Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Thuận lợi và khó khăn khi việt nam gia nhập tổ chứ thương mại thế giới WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.15 KB, 45 trang )

Đề tài: “Thuận lợi và khó khăn khi Việt Nam gia

nhập tổ chứ thương mại thế giới WTO ?”
Đế tài được trình bày gồm 3 phần chính :


CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN



CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO).
CHƯƠNG 2 / THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRÊN CON ĐƯỜNG



GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM .
CHƯƠNG III / GIẢI PHÁP


LỜI MỞ ĐẦU

  
Nền kinh tế Việt Nam đang từng bước phát triển đi lên. Nhưng chúng ta dang cần
lắm một “đòn bẩy” để có thể “bật cao” sánh kiệp với các nước phát triển trong châu lục
và ngoài thế giới. Và Việt Nam hiện tại đang đứng trên đà phát triển nếu có thể phát huy
hết tiềm lực kinh tế khi gia nhập tổ chức kinh tế thới giới “WTO”. WTO vừa là một tổ
chức quốc tế chính thức và cũng là một hệ thống quy tắc có liên quan tới đàm phán cạnh
tranh, là nền tảng của hệ thống thương mại đa phương.
Khi toàn cầu hóa về nền kinh tế đang trở thành một xu hướng khách quan thì yêu
cầu hội nhập nền kinh tế quốc tế càng trở nên cấp bách. Toàn cầu hóa đòi hỏi mỗi nước
phải liên kết với các quốc gia khác để cùng phát triển. Và Việt Nam cũng không nằm


ngoài xu thế chung của thế giới.Trong hơn 20 năm cải cách mở cửa, Việt Nam đã đạt
được những bước chuyển mình mạnh mẽ về phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vai
trò, vị thế trên trường quốc tế.
Thế giới với một nền kinh tế đang từng bước phát triển, đòi hỏi các nước phải xóa
bỏ rào cản, chấp nhận tự do buôn bán, vì thế mỗi nước phải mở cửa thị trường trong
nước, điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng cao sức cạnh tranh của nước đó phù hợp
với sự phát triển của thế giới. Do đó, chúng ta phải làm thế nào để nâng cao sức cạnh
tranh của hàng hóa Việt Nam (về chất lượng và giá cả). Nhưng làm sao và làm thế nào để
nâng cao sức cạnh tranh của hang hóa nước ta hiện nay đang là vần đề hết sức nan giải và
có thể nói là đầy khó khăn, đang được nhiều người quan tâm.
Việt Nam gia nhập WTO là một bước ngoặc lịch sử cho sự phát triển nền kinh tế
Việt Nam.Việt Nam đã được công nhận là nước ổn định về chính trị, xã hội và là một
trong những nước an toàn trong khu vực. Điều rõ ràng là đất nước có lợi thế về lao động
vị trí địa lý và tài nguyên để tạo hàng hoá xuất khẩu đi các thị trường, môi trường đầu tư
ở Việt Nam đã được cải thiện tốt hơn do hệ thống luật pháp phù hợp với các quy định của
WTO, doanh nghiệp trong nước và nước ngoài được đối xử bình đẳng...


Trong bối cảnh đó, khi trở thành thành viên chính thức của WTO, tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế sẽ có nhiều hứa hẹn để phát triển đất nước và đóng góp vào sự phát
triển chung của khu vực và thế giới. Nhưng bên cạnh cơ hội luôn là những khó khăn
thách thức. Nếu có biện pháp giải quyết đúng đắn những điều này sẽ là động lực thúc đẩy
nền kinh tế-xã hội Việt nam phát triển mạnh mẽ. Nếu không nó sẽ tác động tiêu cực kìm
hãm đất nước.




Phương pháp nghiên cứu.
Tập trung nghiên cứu về sự ra đời và hình thành của tổ chức thương mại thế giới


để có thể hiểu được nguyên tắc và cách làm việc của WTO qua đó để không phải bị cuốn
vào “cơn lốc” mang tên khủng hoảng. Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp. Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
phương pháp thống kê, phương pháp so sánh để nghiên cứu.Trong quá trình nghiên
cứu có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn thông qua điều tra, khảo sát, phỏng vấn…


Phạm vi nghiên cứu:
Tập trung nghiên cứu về những đổi thay của nền kinh tế Việt Nam. Trình bày tổng

quan về Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và một số thuận lợi, khó khăn của Việt Nam
trên tiến trình gia nhập WTO.
Vì kiến thức cũng như kinh nghiệm còn non trẻ và thời gian hạn hẹp nên đề tài
không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong được sự góp ý của thầy để bài viết được
hoàn chỉnh hơn.

Em xin chân thành cảm ơn !


CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI
THẾ GIỚI (WTO).


Wto là gì?
WTO : Tổ chức thương mại thế giới (tiếng Anh World Trade Organization, viết

tắt WTO) : là một tổ chức quốc tế đặt trụ sở ở Genève, Thụy Sĩ, có chức năng giám sát
các hiệp định thương mại giữa các nước thành viên với nhau theo các quy tắc thương

mại. Hoạt động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản thương
mại để tiến tới tự do thương mại. Ngày 13 tháng 5 năm2005, ông Pascal Lamy được bầu
làm Tổng giám đốc thay cho ông Supachai Panitchpakdi, người Thái Lan, kể từ 1 tháng
9 năm 2005. Tính đến ngày 16 tháng 12 năm 2011, WTO có 155 thành viên. Mọi thành
viên của WTO được yêu cầu phải cấp cho những thành viên khác những ưu đãi nhất định
trong thương mại, ví dụ (với một số ngoại lệ) những sự nhượng bộ về thương mại được
cấp bởi một thành viên của WTO cho một quốc gia khác thì cũng phải cấp cho mọi thành
viên của WTO.

1.1 / SỰ RA ĐỜI CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
(WTO)
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) - tiền thân của tổ
chức thương mại quốc tế (WTO) :
Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai vẫn còn chưa kết thúc, các nước đã nghĩ đến việc
thiết lập các định chế chung về kinh tế để hỗ trợ công cuộc tái thiết sau chiến tranh.
Hội nghị Bretton Woods triệu tập ở bang New Hampshire (Hoa Kỳ) năm 1944 nhằm
mục đích này. Kết quả của Hội nghị Bretton Woods là sự ra đời của 2 tổ chức tài chính:
Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (nay gọi là Ngân hàng Thế giới - WB) và Quỹ


Tiền tệ Quốc tế (IMF). Một tổ chức chung về thương mại cũng được đề xuất thành lập
với tên gọi Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO).
Phạm vi đề ra cho ITO là khá lớn, bao trùm lên cả các vấn đề việc làm, đầu tư,
cạnh tranh, dịch vụ, vì thế việc đàm phán Hiến chương (hiểu cách khác là Điều lệ) của
ITO diễn ra khá lâu. Trong khi đó, vì mong muốn sớm cắt giảm thuế quan để đẩy mạnh
công cuộc tái thiết sau chiến tranh, năm 1946, một nhóm 23 nước đã đàm phán riêng rẽ
và đạt được một số ưu đãi thuế quan nhất định. Để ràng buộc những ưu đãi đã đạt được,
nhóm 23 nước này quyết định lấy một phần về chính sách thương mại trong dự thảo Hiến
chương ITO, biến nó thành Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT).
GATT có hiệu lực từ 1/1/1948 như một thoả thuận tạm thời trong khi chờ ITO được thành

lập. Nhưng ITO không ra đời: mặc dù Hiến chương ITO đã được thong qua tại Havana
(Cuba) tháng 3/1948, nhưng việc Quốc hội Hoa Kỳ trì hoãn không phê chuẩn Hiến
chương làm cho các nước khác cũng không phê chuẩn, dẫn đến ITO không trở thành hiện
thực. Do vậy, GATT trở thành cơ cấu đa phương duy nhất điều chỉnh thương mại quốc tế
cho đến khi WTO ra đời.
Có thể nói, trong 48 năm tồn tại của mình, GATT đã có những đóng góp to lớn vào
việc thúc đẩy và đảm bảo thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại thế giới. Số lượng các
bên tham gia cũng tăng nhanh.Cho tới trước khi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
được thành lập vào ngày 1/1/1995, GATT đã có 124 bên ký kết và đang tiếp nhận 25 đơn
xin gia nhập. Nội dung của GATT ngày một bao trùm và quy mô ngày một lớn: bắt đầu từ
việc giảm thuế quan cho tới các biện pháp phi thuế, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, đầu tư, và tìm
kiếm một cơ chế quốc tế giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các quốc gia. Từ mức
thuế trung bình 40% của năm 1948, đến năm 1995, mức thuế trung bình của các nước
phát triển chỉ còn khoảng 4% và thuế quan trung bình của các nước đang phát triển còn
khoảng 15%.


Sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Mặc dù đã đạt được những thành công lớn, nhưng đến cuối những năm 1980, đầu
1990, trước những biến chuyển của tình hình thương mại quốc tế và sự phát triển của
khoa học-kỹ thuật, GATT bắt đầu tỏ ra có những bất cập, không theo kịp tình hình.
Trước tình hình đó các bên tham gia GATT nhận thấy cần phải có nỗ lực để củng
cố và mở rộng hệ thống thương mại đa biên. Từ năm 1986 đến 1994, Hiệp định GATT và
các hiệp định phụ trợ của nó đã được các nước thảo luận sửa đổi và cập nhật để thích ứng
với điều kiện thay đổi của môi trường thương mại thế giới. Hiệp định GATT 1947, cùng
với các quyết định đi kèm và một vài biên bản giải thích khác đã hợp thành GATT 1994.
Một số hiệp định riêng biệt cũng đạt được trong các lĩnh vực như Nông nghiệp, Dệt may,
Trợ cấp, Tự vệ và các lĩnh vực khác; cùng với GATT 1994, chúng tạo thành các yếu tố
của các Hiệp định Thương mại đa phương về Thương mại Hàng hoá.Vòng đàm phán
Uruguay cũng thông qua một loạt các quy định mới điều chỉnh thương mại Dịch vụ và

Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến thương mại. Một trong những thành công lớn nhất
của vòng đàm phán lần này là, cuối Vòng đàm phán Uruguay, các nước đã cho ra Tuyên
bố Marrakesh thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), bắt đầu đi vào hoạt động
từ ngày 1/1/1995.

1.2 / NGUYÊN TẮC PHÁP LÝ CỦA WTO.
WTO hoạt động dựa trên một bộ các luật lệ và quy tắc tương đối phức tạp,
bao gồm trên 60 hiệp định, phụ lục, quyết định và giải thích khác nhau điều chỉnh
hầu hết các lĩnh vực thương mại quốc tế. Tuy vậy, tất cả các văn bản đó đều được
xây dựng trên cơ sở 4 nguyên tắc pháp lý nền tảng là: tối huệ quốc, đãi ngộ quốc
gia, mở cửa thị trường và cạnh tranh công bằng.




Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN)
Tối huệ quốc, viết tắt theo tiếng Anh là MFN (Most favoured nation), là nguyên

tắc pháp lý quan trọng nhất của WTO.Theo nguyên tắc MFN, WTO yêu cầu một nước
thành viên phải áp dụng thuế quan và các quy định khác đối với hàng hoá nhập khẩu từ
các nước thành viên khác nhau (hoặc hàng hoá xuất khẩu tới các nước thành viên khác
nhau) một cách bình đẳng, không phân biệt đối xử. Điều đó có nghĩa là nếu một nước
thành viên dành cho sản phẩm từ bất kỳ nước thành viên nào mức thuế quan hay bất kỳ
một ưu đãi nào khác thì cũng phải dành mức thuế quan hoặc ưu đãi đó cho sản phẩm
tương tự của tất cả các quốc gia thành viên khác một cách ngay lập tức và vô điều kiện.
WTO cũng cho phép các nước thành viên được duy trì một số ngoại lệ của nguyên tắc
này.


Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT)

Đãi ngộ quốc gia, viết tắt theo tiếng Anh là NT (National Treatment), nguyên tắc

NT yêu cầu một nước phải đối xử bình đẳng và công bằng giữa hàng hoá nhập khẩu và
hàng hoá tương tự sản xuất trong nước. Nguyên tắc này quy định rằng, bất kỳ một sản
phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới (đã trả xong thuế hải quan và các chi phí
khác tại cửa khẩu) sẽ được hưởng sự đối xử không kém ưu đãi hơn sản phẩm tương tự
sản xuất trong nước.


Nguyên tắc mở cửa thị trường
Nguyên tắc “mở cửa thị trường” hay còn gọi là “ tiếp cận thị trường” (market

access) thực chất là mở cửa thị trường cho hàng hóa, dịch vụ và đầu tư nước ngoài vào.
Trong thương mại đa phương, khi tất cả các bên tham gia đều chấp nhận mở cửa thị
trường của mình thì điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn cầu
mở cửa. Về mặt chính trị, “tiếp cận thị trường” thể hiện nguyên tắc tự do hóa thương mại
của WTO, về mặt pháp lý, “tiếp cận thị trường” thể hiện nghĩa vụ có tính chất ràng buộc


thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường mà nước này đã chấp thuận khi đàm phán
gia nhập WTO.


Nguyên tắc cạnh tranh công bằng
Cạnh tranh công bằng (fair competition) thể hiện nguyên tắc “tự do cạnh tranh

trong những điều kiện bình đẳng như nhau”. Việc thúc đẩy cạnh tranh công bằng bằng
cách loại bỏ các hoạt động mang tính “ không công bằng” như trợ cấp sản xuất, trợ cấp
xuất khẩu, bán phá giá nhằm tranh giành thị phần.


1.3 / MỤC TIÊU VÀ NGUYÊN TẮC CỦA WTO.
1.3.1 Mục Tiêu.
Với tư cách là một tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế giới,
WTO thừa nhận các mục tiêu của GATT trong đó có 3 mục tiêu chính như sau:
 Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc thực

hiện và giải thích Hiệp định WTO và các hiệp định thương mại đa phương.
 Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hóa và dịch vụ trên thế giới phục vụ cho
sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường.
 Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh
chấp thương mại giữa các thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa
phương, phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế; bảo đảm cho các
nước đang phát triển đặc biệt là các nước kém phát triển được hưởng những lợi ích
thực chất từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế.
 Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các nước thành viên, đảm

bảo các quyền và tiêu chuẩn lao động đối thiểu. Theo như Hiệp định Marrakesh về
thành lập WTO, tổ chức này có năm chức năng cơ bản như sau:
 Thống nhất quản lý việc thực hiện các hiệp định và thỏa thuận thương mại đa

phương và nhiều bên; giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các nước
thành viên thực hiện nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ.


 Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa phương

trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO.
 Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên, bảo đảm
thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hóa thương mại và tuân thủ các quy định của
WTO.

 Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ Tiền tệ Quốc
tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) trong việc hoạch định những chính sách và
dụ báo về xu hướng phát triển tương lai của nèn kinh tế toàn cầu.

1.3.2 / Nguyên tắc.
Hệ thống các hiệp định của WTO khá lớn đồng bộ, bao quát cả một phạm vi rộng
lớn các hoạt động thương mại. Các hiệp định đó liên quan đến nông nghiệp, hàng dệt và
may mặc, ngân hàng, vô tuyến viễn thông, mua sắm của Chính phủ các tiêu chuẩn công
nghiệp, các qui định về vệ sinh thực phẩm, đến sở hữu trí tuệ và các lĩnh vực khác. Tuy
vậy, các nguyên tắc cơ bản, các nguyên tắc nền tảng của WTO xuyên suốt toàn bộ các
hiệp định, các nguyên tắc đó là cơ sở của hệ thống thương mại đa biên các nguyên tắc đó
là:
a)

Nguyên tắc thương mại không phân biệt đối sử.
Thương mại thế giới phải được thực hiện một cách công bằng, không phân biệt đối

xử. Các nước thành viên WTO cam kết giành cho nhau chế độ đãi ngộ tối huệ quốc
(MNF) tức là chế độ đãi ngộ ở lĩnh vực mình dành cho hàng hóa của một nước bạn hàng
này không kém phần thuận lợi hơn so với chế độ đãi ngộ ở lĩnh vực đó giành cho bất kỳ
nước thứ ba nào.
Các nước thành viên WTO cam kết giành cho nhau chế độ đãi ngộ quốc gia (NT),
tức là chế độ không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước,
khi hàng nhập khẩu được đưa vào thị trường trong nước. Các quốc gia có chính sách đối
xử như thế nào với hàng hoá sản xuất trong nước thì cũng phải đối xử như vậy đối với
hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên WTO.


Hiện nay, chế độ tối huệ quốc và chế độ đãi ngộ quốc gia chủ yếu giành cho hàng
hoá. Tuy nhiên, các nước thành viên mong muốn và đang xúc tiến, vận động mở rộng chế

độ tối huệ quốc áp dụng đối với cả thương nhân không riêng trong lĩnh vực hàng hoá mà
còn trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
b)

Nguyên tắc tự do hoá mậu dịch.
Các nước thành viên WTO phải xây dựng chính sách và khung pháp luật nhằm

thực hiện, đáp ứng yêu cầu cắt giảm dần dần từng bước hang rào thuế quan và phi thuế
quan, để đến một lúc nào đó trong tương lai sẽ xoá bỏ hoàn toàn, mở đường cho thương
mại phát triển. Tự do hoá mậu dịch gắn với pháp luật, thể lệ và khả năng cụ thể của từng
nước.
c)

Nguyên tắc bảo hộ mậu dịch trong nước bằng hàng rào quan
thuế.
Nguyên tắc này trái ngược với nguyên tắc tự do hoá mậu dịch nhưng WTO chủ

trương vẫn giành cho một số nước thành viên trong một thời gian nhất định vẫn được áp
dụng các biện pháp bảo hộ mậu dịch đối với hàng hoá trong nước bằng hàng rào thuế
quan. Có chủ trương đó là do hiện nay và trong một thời gian nữa chưa khắc phục ngay
được sự phát triển không đồng đều giữa các quốc gia thành viên. Nguyên tắc này có nội
dung bảo hộ bằng hàng rào thuế quan, không ủng hộ bảo hộ mậu dịch bằng hang rào phi
thuế quan hoặc các biện pháp hành chính. Mặc dù vậy, các nước áp dụng nguyên tắc này
có nghĩa vụ phải công bố mức thuế trần cam kết, để rồi từ đó cùng với các nước WTO
khác thương lượng theo chiều hướng giảm dần mà không có tăng. Nếu các nước tăng quá
mức thuế trần cam kết thì phải bồi thường nhanh chóng, kịp thời và thoả đáng cho các
nước bị thiệt hại. Ngoài ra, mỗi nước phải cam kết mốc thời gian thực hiện lộ trình cắt
giảm dần để tiến tới mục tiêu xoá bỏ hàng rào thuế.
d)


Nguyên tắc ổn định thương mại .


WTO chủ trương thương mại quốc tế phải được tiến hành cơ sở ổn định, rõ ràng
minh bạch, không ẩn ý. Theo nguyên tắc này, các quốc gia thành viên phải thông qua
đàm phán, đưa ra các cam kết với những lộ trình thực hiện cụ thể. Tuy thừa nhận quyền
của mỗi nước thành viên được đàm phán lại cam kết của mình WTO qui định nghĩa vụ
phải đền bù các thiệt hại có thể xảy ra cho các thành viên khác. Khi xây dựng chính sách
và khung pháp luật này phải được công bố công khai để mọi đối tượng quan tâm này phải
lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp xã hội và sau đó mới tiến hành sửa đổi cũng như dành
thời gian thích hợp để tuyên bố hiệu lực của các sửa đổi bổ xung đó.
e)

Nguyên tắc tăng cường cạnh tranh lành mạnh.
Nội dung của nguyên tắc này là sự cạnh tranh hàng hoá dịch vụ phải trên cơ sở

lành mạnh, không được dùng quyền lực nhà nước để áp đặt, bóp méo tính lành mạnh,
công bằng của cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nguyên tắc này được nhấn mạnh trong
các lĩnh vực như quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nước, quyền cấp giấy phép
kinh doanh xuất nhập khẩu; cấp hạn ngạch.

f)

Nguyên tắc không hạn chế số lượng hàng hoá nhập khẩu.
Qui định này nhằm chống lại những hạn chế nhập khẩu đặc biệt là với một số mặt

hàng. Tuy vậy, vẫn có ngoại lệ được áp dụng cho các quốc gia thành viên trong những
trường hợp đặc biệt nghĩa là WTO vẫn cho phép các quốc gia này được phép hạn chế
hàng hoá nhập khẩu khi gặp những khó khăn về cán cân thanh toán do trình độ phát triển
thấp của nền kt trong nước hoặc vì những lý do về môi trường, an ninh quốc gia. Việc áp

dụng ngoại lệ này chỉ có tính chất tạm thời và được áp dụng không phân biệt giữa các
nước bạn hàng khác nhau, khi có điều kiện phải xoá bỏ việc áp dụng qui định này.
g)

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp, bất đồng thương mại qua
thương lượng hoà giải.


Nguyên tắc này nhằm đảm bảo an toàn và công bằng cho các quan hệ thương mại.
Các tranh chấp giữa các bên trước tiên phải được giải quyết thông qua thương lượng và
hoà giải trên cơ sở thiện chí. Trong trường hợp, đã áp dụng các biện pháp như vậy mà các
bên thấy vẫn không thoả đáng thì có thể đệ trình lên ban hội thẩm của WTO. Khi đó một
hội đồng trọng tài gồm 3 chuyên gia từ các nước không có liên quan tới các bên tranh
chấp được lập ra để xem xét các vấn đề bất đồng và đưa ra ý kiến cho ban hội thẩm xem
xét. Sau khi xem xét, ban hội thẩm ra quyết định và quyết định và quyết định của ban hội
thẩm mang tính chất ràng buộc đối với các bên.
h)

Nguyên tắc về quyền được từ chối và tự vệ trong trường hợp
khẩn cấp
Nguyên tắc này được ghi nhận trong GATT 1994. Theo đó, trong một số trường

hợp đặc biệt, quốc gia thành viên có thể từ chối việc thực hiện một hoặc một số nghĩa vụ
đã cam kết (điều 25 GATT 1994), nhưng chỉ được thực hiện quyền này nếu được WTO
tán thành. Về quyền tự vệ căn cứ vào nội dung điều 1919 của GATT 1994 thì quốc gia
thành viên có thể áp dụng các biện pháp tự vệ trong trường hợp khẩn cấp, nhằm bảo hộ
sản xuất hàng hóa trong nước như tăng thuế xuất nhập khẩu vượt mức trần đã cam kết, áp
dụng hình thức hạn chế số lượng hàng nhập khẩu vượt khẩu; trợ giá đối với hàng hoá sản
xuất trong nước. Tuy vậy, biện pháp này chỉ có tính tạm thời và phải tổ chức quốc tế và
khu vực.


i)

Nguyên tắc tôn trọng các tổ chức quốc tế và khu vực.
WTO là đại diện cho thương mại toàn cầu, nhưng vẫn thừa nhận những tổ chức

kinh tế khu vực hoạt động trong lĩnh vực hoạt động trong lĩnh vực thương mại quốc tế,
miễn là những tổ chức này tuân thủ nguyên tắc tự do hoá thương mại, thực hiện chính


sách kinh tế mở, hướng ngoại, không co cụm thực hiện việc loại bỏ dần hoặc giảm dần
các hàng rào quan thuế, phi quan thuế gây cản trở cho dòng thương mại toàn cầu. Do vậy,
nguyên tắc MFN được miễn trừ trong quan hệ giữa các nước thành viên của tổ chức kinh
tế, thương mại khu vực dưới hình thức liên minh quan thuế hoặc khâu mậu dịch tự do.
j)

Nguyên tắc giành điều kiện thuận lợi hơn cho các nước đang
phát triển và chậm phát triển .
Theo nguyên tắc này, WTO thừa nhận phải giành cho các nước đang phát triển và

chậm phát triển những điều kiện thuận lợi hơn trong thương mại quốc tế hàng hoá và dịch
vụ. Đối với những nước này, các nước công nghiệp phát triển sẽ không yêu cầu có đi có
lại trong các cam kết, giảm hoặc bỏ hàng rào quan thuế hoặc phi quan thuế để các nước
đó có thể tham gia đầy đủ thương mại quốc tế.

1.4/ CÁC HIỆP ĐỊNH CƠ BẢN CỦA WTO.
Các Hiệp định của WTO điều chỉnh 3 lĩnh vực chính là hàng hoá, dịch vụ và
quyền sở hữu trí tuệ. Các Hiệp định này đưa ra các nguyên tắc cho tự do hoá
thương mại để trên cơ sở đó các thành viên WTO đưa ra những cam kết cắt giảm
thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào thương mại và mở cửa thị truờng dịch vụ. Sau đây là

danh mục các hiệp định cơ bản trong WTO:

Hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới.
Phụ lục 1: Phục lục 1A gồm 20 hiệp định đa phương về thương mại hàng hóa; Phụ
lục 1B là Hiệp định đa phương về thương mại dịch vụ ( GATS); Phụ lục 1C là Hiệp định
đa phương về các khía cạnh liên quan đến thương mại của sở hữu trí tuệ (TRIPS).


Phụ lục 2: Hiệp định đa phương về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải
quyết tranh chấp thương mại (DSU).
Phụ lục 3: Hiệp định đa phương về cơ chế rà sóat chính sách thương mại (TPRM).
4 hiệp định nhiều bên về mua sắm máy bay dân dụng, mua sắm của chính phủ, sản phẩm
sữa và sản phẩm thịt bò. 23 tuyên bố và quyết định liên quan đến một số vấn đề chưa đạt
được thỏa thuận trong Vòng đàm phán Uruguay.

1.5 / CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA WTO.
Hiện nay, WTO có 153 nước thành viên (tính đến tháng 9/2009), Đại Hội đồng
WTO đã chấp thuận Cape Verde là thành viên thứ 153 của WTO).
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng, họp ít nhất hai năm
một lần, là cơ quan đưa ra quyết định đối với mọi vấn đề của bất kỳ hiệp định cụ thể nào.
Thông thường, Hội nghị Bộ trưởng đưa ra các đường lối, chính sách chung để các cơ
quan cấp dưới tiến hành triển khai.
Dưới Hội nghị Bộ trưởng là Đại Hội đồng, tiến hành các công việc hang ngày của
WTO trong thời gian giữa các Hội nghị Bộ trưởng, thông qua ba cơ quan chức năng là:
Đại Hội đồng, Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) và Cơ quan Rà soát Chính sách
Thương mại (TPRB).
Đại Hội đồng giải quyết các vấn đề của WTO thay mặt cho Hội nghị Bộ trưởng và
báo cáo lên Hội nghị Bộ trưởng. Đại Hội đồng cũng đồng thời đóng vai trò là Cơ quan
Giải quyết Tranh chấp (DSB) và Cơ quan Rà soát chính sách (TPRB).
Cơ quan Giải quyết Tranh chấp được phân ra làm Ban Hội thẩm (Panel) và Uỷ ban

Kháng nghị (Appellate). Các tranh chấp trước hết sẽ được đưa ra Ban Hội thẩm để giải
quyết. Nếu như các nước không hài lòng và đưa ra kháng nghị thì Uỷ ban Kháng nghị sẽ
có trách nhiệm xem xét vấn đề.


Dưới Đại Hội đồng, WTO có ba Hội đồng về ba lĩnh vực thương mại cụ thể là Hội
đồng Thương mại Hàng hoá, Hội đồng Thương mại Dịch vụ và Hội đồng về Quyền sở
hữu trí tuệ liên quan đến thương mại. Các hội đồng này có các cơ quan cấp dưới (các uỷ
ban và các tiểu ban) để thực thi các công việc cụ thể trong từng lĩnh vực. (Ví dụ, Hội
đồng Thương mại Hàng hoá có 11 uỷ ban, 2 nhóm công tác và Cơ quan Giám sát Hàng
dệt, Hội đồng Thương mại Dịch vụ có 2 uỷ ban, 2 nhóm công tác...).
Tương đương với các Hội đồng này, WTO còn có một số uỷ ban, có phạm vi chức
năng nhỏ hơn, nhưng cũng báo cáo trực tiếp lên Đại Hội đồng, đó là các Uỷ ban về
Thương mại và Phát triển, Thương mại và Môi trường, Hiệp định Thương mại Khu vực,
Hạn chế bảo vệ Cán cân Thanh toán, Uỷ ban về Ngân sách, Tài chính và Quản lý, và Tiểu
ban về các nước Chậm phát triển.
Bên cạnh các uỷ ban đó là các Nhóm công tác về Gia nhập, và Nhóm Công tác về
Mối quan hệ giữa Đầu tư và Thương mại, về Tác động qua lại giữa Thương mại và Chính
sách cạnh tranh, về Minh bạch hoá Mua sắm của Chính phủ. Ngoài ra còn có hai uỷ ban
về các hiệp định nhiều bên.
Một cơ quan quan trọng của WTO là Ban Thư ký WTO đứng đầu là Tổng Giám
đốc, dưới đó là 4 Phó Tổng Giám đốc, phụ trách từng mảng cụ thể. Ban Thư ký có
khoảng 500 nhân viên, có trụ sở tại Geneva, với nhiệm vụ chính là:
Hỗ trợ về kỹ thuật và quản lý cho các cơ quan chức năng của WTO (các hội đồng,
uỷ ban, tiểu ban, nhóm đàm phán) trong việc đàm phán và thi các hiệp định.
Trợ giúp kỹ thuật cho các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước chậm phát
triển; Phân tích các chính sách thương mại và tình hình thương mại;
Hỗ trợ trong việc giải quyết tranh chấp thương mại liên quan đến việc diễn giải
các quy định, luật lệ của WTO; Xem xét vấn đề gia nhập của các nước và tư vấn cho các
nước này.



1.6 / QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP VÀO NỀN KINH TẾ THỚI GIỚI
CỦA VIỆT NAM.
Ngày nay, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu trong tiến trình toàn
cầu hóa nền kinh tế. Có thể thấy việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) chính
là cơ hội để Việt Nam tiến sâu vào hội nhập và phát triển bình đẳng với các quốc gia trên
thế giới.
Đảng Cộng sản VN với bản chất cách mạng và tư duy chính trị nhạy bén đã khởi
xướng và tiến hành công cuộc đổi mới một cách toàn diện và sâu sắc trên các lĩnh vực, cả
về đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới cơ cấu kinh tế, đổi mới quan hệ kinh tế đối ngoại và
cải cách nền hành chính quốc gia. Gắn kết các nội dung đổi mới và để bảo đảm cho quá
trình đổi mới là quá trình hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế quản lý, từng bước hình
thành đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường. Chính điều này không chỉ đảm bảo phát
huy được nội lực của đất nước, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân mà còn tạo ra
tiền đề bên trong - nhân tố quyết định cho tiến trình hội nhập với bên ngoài.
Việt Nam đã phát triển mạnh quan hệ toàn diện và mở cửa buôn bán biên giới với
Trung Quốc; gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á(ASEAN), tham gia Hiệp định
mậu dịch tự do ASEAN; Diễn đàn kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC); là sáng lập
viên Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM). Cùng với các nước ASEAN ký Hiệp định thành
lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, ASEAN Hàn Quốc, ASEAN - Ấn Độ,
ASEAN - Úc và New Zealand. Ký hiệp định thương mại song phương với Hoa kỳ (BTA).
Đây là những bước đi quan trọng, là sự "cọ xát" từng bước trong tiến trình hội nhập.
Thực tiễn những năm qua chỉ rõ: khi mở cửa thị trường, lúc đầu chúng ta có gặp
khó khăn. Mở cửa buôn bán biên giới với Trung Quốc, hàng hoá nước bạn tràn vào đẩy
doanh nghiệp nước ta vào thế bị động, một số ngành sản xuất "lao đao", một số doanh
nghiệp phải giải thể. Tuy nhiên với thời gian, các doanh nghiệp nước ta đã vươn lên, trụ
vững và đã có bước phát triển mới.



Nhiều doanh nghiệp đã đổi mới công nghệ sản xuất, cải tiến kiểu dáng, mẫu mã,
nâng cao chất lượng sản phẩm, nhờ đó mà tăng được sức cạnh tranh, phát triển được
sản xuất, mở rộng được thị trường. Thực hiện các cam kết theo hiệp định mậu dịch tự
do ASEAN, chúng ta đã loại bỏ hàng rào phi quan thuế, giảm thuế nhập khẩu. Đến năm
2006, có 10.283 dòng thuế chiếm 99,43% biểu thuế nhập khẩu ASEAN có thuế suất chỉ ở
mức 0 - 5%, nhưng các ngành sản xuất của ta vẫn phát triển với tốc độ cao. Trong nhiều
năm qua, sản xuất công nghiệp tăng trung bình 15 - 16%/năm, kim ngạch xuất khẩu tăng
trung bình trên 20%/năm là nhân tố quan trọng bảo đảm tăng trưởng kinh tế khá cao và
liên tục, tạo thêm nhiều công ăn việc làm.
Điều đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng lâu dài là tiến trình đổi mới kinh tế theo cơ
chế thị trường và hội nhập quốc tế đã từng bước xuất hiện lớp cán bộ trẻ có trình độ
chuyên môn cao, thông thạo ngoại ngữ, xuất hiện một đội ngũ những nhà doanh nghiệp
mới, có kiến thức, năng động và tự tin, dám chấp nhận mạo hiểm, dám đối đầu với cạnh
tranh. Đây là nguồn lực quý báu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nhận thức được toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng
nhiều nước tham gia, năm 1995 Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại
thế giới và kiên trì đàm phán và cải tổ để được gia nhập tổ chức này.

CHƯƠNG II / THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRÊN
CON ĐƯỜNG GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM .


2.1 NHỮNG THUẬN LỢI CỦA VIỆT NAM VỚI TƯ CÁCH LÀ
THÀNH VIÊN CỦA WTO.
Đẩy mạnh thương mại và các quan hệ của Việt Nam với các thành viên khác
trong WTO và đảm bảo nâng cao dần vai trò quan trọng của Việt Nam trong các
hoạt động kinh tế và chính trị toàn cầu như là một thành viên của WTO.
 Việc bãi bỏ Hiệp định đa sợi MFA sẽ tạo điều kiện cho việc xuất khẩu hàng dệt và

sản phẩm may mặc của Việt Nam. Nhưng nhà xiất khẩu hàng dệt Việt Nam sẽ

được đảm bảo trong vòng 10 năm sau khi trở thành thành viên của WTO, các nước
nhập khẩu sẽ không có hạn chế MFA đối với hàng dệt và hàng may mặc của Việt
Nam.
 Gia nhập WTO trong khi đang là nước xuất khẩu giao đứng thứ 3 trên thế giới Việt

Nam sẽ có nhiều thị trường xuất khẩu hơn vì các hạn chế về số lượng đối với gạo
và các nông sản khác sẽ được chuyển thành thuế và thuế sẽ phải cắt giảm theo
hiệp định về nông nghiệp của WTO.
 Là một nước đang phát triển (thu nhập dưới 1000 USD/người), Việt Nam sẽ có lợi
vì sẽ nhận được một số ưu đãi đặc biệt mà WTO quy định đối với các nước phát
triển.
 Việt Nam sẽ có lợi không trực tiếp từ yêu cầu của WTO về việc cải cách hệ thống

ngoại thương, bảo đảm tính thống nhất của các chính sàch thương mại, các quy
định của WTO sẽ loại bỏ dần dần những bất hợp lý trong thương mại thúc đẩu cải
thiện hệ thống kinh tế, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ hệ thống kế hoạch hoá
tập trung sang thị trường.


Những thuận lợi về kinh tế mà VIỆT NAM nhận được khi gia nhập vào tổ chức
WTO là khá lớn, và nếu vận dụng tốt VIỆT NAM sẽ nhận được thành quả kinh tế ngoài
sự mong đợi :

Vào WTO mang lại động lực cho cải cách nền kinh tế Việt Nam.
Thúc đẩy Việt Nam xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật mang tính đầy đủ
theo chuẩn mực quốc tế tạo hàng lang pháp lý cho sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt
Nam đây được coi là nền tảng cho sự phát triển kinh tế có hiệu quả, tham gia hội nhập
thành công nền kinh tế toàn cầu. Xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế: các doanh nghiệp Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế có điều kiện
thuận lợi hơn về thủ tục và chi phí khi tiếp cận với thị trường thế giới trong hoạt động

kinh doanh xuất nhập khẩu. Minh bạch và công khai cơ chế chính sách.
Nổ lực và kiên trì hơn trong chống tham nhũng. Cải cách bộ máy quản lý nhà
nước theo hướng gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, giảm thiểu các biện pháp hành chính
can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.Các doanh nghiệp có thể lập kế
hoạch đầu tư và hoạt động thương mại dài hạn hơn. Thay đổi tư duy kinh tế: từ kinh tế
nhà nước sang kinh tế tư nhân làm động lực cơ bản cho phát triện kinh tế;từ kinh tế nhà
nước sang kinh tế thị trường


Doanh nghiệp có môi trường kinh doanh thuận lợi hơn để phát triển
Có hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ mang chuẩn mực quốc tế. Không bị phân
biệt đối xử, tất cả các thành phần kinh tế điều phải hoạt động theo cơ chế thị trường.
Doanh nghiệp được tiếp cận với thị trường trong và ngoài nước. Độc quyền tiếp cận với
thị trường. Có môi trường hành chính đơn giản công khai. Hạ tầng cơ sở kinh doanh tốt
hơn (Nhà nước bỏ hoặc giảm tài trợ trực tiếp và đầu tư nhiều hơn vào phát triển cơ sở hạ
tầng)

Việt Nam thêm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài

Môi trường pháp lý Việt Nam mang chuẩn mực quốc tế và cải cách theo hướng
hấp dẫn hơn. Nhà đầu tư nước ngoài có quyền đầu tư nhiều hơn vào thị trường tài chính,
ngân hàng chứng khoáng sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Nhà đầu tư nước ngoài không
bị phân biệt đối xử.Việt Nam cam kết cho nhà đầu tư nước ngoài được thưởng quy chế


tối huệ quốc MFN và chịu sự điều tiết bởi luật đầu tư, luật kinh doanh, thuế…giống như
các doanh nghiệp ở Việt Nam.

Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp có điều kiện giảm
Thuế nhập khẩu giảm nên mua nguyên nhiên vật liệu máy móc sẽ rẻ hơn, giá

thành sản phẩm hạ. Cạnh tranh lớn thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ,
máy móc, quản lí tối ưu chi phí kinh doanh. Chính sách thuế nhập khẩu mới sẽ giúp nền
kinh tế và doanh nghiệp tái cơ cấu sản xuất theo hướng có hiệu quả hơn,chi phí thủ tục
hành chính ít hơn, tham nhũng được kiểm soát chăt chẽ hơn.

Giảm chi phí vì cơ sở hạ tầng phát triển tốt hơn
Xuất khẩu sẽ dễ dàng hơn. Sản phẩm do Việt Nam sản xuất mang tính cạnh tranh
về giá hơn (chi phí kinh doanh giảm). Năng lực cạnh tranh tốt hơn. Hàng hóa và dịch vụ
của Việt Nam khi thâm nhập vào các nước thành viên khác được đối xử bình đẳng như
hàng hóa dịch vụ ở nước sở tại theo nguyên tắc NT. Việt Nam được hưởng ngay lập tức
và vô điều kiện kết quả thành tựu cắt giảm thuế đa phương của WTO qua 50 năm nổ lực
khi xuất khẩu sản phẩm và dịch vụ sang các nước thành viên khác. Việt nam được xếp
vào nước có thu nhập bình quân đầu người trên 1000 USD/năm nên khi vào WTO sản
phẩm xuất khẩu của Việt Nam sẽ được hưởng nhiều ưu đãi nhập khẩu, khi thâm nhập vào
thị trường của các nước phát triển. Ngoài ra, Việt Nam còn được phép duy trì các loại trợ
cấp xuất khẩu bị cấm đối đa số các nước thành viên WTO khác. Gia tăng cơ hội cho
ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là nghành Dệt May vì theo tinh thần hiệp
định ATC thì các hạn ngạch xuất khẩu sẽ được bãi bỏ sau năm 2005. Doanh nghiệp dễ
dàng tiếp cận với thông tin về thị trường nhập khẩu (WTO yêu cầu mỗi nước thành viên
phải công khai minh bạch chính sách ngoại thương của mình)

Hàng hóa và dịch vụ nhiều hơn


Do phát triển nhiều nhà cung cấp cho nên sự lựa chọn của doanh nghiệp và người
dân sẽ nhiều hơn, hàng hóa rẽ hơn, dịch vụ chất lượng hơn, phong phú về mẫu mã hơn.

Doanh nghiệp có điều kiện được bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
mình tốt hơn trên thị trường trong và ngoài nước
Giải quyết tranh chấp thương mại với các nước thành viên. Tác phẩm, sáng chế,

thương hiệu kiểu dáng của sản phẩm Việt Nam được thừa nhận và bảo vệ trên thị trường,
quyền sở hữu trí tuệ được tôn trọng và bảo vệ

Đời sống nhân dân được cải thiện
Nhiều cơ hội việc làm thu nhập gia tăng: Các bằng cấp giáo dục đào tạo do Việt
Nam cấp được thừa nhận ở các nước thành viên nên lực lượng lao động ở Việt Nam có
điều kiện thuận lợi tiếp cận với thị trường lao động quốc tế. Nhiều hàng hóa và dịch vụ
hơn, giá cả cạnh tranh giúp người lao động thỏa mãn tốt hơn, sử dụng sản phẩm có chất
lượng tốt hơn. Có điều kiện học tập, chữa bệnh, du lịch tốt hơn, tiếp cận vời thông tin
phương tiện giải trí nhiều hơn. Có điều kiện phát huy nội lực của mỗi cá nhân nhiều hơn.

Gia nhập WTO: Hòa nhập chứ không hòa tan
Có tính đến trình độ và điều kiện phát triển không đồng đều của các nước thành
viên để ứng xử phù hợp với tình hình kinh tế mỗi nước, kéo dài lộ trình giảm thuế, cho
các nước đang phát triển, đã giúp Việt Nam có thời gian chuẩn bị ứng phó nhằm khắc
phục sự hòa tan hay thôn tính trong thực hiện tự do hóa thương mại khi mà thế và lực của
chúng ta chưa hội đủ năng lực cạnh tranh sòng phẳng

2.2 / NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA VIỆT NAM VỚI TƯ CÁCH LÀ
THÀNH VIÊN WTO.


Bên cạch những lợi ích mà Việt Nam sẽ có khi Việt Nam trở thành thành viên
của WTO, Việt Nam cũng sẽ được yêu cầu cam kết thực hiện một loạt các nghĩa vụ
Đó là:


Việt Nam sẽ tạo thuận lợi cho các thành viên khác của WTO thâm nhập thị trường




dưới hình thức giảm thuế nhập khẩu cho hàng nông nghiệp và công nghiệp.
Việt Nam sẽ phải mở cửa thị trường dịch vụ cho các nhà kinh doanh nước ngoài

như ngân hàng, bảo hiểm, vận tải, thông tin, kỹ thuật và tư vấn...
• Việt Nam sẽ phải cam kết bảo vệ ở mức độ phù hợp về sở hữu trí tuệ bằng các thủ


tục pháp lý trong nước đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.
Việt Nam sẽ phải sửa đổi các quy định về đầu tư, cam kết thực hiện các nghĩa vụ

quốc gia và giảm hay loại bỏ các hạn chế về đầu tư nước ngoài.
• Việt Nam phải tiếp tục cải cách kinh tế phù hợp với yêu cầu của WTO các nghĩa
vụ khác mà Việt Nam sẽ cam kết thực hiện là áp dụng thống nhất cho các chính
sách thương mại trên phạm vi toàn quốc.
Các vấn đề liên quan đến chính sách ổn định vĩ mô và hoàn thiện khuôn khổ luật
pháp. Trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường, khi tham gia WTO, có thể một số
chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của đất nước sẽ phụ thuộc mạnh vào các diễn biến trên trường quốc
tế và khu vực. Vấn đề tỷ giá, lạm phát, cán cân thanh toán, ngân sách thâm hụt... sẽ có
những diễn biến phức tạp, đòi hỏi có sự chỉ đạo chặt chẽ và uyển chuyển. Mặc dù đã có
nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến kinh tế và thương mại, Việt
Nam vẫn còn nhiều việc phải làm khi gia nhập WTO. Trước hết, phải liên tục hoàn thiện
các quy định về cạnh tranh để bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công
bằng khi hội nhập nhằm thúc đẩy tính năng động và khả năng thích ứng nhanh - yếu tố
quyết định sự thành bại của chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bố trí nguồn lực. Đồng thời,
những cam kết mở cửa thị trường của ta là cam kết theo lộ trình nên tiến trình hoàn thiện
khuôn khổ pháp lý sẽ còn tiếp tục diễn ra trong một thời gian dài .

Việc thực hiện các nghĩa vụ trên để trở thành thành viên WTO đã
đặt Việt Nam đứng trước những thách thức lớn.



Không một quốc gia nào có thể nhận được các lợi ích do cơ hội mở rộng thương
mại và các điều kiện thuận lợi khác của WTO nếu không tự cam kết giảm thuế quan và
các công cụ phi thuế quan; đồng thời dần dần mở rộng thị trường của mình cho cạnh
tranh quốc tế. Câu hỏi đặc ra là: trong khi nền kinh tế Việt Nam còn yếu kém, hàng hoá
chưa đủ sức cạnh tranh trên thương trường quốc tế thì liệu mở cửa thị trường nội địa có
dẫn đến sự giảm sút và hi sinh nền công nghiệp nội địa hay không, cũng như làm thế nào
để nền công nghiệp của một quốc gia đang phát triển như Việt Nam có thể mang lại kết
quả gì ? cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng để tìm ra câu trả lợi xác đáng cho vấn đề cái được
cái mất trước khi thực hiện các yêu cầu của WTO.
Một khó khăn không nhỏ trong tiến trình gia nhập WTO chính là xuất pháp từ nếp
nghĩ, tâm lý mong muốn tiếp tục về thời hạn việc bảo hộ nhiều ngành sản xuất hạn chế
việc tự do thương mại do sợ bị cạnh tranh, bị trong khi đó, chúng tư lại mong muốn các
nước khác hạ thấp hàng rào thuế quan và khi quan thuế để, chúng ta có thể đẩy mạnh
được xuất khẩu.
Những việc giảm và tiến tới xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan để đáp
ứng điều kiện gia nhập WTO lại đặt Việt Nam trước một vấn đề nan giải: Việc giảm thuế
cũng như không hạn chế hàng nhập có làm nền kinh tế
Việt Nam suy yếu do hàng nội không đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại ? đó là
chưa tính tới nếu trở thành thành viên WTO, Việt Nam có thể sẽ phải chấp nhận điều
khoản bảo vệ lựa chọn mà các nước đưa vào nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam
đối với các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam.
Để giải quyết các vấn đề nêu trên, Việt Nam cần phải xây dựng được một chính
sách phù hợp sao cho vừa giải quyết được những vấn đề trên vừa đáp ứng được điều kiện
của WTO. Phần lớn các chính sách thương mại của Việt Nam hiện nay điều mamg tính
chất manh mún không mang tính hệ thống, thống nhất và dự báo cao. Các văn bản pháp
luận được ban hành dường như chỉ mang tính đối phó hay biện pháp tình thế. Mặc khác,
tính khả thi của các chính sách này chưa cao. Việc ban hành chính sách và cơ chế thực



×