Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

sinh hoc dai cuong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.23 KB, 23 trang )

Sinh học Đại cương/ Chương 1
Bài từ Tủ sách Khoa học VLOS.
(đổi hướng từ Lecture:Sinh học Đại cương MIT 7.013/Chapter 1)
Currently 3.67/5

1

2

3

4

5

Mời BẠN bỏ phiếu cho bài viết này.
Jump to: navigation, search
Mục lục
[giấu]
• 1 Chương1: Lý thuyết tiến hoá đối với sinh học
o 1.1 Sự sống là gì?
o 1.2 Sự trao đổi chất bao gồm sự biến đổi vật chất và năng lượng
o 1.3 Tiến hóa sinh học
o 1.4 Thuyết tiến hóa của Darwin
o 1.5 Những sự kiện trọng đại trong lịch sử sự sống trên trái đất
 1.5.1 Sự sống nảy sinh thông qua con đường tiến hóa hóa học
 1.5.2 Tiến hóa sinh học bắt đầu khi tế bào hình thành
 1.5.3 Quang hợp đã làm thay đổi tiến trình tiến hóa
 1.5.4 Tế bào với những khoang phức tạp bên trong
 1.5.5 Đa bào nảy sinh và tế bào trở nên chuyên hóa
 1.5.6 Giới tính làm tăng tốc độ tiến hóa


o 1.6 Cây tiến hóa của sự sống
o 1.7 Sinh học là một môn khoa học
 1.7.1 Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học
 1.7.2 Không phải tất cả mọi điều tra đều là khoa học
 1.7.3 Sự liên hệ giữa sinh học và xã hội
Chương1: Lý thuyết tiến hoá đối với sinh
học
Những con ếch quái thai, một đề tài rất thú vị đối với kế hoạch nghiên cứu của một sinh
viên đại học! Đó là những gì mà Pieter Johnson-1 sinh viên năm thứ 2 của đại học
Stanford- đã suy nghĩ khi cậu ta gây ra sự chấn động trong giới khoa học cùng với "pacific
tree frogs" có những đôi chân quá khổ mọc ra từ cơ thể của chúng. Những con ếch này
được bắt ở một bờ ao nhỏ của một ngôi làng gần các mỏ thủy ngân cũ ở Almaden về phía
Nam của San Jose,California. Các nhà khoa học trên thế giới đã báo cáo tình hình báo động
về sự mất dần của rất nhiều loài ếch , có thể những con ếch "quái vật" này nắm giữ lời giải
đáp vì sao có tình trạng rắc rối gặp phải ở các loài ếch trên thế giới. Các nguyên nhân của
tình trạng biến hình này có thể là các chất hoá học nông nghiệp hoặc các kim loại nặng
trong những quả mìn. Tuy nhiên nghiên cứu thư viện đã đề nghị các khả năng khác của
Pieter.
Pieter đã nghiên cứu 35 cái ao trong vùng các con ếch biến dạng này được phát hiện. Cậu
ấy đã đếm số lượng ếch trong các ao và kiểm tra thành phần hoá học của nước. 13 ao có
"Pacific tree frogs" , nhưng chỉ có 4 ao là có các con ếch biến dạng. Pieter ngạc nhiên khi
việc phân tích thành phần nước 4 ao này không phát hiện ra hàm lượng cao hơn của các
thuốc trừ sâu,chất hoá học Công nghiệp, hay các kim loại nặng trong các ao có những con
ếch biến dạng. Và càng ngạc nhiên hơn,khi cậu ta chọn lựa những con ếch từ các ao này và
cho chúng đẻ trứng trong phòng thí nghiệm thì luôn thu được các con ếch bình thường.
Điều khác biệt duy nhất mà cậu ta quan sát được giữa các ao là các ao có những con ếch
biến dạng cũng có những con ốc sên nước ngọt.
A Monster Phenemonon : Là sinh viên năm 2 đại học Stanford, Pieter Johnson nghiên cứu
về những cái ao, nơi cư trú của “pacific tree frogs” ( Hyla regilla), để cố gắng phát hiện ra
lý do giải thích sự xuất hiện của hàng loạt con ếch bị biến dạng. Vật được gắn vào như cái

đuôi ở đây chính là 1 cái chân thêm.
Những con ốc sên nước ngọt là ổ của rất nhiều loại sống kí sinh. Các loài sống kí sinh
tham gia vào vòng đời phức tạp ở một số giai đoạn, mỗi loại trong số chúng đòi hỏi một
động vật chủ đặc biệt. Pieter tập trung vào khả năng có thể rằng một vài loại động vật kí
sinh sử dụng các con ốc sên như vật trung gian, đã gây bệnh cho các con ếch và gây ra hiện
tượng biến dạng. Pieter đã tìm ra một loài thích hợp cho vòng đời này đó là một loài sâu
béo nhỏ có tên là Ribeiroia , có mặt trong ao nơi mà các con ếch biến dạng được tìm thấy..
Sau đó Pieter đã làm một thí nghiệm, cậu ta chọn các con ếch từ những vùng mà không có
các con ếch biến dạng và các con Ribeiroria. Rồi ấp trứng tại phòng thí nghiệm trong các
hộp có hoặc không có loài kí sinh. Khi mà ở các hộp có loài kí sinh xuất hiện thì 85% các
con ếch bị biến dạng . Một thí nghiệm xa hơn nữa đã giải thích tại sao không phải tất cả
các ếch đều bị biến dạng: sự nhiễm bệnh phải xuất hiện trước khi một con nòng nọc bắt
đầu mọc chân. Khi mà các con nòng nọc đã mọc chân mà bị nhiễm bệnh thì chúng không
bị biến dạng
Quá trình nghiên cứu của Pieter đã bắt đầu từ một câu hỏi được đặt ra bởi quan sát trong tự
nhiên. Cậu ta tự đưa ra các câu trả lời, quan sát rồi làm hẹp lại danh sách các khả năng, sau
đó thực hiện các thí nghiệm để kiểm tra trong những giả định thì điều nào là hợp lý nhất.
Những thí nghiệm đã giúp cậu ta đạt được một kết luận: các sự biến dạng là do loài
Ribeiroia. Sự nghiên cứu của Pieter là 1 ví dụ điển hình của việc áp dụng các phương pháp
khoa học trong sinh học.
Sinh học (biology) là môn học khoa học của những điều trong cuộc sống. Các nhà sinh học
nghiên cứu từ cấp độ tế bào cho đến cấp độ toàn bộ hệ sinh thái. Họ nghiên cứu các sự
kiện diễn ra trong 1 phần triệu giây cho đến các sự kiện kéo dài hàng triệu năm. Các nhà
sinh học đặt ra các dạng câu hỏi khác nhau và sử dụng rất nhiều các công cụ, nhưng họ sử
dụng các phương pháp khoa học khác nhau. Kết quả mà họ thu được là hiểu được chức
năng cơ thể ( và các bộ phận của cơ thể) , và sử dụng các hiểu biết đó để giải quyết các vấn
đề trong cuộc sống. Trong chương này, chúng tôi sẽ làm rõ hơn về những điều mà một nhà
sinh học thực hiện. Đầu tiên, chúng tôi sẽ diễn tả các tính chất của những điều trong cuộc
sống,các sự kiện tiến triển chính trong lịch sử cuộc sống của trái đất, và sự tiến hoá đa
dạng của cuộc sống. Sau đó chúng tôi bàn tới các phương pháp mà các nhà sinh học sử

dụng để nghiên cứu về chức năng của cuộc sống. Và ở cuối chương, chúng tôi sẽ bàn về
cách làm sao để những hiểu biết của các nhà sinh học có thể được sử dụng giúp cho giải
quyết vấn đề cuộc sống của cộng đồng.
Sự sống là gì?
Trước khi tìm hiểu về việc nghiên cứu sự sống, chúng ta cần thống nhất sự sống là gì. Mặc
dù tất cả chúng ta đều biết những dạng sự sống quanh ta hàng ngày, nhưng thật khó để
định nghĩa sự sống một cách rõ ràng. Có một định nghĩa ngắn gọn về sự sống như sau:
một đơn vị có tính di truyền, có khả năng trao đổi chất, tái sinh (reproduction), và tiến hóa
(evolution). Phần lớn quyển sách này đề cập những đặc tính trên của sự sống và làm thế
nào chúng phối hợp với nhau để giúp cơ thể sống sót và tái sinh( hình 1.1). Bản tóm tắt
khái quát sau đây sẽ giúp cho các bạn nghiên cứu về các tính chất đó.
1.1 Những mặt khác nhau của 1 đời sống: Sâu bướm, nhộng và bướm trưởng thành là
những giai đoạn khác nhau trong 1 vòng đời của 1 con bướm chúa (Danaeus plexippus).
Sâu bướm thu thập những nguyên liệu và năng lượng cần thiết để thực hiện hàng triệu các
phản ứng chuyển hóa dẫn đến sự sinh trưởng và biến đổi, đầu tiên từ sâu bướm chuyển
thành nhộng và cuối cùng thành bướm trưởng thành thích ứng cho việc sinh sản và phát
tán. Sự biến đổi từ dạng này sang dạng khác được khởi sự từ các dấu hiệu từ bên trong cơ
thể.
Sự trao đổi chất bao gồm sự biến đổi vật chất và năng
lượng
Trao đổi chất (metabolism): toàn bộ các hoạt động hoá học của cơ thể sống, bao gồm
hàng ngàn các phản ứng hoá học riêng lẻ. Các phản ứng hoá học lấy vật chất và năng
lượng và chuyển hoá chúng thành các dạng khác nhau, sẽ được tìm hiểu kĩ trong phần 1
của quyển sách này. Để 1 cơ thể hoạt động, rất nhiều trong số các phản ứng xảy ra đồng
thời, cần phải kết hợp với nhau. Các gen thì quy định sự điều khiển này. Bản chất của vật
chất di truyền (gen) mà điều khiển các hiện tượng trong đời sống chỉ mới được hiểu rõ
trong khoảng 100 năm trở lại đây. Phần 2 của cuốn sách dành cho việc kể về câu chuyện
của những khám phá về gen.
Môi trường bên ngoài có thể thay đổi một cách chóng mặt và không hề báo trước khiến
cho cơ thể không thể kiểm soát được. Một cơ thể chỉ có thể bảo vệ được sức khoẻ nếu như

môi trường bên trong còn đảm bảo được các điều kiện hoá lý. Các cơ quan bảo vệ của cơ
thể giữ không thay đổi theo điều kiện môi trường bên ngoài bằng cách điều chỉnh quá trình
trao đổi chất cho phù hợp với sự thay đổi các điều kiện môi trường như nhiệt độ, có hay
không có ánh sáng mặt trời, hay có những tác nhân lạ bên trong cơ thể.
Việc giữ vững sự ổn định tương đối các điều kiện bên trong cơ thể , giữ cho thân nhiệt ổn
định, được gọi là tính nội cân bằng. Sự điều chỉnh để cơ thể nội cân bằng thường xuyên là
không rõ ràng, bởi vì không thấy một sự biến đổi nào. Tuy nhiên, ở một vài thời điểm
trong cuộc sống, có nhiều cơ quan trả lời lại sự thay đổi điều kiện không phải bằng cách
giữ vững tình trạng của chúng mà theo 1 cách thay đổi phần lớn tổ chức cấu tạo. Một hình
thức đầu tiên của sự thay đổi cấu trúc là sự phát triển của hình thức bào tử, một dạng bảo
vệ tốt và là một hình thức vô hoạt trong các cơ thể phải chịu đựng điều kiện khắc nghiệt
của môi trường. Một ví dụ điển hình về sự tiến hoá rất lâu về sau này là của các loài sâu
bọ, như các loài bướm. Để đáp ứng lại các dấu hiệu hoá học bên trong cơ thể, một con sâu
bướm sẽ phát triển bên trong một con nhộng và rồi trở thành một con bướm trưởng thành.
Sự sinh sản làm cuộc sống tiếp diễn liên tục và là nền tảng cho sự tiến hóa. Sự sinh sản
khác nhau là một tính chất chính của cuộc sống. Nếu không có quá trình sinh sản, cuộc
sống sẽ nhanh chóng biến mất. Sinh vật đơn bào đầu tiên sinh sản bằng hình thức nhân đôi
vật chất di truyền của chúng sau đó phân tách thành hai. Hai tế bào con giống nhau và
giống hệt tế bào mẹ, ngoại trừ sự đột biến xảy ra trong quá trình nhân đôi. Những lỗi đột
biến đó dù hiếm, nhưng lại cung cấp các vật chất thô cho quá trình tiến hoá sinh học. Sự
phối hợp của quá trình sinh sản đơn giản cùng các lỗi trong việc nhân đôi vật chất di truyền
tạo nên sinh học tiến hoá, một sự thay đổi về thành phần gen của các quần thể sinh vật trải
qua thời gian.
Sự đa dạng hóa cuộc sống một phần được điều khiển bởi môi trường vật lý. Có những nơi
lạnh và có những nơi nóng, cái lạnh và nóng có thể kéo một khoảng thời gian dài trong
năm. Ở một vài nơi (các đại dương, hồ, sông) thì ẩm ướt, một vài chỗ (các hoang mạc) thì
luôn khô hạn. Không một dạng sống đơn giản nào có thể hoạt động tốt trong mọi loại môi
trường như vậy. Thêm nữa, chính các dạng sống qui định sự đa dạng của chúng. Một khi
thực vật tiến hóa thì nó trở thành nguồn thức ăn cho các dạng sống khác. Lần lượt các loài
ăn thực vật sau đó lại trở thành thức ăn cho các loài sinh vật khác. Và khi các dạng sống

này chết đi, chúng lại tiếp tục là thức ăn cho các dạng sống khác. Điểm khác nhau giữa các
dạng sống cho phép chúng tồn tại trong các môi trường khác nhau và thích ứng với các
kiểu sống khác nhau mà ta gọi là sự thích nghi. Sự đa dạng tuyệt vời của các dạng sống
làm cho sinh học trở thành một thứ khoa học hấp dẫn và Trái đất trở thành một nơi giàu có,
phục vụ cho cuộc sống.
Có một thời kì dài không có sự sống trên trái đất. Sau đó là thời kì sống của các đơn bào,
rồi đến sự sinh trưởng của các đa bào. Nói một cách khác, tự nhiên và sự đa dạng các dạng
sống khác nhau luôn thay đổi theo thời gian. Việc nghiên cứu quá trình mà tạo nên sự tiến
hoá sinh học trên trái đất là một khoa học rất được chú trọng vào thế kỷ 19. Những quá
trình đó sẽ được nói đến rõ nét hơn trong phần 4 của cuốn sách này. Còn ở đây chúng ta sẽ
tìm hiểu một cách ngắn gọn làm sao có thể khám phá ra chúng.
Tiến hóa sinh học
Những thay đổi qua hàng tỷ năm Khá lâu trước khi hiểu được cơ chế tiến hoá của sinh giới
, nhiều người đã nhận thấy rằng sinh vật biến đổi theo thời gian và những cơ thể sống đã
tiến hoá từ một loài nào đó ko còn tồn tại trên trái đất. Vào năm 1760, nhà tự nhiên học
người Pháp_Count George-Louis Leclerc de Buffon (1707-1788)_đã viết “Lịch sử tự nhiên
của muôn loài”, cuốn sách đã trình bày một cách rõ ràng về khả năng tiến hoá của sinh vật.
Buffon đã quan sát xương chi của tất cả các loài động vật có vú ông nhận thấy có sự tương
đồng ở nhiều điểm (hình 1.2). Ông cũng lưu ý một điểm: có những loài động vật có vú,
như heo chẳng hạn, chân chúng có những ngón chẳng bao giờ chạm đất, và không có tác
dụng gì. Buffon đã gặp khó khăn trong việc giải thích sự tồn tại của những ngón nhỏ vô ích
này bởi quan niệm thông thường: Trái đất và tạo vật của nó được thượng đế tạo ra trong
mối quan hệ với các dạng trước đó. Để giải thích cho những quan sát của mình, Buffon giả
thiết rằng xương chi của các động vật có vú có thể đã được thừa hưởng từ một tổ tiên
chung. Những con heo đó có thể có những ngón chân vô chức năng vì chúng được thừa
hưởng từ tổ tiên đã có những ngón chân với đầy đủ hình dạng và chức năng.
Buffon đã không thể giải thích được những biến đổi diễn ra như thế nào nhưng một học trò
của ông là Jean baptiste de Lamarck (1744-1829) đã đề xuất một cơ chế cho sự thay đổi.
Ông cho rằng: ”Một giống sinh vật có thể thay đổi dần dần qua nhiều thế hệ vì thế hệ con
cháu được thừa hưởng những đặc tính đã trở nên phổ biến, các đặc tính này sẽ càng hoàn

thiện hơn trong quá trình phát triển của sinh vật, ngược lại các đặc tính không được tiếp
nhận sẽ thu nhỏ lại và trở nên kém phát triển”. Ngày nay, các nhà khoa học không thừa
nhận quá trình tiến hóa tuân theo cơ chế này. Tuy nhiên Lamarck đã để lại một dấu ấn quan
trọng trong quá trình giải thích sự tiến hoá của sinh vật.
Thuyết tiến hóa của Darwin
Năm 1858, theo xu hướng chung, các nhà sinh học nhanh chóng tiếp thu một lý thuyết tiến
hóa mới được đề xuất độc lập bởi Charles Darwin và Alfred Russel Wallace. Vào thời gian
này, những nhà địa chất đã thu thập được những bằng chứng về sự tồn tại và thay đổi
củaTrái đất qua hàng triệu năm, chứ không chỉ dừng lại ở vài ngàn năm như mọi người đã
tưởng. Các bạn sẽ học kỹ hơn về thuyết tiến hóa do chọn lọc tự nhiên ở chương 23, nhưng
các bạn cần nắm được những ý cơ bản để có thể hiểu được nội dung của quyển sách này.
Lý thuyết của Darwin bao gồm 3 quan sát thực nghiệm và 1 kết luận ông rút ra từ đó. Ba
quan sát thực nghiệm:
Khi sống dưới đáy đại dương một số loài cá có hình thù kỳ lạ để phù hợp với hoàn cảnh
sống đặc biệt
• Tốc độ sinh sản của cơ thể sinh vật, mặc dù chậm, nhưng đủ lớn để có số lượng cá
thể khổng lồ nếu tốc độ tử không nhanh bằng.
• Trong mỗi loài sinh vật, đều có sự khác nhau giữa các cá thể.
• Con cháu giống bố mẹ vì chúng đã thừa hưởng những đặc tính của của bố mẹ
mình.
Từ những quan sát này Darwin đã rút ra kết luận: “Sự khác biệt giữa những cá thể ảnh
hưởng lớn đến sự tồn tại và sinh sản của chúng. Một vài điểm đặc trưng làm gia tăng sự
thích nghi của chúng sẽ được truyền lại cho các thế hệ tiếp theo” Darwin gọi sự thành công
trong phương thức tồn tại và phát triển khác nhau của những cá thể là Chọn lọc tự nhiên.
Ông gọi đó là ”sự truyền lại và thay đổi”.
Những nhà sinh vật bắt đầu có sự thay đổi một chút về quan niệm chủ đạo so với 1 thế kỷ
trước.Họ chấp nhận sự lâu dài của quá trình tiên hoá và thừa nhận rằng Chọn lọc tự nhiên
là 1 quá trình các sinh vật thích nghi với môi trường sống. Để chấp nhận quan niệm này
cần nhiều thời gian vì nó đòi hỏi phải từ bỏ nhiều quan niệm của thế giới quan buổi ban
đầu.

Trước Darwin, người ta xem thế giới là mới mẻ và cơ thể sinh vật khi được thượng đế tạo
ra đã có như dạng hiện thời. Đến thời Darwin, thế giới được xem là đã cổ xưa, cả trái đất
lẫn những cư dân của nó đều đã thay đổi theo thời gian. Những dạng tổ tiên rất khác so với
những dạng tồn tại ngày nay. Những cơ thể sống tiến hóa những đặc điểm riêng của chúng
vì với những đặc điểm này tổ tiên của chúng đã tồn tại và sinh sản tốt hơn với những đặc
điểm khác.
Những sự kiện trọng đại trong lịch sử sự sống trên trái
đất
Lịch sử sự sống trên trái đất
Lịch sử sự sống trên trái đất được tóm lượt trong vòng lịch gồm 30 ngày theo hình 1.3.
Những thay đổi trong hơn 4 tỷ năm qua là kết quả của các tiến trình tự nhiên mà chúng có
thể được xác định và nghiên cứu bằng những phương pháp khoa học. Trong phần này,
chúng ta sẽ mô tả một số điểm thay đổi quan trọng nhất để nắm được tinh thần của quyển
sách. Sáu sự kiện tiến hoá trọng đại sau sẽ cung cấp cho chúng ta 1 khung thảo luận cả về
những đặc tính của sự sống và sự tiến hóa của các đặc tính này.
Sự sống nảy sinh thông qua con đường tiến hóa hóa học
Sự sống đã bắt đầu từ những chất không có sự sống. Tất cả thành phần, có sự sống hay
không có sự sống đều do các thành phần hóa học cấu tạo thành. Những đơn vị hóa học nhỏ
nhất gọi là nguyên tử sẽ liên kết với nhau tạo thành phân tử (tính chất của các đơn vị hóa
học này được đề cập ở chương 2). Quá trình tiến hóa hoá học (chemical evolution) làm
xuất hiện sự sống đã diễn ra cách nay gần 4 tỷ năm, khi những tương tác của các hợp chất
vô cơ tạo ra những phân tử có những tính chất đáng lưu ý. Một số hóa chất liên quan có thể
có nguồn gốc ngoài Trái Đất, nhưng sự tiến hoá hoá học đãdiễn ra trên Trái Đất. Những
phân tử đơn giản này có thể tổng hợp thành những phân tử lớn, phức tạp hơn nhưng bền
vững. Vì chúng vừa phức tạp vừa bền vững nên những phân tử này có thể làm gia tăng về
loại và số lượng phản ứng hoá học. Một số loại phân tử lớn được tìm thấy trong các hệ
thống sống; đặc tính và chức năng của các phân tử này sẽ được đề cập trong chương 3.
Tiến hóa sinh học bắt đầu khi tế bào hình thành
Vào khoảng 3.8 tỷ năm trước, những hệ thống tương tác của phân tử được bao quanh trong
những cái khoang. Bên trong những đơn vị này_Tế bào_sự điều khiển được sử dụng khắp

lối vào, duy trì và hủy diệt phân tử, như những phản ứng hoá học. Nguồn gốc của những tế
bào đánh dấu bước khởi đầu của sự tiến hoá sinh học. Tế bào và màng tế bào là chủ đề của
chương 4, 5.
Những tế bào hấp thu năng lượng và tái tạo chính chúng_hai dấu hiệu cơ bản của sự
sống_từ khi chúng tiến hoá. Tế bào là đơn vị của sự sống. Những thí nghiệm của Pasteur
và các nhà khoa học khác suốt thế kỷ 19 đã thuyết phục hầu hết các nhà khoa học rằng,
dưới điều kiện hiện tại của trái đất, không thể tạo ra tế bào từ các hợp chất vô cơ được mà
phải từ một tế bào khác.
Trong 2 tỷ năm sau khi tế bào xuất hiện, tất cả cơ thể sinh vật là đơn bào (chỉ có một tế
bào). Chúng ở dưới đại dương, nơi chúng được bảo vệ tránh khỏi những tia cực tím giết
người. Những tế bào đơn giản này gọi là prokaryotic cells, không có màng bao quanh.
Quang hợp đã làm thay đổi tiến trình tiến hóa
Một sự kiện trọng đại đã xảy ra cách nay 2.5 tỷ năm: Sự Quang hợp_khả năng sử dụng
năng lượng mặt trời để trao đổi chất_xuất hiện. Tất cả những tế bào phải thu những nguyên
liệu thô và năng lượng cung cấp cho sự trao đổi chất. Những tế bào quang hợp lấy nguyên
liệu thô từ môi trường, nhưng năng lượng chúng thường sử dụng để quang hợp những
nguyên tố lại đến từ mặt trời. Những tế bào quang hợp đầu tiên có lẽ giống prokaryotes
ngày nay được gọi là cyanobacteria (hình 1.4). Năng lượng giữ lấy quá trình hoạt động,
chúng ta sẽ đề cập đến trong chương 8, nền tảng của tất cả sự sống ngày nay. Khí oxy là
một sản phẩm phụ trong quá trình quang hợp. Quá trình quang hợp lại phát triển một lần
nữa, prokayotes quang hợp quá phong phú đến nỗi chúng tạo ra 1 lượng lớn oxy trong khí
quyển. Oxy chúng ta hít thở ngày nay sẽ không tồn tại nếu không có sự quang hợp. Khi lần
đầu tiên nó xuất hiện trong khí quyển, oxy đã đầu độc tất cả cơ thể sinh vật trên Trái đất.
Những prokaryotes_đã làm tăng sức chịu đựng với oxy_cũng đã xuất hiện thành công
trong môi trường không có sinh vật và sinh sôi nảy nở trong điều kiện rất phong phú. Với

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×