Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Chủ trương của đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.31 KB, 24 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trước hết, để có thể hiểu được củ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Đảng trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi
mới, ta phải hiểu được thế nào là thời kỳ đổi mới.
Về khái niệm: Đổi Mới là một chương trình cải cách kinh tế và một số mặt xã hội
do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thập niên 1980. Chính sách Đổi Mới
được chính thức thực hiện từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI,
năm 1986 [1].
Đổi Mới về kinh tế được thực hiện trước tiên. Trong những năm đầu thế kỷ
21, Việt Nam mới bắt đầu thực hiện Đổi Mới trên các mặt khác: xã hội, chính trị,
tư duy, cơ chế, văn hóa... Tuy nhiên chính trị không có những thay đổi nhiều so với
Kinh tế.


Phần I: KHÁI QUÁT:
(Qua mấy chục năm xây dựng và đổi mới phương thức tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (1994), Đảng ta
đã xác định nhiệm vụ và phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây là nhiệm vụ lớn
lao của Đảng và của toàn dân tộc, cho nên Đảng ta luôn quan tâm chỉ đạo thực hiện
và cụ thể hóa trong các văn kiện của Đảng như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương
8, khóa VII, năm 1995; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, v.v..) ->
Bạn thuyết trình có thể dẫn dắt như này vào nhé
1. Khái niệm nhà nước pháp quyền XHCNVN:
Là nhà nước trong đó phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy
nhà nước do pháp luật quy định và thừa nhận tính tối cao của pháp luật; bao hàm
việc xác định rõ ràng quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với hệ thống pháp luật
đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều
chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội, nhất là việc bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân (hoặc con người nói chung).
* Bốn tiêu chí chung của nhà nước pháp quyền như sau:


- Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do pháp luật
quy định;
- Nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật (đảng phái, tổ
chức, tôn giáo... phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật);
- Quyền lực nhà nước được xác định gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp;
- Có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng
của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội; đặc
biệt là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân (hoặc con người
nói chung).


2. Quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền
XHCN(của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân):
Theo quan điểm của Đảng ta, Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay
bao gồm những đặc trưng cơ bản sau:
- Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền là nhà nước có hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn
chỉnh, có chất lượng cao; thể hiện được ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân
dân, phù hợp với tiến bộ xã hội. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức và mọi
thành viên trong xã hội phải tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp
luật.
- Thứ hai, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đảm bảo mọi quyền lực nhà
nước đều thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền của mình thông qua hình
thức đại diện (qua cơ quan nhà nước do mình bầu ra) và hình thức trực tiếp.
- Thứ ba, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực hiện quản lý xã hội bằng
pháp luật, tăng cường tính pháp chế trong xã hội, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm
pháp luật; bảo đảm thực hiện và bảo vệ quyền tự do cũng như những lợi ích chính
đáng, hợp pháp khác của công dân, chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt
động của mình.
- Thứ tư, Nhà nước pháp quyền Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo nguyên

tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp - hành pháp - tư pháp, nhằm hạn
chế sự lộng quyền, lạm quyền, xâm hại tới lợi ích hợp pháp của công dân từ phía
nhà nước
Nhà nước pháp quyền là một phạm trù lịch sử. Nó có những giá trị mang
tính phổ quát, nhưng cũng có những nét đặc thù được quy định bởi đặc điểm, điều
kiện cụ thể của từng quốc gia, dân tộc. Vì thế, việc xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền phải phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội
cụ thể của mỗi nước. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn coi
nhà nước là một nội dung trọng tâm, là cột trụ của hệ thống chính trị, là công cụ
thực hiện quyền lực của nhân dân. Đồng thời, chủ trương xây dựng Nhà nước Việt
Nam theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân; lấy liên minh công nông và tầng lớp trí thức làm nền tảng, đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản.


3. Những đặc trưng cơ bản của NHà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam:
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong giai đoạn hiện nay
Đại hội X chỉ rõ: Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân;
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cương lĩnh (bổ
sung phát triển năm 2011) thông qua tại Đại hội XI yêu cầu : "Không ngừng hoàn
thiện
tổ
chức
nhà
nước".

Để thực hiện yêu cầu trên trong những năm tới cần làm tốt các nhiệm vụ
sau:
Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các
quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám
sát tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan
công
quyền.
Hai là, đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội:
- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử để
nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội
chuyên trách, phát huy tốt hơn vai trò của đại biểu và đoàn đại biểu Quốc hội.
- Tổ chức lại một số uý ban của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt động của Hội
đồng
dân
tộc

các
uỷ
ban
của
Quốc
hội.
- Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh.
- Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và
chức
năng
giám
sát
tối
cao

của
Quốc
hội.
Ba là, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ:
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo
hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại.
- Luật hoá cơ cấu tổ chức của Chính phủ; tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực,
bảo
đảm
hiệu
lực,
tinh
gọn

hợp
lý.
Cơ cấu lại bộ máy Chính phủ theo hướng giảm mạnh các đầu mối phù
hợp với yêu cầu đổi mới chức năng, nhiệm vụ. Cơ cấu lại các cơ quan trong hệ
thống hành chính nhà nước các cấp theo hướng giảm mạnh cấp phó, bỏ cấp trung
gian; chuyển các bộ phận phục vụ sang hình thức hợp đồng dịch vụ; phân cấp


mạnh cho cấp dưới gắn với thực hiện có hiệu quả thanh tra, kiểm tra của cấp trên.
Tăng cường quyền chủ động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động, về tổ chức,
nhân sự và tài chính của các đơn vị dịch vụ công cộng. Nghiên cứu để áp dụng cơ
chế thủ trưởng cơ quan hành chính cấp trên bổ nhiệm chức danh người đứng đầu
cơ quan chính quyền cấp dưới. Tách hoạt động hành chính với các hoạt động sự
nghiệp, các hoạt động công quyền với các hoạt động dịch vụ. Thực hiện đầy đủ
nguyên tắc công khai dân chủ và phục vụ nhân dân đối với các cơ quan và công
chức nhà nước. Thực hiện nghiêm ngặt chế độ công vụ trong các cơ quan nhà

nước.
- Nghiên cứu việc thành lập cơ quan tài phán hành chính để giải quyết các khiếu
kiện
hành
chính.
- Thực hiện phân cấp mạnh, hợp lý cho chính quyền địa phương, giao quyền chủ
động hơn nữa cho các địa phương, nhất là trong việc quyết định về ngân sách, tài
chính, đầu tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Trung ương.
Bốn là, xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các cơ
quan

pháp:
- Xây dựng hệ thống các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh,
bảo
vệ
công
lý,
quyền
con
người.
- Đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp
khẩn trương, đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ
chế
công
tố
gắn
với
hoạt
động

điều
tra.
- Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập
pháp,
hành
pháp


pháp.
Năm là, đối mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng dân nhân và Uỷ ban
nhân
dân
các
cấp:
- Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, bảo
đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm
vi
được
phân
cấp.
- Phát huy vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân.
- Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối với chính
quyền

nông
thôn,
đô
thị,
hải
đảo.

Sáu là, đổi mới tổ chức, bộ máy hành chính và hoạt động của cơ quan hành chính,
cán
bộ,
công
chức:
- Thực hiện các giải pháp nhằm chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của cơ
quan,
cán
bộ,
công
chức.


Ban hành và thực hiện Luật về công chức, công vụ; xác định rõ cơ quan, công chức
nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức
nghề nghiệp cho từng loại cán bộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá, khen
thưởng,
kỷ
luật
đối
với
cán
bộ,
công
chức.
- Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu nâng
cao chất lượng cả về năng lực và phẩm chất đạo đức.
- Có cơ chế đưa ra khỏi bộ máy Nhà nước những người không xứng đáng, kém
phẩm chất, năng lực. Tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động của bộ máy nhà
nước, hành vi của công chức. Trừng trị nghiêm khắc theo pháp luật những hành vi

phạm pháp, phạm tội bất cứ ở cương vị, chức vụ nào.
- Thực hiện chế độ trách nhiệm trong đề cử, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo theo
hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó, cấp sử dụng trực tiếp giới thiệu để cấp có
thẩm
quyền
xem
xét,
quyết
định.
- Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí. Đây là đòi hỏi
bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta nhằm xây dựng bộ máy lãnh
đạo, quản lý trong sách, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe
doạ sự sống còn của chế độ ta.

Phần II: TÌNH HÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG THỜI GIAN QUA
VÀ NHỮNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM TRONG XÂY DỰNG PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ MỚI
1. Thành tựu và hạn chế:
a/ Thành tựu
Trên bình diện nghiên cứu cơ bản đã đạt được sự thống nhất trong
việc xác định sự cần thiết, bản chất, vai trò, những đặc trưng cơ bản của Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam. Về mặt quyết tâm chính trị, nhiệm vụ xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã được xác định là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Trên phương diện lập pháp,
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một nguyên tắc hiến định.
Dưới góc độ chính trị - pháp lý có thể khái quát những thành tựu cơ bản của Đảng
ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN như sau:


Một là,Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác lập một số nguyên tắc cơ bản, là

nền tảng tư tưởng và quan điểm cho việc kiến tạo một Nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đó là các nguyên tắc quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân với các cơ chế bảo đảm cho quyền lực nhà nước luôn
luôn nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân dân; Nguyên tắc bảo đảm quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm
tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước từ phía nhân dân; Nguyên
tắc Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền… Những nguyên tắc này không
chỉ dừng ở những chủ trương chính trị mà đã được thể chế trong Hiến pháp năm
2013- Đạo luật gốc, đạo luật cơ bản nhất của Nhà nước. Điều này, đòi hỏi trong
quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN phải không ngừng quán triệt, vận
dụng và hiện thực hóa những nguyên tắc hiến định.
Hai là, xác định rõ hơn vị trí, vai trò và chức năng của Nhà nước. Nhà
nước pháp quyền là Nhà nước đề cao vai trò của pháp luật, tính độc lập của cơ
quan xét xử, hoạt động của Nhà nước vì con người và bảo vệ quyền con người,
quyền công dân. Nhận thức rõ những giá trị này, trong lãnh đạo xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ vị trí, vai trò
của Nhà nước là trụ cột, trung tâm của hệ thống chính trị, chuyển mạnh chức năng
của Nhà nước theo hướng phục vụ nhân dân.
Theo đó, một mặt, Đảng ta đã lãnh đạo phát huy tối đa vai trò trung
tâm của Nhà nước trong quản lý kinh tế - xã hội, đẩy mạnh cải cách tổ chức và
hoạt động của các bộ phận quyền lực nhà nước - từ lập pháp, hành pháp, tư pháp,
phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Nhà nước từ chỗ là người trực tiếp điều
hành sản xuất kinh doanh, phân phối, sang là người có vai trò định hướng, điều
tiết, phối hợp, hướng dẫn một cách có kế hoạch nền kinh tế thị trường. Nhà nước
đang trở thành người bảo trợ, xúc tác, tạo lập môi trường, huy động các nguồn lực
và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế, ngăn chặn, hạn chế những mặt tiêu
cực và khuyết tật của kinh tế thị trường, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ lợi ích
của nhân dân. Mặt khác, quá trình xã hội hóa đang được đẩy nhanh, từng bước loại
bỏ dần sự can thiệp của Nhà nước vào những lĩnh vực quan hệ xã hội mà tính chất

của chúng không đòi hỏi sự can thiệp ấy, tăng cường vai trò và khả năng độc lập
của các thiết chế chính trị - xã hội theo hướng tạo ra những chủ thể bình đẳng và có
tư cách kiểm soát hoạt động của Nhà nước.


Ba là, công tác phòng ngừa và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng
đạt được nhiều kết quả. Với chế độ chính trị nhất nguyên thì quan liêu, tham nhũng
là một nguy cơ hiện thực, đe dọa nền dân chủ. Vì vậy, phòng ngừa và đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng, làm trong sạch bộ máy của Đảng và Nhà nước là
một nhiệm vụ tất yếu được đặt ra. Trong thực tế, nhiệm vụ nói trên đã được triển
khai thường xuyên và đạt những kết quả nhất định. Các văn kiện của Đảng từ Đại
hội IX đến nay đều đánh giá: trong nhiều năm qua, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn
Đảng đã được coi trọng. Những biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên đã giảm khá nhiều và đang tiếp tục được cảnh tỉnh, răn đe;
một số nơi tham nhũng, quan liêu, lãng phí, trong đó có không ít vụ việc tồn đọng
kéo dài nhiều năm, đã được tiếp tục giải quyết…
Bốn là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững được vai trò lãnh đạo Nhà
nước và xã hội, từng bước tìm tòi và dẫn dắt quá trình nhận thức cũng như quá
trình thể chế hóa các quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền XHCN trên cả
phương diện chính trị và pháp lý.
Đảng ngày càng xác định rõ hơn nội dung của phương thức lãnh đạo và
các kênh, các con đường đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối
với Nhà nước pháp quyền XHCN.
Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bao quát toàn bộ những
vấn đề then chốt về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, thể hiện ở ba bộ
phận trọng yếu:
1) lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật,
chính sách của Nhà nước và tổ chức thực hiện thông qua bộ máy nhà nước, bảo
đảm cho đường lối, chủ trương của Đảng trở thành hiện thực sinh động trong đời
sống xã hội của nhân dân;

2) Lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của công cuộc
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam;
3) Lãnh đạo kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được cải
tiến theo hướng ngày càng có nhiều cách làm nhằm thực hiện và mở rộng dân chủ
trong quan hệ Đảng - Nhà nước - Dân (ứng cử tự do, công khai các cuộc họp của
Quốc hội, công bố các dự thảo luật để nhân dân góp ý, công bố nội dung các kỳ
họp của Chính phủ...); các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng phát huy vai


trò tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân và vai trò người phản biện đối với
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Ngày càng phân định rõ hơn chức năng của các tổ chức đảng và các cơ
quan nhà nước, nhất là ở Trung ương, giảm bớt sự chồng chéo. Theo hướng đó,
hoạt động của Đảng và mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước thể hiện ngày càng rõ
hơn tính chất pháp quyền. Vai trò của các tổ chức nhà nước ngày càng được phát
huy, được đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động, tính chủ động, hiệu lực và
hiệu quả ngày càng được nâng cao.
Đảng bố trí cán bộ, đảng viên của mình giữ những cương vị chủ chốt
trong bộ máy chính quyền các cấp, nhờ đó, giữ vững được sự lãnh đạo toàn diện và
tuyệt đối của Đảng đối với hệ thống chính trị.
Năm là, về phương diện tổ chức quyền lực, Đảng lãnh đạo đổi mới tổ
chức, hoạt động của Nhà nước theo hướng minh bạch, cụ thể các bộ phận thực hiện
quyền lực và mối quan hệ giữa các cấp chính quyền.
Cùng với sự khẳng định về sự thống nhất của quyền lực nhà nước và sự
tồn tại của ba bộ phận quyền lực trong mối quan hệ phân công, phối hợp, kiểm soát
quyền lực nhà nước thì việc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng thể
hiện rõ hơn. Tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền
nói chung, của từng loại cơ quan nhà nước từng bước được đổi mới; chủ trương cải

cách tổng thể bộ máy nhà nước đang được triển khai có kết quả:
- Trong lãnh đạo tổ chức, kiện toàn hoạt động của Quốc hội
Hoạt động lập pháp đã có sự đổi mới mạnh mẽ trong xây dựng các đạo
luật, nghị quyết, pháp lệnh, đã kịp thời thể chế hóa đường lối của Đảng và bao quát
hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng lãnh đạo Quốc hội thực hiện tốt
chức năng quyết định các vấn đề quan trọng và chức năng giám sát tổ chức hoạt
động của bộ máy nhà nước.
- Trong lãnh đạo tổ chức, kiện toàn hoạt động của Chính phủ
Đảng lãnh đạo Chính phủ thông qua chủ trương, đường lối và các
phương thức khác để định hướng hoạt động, điều hòa, phối hợp giữa các cơ quan
của Chính phủ với các cơ quan Trung ương và giữa Chính phủ với chính quyền địa
phương. Thông qua đó, Đảng kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động và cơ chế điều
hành của Chính phủ, bảo đảm cho Chính phủ thực hiện được quyền hành pháp,


đồng thời phải bảo đảm được tính định hướng chính trị thể hiện trong đường lối,
chính sách của Đảng.
- Trong lãnh đạo tổ chức, kiện toàn hoạt động của các cơ quan tư pháp
Đảng xác định đúng vị trí, chức năng, thẩm quyền của từng cơ quan tư
pháp và các thiết chế bổ trợ tư pháp trong mối liên hệ với khâu trung tâm là xét xử
theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền. Đó là các yêu cầu về tính độc lập, khách
quan, phụng công, thủ pháp, chí công vô tư, tinh thần trách nhiệm trước nhân dân,
dân chủ, minh bạch. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương về cải cách tư pháp của
Đảng, các quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan trong thời
gian qua đã và đang tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của toàn xã hội về
vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác tư pháp trong điều kiện xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Trong lãnh đạo tổ chức, kiện toàn hoạt động, đa dạng hóa mô hình của chính
quyền địa phương các cấp
Hiến pháp năm 2013 đã tạo ra bước tiến lập pháp quan trọng, làm nền

tảng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo
hướng đa dạng hóa các mô hình, gắn với thực tiễn và điều kiện tổ chức chính
quyền đô thị, mô hình tổ chức chính quyền nông thôn, phù hợp với đặc điểm nông
thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định.
b/ Hạn chế
Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân còn một số khâu chậm đổi mới. Quốc hội còn lúng túng trong việc thực
hiện chức năng giám sát. Bộ máy quản lý nhà nước các cấp, nhất là ở cơ sở còn
yếu kém. Tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận
công chức, nhất là ở các cơ quan trực tiếp giải quyết công việc của dân và doanh
nghiệp, chậm được khắc phục. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương, nhất là tổ
chức hội đồng nhân dân, còn những điểm bất hợp lý. Cải cách hành chính chưa đạt
yêu cầu. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở nhiều nơi
còn mang tính hành chính, hình thức. Dân chủ trong xã hội còn bị vi phạm. Kỷ
cương, kỷ luật ở nhiều nơi không nghiêm"1. Hơn nữa, công tác tuyên truyền, giáo
dục pháp luật đối với nhân dân còn hạn chế.
Trước hết, “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,


hành pháp, tư pháp” là một nguyên tắc mới, chỉ đạo toàn bộ tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, nhưng cho đến nay không phải đã có sự nhận thức thống
nhất, đầy đủ. Vì thế, trên thực tế việc thể chế hóa một cách minh bạch, đồng bộ,
hiệu quả cơ chế phân công phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, giữa Trung ương và địa phương chưa thật sự
hợp lý, chưa phát huy đầy đủ hiệu lực, hiệu quả và trách nhiệm của mỗi quyền.
Đây là vấn đề vừa mang tính chất lý luận, nhận thức, lẫn tổ chức thực hiện cần
được
tiếp
tục

làm
rõ.
Hai là, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN thì nhiệm vụ hàng đầu là
phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, minh bạch, hiệu lực và hiệu quả trong
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mặc dù, đã có nhiều tiến bộ, nhưng nhìn chung
hoạt động lập pháp của Quốc hội thời gian qua chỉ mới chú trọng theo chiều rộng
(để đáp ứng đủ luật trên các lĩnh vực) chứ chưa chủ động nhiều theo chiều sâu. Vì
thế, nâng cao chất lượng lập pháp để có những đạo luật, bộ luật thật sự trở thành
rường cột, ổn định lâu dài, đủ sức đảm đương vai trò là phương tiện hàng đầu trong
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường mở cửa, chủ động hội nhập quốc tế và
xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN. Đây là nhiệm vụ quan trọng
trong
những
năm
tới.
Ba là, thủ tục hành chính là “kinh thánh tự do” của công dân trong mối
quan hệ với công quyền của một nhà nước dân chủ và pháp quyền. Vì thế, trong 30
năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng cải cách hành chính. Tuy nhiên, cải
cách hành chính còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu, cho nên thủ tục
hành chính vẫn còn phức tạp, phiền hà, là những rào cản lớn đối với việc tạo lập
môi trường xã hội thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh lành mạnh, minh bạch có
hiệu quả. Tiếp tục cải cách hành chính là nhiệm vụ phải tiếp tục một cách quyết liệt
trong
những
năm
tới.
Bốn là, cải cách tư pháp tuy được quan tâm, nhưng tiến hành còn chậm,
nền tư pháp nước nhà chưa thật sự là biểu tượng của công bằng và công lý của một
quốc gia dân chủ và pháp quyền, cho nên vẫn còn xảy ra tình trạng nhũng nhiễu,
tiêu cực, oan sai, tồn đọng án, bỏ lọt tội phạm trong hoạt động tư pháp. Vì thế, tiếp

tục cải cách tư pháp vẫn là nhiệm vụ rất nặng nề và phải với quyết tâm cao hơn nữa
trong
thời
gian
tới.


Năm là, kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề mới, nhưng có vai trò to
lớn trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền ngày càng thật sự của dân, do dân và
vì dân; phòng chống sự lạm quyền, lộng quyền từ phía quyền lực nhà nước, góp
phần đấu tranh có hiệu quả với phòng chống tham nhũng, lãng phí trong các cơ
quan nhà nước, trong đội ngũ cán bộ, công chức. Vì thế, phải khẩn trương xây
dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bao gồm cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước từ bên ngoài nhà nước (đó là cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà
nước gồm: Mặt trận Tổ quốc, các thành viên, tổ chức, các cá nhân tiêu biểu và
công dân thực hiện quyền lực nhà nước một cách trực tiếp); cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (cơ chế kiểm soát
bên trong nội bộ nhà nước) và cơ chế bảo vệ Hiến pháp chuyên trách theo luật định
được điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy định. Xây dựng đồng bộ các cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước là một nhiệm vụ không kém phần quan trọng trong xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong những năm tới.

2. Các yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời kì
mới
- Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII đã đưa ra sự đánh giá tình hình xây dựng
Nhà nước trong thời gian qua, khẳng định cần tiếp tục thực hiện Nghị quyết lần thứ
8 Ban Chấp hành Trung ương khoá VII và nhấn mạnh ba yêu cầu:
+ Một là: tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua
các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia xây dựng
và bảo vệ Nhà nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với hoạt động

của cơ quan và cán bộ công chức Nhà nước. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân.
+Hai là: tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam
trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; cán bộ công chức Nhà
nước thật sự là công bộc, tận tuỵ phục vụ nhân dân. Đây là vấn đề được đặt ra hết
sức bức thiết nhằm ngăn chặn và hạn chế những tiêu cực, tình trạng sách nhiễu,
quan liêu, tham nhũng,… trong các cơ quan nhà nước.


+ Ba là: tăng cường và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc
xây dựng Nhà nước pháp quyền. Lãnh đạo xây dựng Nhà nước, tổ chức quyền lực
nhà nước là sứ mệnh chính trị của Đảng nhằm giữ vững bản chất của Nhà nước
XHCN, bảo đảm thực hiện đúng đắn vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Cần xây dựng và hoàn thiện nội dung, phương thức
lãnh đạo của Đảng phù hợp với đặc điểm, tính chất của cơ quan nhà nước ở từng
cấp, chú trọng sự lãnh đạo của tổ chức đảng đối với việc kiểm kê, kiểm soát trong
quản lý kinh tế, tài chính.
- Nghị quyết cũng nhấn mạnh “ 3 yêu cầu trên quan hệ chặt chẽ với nhau, dựa
trên nền tảng chung là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân, thực hiện đại đoàn kết dân tộc mà nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân
và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sảnViệt Nam”.
-Thực hiện những yêu cầu trên phải:
+Bám sát thực tiễn, giải quyết những vấn đề thực tiễn.
+Tiến hành từng bước vững chắc, với lộ trình phù hợp để bảo đảm chắc chắn thành
công.
+Học tập có chọn lọc kinh nghiệm của các nước.
3. Những phương hướng cơ bản xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta:



Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong xây dựng và quản lý nhà nước
Phương hướng vừa cơ bản vừa cấp bách hàng đầu lúc này là giữ vững phát
huy bản chất tốt đẹp của nhà nước ta, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy
thoái đạo đức, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sách nhiễu nhân dân trong
bộmáy nhà nước.
Mở rộng dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; quyền lợiđi
đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ, dân chủ được thể chế hoá thành pháp luật,
dân chủ trong khuôn khổ pháp luật; khắc phục tình trạng vô kỷ luật, dân chủ
cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối.
Để thực hiện được phương hướng nêu trên cần triển khai các nhiệm vụsau:
Thứ nhất, tiếp tục cải tiến chế độ bầu cử các cơ quan dân cử, bảo
đảm cho cử tri tiếp xúc, đối thoại với ứng cử viên, có đủ thông tin để trao


đổi, nhận xét, lựa chọn và bầu cử đại biểu của mình thực sự dân chủ trên cơ
sở có sự lãnh đạo, hướng dẫn về tiêu chuẩn, cơ cấu.
Thứ hai, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan dân cử
(Quốc hội, Hội đồng nhân dân) để các cơ quan này thực sự là cơ quan đại
diện của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước trong việc xem xét và
quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương.
Thứ ba, đẩy mạnh cải cách thể chế và thủ tục hành chính trong các
lĩnh vực trực tiếp liên quan đến đời sống nhân dân.
Thứ tư, xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan nhà nước
trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
Thứ năm, các cơ quan có thẩm quyền lập pháp, lập quy cần rà soát,
sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới các văn bản pháp luật với các định chế cụ
thể, rõ ràng về quyền giám sát, kiểm tra của nhân dân trong các lĩnh vực sản
xuất, phân phối, thu chi ngân sách, tài chính, các chế độ thu và sử dụng học
phí, viện phí... trong các cơ quan, đơn vị sản xuất kinh doanh, trường học,

bệnh vện.
Thứ sáu, nghiên cứu thực hiện từng bước chế độ dân chủ trực tiếp,
trước hết ở cấp cơ sở.
• Nâng cao chất lượng hoạt động và kiện toàn tổ chức quốc hội
a) Nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động lập pháp
Căn cứ vào định hướng phát triển đất nước, xuất phát từ nhu cầu thực tiễnvà
điều kiện, khả năng thực hiện mà xác định rõ thứ tự ưu tiên trong
chươngtrình xây dựng pháp luật dài hạn và hằng năm.
Chỉ đạo chặt chẽ quá trình chuẩn bị và thông qua các dự án luật, đảm bảo
quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, trên cơ sở tổng kết thực tiễn Việt
Nam, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài, tránh sao chép, rập
khuôn. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định của các Uỷ ban của Quốc
hội để các kỳ họp của Quốc hội có thể xem xét và thông qua các dự án luật
được nhanh chóng và có chất lượng cao.
Các luật ban hành cần bảo đảm tính khả thi, dễ hiểu, quy định cụ thể đểgiảm
bớt tình trạng phải chờ đợi quá nhiều văn bản hướng dẫn mới thi hành được.
Phấn đấu trong một thời gian nhất định Nhà nước có thể quản lý đất nước
chủ yếu bằng các đạo luật.
b) Nâng cao năng lực quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước
Phấn đấu tiến tới việc Quốc hội thực hiện đầy đủ quyền quyết định ngânsách
như Hiến pháp quy định, bảo đảm các điều kiện để Quốc hội xem xét quyết


định một cách thực chất các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, các chương
trình quốc gia, các dự án đầu tư lớn cũng như các vấn đề quan trọng về tổ
chức bộmáy nhà nước và nhân sự.
c) Nâng cao chất lượng giám sát
Nâng cao chất lượng giám sát của Quốc hội, khẩn trương xây dựng cơ
chếgiám sát có hiệu lực. Quốc hội có chương trình giám sát hàng năm tập
trung vào những vấn đề bức xúc như chống tham những, chống lãng phí, về

quản lý vốn và tài sản nhà nước, bắt giam, điều tra, truy tố, xét xử… Đổi
mới việc xem xét báo cáo công tác và việc trả lời chất vấn của Chính phủ,
Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Đề cao vai trò của cơ quan kiểm toán nhà nước trong việc kiểm toán mọi cơ
quan, tổ chức có sử dụng ngân sách nhà nước.Cơ quan kiểm toán báo cáo
kết quả kiểm toán cho Quốc hội, Chính phủ và công bố công khai cho dân
biết.
d) Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy
Tiếp tục kiện toàn tổ chức Quốc hội. Đại biểu Quốc hội phải có đủ tiêuchuẩn
theo quy định của pháp luật để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của người đại
biểu, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của tầng lớp nhân dân. Cần tăng thêm
hợp lý số đại biểu nguyên trách cho các Uỷ ban trong Quốc hội. Cải tiến và
nâng cao chất lượng hoạt động của đại biểu Quốc hội và sinh hoạt của Quốc
hội. Có các hình thức thu hút các chuyên gia giỏi làm tư vấn cho các Uỷ ban
của Quốc hội trong các hoạt động thẩm định và giám sát. Nghiên cứu và
thành lập thêm một số Uỷ ban của Quốc hội.
• Tiếp tục cải chính nền hành chính của nhà nước
a) Nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ
- Quản lý kinh tế - xã hội theo pháp luật, giữ gìn ổn định chính trị - xã hội và
trật tự kỷ cương; chăm lo xây dựng kết cấu hạ tầng và những ngành kinh tế then
chốt, bảo đảm môi trường và điều kiện chung cho nhân dân phát triển sản xuất kinh
doanh, nâng cao đời sống.
- Thông qua các công cụ quản lý vĩ mô và vai trò của kinh tế nhà nước để
quản lý thị trường, điều tiết thu nhập kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế 29
với thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các
vùng và các tầng lớp dân cư.
- Tăng cường kiểm kê, kiểm soát sản xuất và phân bố; quản lý, sử dụng có
hiệu quả vốn và tài sản công với tư cách đại diện chủ sở hữu nhà nước, khắc phục
tình trạng vô chủ, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí.



- Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hoá với tăng cường an ninh, quốc
phòng và mở rộng hoạt động đối ngoại, để các lĩnh vực này tác động hỗ trợ nhau
cùng phát triển.
b) Đẩy mạnh phân cấp quản lý
Phân định trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền theo hướng
phân cấp rõ hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh
thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Cần phân cấp đúng mức và rành mạch trách nhiệm và thẩm quyền hành
chính, nhằm tạo điều kiện và thúc đẩy chính quyền địa phương phát huy tính chủ
động, khai thác mọi tiềm năng tại chỗ để phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương và
đóng góp ngày càng nhiều cho sự phát triển chung của đất nước.
Việc phân định trách nhiệm và thẩm quyền của các cấp chính quyền phải
phù hợp với tính chất và yêu cầu của từng ngành và lĩnh vực hoạt động, với chức
năng, nhiệm vụ của từng cấp chính quyền trên từng địa bàn; phù hợp với điều kiện
và khả năng của các địa phương có quy mô, vị trí khác nhau
Quan hệ phân cấp phải gắn liền với việc tăng cường sự phối hợp quản lý
theo ngành và theo lãnh thổ, được quy định thành thể chế; đặc biệt cần tăng cường
trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát của cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương đối
với các cơ quan và tổ chức hoạt động trên địa bàn, kể cả các đơn vị được quản lý
theo ngành dọc.
Các bộ và các cơ quan quản lý của Chính phủ phải thực hiện chức năng quản
lý hành chính về nhà nước và ngành, lĩnh vực của mình trong phạm vi cả 30 nước,
đồng thời thực hiện trách nhiệm đại diện chủ sở hữu nhà nước trong phạm vi được
uỷ quyền đối với các doanh nghiệp nhà nước.
c) Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra
Tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là công cụ quan
trọng và hữu hiệu để bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước, thiết lập kỷ cương xã hội.
Đổi mới tổ chức thanh tra phù hợp với chức năng quản lý nhà nước trong
điều kiện mới; phát triển mạnh tổ chức thanh tra việc thực hiện thể chế về từng lĩnh

vực trong toàn xã hội như tài chính, lao động, giáo dục, vệ sinh - y tế, xây dựng,
công cụ,...
Nghiên cứu tăng thẩm quyền cho các cơ quan thanh tra trong việc xử lý hành
chính tại chỗ các vi phạm pháp luật; phân định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan
thanh tra và toà án hành chính trong việc giải quyết các khiếu kiện đối với các cơ
quan và cán bộ, công chức hành chính, tạo điều kiện để các toà án hành chính phát
huy đúng chức năng và thẩm quyền.
Đẩy mạnh hoạt động tự thanh tra, kiểm tra trong nội bộ các cơ quan, tổ chức
nhà nước.
• Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
a) Kiện toàn chính quyền cơ sở


- Kiện toàn Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn với thành phần bao gồm
những cán bộ chủ chốt của đảng bộ, mặt trận và các đoàn thể, đồng thời thu hút
những người ngoài Đảng có đủ tiêu chuẩn, có nhiệt tình, có kiến thức và kinh
nghiệm thực tiễn trong lao động sản xuất, có tín nhiệm trong nhân dân.
- Thực hiện hình thức, biện pháp bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân
dân ở cơ sở, đồng thời quy định một số trách nhiệm nhất định giao cho nhóm đại
biểu Hội đồng nhân dân xã theo từng thôn (làng, ấp, bản) như tổ chức việc xây
dựng, thực hiện hương ước, giám sát trưởng thôn (bản, ấp).
- Quy định hợp lý số lượng cán bộ chính quyền cơ sở có phân biệt theo đặc
điểm và dân số của từng loại đơn vị cơ sở; chú trọng công tác đào tạo, bồi 31
dưỡng và chính sách đãi ngộ phù hợp với chức trách của họ. Chính phủ quy định
nguyên tắc chung, còn mức phụ cấp cụ thể cho mỗi chức danh cán bộ xã, thị trấn
do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định cho sát hợp với điều kiện thực tế của
từng địa phương.
b) Đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
các cấp
- Kiện toàn và củng cố Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp để đảm

bảo thực hiện tốt nhiệm vụ và thẩm quyền đã được phân cấp; đồng thời, đề cao
trách nhiệm tham gia cùng chính quyền cấp trên thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà
nước đối với tổ chức theo ngành dọc trên địa bàn lãnh thổ.
- Xây dựng Hội đồng nhân dân các cấp có thực quyền để thực hiện đầy đủ
vai trò là cơ quan đại diện của nhân dân, cơ quan quyền lực của nhà nước ở địa
phương, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở từng cấp.
- Nghiên cứu phân biệt sự khác nhau giữa hoạt động của chính quyền đô thị
với hoạt động của chính quyền ở nông thôn để đa dạng hoá mô hình tổ chức chính
quyền địa phương.
- Uỷ ban nhân dân các cấp cần được kiện toàn theo hướng tinh gọn, giảm bớt
số uỷ viên là thủ trưởng cơ quan chuyên môn; quy định rõ hơn trách nhiệm, thẩm
quyền của tập thể Uỷ ban nhân dân và chủ tịch Uỷ ban nhân dân.
• Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực là yếu tố quyết
định chất lượng của bộ máy nhà nước. Có biện pháp thực hiện tốt chủ trương về
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đã nêu trong Nghị quyết Trung ương tám
(khoá VII) và các điểm bổ sung sau đây:
- Cán bộ lãnh đạo phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức toàn diện, trước hết về
đường lối chính trị, về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; được bốtrí, điều
động theo nhu cầu và lợi ích của đất nước, có thể được luân chuyển từ trung ương


về địa phương, từ địa phương lên trung ương và từ địa phương này ra địa phương
khác.
- Xúc tiến ban hành thể chế và tổ chức thực hiện việc kê khai về tài sản, trước hết
là về nhà, đất của cán bộ. Quy định chặt chẽ các chế độ, tiêu chuẩn của cán bộ lãnh
đạo các cấp, các ngành về sử dụng ô tô, trang bị nơi làm việc, nhà và đất ở... với
tinh thần tiết kiệm, công bằng, chống lãng phí, chống đặc quyền, đặc lợi.
• Đẩy mạnh cải cách tư pháp
a) Hoạt động tư pháp phải nhằm đấu tranh nghiêm trị các tội chống Tổ quốc, chống

chế độ, tội tham nhũng và các tội hình sự khác, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
công dân. Các cơ quan tư pháp phải là mẫu mực của việc tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật, phải thể hiện công lý, tính dân chủ, công khai trong hoạt động.
b) Nâng cao chất lượng hoạt động của viện kiểm sát theo chức năng quy định trong
Hiến pháp, tập trung làm tốt chức năng công bố và kiểm soát hoạt động tư pháp.
c) Đổi mới hệ thống toà án nhân dân
d) Kiện toàn các cơ quan điều tra, bổ trợ tư pháp
- Sắp xếp lại cơ quan điều tra theo hướng gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa trinh
sát điều tra ban đầu với hoạt động của cơ quan điều tra nhằm bảo đảm sự thống
nhất trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, bảo đảm quyền dân chủ và sự an
toàn của công dân.
- Kiện toàn các tổ chức thi hành án, bảo đảm thi hành đầy đủ, nhanh chóng các bản
án và quyết định của toà án, của tổ chức trọng tài; chấn chỉnh các trại giam để giáo
dục, cải tạo tốt phạm nhân.
- Nghiên cứu việc thành lập cảnh sát tư pháp để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ phiên
toà, phục vụ công tác thi hành án, dẫn giải bị can, bị cáo, quản lý các trại giam...
- Củng cố và tăng cường các tổ chức bổ trợ tư pháp.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị,
đạo đức và có năng lực chuyên môn.
• Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước


a) Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước có hiệu quả và chất lượng cao hơn, đồng thời phát huy
trách nhiệm, tính chủ động và hiệu lực cao trong quản lý, điều hành của nhà nước,
theo các quan điểm, mục tiêu và phương hướng được xác định tại Nghị quyết
Trung ương 5 khoá X. Phải nắm vững và thực hiện ba nội dung trọng yếu về sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong tình hình mới:
- Lãnh đạo các cơ quan nhà nước kịp thời thể chế hoá đường lối, chính sách của
Đảng, nhất là chủ trương về thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, về đổi mới thể

chế kinh tế, về xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa, củng
cố, nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, phát triển kinh tế hợp tác.
- Tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước; xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, thực sự vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đày tớ trung thành của nhân dân.
- Tăng cường kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên trong các doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp khác, các tổ chức sự nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước,
các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang đối với việc thực hiện các nghị quyết của
Đảng, các quy định của Nhà nước, nhất là về quản lý kinh tế, tài chính, thu chi
ngân sách, việc sử dụng, bảo quản vốn và tài sản của nhà nước, không phân biệt
đại diện chủ sở hữu thuộc ngành hoặc địa phương.
b) Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng trong các cơ
quan nhà nước
- Đảng đoàn Quốc hội và các đảng đoàn Hội đồng nhân dân phải tiếp tục kiện toàn
về tổ chức, đề cao trách nhiệm trong việc chủ động đề xuất những vấn đề thuộc
lĩnh vực của mình, phản ánh đầy đủ ý kiến của đại biểu với cấp uỷ.
- Có cơ chế gắn hoạt động của trưởng ban và các ban của đảng với hoạt động của
các Uỷ ban của Quốc hội và các ban của Hội đồng nhân dân. Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng để Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện tốt vai trò của
mình.
- Xây dựng quy chế, làm rõ mối quan hệ lãnh đạo của Bộ Chính trị với các Ban cán
sự, giữa Ban cán sự đảng ở các Bộ với Ban cán sự đảng Chính phủ cho phù hợp
với mối quan hệ về mặt nhà nước. Phát huy vai trò của đảng uỷ, chi bộ trong các


cơ quan nhà nước. Sắp xếp lại đầu mối tổ chức đảng trong các khối cơ quan hành
chính, doanh nghiệp theo đúng quy định của điều lệ Đảng.
- Kiện toàn ban cán sự đảng ở các cơ quan tư pháp. Nghiên cứu, cụ thể hoá cơ chế
cấp uỷ cho ý kiến về việc xử lý các vụ án quan trọng, phức tạp trên cơ sở tôn trọng
quyền theo luật định của các cơ quan tư pháp và đảm bảo tốt sự lãnh đạo của Đảng.

- Các cấp uỷ đảng phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
nhân dân trong việc xây dựng và bảo vệ chính quyền, bảo đảm quyền làm chủ của
nhân dân; kiện toàn tổ chức, đổi mới hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhằm
thu hút sự tham gia ngày càng rộng rãi của nhân dân vào việc quản lý nhà nước.

Phần 3: Câu hỏi – Trả lời:
1.Anh(chị) hãy nêu những phương hướng XHCN mà Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ?
TL: Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguy ên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.


Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
2.Là 1 sinh viên anh(chị) cần làm gì để xây dựng NN pháp quyền XHCN ở VN?
TL:
+ Có đạo đức tốt,thực hiện đúng nội quy của nhà trường
+ Đấu tranh chống tham ô,hối lộ,đút lót,chạy điểm trong trường học
+ Nói không với tệ nạn xã hội
+ Tham gia các hoạt động có ích:sinh viên tình nguyện,phát cơm từ thiện,…
+ Truyên truyền về xây dựng và bảo vệ TQ

VV…VV…

3.Chủ tịch HCM đã từng nói:’’Muốn xây dựng XHCN trước hết cần có những con
người CNXH”.Anh(chị) hiểu như thế nào về câu nói trên?
TL:
+ Con người xã hội chủ nghĩa là con người có ý thức, trình độ và năng lực làm chủ.
Đồng thời xã hội tạo ra những điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội, v.v. để con
người thực hiện được quyền làm chủ đó.
+ Con người xã hội chủ nghĩa là con người lao động mới, có tri thức sâu sắc về
công việc mà mình đang đảm nhận, lao động có ý thức kỷ luật, có tinh thần hợp tác
với đồng nghiệp, biết đánh giá chất lượng lao động, hiệu quả lao động của bản
thân.
+ Con người xã hội chủ nghĩa là con người sống có văn hoá, có tình nghĩa với anh
em, bạn bè, mọi người xung quanh, biết được vị trí của mình trong từng mối quan
hệ xã hội và giải quyết đúng đắn được những mối quan hệ đó; thường xuyên có ý
thức nâng cao trình độ tri thức về mọi mặt, ra sức rèn luyện sức khoẻ, bảo đảm
phát triển toàn diện cá nhân.


+ Con người xã hội chủ nghĩa là con người giàu lòng yêu nước, thương dân, có
tình thương yêu giai cấp, thương yêu đồng loại, sống nhân văn, nhân đạo, có ý thức
và kiên quyết đấu tranh bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ những thành quả
cách mạng; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá của kẻ thù.

4.Trong các nguồn lực:tự nhiên,KH-CN,nguồn vốn,nguồn lực con người thì nguồn
lực nào là quan trọng nhất?
TL:
Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực khoa học công nghệ, nguồn vốn, nguồn lực con người thì nguồn lực con người là quyết định
nhất, bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn lực
con người được phát huy. Chúng ta biết rằng, điều kiện tự nhiên, khí hậu, địa lý,

nguồn vốn có vai trò rất lớn trong sự phát triển của một quốc gia. Song những yếu
tố đó ở dưới dạng tiềm năng, tự chúng là những khách thể bất động. Chúng chỉ trở
thành nhân tố "khởi động", và phát huy tác dụng khi kết hợp với nguồn lực con
người. Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt, ngược lại nguồn lực con người
ngày càng đa dạng và phong phú và có khả năng nội sinh không bao giờ cạn.
Ngược lại nguồn lực con người càng được sử dụng, lại càng được nâng cao chất
lượng và hiệu quả.

5.Ngày nay,chúng ta cần xây dựng cán bộ,nhân viên công chức cần phải đáp ứng
yêu cầu gì?
TL:
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình
độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước”. Đề án đẩy
mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức cũng xác định mục tiêu: xây dựng một
nền công vụ “chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả”.
Nâng cao chất lượng cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu cải cách nền hành chính
nhà nước


Yêu cầu về tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của cán bộ, công
chức khi thi hành công vụ
Sự phát triển của khoa học công nghệ đòi hỏi cán bộ, công chức không ngừng rèn
luyện nâng cao năng lực và trình độ
Quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và môi trường “công dân toàn cầu” yêu
cầu cán bộ, công chức phải nhạy bén và thích ứng với diễn biến tình hình kinh tế xã hội của khu vực và thế giớ
Câu 6: Một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quy ền là Nhà
nước có hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, có chất lượng cao. Đúng hay
sai?
Đáp án: Đúng
Câu 7: Nhà nước pháp qyền XHCNVN có bao nhiêu tiêu chí chung? Nêu các

tiêu chi đó.
Đáp án: có 4 tiêu chí chung
- Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do pháp luật
quy định;
- Nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật.
- Quyền lực nhà nước được xác định gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp;
- Có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch.
Câu 8:Cần phải làm gì để thực hiện tốt các yêu cầu xây dựng của nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn này?
- Thực hiện những yêu cầu trên phải :
+Bám sát thực tiễn, giải quyết những vấn đề thực tiễn.
+Tiến hành từng bước vững chắc, với lộ trình phù hợp để bảo đảm chắc chắn
thành công.
+Học tập có chọn lọc kinh nghiệm của các nước.


Câu 9: Nghị quyết Trung ương III đã nhấn mạnh bao nhiêu yêu cầu để xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN?
A. 2

B. 3

Đáp án: B

C. 4

D. 5




×