hóa.
Phương pháp đào tạo (P) được hình thành từ thành quả của khoa học giáo
dục và quy định bởi mục tiêu, nội dung giáo dục.
Nhóm nhân tố thứ 2:
Lực lượng đào tạo (Người dạy – Th) trong mối quan hệ với lao động xã hội
của đất nước và cộng đồng.
Đối tượng đào tạo (Người học - Tr) trong mối quan hệ với dân số học đường
(các độ tuổi tương ứng với cấp học, bậc học).
Nhóm nhân tố thứ 3:
Hình thức tổ chức đào tạo (H).
Điều kiện đào tạo(Đ).
Môi trường đào tạo (môi trường tự nhiên và môi trường xã hội) (Mô).
Bộ máy đào tạo (Bô).
Quy chế đào tạo (Qi).

21



Để dễ dàng hình dung, ta có thể bố trí mười nhân tố trên trong một hình sao
(sơ đồ hình 1.1) mà nút bấm quản lý ở trung tâm ngôi sao. Quản lý liên kết các
nhân tố làm cho chúng vận động tạo ra sự phát triển toàn vẹn của quá trình đào tạo.

Hình 1.1. Mối liên hệ các yếu tố cấu thành quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường mà trong đó có quản lý đào tạo được hiểu là quản lý
mức độ đạt được mục tiêu giáo dục và thỏa mãn nhu cầu của người học; là quản lý
kết quả của quá trình giáo dục được biểu hiện ở mức độ nắm vững kiến thức, hình
thành những kỹ năng tương ứng, những thái độ cần thiết và được đo bằng những
chuẩn mực xác định [7].
1.3. Các chức năng của quản lý và các quan điểm về mô hình quản lý giáo dục
1.3.1. Các chức năng của quản lý
Quản lý có bốn chức năng cơ bản: Kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm
tra.
Kế hoạch hoá: Kế hoạch hoá có nghĩa là xác định mục tiêu, mục đích đối
với thành tựu tương lai của tổ chức và các con đường, biện pháp, cách thức để đạt
được mục tiêu, mục đích đó. Có ba nội dung chủ yếu của chức năng kế hoạch hoá:
a) xác định, hình thành mục tiêu đối với tổ chức; b) xác định và đảm bảo (có tính
chắc chắn, có tính cam kết) về các nguồn lực của tổ chức để đạt được các mục tiêu
22


này; c) quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt được các mục tiêu
đó[13, tr 12].
Tổ chức: Khi người quản lý đã lập xong kế hoạch, họ cần phải chuyển hoá
những ý tưởng khá trừu tượng ấy thành hiện thực. Một tổ chức lành mạnh sẽ có ý
nghĩa quyết định đối với sự chuyển hoá như thế. Xét về mặt chức năng quản lý, tổ
chức là quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên, giữa các

bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và
đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Nhờ việc tổ chức có hiệu lực, người quản
lý có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các nguồn vật lực và nhân lực. Thành tựu của
một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của người quản lý sử dụng các nguồn
lực này sao cho có hiệu quả và có kết quả [13, tr 13].
Lãnh đạo - Chỉ đạo: Chỉ đạo là phương thức hoạt động thực hiện mục tiêu
kế hoạch. Về thực chất, chỉ đạo là những hoạt động xác lập quyền chỉ huy và sự
can thiệp của người lãnh đạo trong toàn bộ quá trình quản lý, huy động mọi lực
lượng vào việc thực hiện kế hoạch nhằm đảm bảo các hoạt động của tổ chức diễn ra
trong kỷ cương trật tự. Sau khi kế hoạch đã được lập, cơ cấu bộ máy đã hình thành,
nhân sự đã được tuyển dụng thì phải có ai đõ đứng ra lãnh đạo, dẫn dắt tổ chức. Hiển
nhiên việc lãnh đạo không chỉ bắt đầu sau khi việc lập kế hoạch và thiết kế bộ máy đã
hoàn tất, mà nó thấm vào, ảnh hưởng quyết định tới hai chức năng kia [13, tr13].
Kiểm tra: Kiểm tra là chức năng cuối cùng trong quá trình quản lý và cũng
là điểm khởi đầu làm tiền đề cho việc ra quyết định, lập kế hoạch… Đó là công
việc đo lường và điều chỉnh các hoạt động của các bộ phận trong tổ chức, là việc
đánh giá kết quản thực hiện các mục tiêu của tổ chức, nhằm tìm ra những mặt ưu
điểm, mặt hạn chế để điều chỉnh việc kế hoạch hoá, tổ chức, lãnh đạo [13, tr 13].
1.3.2. Mô hình quản lý giáo dục

23


Thực tiễn giáo dục thì đã có từ lâu nhưng lý luận về quản lý giáo dục thì mới
chỉ manh nha xuất hiện từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, và cũng đã có nhiều
quan điểm khác nhau về các mô hình quản lý giáo dục:
Quan điểm hiệu quả: là quan điểm ra đời vào thập niên đầu của thế kỷ XX,
theo quan điểm này thì quản lý giáo dục phải được thực hiện sao cho hiệu số giữa
đầu ra và đầu vào của hệ thống giáo dục phải cực đại. Quan điểm hiệu quả được
xuất phát từ những tư tưởng quản lý kinh tế áp dụng cho giáo dục.

Quan điểm kết quả: là quan điểm chú ý đến đạt mục tiêu giáo dục nhiều hơn
chú ý đến hiệu quả kinh tế của nó. Quan điểm hiệu quả ra đời vào những năm 20
của thế kỷ XX, dựa trên cơ sở là khoa học tâm lý sư phạm.
Quan điểm đáp ứng: Ra đời trong những năm 60 của thế kỷ XX, hướng tới
việc làm cho hệ thống giáo dục phục vụ đáp ứng các đòi hỏi của sự phát triển đất
nước, phát triên xã hội. Quan điểm đáp ứng dựa trên cơ sở khía cạnh chính trị của
giáo dục.
Quan điểm phù hợp: Ra đời những năm 70 của thế kỷ XX, quan điểm này
hướng tới đạt mục tiêu phát triển giáo dục trong điều kiện bảo tồn và phát huy
truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc. Cơ sở của quan điểm này dựa trên vấn đề
văn hóa [17].
1.4. Lý luận về xã hội hóa giáo dục và quản lý quá trình xã hội hóa giáo dục
1.4.1. Xu thế phát triển giáo dục của Việt Nam trong thế kỷ 21
Bước vào thế kỷ 21, khoa học và công nghệ đã có những phát triển mạnh mẽ
với đòi hỏi cao của nền kinh tế tri thức. Cục diện chính trị và kinh tế trên thế giới
đã có những thay đổi cơ bản. Xu hướng hội nhập, toàn cầu hóa trong kinh tế và
trên nhiều lĩnh vực khác là một thực tế khách quan. Sự toàn cầu hóa trong kinh tế
tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các quốc gia. Để phát triển kinh tế, các quốc gia
đều phải cần đến nguồn nhân lực được đào tạo và đặc biệt là nguồn nhân lực có
trình độ cao. Vì lẽ đó, nhiều nước đã coi giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là
quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho phát triển. Giáo dục
24


đào tạo nói chung và giáo dục đại học nói riêng không chỉ cung cấp nguồn nhân
lực tại chỗ cho mỗi quốc gia mà còn cung cấp nguồn nhân lực xuất khẩu. Xu
hướng toàn cầu hóa trên nhiều lĩnh vực, trong đó có giáo dục đại học đã tạo điều
kiện cho nền giáo dục đại học Việt Nam phát triển, hội nhập. Đó là thời cơ
nhưng cũng là thách thức lớn đối với giáo dục đại học nước nhà.
Cùng với xu hướng toàn cầu hóa giáo dục, giáo dục cuối thế kỷ 20 và đầu

thế kỷ 21 được xây dựng trên nền tảng triết lý: lấy học tập thường xuyên, học suốt
đời làm nền tảng hướng tới xây dựng một “xã hội học tập”, với mục tiêu học để
biết, học để làm, học để cùng sống với nhau và học để làm người. Triết lý giáo dục
đó đã tạo ra sự đổi mới giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu. Sự đổi mới đó
đã tạo nên những thay đổi sâu sắc trong giáo dục từ quan niệm về chất lượng giáo
dục, xây dựng nhân cách người học đến cách tổ chức hệ thống giáo dục. Nhà
trường từ chỗ khép kín chuyển sang mở cửa rộng rãi, đối thoại với xã hội và gắn
bó chặt chẽ với nghiên cứu khoa học, công nghệ và ứng dụng. Phương pháp đào
tạo ở trường đại học cũng đã có những thay đổi cơ bản từ chỉ truyền đạt tri thức
độc thoại chuyển sang phân tích và tổng hợp. Đầu tư cho giáo dục từ chỗ được
xem là phúc lợi xã hội đã chuyển sang quan niệm là đầu tư phát triển.
Việt Nam là một nước nằm trong khu vực phát triển và năng động trên thế
giới đang tham gia tích cực vào qúa trình hội nhập quốc tế. Sau khi gia nhập WTO,
uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày một nâng cao. Chính sách đổi mới
đặc biệt là sự năng động về mặt kinh tế đã thu hút được sự đầu tư của nhiều nước
trên thế giới. Sự cạnh tranh mạnh mẽ về mặt kinh tế đòi hỏi Việt Nam phải đào tạo
nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là nguồn nhân lực trong lĩnh vực
khoa học công nghệ và lĩnh vực kinh tế.
Đảng và Chính phủ Việt Nam đã coi giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ là
quốc sách hàng đầu. Vì vậy, đầu tư cho giáo dục được tăng dần. Công cuộc đổi
mới giáo dục đã đạt được nhiều thành tựu. Quy mô và cơ cấu đã có những thay đổi
lớn. Công tác xã hội hóa giáo dục tăng quyền tự chịu trách nhiệm cho các trường
đại học được thực hiện ngày càng có kết quả tốt. Lĩnh vực kinh tế và công nghệ
25


×