Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.56 KB, 16 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

Chủ đề: Giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng

Môn:

Luật ngân hàng


Nhóm 13:
Nguyễn tuấn Anh
Trần Đình Bảo Anh
Lý Văn Cảnh
Bùi Văn Luận


Mở đầu
Hiện nay nước ta đang trong giai đoạn đổi mới trong mọi lĩnh vực như về kinh tế,
chính trị, xã hội và các lĩnh vực khác. Các giao dịch trong xã hội diễn ra hàng ngày
rất đa dạng, pháp luật khó có thể điều chỉnh được toàn bộ các quan hệ trong cuộc
sống. Thông thường các bên lựa chọn hình thức giao dịch thông qua hợp đồng –
hợp đồng ghi nhận sự thỏa thuận giữa các bên, là cơ sở để pháp luật bảo vệ quyền
lợi của các bên khi có tranh chấp. Trong thực tiễn ta nhận thấy hợp đồng tín dụng
ngân hàng có nhiều vấn đề phức tạp và chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Tại các tổ
chức tín dụng, đặc biệt là ở các ngân hàng hợp đồng tín dụng ngân hàng được sử
dụng nhiều trong các giao dịch với các đối tác của mình. Bởi hợp đồng tín dụng
ngân hàng chứa nhiều yếu tố phức tạp và nhạy cảm nên nó rất dễ dẫn đến tranh
chấp của các bên trong hợp đồng. Khi lợi ích giữa các bên không đạt được, không
thể cùng nhau thoả thuận thì thông thường bên bị ảnh hưởng đến quyền và lợi ích


hợp pháp sẽ làm thủ tục khởi kiện ra toà án để được pháp luật bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình, nếu trước đó hai bên chưa thỏa thuận việc giải quyết tranh
chấp hợp đồng tín dụng thông qua trọng tài thương mại.

3


Chương I:. Khái quát về giải quyết tranh chấp về lĩnh vực ngân hàng
1.

Khái niệm

Tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng là những mâu thuẫn phát sinh từ quyền
và nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng ngân hàng giữa bên cho vay (ngân hàng) và
bên vay (khách hàng). Đó là những tranh chấp về lãi suất, nợ gốc, nợ lãi, việc giải
ngân, xử lý tài sản đảm bảo...
2.

Đặc điểm tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng.

- Một bên chủ thể của tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng luôn là ngân
hàng, có thể là nguyên đơn hoặc bị đơn khi tranh chấp này được Tòa án thụ lý giải
quyết. Đối tượng của tranh chấp thường là vốn tiền tệ cụ thể đó là những tranh
chấp về:
+ Hành vi vi phạm nghĩa vụ của một hoặc các bên trong hợp đồng. Hành vi
vi phạm nghĩa vụ này, có thể là hành vi của bên cho vay (các ngân hàng và các
định chế tài chính khác) khi hợp đồng tín dụng có hiệu lực, việc giải ngân khoản
tín dụng mà hai bên đã thoả thuận là nghĩa vụ của bên cho vay. Tuy nhiên, trên
thực tế có nhiều trường hợp sau khi ký kết hợp đồng tín dụng với khách hàng bên
cho vay đã không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ giải ngân. Điều

này, làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của bên vay như bên vay không
tiến hành kế hoạch kinh doanh như dự kiến, không có vốn đầu tư vào dự án đầu tư,
đấu thầu đã được đăng ký. Hậu quả là bên cho vay bị tổn thất rất lớn về hiệu quả
kinh tế cũng như uy tín, danh dự, thậm chí thương hiệu của bên vay.
+ Việc vi phạm nghĩa vụ trả lãi và thậm chí cả gốc và lãi. Trên thực tế, có
trường hợp hai bên không thoả thuận rõ ràng về lãi suất đối với cả thời hạn vay
hoặc ban đầu do cần tiền để thực hiện kế hoạch của mình nên khách hàng chấp
nhận mức lãi suất đó nhưng sau một thời gian thực hiện hợp đồng phía khách hàng
4


nhận thấy lãi suất đó cao quá nên không đồng ý. Tuy nhiên, đa phần là dạng tranh
chấp về vi phạm nghĩa vụ trả nợ của khách hàng khi đáo hạn.
+ Dạng tranh chấp cũng khá phổ biến của hợp đồng tín dụng đó là tranh chấp
về việc thực hiện biện pháp bảo đảm đối với hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng
tài sản. Các tổ chức tín dụng coi bảo đảm tín dụng là nguồn thu nợ thứ hai khi
nguồn thu nợ thứ nhất (các lưu chuyển tiền tệ) không thể thanh toán được nợ. Các
nguồn thu nợ thứ nhất này thể hiện dưới hình thức lưu chuyển tiền tệ của bên vay.
Trong hoạt động kinh doanh có rất nhiều lý do dẫn đến nguồn thu nợ thứ nhất
không thực hiện được, nếu không có nguồn bổ sung chắc chắn các tổ chức tín dụng
sẽ rơi vào tình trạng rủi ro tín dụng.
+ Dạng tranh chấp nữa của hợp đồng tín dụng là tranh chấp về chủ thể xác lập,
thực hiện hợp đồng. Tranh chấp này ngày càng đa dạng và phức tạp nhất là trong
những trường hợp có yếu tố nước ngoài. Điều này gây không ít khó khăn cho cơ
quan giải quyết tranh chấp. Liên quan tới những tổ chức tín dụng 100% vốn nước
ngoài.
+ Dạng tranh chấp chiếm một tỷ lệ khá lớn trong hợp đồng tín dụng là dạng tranh
chấp về định giá, xử lý tài sản bảo đảm đối với những hợp đồng tín dụng có bảo
đảm bằng tài sản. Đối với những hợp đồng cho vay tiêu dùng, việc xác định tài sản
bảo đảm thuộc sở hữu của vợ chồng hay tài sản riêng của từng người có ý nghĩa

quan trọng đối với hoạt động xử lý tài sản này. Có nhiều trường hợp các nhân viên
ngân hàng thẩm định không kỹ, kết quả thẩm định không chính xác dẫn đến chấp
nhận những tài sản bảo đảm không đúng quy định của pháp luật về giao dịch bảo
đảm. Đối với những hợp đồng cho vay kinh doanh, liên quan tới xác định tài sản
bảo đảm có thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên khách hàng hay không, tổ chức
đó có đủ tư cách pháp lý theo quy định của pháp luật để tiến hành ký kết hợp đồng
5


không? Trên thực tế, khi hợp đồng tín dụng được ký kết thì phía ngân hàng mới
biết bên khách hàng ký không đúng thẩm quyền.
+ Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng còn là những tranh chấp về luật áp
dụng và cơ quan giải quyết tranh chấp trường hợp một trong hai bên là bên nước
ngoài mà khi ký kết hợp đồng các bên đã không thoả thuận lựa chọn cơ quan giải
quyết tranh chấp cũng như luật áp dụng.
Tranh chấp phát sinh ngày càng nhiều, diễn biến cũng đa dạng và có tính chất phức
tạp. Do đó, việc tìm hiểu những đặc điểm, nguyên nhân dẫn đến tranh chấp là hết
sức cần thiết. Từ đó, có những biện pháp, đường lối, chính sách nhằm khắc phục
tình trạng tranh chấp để tiến tới giảm đáng kể số lượng tranh chấp.
- Chứng cứ trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng được tòa án thụ lý
giải quyết mà các bên đưa ra là hợp đồng tín dụng ngân hàng ở dạng văn bản mà
hai bên đã giao kết.
- Cơ quan giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng là Tòa án nhân dân
hoặc trọng tài thương mại nếu các bên có thỏa thuận.
- Đa phần hoạt động thi hành án để đảm bảo việc thu hồi nợ của ngân hàng là
thông qua xử lý tài sản đảm bảo.

6



3. Nguyên nhân tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng.
Nguyên nhân gây ra tranh chấp hợp đồng tín dụng rất đa dạng, có thể xem xét theo
nhiều tiêu thức khác nhau. Một trong những cách tiếp cận thông dụng là phân tích
nguyên nhân gây ra từ phía bên cho vay, bên vay và những quy định của pháp luật.


Nguyên nhân từ phía bên cho vay có thể bao gồm :
Thông thường phía ngân hàng vi phạm nghĩa vụ giải ngân cho khách hàng như
trong hợp đồng. Các tổ chức tín dụng không tuân thủ chế độ tín dụng và điều kiện
cho vay. Đôi khi ngân hàng cho vay mà không tiến hành quy trình thẩm định theo
nguyên tắc 6cs, điều mà các định chế tài chính quốc tế luôn cảnh báo là: 6cs tính
cách người vay (character), năng lực trả nợ (capacity), dòng tiền mặt (cash follow),
tài sản thế chấp (collaral), các điều kiện môi trường (conditions), sự kiểm soát
(control), mà ngân hàng lại dựa vào nhận định của các nhân viên của mình. Trên
thực tế, khi tiến hành thẩm định bên cho vay không thể kiểm tra được bên vay có
thông qua một tổ chức tín dụng đen nào hay không.
Ở Việt Nam, ngân hàng chưa có chính sách hợp lý và quy trình cho vay hiệu quả,
cơ chế phân tích và quản lý rủi ro còn hạn chế.
Việc đánh giá biện pháp bảo đảm tiền vay còn hạn chế, chưa phân tích, đánh giá
các điều kiện về biện pháp bảo đảm tiền vay. Tổ chức tín dụng đánh giá về biện
pháp bảo đảm tiền vay còn dựa vào tài liệu do bên vay xuất trình mà chưa có sự
kiểm tra thực tiễn.Trình độ thẩm định của nhân viên ngân hàng còn chưa cao, nên
có những sai xót và thiếu chặc chẽ - kết quả thẩm định chưa đạt yêu cầu.
Mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng còn hạn chế - trong thực tế bên ngân
hàng không nắm rõ ràng các thông tin chính xác về khách hàng, không biết chính
xác là khách hàng vay vốn và có sử dụng vốn vay đúng mục đích trong hợp đồng
hay không.
7





Nguyên nhân từ phía bên vay:
Những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp hợp đồng tín dụng do người vay như:
Bên vay không đảm bảo nghĩa vụ hoặc thực hiện không đầy đủ những nghĩa vụ của
mình. Thông thường do hai nguyên nhân: nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Nguyên nhân khách quan: là những nguyên nhân tác động ngoài ý chí, tầm kiểm
soát của khách hàng như: do sự thay đổi của chính sách quản lý kinh tế, do thiên
tai, hoả hoạn, điều chỉnh quy hoạch, do thị trường biến động, quan hệ cung cầu
hàng hoá thay đổi … làm cho hoạt động của bên vay không thực hiện như kế hoạch
đề ra.
Nguyên nhân chủ quan: Cá nhân vay vốn không nắm được thông tin cần thiết về kế
hoạch đầu tư, sản xuất khi vay vốn – dẫn đến tình trạng vay vốn về đầu tư không
có hiệu quả. Có thể là do vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
không đáp ứng nhu cầu, năng lực điều hành còn hạn chế, thiếu thông tin thị trường
và thông tin về các đối tác, bạn hàng làm ảnh hưởng tới quá trình sản xuất, công
nghệ chưa được cải thiện nên sản phẩm tạo ra chưa có tính cạnh tranh cao, hiệu
quả kinh doanh kém, hậu quả là doanh nghiệp thua lỗ lâm vào tình trạng phá sản.
Cũng có trường hợp do bên vay cố tình đưa ra những thông tin sai sự thật ngay từ
khi vay vốn nên khi về đầu tư hay sử dụng vào mục đích của mình không có hiệu
quả.
Nguyên nhân nữa là do bên vay còn thiếu hiểu biết về pháp luật, trình độ hiểu biết
của bên vay còn hạn chế về những kiến thức pháp luật liên quan. Có trường hợp
bên vay ký hợp đồng trong khi bản thân không hiểu rõ về pháp luật, nên khả năng
xảy ra những bất lợi cho mình là rất lớn.

8





Nguyên nhân do quy định của pháp luật.
Xã hội luôn thay đổi theo nhiều chiều hướng khác nhau, các mối quan hệ xã hội
cũng đổi mới không ngừng kéo theo các giao dịch trong xã hội cũng có thêm nhiều
yếu tố phức tạp và đa dạng hơn. Trái lại, trên thực tế pháp luật nước ta chưa đáp
ứng được nhu cầu của xã hội, chậm đổi mới dẫn tới hiện tượng pháp luật “chạy
theo” sự thay đổi của xã hội, chứ pháp luật chưa thể dự kiến và điều chỉnh được
các mối quan hệ xã hội sắp diễn ra. Một điều đáng lưu ý là sự hiểu biết về pháp
luật của các bên trong hợp đồng còn chưa rõ ràng, mâu thuẩn với nhau về lợi ích
giữa các bên dẫn đến nảy sinh tranh chấp. Pháp luật nước ta quy định bên cho vay
bắt buộc phải đưa ra các căn cứ pháp lý hay những lý do chính đáng nếu muốn từ
chối khách hàng, vấn đề này chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể. Nên bên cho vay
cho rằng cho vay là quyền của mình còn bên đi vay thì có quan điểm ngược lại,
điều đó dễ dẫn đến mâu thuẫn.
Những hợp đồng tín dụng ngân hàng theo mẫu do ngân hàng đưa ra đa phần là rất
chặc chẽ cả về hình thức và nội dung. Thông thường những hợp đồng theo mẫu
này gắn liền với lợi ích của ngân hàng.
Các quy định của pháp luật còn chưa thống nhất, chồng chéo lẫn nhau đặc biệt là
các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm. Hiện nay, hành lang pháp lý cho hoạt động
giao dịch bảo đảm chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ và nhiều quy định không thể
thực hiện được trên thực tế. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm thực hiện phân tán ở
nhiều cơ quan khác nhau tạo kẽ hở trong quản lý. Theo Nghị định số
163/2006/NĐ- CP và Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi nghị định 163/2006/NĐCP của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, cho phép các tổ chức tín dụng
được lựa chọn hình thức xử lý đa dạng như bán tài sản thế chấp, nhận các khoản
9


tiền và tài sản từ người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ, phương
thức khác do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên không thoả thuận được
phương thức xử lý tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thì các tài

sản này được đem bán đấu giá nhưng để thực hiện được các bên lại phải ký hợp
đồng uỷ quyền tại đơn vị bán đấu giá có thẩm quyền. Điều này thường không thực
hịên được do bên thế chấp không đồng ý và khi đó các tổ chức cho vay không có
cơ chế nào để bảo vệ được quyền lợi của mình.

10


Chương II :
Trách nhiệm pháp lý và giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng
1.

Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng tín dụng ngân hàng.
- Vi phạm hợp đồng tín dụng ngân hàng là hành vi của một bên hoặc cả hai
bên tham gia hợp đồng, cố ý hoặc vô ý làm trái các điều khoản đã cam
kết trong hợp đồng tín dụng ngân hàng. Về phương diện lý thuyết, một
hành vi được coi là vi phạm hợp đồng tín dụng khi hành vi đó thỏa mãn
các điều kiện sau:
+ Người thực hiện hành vi phải là bên tham gia hợp đồng tín dụng ngân
hàng (bên vay và bên cho vay).
+ Hành vi đó trái với các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng tín
dụng ngân hàng. Để chứng minh cho hành vi rõ ràng là trái với cam kết
trong hợp đồng tín dụng ngân hàng , bên có quyền lợi bị xâm hại bởi
hành vi đó phải dẫn chứng về sự tồn tại một cam kết của người thực hiện
hành vi, đồng thời phải chứng minh rằng người đó đã thực hiện hành vi
trái với những cam kết của chính họ trong hợp đồng tín dụng.
+ Bên thực hiện hành vi có một lỗi xác định là cố ý hoặc vô ý . Bên có
quyền lợi bị xâm hại cần chứng minh được bên đối tác đã không thực
hiện đúng nghĩa vụ như cam kết là cơ sở để xác định lỗi của người đó.
Ngược lại, bên bi xem là có hành vi trái với cam kết trong hợp đồng tín

dụng chỉ được giải thoát trách nhiệm khi không có lỗi , bằng cách dẫn
chứng về việc các sự kiện khách quan đã cản trở mình thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng tín dụng ngân hàng ( chẳng hạn như, người rời vào tình trạng
bất khả kháng nên không thể thực hiện nghĩa vụ trả tiền nợ như đã cam
kết...) hoặc dẫn chứng về lỗi đối với bên bị vi phạm khiến cho mình
không thể thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng tín dụng ngân hàng.

11


+

Hành vi đó nhằm xâm hại đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của bên

đối ước, hoặc xâm hại tới các lợi ích khác như chung của xã hội , lợi ích
-

của tổ chức cá nhân khác.
Trách nhiệm nộp phạt vi phạm hợp đồng tín dụng ngân hàng.
Loại trách nhiệm này được áp dụng theo thỏa thuận của các bên trong
hợp đồng tín dụng ngân hàng. Về bản chất pháp lý , trách nhiệm này có
đặc tính như một chế tài xử phạt vi phạm nhằm nâng cao tính kỷ luật
trong hợp đồng tín dụng ngân hàng mà không cần phải chứng minh hậu

-

quả thiệt hại vật chất xảy ra cho bên vi phạm.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng tín dụng ngân
hàng.
+ Loại trách nhiệm này chỉ áp dụng với bên vi phạm khi bị bên vi phạm

chứng minh được rằng bên vi phạm đã gây ra cho mình một thiệt hại vật
chất thực tế xác định , do hành vi có lỗi của họ trong khi thực hiện hợp
đồng tín dụng ngân hàng. Về nguyên tắc, số tiền bồi thường thiệt hại có
thể được xác định bởi ý chí của các bên tham gia hợp đồng ( thông qua
thương lượng, hòa giải ) hoặc bởi một phán quyết đã có hiệu lực của cơ

2.

quan tài phán có thẩm quyền ( thông qua con đường tài phán ).
Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng và cơ chế giải quyết

tranh chấp.
2.1.1
Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng.
Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng được hiểu là tình trạng
pháp lý của quan hệ hợp đồng tín dụng ngân hàng, trong đó các bên thể hiện
sự xung đột hay bất đồng ý chí với nhau về những quyền và nghĩa vụ hoặc
lợi ích phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng. Một hợp đồng tín dụng
ngân hàng chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột , bất đồng về
phương diện quyền lợi giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài ( mặt
khách quan ) thông qua những bằng chứng cụ thể và xác định được . Vì thế ,
không phải cứ khi nào có vi phạm hợp đồng thì khi đó có tranh chấp mà đôi
12


khi sưk vi phạm hợp đồng diễn ra trước và tranh chấp hợp đồng lại là sự
kiện diễn ra sau đó một khoảng thời gian nhất định . Thậm chí có sự vi
phạm hợp đồng tín dụng nhưng không hề có tranh chấp bởi các bên không
bày tỏ ra bên ngoài về sự bất đồng hay xung đột lợi ích giữa họ với nhau
bằng các hành vi phản kháng cụ thể có giá trị chứng cứ. Trong thực tiễn ,

việc xác định đúng đắn và xác định thời điểm phát sinh tranh chấp sẽ có tác
dụng rất lớn trong việc xác định thời điểm khởi kiện cũng như lựa chọn
phương án giải quyết tranh chấp thật sự đúng đắn và phù hợp với pháp luật ,
trên cơ sở đó đóng góp phần đảm bảo lợi ích của nhà nước , các tổ chức và
cá nhân trong xã hội.
2.2

Cơ chế giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng

2.1.1 Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng bằng cơ chế
thương lượng các bên tranh chấp.
-

Theo quy định của pháp luật , để giải quyết tranh chấp hợp đồng tín

dụng ngân hàng, các bên có quyền tự thương lượng, hòa giải với nhau về các xung
đột , bất đồng trên tinh thần binh đẳng, thiện chí, hợp tác và cùng có lợi. Quy định
này nhằm tôn trọng quyền định đoạt của các bên và giúp cho các bên tránh được
những chi phí không cần thiết do phải theo kiện trước tòa. Tuy vậy , nếu các bên
không thể tự thương lượng giải quyết tranh chấp cho minh bằng con đường hòa
giải thương lượng theo luật định, họ có quyền đưa tranh chấp ra xét xử tại cơ quan
tài phán có thẩm quyền quyết định của pháp luật.
2.1.2 Giải quyết tranh chấp bằng cơ chế tài phán.
-

Việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng

bằng con đường tài phán được xem như là giải pháp cuối cùng để phân định quyền
lợi giữa các bên theo quy định của luật tố tụng.
13



Trên thực tế, luật tố tụng của mỗi quốc gia có sự khác nhau trong việc quy
định thẩm quyền và thủ tục giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng
ngân hàng . Ở Việt Nam , việc phân định thẩm quyền tài phán giữa các cơ quan tài
phán ( tòa án và trọng tài ) đối với tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân
hàng được áp dụng theo nguyên tắc sau đây:
+

Trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo thủ

tục tố tụng trọng tài đối với những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ký
kết giữa tổ chức tín dụng ngân hàng với khách hàng mà các bên có thỏa thuận yêu
cầu cơ quan trọng tài giải quyết.
+

Toàn án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự với

những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ký kết với tố chức tín dụng ngân
hang với khách hàng mà theo các bên có thỏa thuận về việc yêu cầu tòa án giải
quyết . Ngoài ra đối với những tranh chấp từ hợp đồng tín dụng ngân hàng nhưng
các bên không có thỏa thuận nào về cơ quan giải quyết tranh chấp thì về nguyên
tắc , tranh chấp đó cũng thuộc thẩm quyền của tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự.

14


Chương III: Kết luận

Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng của

Tòa án đóng vai trò rất quan trọng trong việc góp phần bảo vệ lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giữ gìn trật tự an toàn xã hội
và đặc biệt là góp phần đưa đất nước phát triển đi lên như mục tiêu của Đảng và
Nhà nước ta đề ra.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường hiện nay các giao dịch dân sự, đặc
biệt là các giao dịch thông qua hợp đồng tín dụng ngân hàng diễn ra ngày càng
nhiều trên phạm vi rộng, gây khó khăn cho việc giải quyết các tranh chấp này ở
Tòa
Trước tình hình đó cần phải hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật liên quan đến
việc giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng nhằm tạo điều kiện, đẩy
nhanh quá trình giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực này cũng nhằm đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật và bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.

15


Các tài liệu tham khảo
/> /> /> />%A1ng-tranh-ch%E1%BA%A5p-hdtd-v-m%E1%BB%99t-s%E1%BB%91-ki
%E1%BA%BFn-ngh%E1%BB%8B/

Mục lục

16



×