Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

nguyên nhân, diễn biến khủng hoảng kinh tế châu á 1997 1998 và bài học kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.07 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Tiếng Anh

Tiếng Việt

USD

United States Dollar

Đô la Mỹ

IMF
NHTG
GDP
FDI

International Monetary Fund

Quỹ tiền tệ quốc tế
Ngân hàng thế giới
Tổng sản phẩm quốc nội
Đầu tư trực tiếp nước ngoài

Gross Domestic Product
Foregn Direct Investment


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Vốn tư nhân nước ngoài vào các bước Đông Á giai đoạn 1990 – 1997............... 2
Bảng 2: Nợ tài chính của các khu vực tư nhân so với GDP (%)........................................ 3
Bảng 3: Nợ ngắn hạn vào quý II năm 1997....................................................................... 4
i


Bảng 4: Thâm hụt tài khoản vãng lai (%GDP) ..................................................................4
Bảng 5: Dòng vốn quốc tế chảy ra khỏi Đông Á ...............................................................6


DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1: Đồng Baht Thái ....................................................................................................5
Hình 2: Nhà tài phiệt địa ốc Thái Lan Sirivat bán Sandwich để kiếm sống .......................6
Hình 3: Peso Philippines ...................................................................................................7
Hình 4: Dollar Hongkong.................................................................................................. 9
Hình 5: Đồng Won ............................................................................................................9
Hình 6: Đồng Rupiah ......................................................................................................10

CHƯƠNG 1: NHỮNG NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG
KINH TẾ CHÂU Á 1997 - 1998
1.1.

Những nguyên nhân chủ quan


1.1.1. Nền kinh tế vĩ mô yếu kém dẫn đến sự bùng nổ tín dụng, các tài khoản vãng lai

thâm hụt

Giai đoạn từ năm 1990 - 1997, vốn tư nhân đưa vào các nước đang phát triển đã tăng hơn
gấp 5 lần, từ 42 triệu USD năm 1990 thành 256 triệu USD năm 1997. Chính vì vậy quá
trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra với tốc độ tăng trưởng quá nhanh dẫn đến
việc xuất hiện nhiều khó khăn mới đối với sự phát triển của các quốc gia này. Chính vì
tăng trưởng quá nhanh trong điều kiện thiếu thị trường tài chính và thị trường vốn đủ
mạnh và có sự tham gia rộng rãi của chính phủ, làm cho các khu vực tài chính, các tập
đoàn thường phải đầu tư vào các dự án dài hạn bằng nguồn vốn vay ngắn hạn. Dẫn đến
sự tích tụ nợ ngắn hạn của nước ngoài phải trả. Vì vậy chính phủ buộc phải có những
biện pháp thắt chặt tiền tệ để giải quyết vấn đề trước mắt nhưng vô tình khuyến khích các
nhà đầu tư vay vốn từ nước ngoài để đầu tư trong nước dẫn đến sự bùng nổ tín dụng
trong nước góp phần làm thâm hụt tài khoản vãng lai tăng lên.
Các quy chế cần thiết để quản lí sự hòa nhập tài chính toàn cầu đã không bắt kịp với
luồng vốn đi vào. Khi dòng vốn đi vào thì vai trò của trung gian tài chính quốc tế ngày
càng quan trọng. Nhưng khi các ngân hàng không có những quy định rõ ràng và nghiêm
khắc cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài. Hầu hết những doanh nghiệp vay vốn
ngắn hạn của nước ngoài đều đầu tư vào các dự án dài hạn tỷ suất sinh lời thấp và rủi ro
cao. Cộng với sự ỷ lại của các ngân hàng về sự bảo trợ ngầm của chính phủ (mặc dù
chính phủ không tuyên bố) nên các ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay vốn và tin rằng bảo
hiểm rủi ro là không cần thiết.
1.1.2. Chế độ tỷ giá không phù hợp với xu thế

Các chính sách “neo giá” các đồng tiền trong khu vực với đồng USD đã tạo nên một hệ
thống tỷ giá khiên cưỡng là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc phá giá hàng loạt các đồng
tiền trong khu vực. Mặc dù xuất phát từ việc thả nổi đồng Bath của Thái Lan dẫn Thái
Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà kinh tế gọi là Bộ
ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào đến
hiệu ứng lan tỏa đến những đồng khác như Peso, Ringgit, Rupiah nhưng thực tế thì
những đồng này đã có xu hướng giảm giá trước xu hướng tăng giá của đồng USD. Dollar
Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản vốn). Kinh tế Đông Nam Á
tăng trưởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng

giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện
chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính sách
vô hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp dụng để chống lạm phát vô hình trung đẩy
mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế.
Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt, ngoại trừ
việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau năm
1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng xuất


khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đó, Hàn
Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đoái neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài
khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng
của nước này đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo
hiểm rủi ro.


1.2.
Nguyên nhân khách quan
1.2.1. Sự tăng lên của các dòng vốn nước ngoài

Năm
Vốn tư nhân ròng
Đầu tư trực tiếp ròng
Đầu tư chứng khoán ròng
Vay thương mại và đầu tư khác
Viện trợ chính thức ròng
Đơn vị tính: tỉ USD

1991
24.8

6.2
3.2
15.4
4.4

1992
29.0
7.3
6.4
15.3
2.0

1993
31.8
7.6
17.2
7.0
0.6

1994
36.1
8.8
9.9
17.4
0.3

1995
74.2
7.5
17.4

49.2
0.7

1996
65.8
8.4
20.3
37.1
-0.4

Bảng 1: Vốn tư nhân nước ngoài vào các nước Đông Á giai đoạn 1990 - 1997
Những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính phủ cho các thể
chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở Châu Á bất chấp mạo hiểm để đi vay ngân
hàng trong khi ngân hàng cũng bất chấp mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần lớn là
vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.
Korea
Thailand

1991
103.1
88.6

1992
110.7
98.4

1993
121.3
110.8


1994
128.8
128.1

1995
133.5
142.0

1996
140.9
141.9

Bảng 2: Nợ tài chính của các khu vực tư nhân so với GDP (%)
Nợ ngắn hạn của nước ngoài luôn luôn lớn hơn lượng dự trữ ngoại tệ của các nước
Đông Á trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng, có nghĩa là trong ngắn hạn nền kinh tế
không có khả năng chi trả. Lúc này chỉ có 2 nước là Malaysia và Phillipines trong số 5
nước bị khủng khoảng có nợ ngắn hạn thấp hơn dự trữ ngoại tệ.
Nợ ngắn hạn nước ngoài
Dự trữ ngoại tệ
Hàn Quốc
70.18
34.07
Thái Lan
45.57
31.36
Indonesia
34.66
20.34
Malaysia
16.27

26.69
Phillipines 8.29
9.78
Bảng 3: Nợ ngắn hạn vào quý II năm 1997

Tỷ lệ nợ ngắn hạn
2.06
1.45
1.7
0.61
0.85


1.2.2. Thị trường thương mại toàn cầu giảm sút

Năm 1996 , tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước Đông Á bắt đầu chững lại, tăng
trưởng trong xuất khẩu của các nước Đông Nam Á bắt đầu suy giảm nhanh chóng làm
cho tài khoảng vãng lai bị suy yếu , nguyên nhân bao gồm:
Tăng trưởng thương mại toàn cầu suy giảm .
Đồng Yên mất giá.
Tỷ giá hối đoái thực hiệu dụng của các nước Đông Nam Á lên giá.
Lượng cầu và giá của các mặt hàng xuất khẩu suy giảm.
Nước
Hàn Quốc
Thái Lan
Indonesia
Malaysia
Phillipines

1994

1995
- 0.96
- 1.74
- 5.59
- 8.05
- 6.07
- 9.73
- 1.58
- 3.18
- 4.60
- 2.67
Bảng 4: Thâm hụt tài khoản vãng lai (%GDP)

1996
- 4.42
- 8.05
- 4.42
- 3.37
- 3.77

Hoạt động tấn công đầu cơ và rút vốn hàng loạt:
Đây là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc khủng khoảng kinh tế năm
1997 - 1998. Khi phát hiện những dấu hiệu suy thoái của hệ thông ngân hàng - tài chính
khu vực này, nhiều nhà đầu cơ nước ngoài đã tăng cường hoạt động đầu cơ tiền tệ.
Thị trường bất động sản của Thái Lan đổ vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người
ta không còn tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát
hiện thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một số thể
chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư nước ngoài đồng
loạt rút vốn ra. Lúc này Đông Á rơi vào tình trạng các nhà đầu tư cả trong nước lẫn ngoài
nước đều muốn rút vốn ra.Trong khi ngân hàng đòi lại vốn vay, từ chối đảo nợ và cho vay

mới, còn các nhà đầu tư chứng khoán thì bán chứng khoán đổi ra ngoại tệ và chuyển ra
ngoài. Riêng trong năm 1997 hơn 20 tỉ USD ròng được đưa ra khỏi 5 nước Đông Á bị
khủng hoảng trong khi năm 1996 có hơn vẫn còn nhận được gần 66 tỉ USD.


CHƯƠNG 2: DIỄN BIẾN KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU Á 1997-1998
2.1.
Thái Lan
2.1.1. Tình hình Thái Lan trước 1997

Từ 1985 – 1995, Thái Lan là đất nước đang rất phát triển và dần dần đang trở thành nền
kinh tế năng động hàng đầu Châu Á. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tại Thái Lan đạt mức
8.5% hàng năm và mức độ lạm phát được giữ ở mức trung bình 5% hàng năm. Lúc này
Thái Lan đang rất thu hút các nhà đầu tư kinh doanh bất động sản, nhà xưởng, cơ sở hạ
tầng du lịch,... dẫn tới việc nền kinh tế Thái Lan càng ngày càng trở nên nóng hơn.

Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế
Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu. Thị
trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn
lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi.


2.1.2.

Tình hình Thái Lan năm 1997

Sự bùng nổ về xây dựng ở Thái Lan đã lên đến đỉnh điểm khi lượng cung vượt quá mức
so với lượng cầu. Ước tính khoảng 365.000 căn hộ bỏ trốngở Bangkok vào cuối năm
1996 và 100.000 căn hộ chưa đưa vào sử dụng vào năm 1997. Cùng lúc này lượng đầu tư
vào cơ sở hạ tầng, các khu công nghiệp tăng cao dẫn đến việc lượng hàng nhập khẩu vào

Thái Lan tăng đột biến làm cho cán cân thanh toán thâm hụt mạnh. Cán cân thâm hụt
mạnh dẫn đến việc các nhà đầu tư dự kiến rằng việc phá giá đồng Baht sẽ diễn ra. Vì thế
các công ty mua Dollar vào để trả nợ khi đáo hạn còn các nhà đầu cơ thì vay Baht để mua
USD nhằm thu lại lợi nhuận. Ngày 14 - 15/5/1997, đồng Baht Thái bị tấn công đầu cơ
quy mô lớn.

Hình 1: Đồng Baht Thái
Ngân hàng Nhà nước cố sức giữ giá, trong suốt 2 tuần đã chi ra gần 10 tỷ USD để mua
đồng Baht và giữ tỷ giá hối đoái ở mức bình thường 25 baht 1 USD. Nhưng không ăn
nhằm gì với làn sóng “rũ bỏ” đồng Baht loang ngày càng rộng trên khắp thế giới.
Ngày 30 tháng 6, Thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh vẫn cố sống cố chết “sẽ
không phá giá baht”, thế mà chỉ 2 ngày sau, 2 tháng 7, baht lập tức mất giá gần 50%.
Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht/1USD. Chỉ số thị trường chứng
khoán Thái Lan tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng
thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD.
Finance One, một công ty tài chính lớn nhất Thái Lan tuyên bố phá sản. Cuộc khủng
hoảng tài chính khiến cho kinh tế Thái Lan suy sụp và nguy cơ lan ra các nước khác là rất
cao. Vì thế IMF cung cấp gói cứu trợ là 16 tỷ dollar vào Thái Lan vào ngày 11/8 và vào
ngày 20/8, thông qua gói cưu trợ là 3,9 tỷ dollar.
Hình 2: Nhà tài phiệt địa ốc Thái Lan Sirivat Voravetvuthikun bán sandwich kiếm sống


2.2.

Tình hình các nước Đông Á năm 1997

Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng không chỉ dừng lại tại Thái Lan mà lan sang các nước khác
của Đông Nam Á và tại Hàn Quốc, đồng won mất giá từ cuối năm 1996. Dòng vốn ngắn
hạn đã chảy vào các nước Đông Nam Á giờ đồng loạt chảy ra. Các nhà đầu tư đều
chuyển vốn ra. Các ngân hàng đòi lại vốn cho vay, từ chối đáo nợ và ngưng cho vay mới.

Các nhà đầu tư chứng khoán bán chứng khoán, đổi ra ngoại tệ và chuyển ra nước ngoài.
Dòng vốn quốc tế chảy ra khỏi Đông Á
Đơn vị tính: Tỷ USD
1996
1997
1998
1999
Vốn tư nhân ròng
65.8
- 20.4
- 25.6
- 24.6
Đầu tư trực tiếp ròng
8.4
10.3
8.6
10.2
Đầu tư chứng khoán ròng
20.3
12.9
-6
6.3
Vay thương mại và đầu tư khác
37.1
- 43.6
-28.2
- 41.1
Viện trợ chính thức ròng
- 0.4
17.9

19.7
- 4.7
Riêng năm 1997, hơn 20 tỷ USD ròng được đưa ra khỏi 5 nước Đông Á chịu khủng
hoảng, trong khi trong năm 1996 vẫn còn nhận được gần 66 tỷ USD.
Bảng 5: Dòng vốn quốc tế chảy ra khỏi Đông Á
2.3.
2.3.1.

Diễn biến tại một số nước
Philipines

Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương
Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng Peso bằng cách
nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng Peso vẫn mất
giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một Dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào
cuối khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ
bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số
Tổng hợp PSE của thị trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn khoảng 1000
điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng Peso thêm mất
giá.
Giá trị của đồng Peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm tổng
thống.


Hình 3: Peso Philippines

2.3.2.

Hongkong


Tháng 10/1997, Dollar Hongkong thường được neo vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8
HKD/USD. Nhưng tỷ lệ lạm phát ở Hongkong lại cao hơn ở Mỹ. Vì thế nên đây là cơ sở
cho việc Dollar Hongkong bị tấn công đầu cơ.
Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó tương đương 700%
lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hongkong
đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Các thị trường chứng khoán
ngày càng trở nên dễ đổ vỡ.
Từ ngày 20 tháng 10 đến 23 tháng 10, chỉ số Hang Seng đã giảm 23%. Ngày 15 tháng 8
năm 1998, Hongkong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23% và ngay lập
tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hongkong bắt đầu mua vào các loại
cổ phiếu thành phần của chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan
này và Bộ trưởng Tài chính lúc bấy giờ Donald Tsang đã công khai tuyên chiến với giới
đầu cơ.
Chính quyền đã mua 120 tỷ Dollar Hongkong các loại chứng khoán và sau đó vào năm
2001, chính quyền đã bán ra và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hongkong. Cuộc khủng
hoảng này đã dừng lại vào tháng 9/1998, các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi chính sách điều
tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị trường trái
phiếu và tiền tệ ở Nga.
Hình 4:

2.3.3.

Dollar Hongkong

Hàn Quốc


Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước
ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ

ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra khi thị trường châu Á bị khủng hoảng,
tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn.
Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn
Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp
phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá.
Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại
tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ.
Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000
KRW/USD.
Hình 5: Đồng Won

2.3.4.

Malaysia

Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit của
Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh.
Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn
sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở
nước ngoài. Những người tham gia thị trường duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng
thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong tương
lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy
ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm
1997.
2.3.5. Indonesia
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới
rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%.
Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái
thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất
giá.

IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar,
nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở
Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm
xuống mức thấp lịch sử.


Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là
làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó,
nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ
thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF khiến
chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên.
Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500
người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng
hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống.
Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000 : 1. Nhưng
trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1. Do thay đổi tỷ giá hối
đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm đi.

Hình 6: đồng Rupiah
CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM
3.1.

Đối với thế giới

Thứ nhất: Phải có công cụ điều tiết luồng vốn.
Không phải tình cờ khi hai nước châu Á ít bị ảnh hưởng nhất của cuộc khủng hoảng tài
chính, Trung Quốc và Ấn Độ, cũng chính là những nước không tự do hóa thị trường vốn.
Và trong số những nước đã tự do hóa thị trường vốn, cũng không phải ngẫu nhiên mà
nước khống chế tốt nhất những tác động của cuộc khủng hoảng, Singapore - chính là

nước có hệ thống luật pháp tốt nhất.
Do thiếu các biện pháp kiểm soát, nhiều nền kinh tế châu Á đã rơi vào tình trạng
quá phụ thuộc vào nguồn tài chính rất dễ biến động từ bên ngoài - đó là các khoản vay
ngắn hạn. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho biết trong 3 năm trước thời điểm 1997, các
khoản nợ ngắn hạn của Thái Lan chiếm tới 7 - 10% GDP, trong khi tổng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) chỉ chiếm 1% GDP.
Khi xảy ra khủng hoảng, các nguồn vốn ngắn hạn này biến mất cũng nhanh như
khi xuất hiện, vì không hề có các công cụ điều tiết.


Thứ hai: Cần xây dựng hành lang pháp lý phù hợp.
Cũng giống như việc nối các thị trấn nhỏ với đường cao tốc mà trước đó không trang bị
cho chúng hệ thống đường xá và cảnh sát giao thông phù hợp để giám sát việc tuân thủ
luật lệ, sẽ thật liều lĩnh khi mở cửa nền kinh tế của các nước đang phát triển với thị
trường vốn quốc tế mà chưa xây dựng hệ thống luật pháp phù hợp và đào tạo được đội
ngũ cán bộ liêm khiết.
Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo vào những năm trước thời điểm 1997
đã dẫn đến sự phát triển quá mức của thị trường tín dụng ở nhiều nước châu Á, như
Indonesia, Malaysia, Philippines, Hàn Quốc và Thái Lan, kéo theo việc đầu tư dư thừa
vào một số ngành kinh tế.
Việc dư thừa nguồn tín dụng còn dẫn đến tình trạng lãng phí, với cuộc chạy đua sở
hữu tòa nhà cao nhất thế giới ở các nước châu Á là một ví dụ. Tệ hơn, việc “thừa tiền”
còn châm ngòi cho sự phát triển bong bóng của thị trường bất động sản, từ đó lại quay lại
tình trạng dư thừa tín dụng, vì các ngân hàng cho vay nhiều hơn giá trị thực của tài sản
thế chấp. Kết quả là khi “bong bóng” vỡ, các ngân hàng phải hứng chịu hậu quả.
Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo còn cho phép các ngân hàng có tỷ lệ
vốn lưu động không phù hợp. Theo số liệu năm 1997 của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế
(BIS): ở Philippines (17%), Hồng Kông (18%) và Singapore (19%), tỷ lệ này cao hơn
nhiều so với tiêu chuẩn tối thiểu quốc tế.
Thứ ba: Nguy cơ dư thừa vốn.

Chính phủ của các nền kinh tế mới nổi không thể làm gì nhiều để ngăn “lũ” vì nguồn cơn
của sự mất cân bằng trên thị trường tài chính quốc tế không nằm trong tầm kiểm soát trực
tiếp của họ.
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á không phải chỉ do sự “tắc trách” của người châu Á
gây ra. Ngân khố của hầu hết các nền kinh tế châu Á đều ở mức cân bằng hoặc thặng dư,
và không hề có lạm phát. Cuộc khủng hoảng xảy ra phần nhiều là do những thay đổi về
mô hình của hoạt động trung gian tài chính quốc tế.
Thứ nhất, sự mở rộng đáng kể của khả năng thanh khoản quốc tế vào thập niên 90
đã làm gia tăng sự cạnh tranh trong ngành dịch vụ tài chính trên toàn thế giới. Vì thế, các
giám đốc tài chính buộc phải tìm kiếm những khoản lợi nhuận cao hơn, thông qua các dự
án đầu tư mạo hiểm.
Thứ hai là chính sách kinh tế vĩ mô của các cường quốc kinh tế đóng vai trò quan trọng
trong sự mở rộng của khả năng thanh khoản quốc tế. Ví dụ như ở Mỹ, việc thâm hụt ngân
sách giảm xuống trong khi khả năng sản suất tăng lên đã dẫn đến tốc độ lạm phát giảm và
do đó lãi suất giảm.


Không có gì đáng ngạc nhiên khi luồng vốn đổ vào châu Á tăng lên, vì lãi suất ở châu Á
cao hơn, còn các nước châu Á nhận thấy việc vay mượn quy đổi bằng đồng đôla Mỹ hoặc
yên Nhật có lợi hơn là bằng đồng nội tệ.
Tuy nhiên, tình trạng mất cân đối này không thể kéo dài. Việc tăng nguồn vốn đã gia
tăng sức ép đối với việc tăng tỷ giá hối đoái, từ đó làm trầm trọng thêm tình hình thâm
hụt thương mại. Và khi thị trường tạo sức ép giảm giá đồng tiền, tình hình càng trở nên
xấu đi do sự rút vốn đột ngột của các nhà đầu tư nước ngoài. Thị trường tài chính châu Á
chao đảo.


3.2.

Bài học cho Việt Nam


Việt Nam trước khủng hoảng cần rút ra được bài học kinh nghiệm từ thực tiễn và đưa ra
những biện pháp phòng ngừa cho nền kinh tế vẫn còn non trẻ của mình.
Bài học 1: Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế quốc gia là cơ
sở quan trọng nhất đảm bảo cho phát triển bên vững và phải trở thành mục tiêu và chỉ
tiêu quản lý kinh tế đất nước, quản lý ngành và mỗi doanh nghiệp. Để khắc phục sự thiếu
chú ý đúng mức đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và phát triển, cần đưa vào hệ thống chỉ
tiêu kinh tế phải báo cáo hàng năm của mỗi địa phương, mỗi ngành và cả nước các chỉ
tiêu như tỉ suất lợi nhuận và tỉ suất giá trị gia tăng trên số vốn riêng của doanh nghiệp
theo các ngành, theo các thành phần kinh tế và theo các địa phương trong cả nước.
Bài học 2: Nhà nước phải có những biện pháp, quyết sách hợp lý để điều hành nền kinh
tế vĩ mô và đặc biệt phải lành mạnh hóa khu vực tài chính – ngân hàng. Nhà nước phải
tập trung chỉ đạo đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ của các doanh
nghiệp, các ngành, các khu vực. Cần hoàn thiện luật pháp và xử lý kiên quyết hơn tình
trạng nợ khó đòi. Triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, đề cao kỷ luật tài chính, thực hiện
nghiêm túc chế độ kế toán thống kê, kiểm toán công khai hóa tài chính trong nền kinh tế.
Cụ thể hơn, Chính phủ phải có những công cụ điều tiết nguồn vốn. Hướng tới mục tiêu
tăng trưởng kinh tế cao, các nước đang phát triển ở Đông Nam Á cũng như Việt Nam nỗ
lực thu hút ngày càng lớn vốn đầu tư từ các nước đã phát triển. Trong các hình thức đầu
tư nước ngoài, đầu tư tài chính (đầu tư vào các sản phẩm tài chính thuần túy) đang chiếm
tỷ lệ ngày càng lớn, do sự phát triển nhanh của thị trường chứng khoán trong những năm
gần đây. Lợi ích cụ thể của đầu tư tài chính được lí giải thông qua tác động “đòn bẩy”
hay “cấp số nhân”, nhằm bù vào thâm hụt trong dự trữ và thương mại của các nền kinh tế
đang phát triển. Tuy nhiên, việc sử dụng những tác động này, nếu thất bại, sẽ dẫn đến
tăng trưởng bong bóng của nền kinh tế và hậu quả là dẫn tới khủng hoảng (như đã được
ghi nhận ở các nền kinh tế mới nổi trong khủng hoảng tài chính ở châu Á). Cuối năm
1996, các nước Đông Á đã nợ các ngân hàng Châu Âu 318 tỷ USD, ngân hàng Nhật Bản
260 tỷ USD và ngân hàng Mỹ 46 tỷ USD, đa số là dưới hình thức vay ngắn hạn – dưới 1
năm. Khi xảy ra khủng hoảng, các nguồn vốn ngắn hạn này biến mất cũng nhanh như khi
xuất hiện, vì không hề có các công cụ điều tiết. Vì vậy, Việt Nam hiện nay cần tiến tới

xây dựng một hạ tầng tài chính đủ vững vàng để ổn định trước những thay đổi trong
nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài và biến động trên thị trường tài chính thế giới. Bên cạnh
đó, các nhà quản lý tài chính cần có những qui định phù hợp để buộc những nhà đầu tư
nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư lớn tham gia giải quyết hậu quả (trong trường hợp
xảy ra khủng hoảng). Vì, thực tế từ cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á (cũng như các
cuộc khủng hoảng tài chính trước đó) cho thấy những nhà đầu tư này thường tìm cách
tháo chạy với rất ít trách nhiệm đối với nước nhận vốn đầu tư, mặc dù, chính sự rút vốn
bất ngờ và ồ ạt của họ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng ở các nước này.
Tiếp theo, Chính phủ cần phải xây dựng một hành lang pháp lý phù hợp. Hệ thống ngân
hàng với sự giám sát lỏng lẻo vào những năm trước thời điểm 1997 đã dẫn đến sự phát


triển quá mức của thị trường tín dụng ở nhiều nước Châu Á, không chỉ ở Thái Lan như
Indonexia, Malaysia, Philippines, Hàn Quốc, kéo theo việc đầu tư dư thừa vào một số
ngành kinh tế. Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo còn cho phép các ngân hàng
có tỷ lệ vốn lưu động không phù hợp. Theo số liệu năm 1997 của các nước, tỷ lệ này đều
cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn tối thiểu quốc tế. Bài học 3: Công tác thông tin – tư vấn
phục vụ cho các hoạt động kinh doanh lẫn các hoạt động quản lý nhà nước cần được đề
cao và cải thiện hơn. Hơn thế nữa, thiết nghĩ cần có một tổ chức chuyên trách của Chúnh
phủ theo dõi sự biến động của lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng trong nước và
quốc tế, cán cân tài khoản vãng lai, nợ quốc gia và hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp để đề xuất các chính sách và điều tiết cần thiết, bảo đảm phát triển quốc gia bền
vững với tăng trưởng cao.



×