Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Nội dung đường lối đổi mới của đảng và những chuyển biến về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta từ 1985 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.22 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

Môn Học
LỊCH SỬ KINH TẾ

Đề tài:

Nội dung đường lối đổi mới của Đảng và
những chuyển biến về lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất ở nước ta từ 1985 đến nay


MỤC LỤC
I.

Đường lối đổi mới của Đảng năm 1986
1. Hoàn cảnh đổi mới của đảng năm 1986
2. Nội dung đường lối đổi mới của Đảng năm 1986

II.

Đặc điểm của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trước năm 1986
1. Đặc điểm của lực lượng sản xuất trước năm 1986
2. Đặc điểm của quan hệ sản xuất trước năm 1986

III.

Sự chuyển biến của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đến nay

1.



Sự chuyển biến về mặt lực lượng sản xuất

2.

Sự chuyển biến về quan hệ sản xuất

IV.

Những thành tựu, hạn chế của sự đổi mới của đảng
V.

Những bài học kinh nghiệm của công cuộc đổi mới ở Việt Nam:


CHƯƠNG I: Đường lối đổi mới của Đảng năm 1986
1.

Hoàn cảnh đổi mới của đảng năm 1986
- Về quốc tế: Trong 5 năm nhân dân ta tiếp tục nhận được sự giúp đỡ to lớn và sự
hợp tác nhiều mặt của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác.-Về
trong nước: Thực trạng xã hội nước ta đang ở trong tình trạng khủng hoảng kinh tế
–xã hội ....
- Về trong nước: Thực trạng xã hội nước ta đang ở trong tình trạng khủng hoảng
kinh tế –xã hội ....
- Sau 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội 1976 – 1985 ta đã đạt được một số thành
tựu đáng kể, song cũng gặp không ít khó khăn, yếu kém do sai lầm khuyết điểm
gây ra, dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
- Yêu cầu phải đổi mới để khắc phục sai lầm, khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua
khủng hoảng và đầy mạnh công cuộc xây dựng CNXH tiến lên.

- Tình hình thế giới có sự thay đổi, chủ nghĩa xã hội đang lâm vào khủng hoảng
toàn diện, trầm trọng. Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật tác động mạnh đến các
quốc gia dân tộc yêu cầu phải đổi mới.

2.

Nội dung đường lối đổi mới của Đảng năm 1986
Trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn và đối mới tư duy lý luận nhận
thức rõ hơn về thời kỳ quá độ và về chủ nghĩa xã hội, những quy luật khách quan
đang vận dụng trong thời kỳ quá độ, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện
với những nội dung cơ bản sau:
Đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ về chủ nghĩa xã hội, về các quy luật khách
quan những đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong nhiều năm qua, những quan niệm
lạc hậu về chủ nghĩa xã hội, nhất là về công nghiệp hóa, về cải tạo xã hội Chủ
nghĩa, về cơ chế quản lý kinh tế, về phân phối lưu thông chính là nguyên nhân
chậm phát triển và cụ thể hoá đường lối chung và đường lối kinh tế trong chặng
đường đầu của thời kỳ quá độ. Vì vậy, phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy.
Đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt được,
phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ
nhận đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại chính là bổ sung và phát tnển
những thành tựu ấy.


Đổi mới quan điểm chính sách kinh tế:
- Về đổi mới cơ cấu kinh tế, dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu
hợp lý, có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế, chính
sách đó cho phép sử dụng nhiều hình thức kinh tế với quy mô và trình độ kỹ thuật
thích hợp trong từng khâu của quá trình sản xuất và lưu thông nhằm khai thác mọi
khả năng của các thành phần kinh tế liên kết với nhau, trong đó kinh tế quốc doanh
giữ vai trò chủ đạo. Đại hội xác định rõ các thành phần kinh tế ở nước a là: Kinh tế

xã hội chủ nghĩa (bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể): kinh tế tiểu
sản xuất hang hóa (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh
doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều
hình thức mà hình thức cao là công tư hợp doanh: kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc
trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao
khác.
Cùng với chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đại hội VI còn chủ trương bố trí lại
cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện cho được ba
chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu. Các chương trình đó là sự cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu.
- Về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI cho rằng, việc bố trí lại cơ cấu kinh
tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Đảng đã thẳng thắn chỉ ra rằng:
Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay đã không tạo được
động lực phát triển làm suy yếu nền kinh tế, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng
suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều
hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Phong cách quản lý quan liêu, cửa quyền tư duy
mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí. Vì vậy, "Phương hướng đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế đã được khẳng định là xoá bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây
dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách qua: và với trình độ phát triển của
nền kinh tế". Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hoá
theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, chú trọng tính kế hoạch; sử dụng đầy đủ và đúng đắn quan hệ hàng
hoá - tiền tệ, các đơn vị sản xuất có quyền tự chủ sản xuất - kinh doanh, tự chủ về
tài chính; sử dụng tốt các đòn bẩy kinh tế.
Đổi mới chính sách đối ngoại, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại,
nhận thức rõ nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu. Đại
hội VI nhấn mạnh sự cần thiết phải “Công bố chính sách khuyến khích nước ngoài
đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòì hỏi
kỹ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đôi với việc công bố luật đầu tư, cần có các



chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều
vào nước ta để hợp tác kinh doanh”.
Đổi mới về vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước: Để thiết lập cơ chế quản lý
mới, cần thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy nhà nước. Tăng cường
bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, có sự phân biệt rõ chức năng quản
lý hành chính kinh tế với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh, kết hợp quản lý
theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ. Nhà nước có nhiệm vụ
thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể.
Xây dựng chiến lược kinh tế xã hội và cụ thể hoá chiến lược đó thành những kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Đổi mới nội dung và phong cách lãnh đạo của đảng, tăng cường sức chiến đấu và
năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng. Đại hội nêu rõ: "... Đảng phải đổi mới về
nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế: đổi mới tổ chức; đổi mới đội
ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác". Đảng nhấn mạnh đổi mới
tu duy, nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân là nhiệm
vụ chủ yếu của công tác tư tưởng. Đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn các cơ quan
lãnh đạo và quản lý. Đổi mới phong cách làm việc, trong đó tập trung dân chủ là
nguyên tắc quan trọng nhất. Đại hội đề ra yêu cầu nâng cao chất lượng đảng viên,
đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở,
tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI gồm 124 ủy viên chính
thức và 49 ủy viên dự khuyết, bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và 1 ủy
viên dự khuyết,bầu Ban Bí thư gồm 13 đồng chí, đồng chí Nguyễn Văn Linh được
bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đại hội nhất trí trao trách
nhiệm cao cả cho các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ làm
cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội VI của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt
dể. Đó là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và cũng thể hiện tinh thần

trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và dân tộc . Đường lối do Đại hội đề ra
thể hiện sự phát triển tư duy lý luận, khả năng tổng kết và tổ chức thực tiễn của
Đảng, mở ra thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng nước ta trên con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội.


CHƯƠNG II: Đặc điểm của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trước
năm 1986
1.

Đặc điểm lực lượng sản xuất trước đổi mới
Nông nghiệp
Giai đoạn 1976-1980 nông nghiệp cả nước nói chung, nông nghiệp miền Bắc nói
riêng chẳng những không tăng mà còn bị giảm. Điển hình là sản lượng lương thực
ở miền Bắc từ 6,407 triệu tấn, bình quân đầu người 247 kg năm 1976, giảm xuống
5,997 triệu tấn, bình quân đầu người là 214 kg năm 1980.
Giai đoạn 1981-1985, Nhà nước đã thực hiện chủ trương khai hoang, phục hóa,
tăng vụ, diện tích gieo trồng đã được tăng thêm 1,5 triệu ha, đã cung ứng thêm cho
nông nghiệp gần 10.000 máy kéo các loại, đưa tỷ lệ cơ giới hóa làm đất lên 25%
diện tích gieo trồng. Diện tích trồng rừng đạt 500.000 ha, thêm gần 1 triệu ha được
tưới nước. Sản xuất nông nghiệp giai đoạn này đã được phát triển một bước quan
trọng. Năm 1985, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp đạt 126,9% so với năm 1980,
bình quân hàng năm tăng 4,9%, sản lượng lương thực tăng 27% đạt 18,2 triệu tấn,
bình quân đầu người đạt 304 kg.
Công nghiệp
Trong thời kỳ thực hiện đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đã
đầu tư vào các ngành công nghiệp gần 65 tỷ đồng, chiếm trên 40% tổng số vốn đầu
tư vào khu vực sản xuất vật chất, có tốc độ tăng cao hơn mức tăng bình quân của
toàn bộ khu vực sản xuất vật chất. Trong 10 năm (1976-1986) có nhiều công trình
công nghiệp tương đối lớn đã được xây dựng .

Giai đoạn 1976-1980, mặc dù đầu tư của Nhà nước cho công nghiệp rất lớn, chiếm
35,5% tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản và tăng lên không ngừng qua các năm,
nhưng sản xuất công nghiệp tăng lên rất chậm, giá trị sản lượng công nghiệp trong
giai đoạn này tăng 2,5%, bình quân chỉ tăng 0,6% năm. Nguyên nhân của tình
trạng trên do một số yếu tố khách quan như: nền kinh tế nước ta chủ yếu vẫn là sản
xuất nhỏ, chưa có tích lũy đáng kể từ nội bộ nền kinh tế, nguồn lực bên ngoài giảm
dần. Mặt khác, chiến tranh biên giới Tây Nam và chính sách bao vây cấm vận từ
nước ngoài lại gây thêm những thiệt hại cho nền kinh tế. Nguyên nhân chủ quan là:


đầu tư công nghiệp nặng dàn trải, công nghiệp nhẹ chưa được chú ý đúng mức, vì
vậy hiệu quả vốn đầu tư thấp. Việc nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa , xóa bỏ
kinh tế tư nhân. Các nguồn bao cấp của Nhà nước ngày càng hạn chế.
Giai đoạn 1981-1985, giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 57,4%, tốc độ tăng
bình quân hàng năm đạt 9,5%. Nhưng nhìn chung công nghiệp Việt Nam trong giai
đoạn này vẫn còn nhỏ bé, năm 1985 mới thu hút được 10,7% tổng số lao động xã
hội và chủ yếu là lao động thủ công với năng xuất thấp. Tuy chiếm 41% giá trị tài
sản cố định của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhưng công nghiệp chỉ tạo ra được
28,2% thu nhập quốc dân, hiệu quả sản xuất trên một đồng vốn đầu tư rất thấp.
Giao thông vận tải và bưu điện
Trong 10 năm (1876-1986) nhà nước đầu tư cho ngành giao thông vận tải chiếm
16,6% tổng số vốn đầu tư của Nhà nước cho nền kinh tế, làm cho giá trị tài sản cố
định mới tăng của ngành này là 22,2 tỷ đồng, của ngành bưa điện là 1,7 tỷ đồng.
Đã có 41.000 km đường ôtô các loại, 10.000 km đường song, 3.100 km đường sắt
được khôi phục và xây dựng thêm, 30.000 m cầu được khôi phục và xây dựng mới.
Cơ sở vật chất của ngành bưu điện tăng lên đáng kể. Số trung tâm bưu điện tăng
hơn 2,2 lần, từ 34 cơ sở năm 1976 lên 75 cơ sở năm 1985. Tổng số chiều dài
đường thư tăng từ 85,9 nghìn km lên 209,7 nghìn km. Số máy điện thoại sử dụng
tăng từ 30,3 nghìn cái lên 103,1 nghìn cái. Mặc dù vậy trình độ của nghành thông
tin liên lạc ở Việt Nam vẫn hết sức lạc hậu. phương tiện điện thoại chủ yếu chỉ

được dùng trong các công sở, còn trong gia đình chỉ là hiện tượng cá biệt.


2.

Đặc điểm quan hệ sản xuất trước đổi mới
a

Cải tạo và phát triển nông nghiệp:

+Vấn đề củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc
Thực hiện các nghị quyết của Đảng về tổ chức lại sản xuất trên địa bàn huyện,
đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong những năm 1976-1980,
các hợp tác xã nông nghiệp miền Bắc tiếp tục mở rộng quy mô, tổ chức lại theo
hướng tập trung, chuyên môn hóa, cơ giới hóa.
Hợp tác xã nông nghiệp có quy mô càng lớn, càng chuyên môn hóa, thì sản
xuất càng kém hiệu quả. Mặc dù nhà nước tăng đầu tư cho nông nghiệp nhưng sản
xuất nông nghiệp lại giảm. Mô hình hợp tác xã ở miền Bắc lâm vào tình trạng
khủng hoảng nặng nề. Sản xuất không đủ tiêu dùng, thu nhập và đời sống của xã
viên bị bấp bênh và yếu kém, nhiều hợp tác xã nằm trong tình trạng bị tan rã, nông
dân bỏ ruộng đồng....trước tình hình đó, ở một số địa phương, có hợp tác xã đã
phải khoán “chui” đến hộ gia đình dưới hình thức khác nhau.
Do có sự khủng hoảng của mô hình tập thể hóa nông nghiệp trong giai đoạn
này nên tháng 1-1981, ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra chỉ thị 100 về khoán sản
phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động. Đây là một hình thức quản lý tiến
bộ, thích hợp với điều kiện lao động của ta- chủ yếu còn là thủ công và hình thức
biểu hiện của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Tuy nhiên vấn đề khoán sản phẩm vẫn gặp nhiều khó khăn cần được tiếp tục
hoàn thiện ở giai đoạn sau. Đồng thời với việc củng cố và hoàn thiện quan hệ sản

xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp ở miền Bắc, Đảng ta đã tiến hành cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở miền Nam.
+Cải tạo nông nghiệp ở miền Nam
Sau khi được giải phóng, quan hệ sở hữu ruộng đất đã biến đổi sâu sắc, bộ
phận ruộng đất đã về tay nông dân; quan hệ sản xuất phong kiến không còn là trở
lực lớn trên con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa ở miền Nam. Do đó, ở đây chúng
ta không cần tiến hành cải cách ruộng đất như ở miền Bắc mà chủ yếu là việc xóa


bỏ những tàn dư thực dân và phong kiến về ruộng đất, giả quyết vấn đề tranh chấp
ruộng đất trong nội bộ nông dân.
Trong những năm 1975-1976, có các cuộc vận động rộng lớn nông dân tham
gia vào các hình thức kinh tế tập thể quá độ như tổ nông dân đoàn kết sản xuất, tổ
vần công, tổ đổi công, tổ hợp máy nông nghiệp, tập đoàn sản xuất.
Tuy nhiên, cũng như ở miền Bắc trước đây, trong quá trình tiến hành hợp tác
hóa nông nghiệp ở miền Nam đã có những biểu hiện “chủ quan, nóng vội trong cải
tạo, gò ép nông dân vào hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, đưa hợp tác xã lên quy mô
lớn, tập thể hóa triệt để tư liệu sản xuất trong khi chưa có đủ điều kiện, áp dụng
máy móc những hình thức tổ chức và quản lý giống nhau vào các vùng và các hợp
tác xã, tập đoàn sản xuất khác nhau”.
b

Cải tạo và phát triển công nghiệp

Cải tạo xã hội chủ nghĩa: củng cố quan hệ sản xuất trong các xí nghiệp quốc
doanh
Do cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam
và đầu tư xây dựng mới của nhà nước, số lượng cơ sở công nghiệp quốc doanh và
công tư hợp doanh đã tăng lên từ 1.913 xí nghiệp năm 1976 lên 2.627 xí nghiệp
năm 1980 và 3.224 xí nghiệp năm 1985. Song, do thực hiện cơ chế kế hoạch hóa

tập trung quan liêu, bao cấp của nhà nước nên khu vực kinh tế quốc doanh đã bộc
lộ nhiều hạn chế. Các xí nghiệp quốc doanh không có quyền chủ động trong sản
xuất vì phụ thuộc vào kế hoạch của Nhà nước về vật tư, tài chính, trong khi nguồn
lực bao cấp của Nhà nước ngày càng hạn chế do các nguồn viện trợ bị cắt giảm.
Trước tình hình đó, ngày 21-1-1981, hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết
định 25/CP về: “Một số chủ trương vè quyền tự chủ trương về biện pháp nhằm
phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính cho các
xí nghiệp quốc doanh”. Các quyết định trên trên đã giảm bớt phần nào tính tập
trung bao cấp trong cơ chế quản lý của nhà nước đối với các xí nghiệp quốc
doanh , tạo điều kiện cho sự “bung ra” của sản xuất, và điều quan trọng hơn là từ
đây đã gợi mở ra hướng đổi mới không chỉ trong kế hoạch mà cả trong lĩnh vực giá
cả, lợi nhuận, và các biện pháp khuyến khích lợi ích vật chất khác trong cơ chế
quản lý kinh tế của Nhà nước ở giai đoạn tiếp theo.


CHƯƠNG III: SỰ CHUYỂN BIẾN VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ
QUAN HỆ SẢN XUẤT SAU ĐỔI MỚI
1.

Chuyển biến về lực lượng sản xuất
Từ sau khi đổi mới, lực lượng sản xuất ở Việt Nam đã không ngừng phát triển.
Trình độ chuyên môn người lao động ngày càng được nâng cao, số lao động đã qua
đào tạo ngày càng tăng. Theo báo cáo “Điều tra lao động việc làm năm 2012” của
Tổng cục thống kê ( Bộ kế hoạch và đầu tư): Năm 2012, lực lượng lao động cả
nước đạt 52,384 nghìn; trong đó người lao động không có trình độ chuyên môn kĩ
thuật chiếm 83,2%, trình độ dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học
trở lên lần lượt chiếm 4,7%; 3,7%; 2,0% và 6,4%. Theo thông tin được đưa ra
trong buổi tổng kết điều tra lao động - việc làm từ năm 1996 đến 2005, do Bộ
LĐTB-XH tổ chức sáng 11/4/2006 tại Hà Nội: Năm 2005, lực lượng lao động cả
nước đạt 44.385 nghìn người, bình quân tăng 844 nghìn người/năm trong giai đoạn

1996-2005, với tốc độ tăng bình quân 1,7%. Về chất lượng lao động, nếu như năm
1996, tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo là 12,3% thì đến năm 2005 là
24,79%, như vậy số lao động đã qua đào tạo tăng 2,5 lần.( Nguồn: dantri.com.vn).
Theo số liệu của molisa.gov.vn (website của Bộ lao động – thương binh xã hội) tỉ
lệ lao động đã qua đào tạo nghề ở nước ta năm 2012 đạt 33,5% và mục tiêu năm
2015 đạt 40%. Hệ thống trường dạy nghề ngày càng được mở rộng, góp phần nâng
cao trình độ người lao động. Bên cạnh đó, ở Việt Nam những năm gần đây, đội ngũ
trí thức tăng nhanh, chỉ tính riếng số sinh viên cũng đã cho thấy sự tăng nhanh vượt
bậc. Theo thống kê của Bộ Giáo Dục: Năm 2003-2004 tổng số sinh viên đại học và
cao đẳng là 1.131.030 sinh viên đến năm 2007- 2008 tăng lên 1.603.484 sinh viên.
Năm 2008 tổng số sinh viên ra trường là 233.966 trong đó sinh viên tốt nghiệp đại
học là 152.272; sinh viên tốt nghiệp cao đẳng là 81.694. Số trí thức có trình độ thạc
sĩ, tiến sĩ cũng tăng nhanh. Theo thống kê cả nước đến 2008 có hơn 14 nghìn tiến


sĩ và tiến sĩ khoa học và đang đặt mục tiêu trong 10 năm tới sẽ có 20000 tiến sĩ.
Năm 2008 nước ta có 275 trường Trung cấp chuyên nghiệp, 209 trường cao đẳng,
160 trường Đại học và có tới 27.900 trường phổ thông, 226 trường dân tộc nội
trú… Nhìn vào những con số này, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy trình độ người
lao động nước ta ngày một được nâng cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển
kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế như: tâm lí coi trọng tấm bằng đại học,
đào tạo sinh viên, thạc sĩ một cách tràn lan,… So với các nước khác thì chất lượng
nguồn nhân lực Việt Nam đạt 3,79 điểm xếp 11/12 nước tham gia xếp hạng của
Ngân hàng Thế giới (WB) (nguồn: nhandan.com.vn).
Máy móc trang thiết bị hiện đại ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn trong sản
xuất.
Trong nông nghiệp, các loại máy cấy, máy gặt đập liên hợp, máy tuốt,… đã xuất
hiện và được đưa vào sử dụng rộng rãi. Theo thống kê của ngành chuyên môn: ở
đồng bằng sông Cửu Long, tính đến nay cả ĐBSCL có trên 7.000 máy gặt đập liên

hợp và trên 3.500 máy gặt xếp dãy. Dự kiến đến năm 2015, thì số lượng máy máy
gặt đập liên hợp tăng lên 15.000 chiếc. (nguồn: thanhnien.com.vn). Cùng với đó là
hệ thống các giống cây trồng vật nuôi ngày càng được nâng cao. Theo số liệu của
bộ NN $ PTNT: Đến nay đã có trên 90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô, 60%
diện tích mía, cây ăn quả… được dùng giống mới, đã có 90 cây trồng được chọn
tạo, đưa tỷ trọng áp dụng giống tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp lên
35% (Nguồn: tiengiang.gov.vn).
Trong công nghiệp, việc ứng dụng công nghệ kỉ thuật mới cũng được đẩy mạnh
như việc ứng dụng các hệ thống sản xuất tự động điều khiển bằng máy tính; ứng
dụng sử dụng các nguyên liệu sinh học, hạt nhân vào quá trình sản xuất, sử dụng
các nguồn năng lượng mới như năng lượng gió, năng lượng mặt trời,…Ngoài ra,
các phương tiện máy móc hiện đại cũng được nước ta sản xuất như máy tính, máy
gặt, các loại máy móc trong dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp. Một trong
những thành tựu nổi bật phải kể đến như giàn khoan tự nâng 90m nước, lò phản
ứng hạt nhân Đà Lạt tái hoạt động, máy soi cắt lớp điện toán trong công nghiệp,
dây chuyền sản xuất thiết bị điện tử viễn thông,… Hệ thống điện, đường, trường,
trạm cũng được nhà nước đầu tư và phát triển. Ngành điện lực Việt Nam đã có


những bước phát triển rất lớn. Những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, cả
nước chỉ có khoảng 6.000MW, sau 20 năm đổi mới đồng nghĩa với một quá trình
đầu tư xây dựng mạnh mẽ, đến nay cả nước đã có tới 28.000MW và hàng trăm
ngàn km đường dây, hàng trăm trạm biến áp từ 500kV trở xuống. Nguyên nhiên
vật liệu, tài nguyên khoáng sản, năng lượng không tái tạo nước ta được khai thác,
phục vụ cho sản xuất, đời sống hiện nay rất nhiều. Theo Tập đoàn Than khoáng sản
Việt Nam – TKV trữ lượng than tại Việt Nam rất lớn: riêng ở Quảng Ninh khoảng
10.5 tỷ tấn, trong đó đã tìm kiếm thăm dò 3.5 tỷ tấn (chiếm khoảng 67% trữ lượng
than đang khai thác trên cả nước hiện nay), chủ yếu là than antraxit. Khu vực đồng
bằng sông Hồng được dự báo có khoảng 210 tỷ tấn, chủ yếu là than Asbitum, các
mỏ than ở các tỉnh khác khoảng 400 triệu tấn. Riêng than bùn là khoảng 7 tỉ m3

phân bố ở cả 3 miền (Nguồn: tổng cục thống kê và VINACOMIN). Năng lượng tái
tạo vẫn đang trong giai đoạn được đầu tư, phát triển như năng lượng gió, năng
lượng mặt trời, năng lượng sinh khối, năng lượng hạt nhân,…
Tuy nhiên, tư liệu sản xuất ở nước ta vẫn còn kém phát triến so với nhiều nước
khác xung quanh như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,… Nước ta còn phải nhập
khẩu nhiều máy móc trang thiết bị, nguyên nhiên vật liệu từ nước khác. Trung
Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của nước ta, chiếm chiếm 25,3% tổng kim
ngạch nhập khẩu của Việt Nam, trong đó chủ yếu là khí đốt, phân bón, rau hoa
quả, thuốc trừ sâu, điện thoại các loại và linh kiện, vải, máy móc thiết bị dụng cụ
phụ tùng, nguyên phụ liệu dệt may da...Đứng thứ 2 là Hàn Quốc, chiếm 13,6%
tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam; thứ 3 là Nhật Bản, chiếm 10,2%, thứ 4 là
EU, chiếm 7,7%;…(Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam).
Như vậy, lực lượng sản xuất ở nước ta tuy vẫn còn nhiều hạn chế nhất định nhưng
đã có sự phát triển vượt bậc so với giai đoạn trước đổi mới. Sự phát triển không
đồng đều của lực lượng sản xuất dẫn tới sự sở hữu không đồng đều về tư liệu sản
xuất của mọi người trong xã hội.
2.

Chuyển biến về quan hệ sản xuất
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội
và đổi mới hiện nay, Nhà nước luôn coi trọng mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng các
quan hệ sản xuất của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Có thời kỳ, Nhà nước tập
trung nhấn mạnh thiết lập, củng cố chế độ công hữu; thời kỳ khác, Nhà nước chủ
trương xây dựng các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đến Đại hội X (2006),


Đảng đã cụ thể hóa một trong những đặc trưng, phương hướng của chủ nghĩa xã
hội ở nước ta là xây dựng các quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
các lực lượng sản xuất. Đại hội XI của Đảng đã bổ sung, phát triển đầy đủ hơn luận
điểm rất quan trọng này là: xây dựng các quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp.

Trước hết, đây là các quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Kế thừa thành tựu của công cuộc đổi mới từ
năm 1986 đến nay, Đại hội XI đề cập đến các quan hệ sản xuất một cách đúng đắn
và đồng bộ trên cả 3 bình diện:
Về mặt sở hữu, Trước đổi mới, cơ cấu sở hữu ở Việt Nam là công hữu (với
hai hình thức cơ bản là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) chiếm vị trí độc tôn. Bắt
đầu từ Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương phát triển nền kinh tế hàng
hóa có cả công hữu, tư hữu và sở hữu tập thể với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế. Cùng với đó, cơ cấu sở hữu ở Việt Nam đã có biến đổi mang
tính chất bước ngoặt so với thời kỳ trước đổi mới. Từ chỗ độc tôn công hữu chuyển
sang thừa nhận đa dạng các hình thức sở hữu trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Ngoài ra còn có
những biến đổi cơ cấu chủ thể sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước từ đó hình
thành nên chủ thể sở hữu hỗn hợp. Như vậy, thời kỳ đổi mới, Nhà nước nhấn mạnh
các thành phần kinh tế đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình
đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Thực hiện chủ trương trên, trong những năm đổi mới, Nhà nước đã ban hành nhiều
chính sách và luật pháp nhằm đa dạng hóa các hình thức của quan hệ sản xuất để
khuyến khích, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, giải phóng mọi tiềm năng
của sản xuất, tạo thêm động lực cho người lao động. Những chính sách, pháp luật
(điển hình là Hiến pháp; Bộ luật Dân sự, Luật Lao động, Luật Doanh nghiệp,… )
đều quan tâm chú trọng đến đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của kinh tế nhà
nước, nhất là doanh nghiệp nhà nước, đến việc củng cố và phát triển kinh tế tập
thể, đến phát huy vai trò động lực của kinh tế tư nhân, thu hút mạnh mẽ và phát
huy hiệu quả của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, nâng cao chất lượng và hiệu
quả cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, phát triển kinh tế hỗn hợp... Sự chuyển
biến này chính là kết quả của việc nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật về sự

phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đồng
thời, đây cũng là biểu hiện của sự thay đổi nhận thức về vị trí, vai trò của sở hữu


trong thời kỳ quá độ. Sở hữu không còn được coi là mục tiêu của cách mạng xã hội
chủ nghĩa như thời kỳ trước đổi mới, mà sở hữu đã được xác định là phương tiện
để đạt được hiệu quả trong phát triển kinh tế - xã hội.
Về mặt tổ chức và quản lý sản xuất, thành tựu đổi mới quan trọng nhất về mô hình
tổ chức, quản lý sản xuất từ năm 1986 đến nay là chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa
tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống quản lý tạo thành mạng lưới, không còn thiên về trung tâm – ngoại vi
theo kiểu tập quyền mà chuyển sang phân quyền. Sự đa dạng hóa chủ thể sở hữu là
căn nguyên dẫn tới sự đa dạng hóa chủ thể tổ chức, quản lý sản xuất Quá trình dân
chủ hóa trong kinh tế đã tạo điều kiện để các chủ thể kinh tế khác cùng tham gia
vào tổ chức, quản lý sản xuất. Từ năm 1986 đến nay, chủ thể tổ chức, quản lý sản
xuất ở Việt Nam đã có sự biến đổi mang tính chất bước ngoặt so với thời kỳ trước
đổi mới: không còn tuyệt đối hóa vai trò của Nhà nước mà đã có thêm nhiều chủ
thể khác. Vai trò và chức năng của các chủ thể tổ chức, quản lý sản xuất cũng
thường xuyên có sự điều chỉnh phù hợp với xu thế chung trên thế giới, đặc biệt là
đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ khi đổi mới đến nay, Nhà nước từng bước chuyển từ
phương pháp tổ chức, quản lý nền sản xuất xã hội bằng mệnh lệnh hành chính sang
phương thức sử dụng các biện pháp kinh tế là chủ yếu, theo hướng giảm sự can
thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Cùng với
đó, các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước bao gồm: công cụ pháp luật, kế
hoạch hóa, chính sách tài chính, chính sách tiền tệ và nguồn lực kinh tế của nhà
nước… cũng được đổi mới căn bản. Đây là những chuyển biến tích cực, góp phần
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, phương thức tổ chức,
quản lý nền sản xuất xã hội của Nhà nước vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc
phục. Song song với những cải cách trong phương thức quản lý kinh tế của Nhà

nước, các chủ thể kinh tế khác cũng thay đổi cách thức tham gia tổ chức, quản lý
nền sản xuất xã hội. Không còn ở thế bị động, hoàn toàn tùy thuộc vào Nhà nước
như trước đổi mới, hiện nay, các doanh nghiệp ngày càng chủ động hơn trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh theo tín hiệu thị trường. Bên cạnh đó, các tổ chức dân sự
cũng tham gia tổ chức, quản lý nền sản xuất xã hội thông qua hoạt động phản biện
xã hội. Xu hướng này sẽ ngày càng được đẩy mạnh trong thời gian tới.


Về mặt phân phối, Nhà nước nêu rõ cần phân phối công bằng cả các yếu tố
sản xuất, các cơ hội, điều kiện phát triển và sản phẩm làm ra. Trong phân phối sản
phẩm, chủ yếu căn cứ vào kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức
đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác; phân phối thông qua hệ thống phúc lợi và
an sinh xã hội. Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi, từng chính sách phát triển
kinh tế - xã hội. Nếu như trước đổi mới, với quan điểm Nhà nước làm thay tất cả,
Nhà nước là chủ thể phân phối duy nhất thì từ năm 1986, các chủ thể kinh tế khác
cũng tham gia quan hệ phân phối, hình thành nên cơ cấu đa dạng các chủ thể phân
phối. Một điểm mới căn bản so với trước đổi mới về hình thức phân phối theo lao
động là quan điểm phân phối phải theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Bên
cạnh đó, hình thức phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào
sản xuất kinh doanh được chính thức thừa nhận đã tạo động lực thúc đẩy các chủ
thể kinh tế đẩy mạnh đầu tư phát triển sản xuất. Phân phối thông qua phúc lợi xã
hội và hệ thống an sinh xã hội hướng đến hiệu quả xã hội nhằm hạn chế sự phân
hóa giàu nghèo và tình trạng bất bình đẳng trong nền kinh tế thị trường. Trong thời
gian tới, việc thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân phối theo cơ chế thị trường
có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước tiếp tục được đẩy mạnh, có ý nghĩa quan
trọng trong tạo động lực cho người lao động, đồng thời đảm bảo công bằng xã hội.
Tuy nhất quán với chính sách kinh tế nhiều thành phần, nhưng không
thể chấp nhận tư hữu tư bản chủ nghĩa đối với các tư liệu sản xuất trở thành chế độ
sở hữu ở nước ta. Mặt khác, hiện nay chúng ta chấp nhận bóc lột lao động, nhưng

không thể cho phép bất cứ thế lực nào thống trị, nô dịch người lao động và nhân
dân lao động nói chung. Chúng ta chấp nhận chênh lệch thu nhập, phân hóa xã hội,
nhưng không thể tạo điều kiện cho sự chênh lệch và phân hóa ấy diễn ra ngày càng
nghiêm trọng. Thông qua nhiều biện pháp khác nhau, nhà nước và toàn xã hội phải
thu hẹp các khoảng cách nêu trên. Trên cả 3 bình diện sở hữu, tổ chức – quản lý
sản xuất và phân phối, không thể để các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chiếm
vai trò, vị trí chủ đạo trong cơ sở hạ tầng ở nước ta. Theo quan điểm từ Đại hội
Đảng VI cũng khẳng định: không những khôi phục thành phần kinh tế tư nhân và
kinh tế cá thể mà còn phải phát triển chúng rộng rãi theo chính sách của Đảng và
Nhà nước. Nhưng điều quan trọng là phải nhận thức được vai trò của thành phần
kinh tế Nhà nước trong thời kỳ quá độ. Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu từng nói:
“...không chấp nhận Việt Nam theo con đường chủ quan của tư bản nhưng không
phải triệt tiêu tư bản trên đất nước Việt Nam mà vẫn quan hệ với chủ nghĩa tư bản


trên cơ sở có lợi cho đôi bên, và như vậy cho phép phát triển thành phần kinh tế
tư bản là sáng suốt.”
Nhờ việc vận dụng đúng quy luật quan hê sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng trong việc cho phép tồn tại nhiều quan hệ sản xuất phù
hợp với các trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất đã mang lại sự phát triển lớn
cho nền kinh tế nước ta giai đoạn này.
CHƯƠNG IV: Những thành tựu, hạn chế của sự đổi mới của đảng
1.


Thành tựu
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử.

Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm, khắc phục

được nạn lạm phát có lúc trên 700% (năm 1986) xuống mức lạm phát 12% (năm
1995) và từ đó đến nay lạm phát chỉ còn một con số; khắc phục được nạn thiếu
lương thực trước đây và hiện nay kinh tế phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất
lương thực, Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu gạo thứ hai, thứ ba trên thế
giới.
Hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm
mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Cùng với tăng trưởng kinh tế, trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã chú ý đến việc
thực hiện chính sách công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo. Nhờ đó, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện một bước đáng kể. Tính riêng trong 5
năm (1993-1998), thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng 2,45 lần.
Một đặc điểm khác đáng chú ý nữa là sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đã xác định
đổi mới kinh tế là trọng tâm, trước hết phải đổi mới tư duy về kinh tế. Nhờ định
hướng đúng đắn mà những yêu cầu cấp thiết của nhân dân ta về sản xuất và đời
sống được giải quyết, đem lại sự tin tưởng của nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới,
tự nó trở thành động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới giành nhiều thắng lợi.


Song song với đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới về chính trị, xã hội, văn hóa với
mục tiêu phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, xây dựng và phát huy đại
đoàn kết toàn dân, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Khoa học - công nghệ cùng với giáo dục - đào tạo được Nhà nước hết sức
chăm lo. Nhà nước coi chính sách phát triển khoa học - công nghệ và giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhờ vậy, trong những năm vừa qua, khoa học công nghệ và giáo dục - đào tạo đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Năm 2000,
Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, hiện nay chương trình đào tạo
sau đại học với hai học vị thạc sĩ và tiến sĩ đang được thực hiện ở hầu hết các
ngành học thuộc khoa học tự nhiên và công nghệ cũng như khoa học xã hội và
nhân văn.
Trong lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam thực hiện chính sách mở rộng quan hệ đối
ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối

ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Trên cơ sở đường lối đó, Việt Nam đã
kiên trì phấn đấu đẩy lùi và làm thất bại chính sách bao vây cấm vận, cô lập Việt
Nam của các thế lực thù địch, tạo được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tháng 7-1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN).
Tháng 3-1996, Việt Nam đã tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) gồm 10
nước châu Á và 15 nước châu Âu với tư cách thành viên sáng lập. Tháng 10-2004,
Hội nghị ASEM lần thứ năm đã họp tại Thủ đô Hà Nội của Việt Nam.
Tháng 11-1998, Việt Nam đã gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC) gồm các nước và lãnh thổ thuộc châu Á, châu Mỹ và châu Đại
Dương ở ven hai bờ Thái Bình Dương.
Chính trong quá trình hội nhập kinh tế, Việt Nam đã nhanh chóng mở rộng xuất
khẩu, thúc đẩy phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao động, tăng nguồn thu
ngân sách nhà nước. Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 2,404 tỷ
USD và nhập khẩu đạt 2,752 tỷ USD, tính chung bốn năm từ năm 2001 đến năm
2004, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 77 tỷ USD, tốc độ tăng xuất khẩu bình


quân bốn năm khoảng 14,6%. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm
2004 đạt trên 305 USD/người.
Đổi mới ở Việt Nam đã kết hợp được nội lực và ngoại lực. Tháng 12-1987, Việt
Nam đã ban hành Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ thời gian ấy đến nay, đất
nước ta đã thu được hàng chục tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài với hàng nghìn dự
án, trong số đó đã thực hiện khoảng 21 tỷ USD. Có thể nói rằng, nguồn đầu tư trực
tiếp nước ngoài giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi
mới. Ngoài ra, Việt Nam còn tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức
(ODA) ngày càng cao.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cơ hội để Việt Nam tiếp cận với những

thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên
thế giới. Đồng thời, thông qua các dự án hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp
Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Những thành tựu đổi mới trên bắt nguồn từ đổi mới tư duy. Việc đổi mới tư duy mà
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam đề
ra rất khái quát, nhưng hết sức cơ bản và có ý nghĩa quan trọng cho việc tiếp tục
đổi mới về sau. Khi công cuộc đổi mới được triển khai và đi vào chiều sâu thì đổi
mới tư duy càng được đẩy mạnh. Bất cứ một sự ngưng trệ nào trong tư duy cũng
đều làm ngưng trệ sự đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực
tiễn đổi mới về kinh tế, chính trị, xã hội vừa là kết quả đổi mới tư duy, lại vừa đặt
ra những yêu cầu mới cho việc tiếp tục đổi mới tư duy ở trình độ cao hơn.
Ở Việt Nam, đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà làm cho
chủ nghĩa xã hội đi tới thắng lợi. Đổi mới không phải là phủ định quá khứ mà
khẳng định những gì hiểu đúng, làm đúng, loại bỏ những gì hiểu sai, làm sai, bổ
sung những nhận thức mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới.
Thực hiện được những điều trên đây thực sự là cuộc đấu tranh phức tạp giữa cái
đúng và cái sai, giữa tiến bộ và lạc hậu, lỗi thời, giữa cái mới thúc đẩy sự phát triển
và cái cũ cản trở sự phát triển. Tiêu chuẩn để phân biệt những mặt trái ngược đó
chính là thực tiễn - kết quả về kinh tế, xã hội giành được trong thời kỳ đổi mới.


Thành tựu đổi mới ở Việt Nam đã được thể hiện rõ nét trên một số vấn đề
sau đây:


Thứ nhất, chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung chỉ có hai thành phần
kinh tế (nhà nước và tập thể) sang mô hình mới - kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần (nhà nước, tập thể, cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước, có vốn
đầu tư nước ngoài), trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự thống
nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các hình thức phân

phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu nhằm thúc
đẩy phát triển sản xuất. Đây là đổi mới căn bản mà ý nghĩa sâu xa của nó là tôn
trọng quy luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Điều đó đã mở đường giải phóng mọi tiềm năng xã
hội, giải phóng sức sản xuất. Nhân tố quan trọng bậc nhất của lực lượng sản xuất là
con người: Người lao động làm chủ, được thúc đẩy bởi quy luật lợi ích, trong đó
lợi ích cá nhân của người lao động là động lực trực tiếp và là cơ sở để thực hiện
phát triển lợi ích của tập thể và của toàn xã hội.
Thứ hai, từ mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung chuyển
sang mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường. Điểm nổi bật trong đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế là xóa bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp, hình thành tương
đối đồng bộ cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đổi mới có tính chất đột phá là từ chỗ về cơ bản không sử dụng quan hệ
hàng hóa - tiền tệ, chuyển sang coi thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của
kế hoạch. Còn kế hoạch mang tính định hướng, điều tiết ở tầm vĩ mô, thị trường có
vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và
phương án tổ chức sản xuất kinh doanh.
Cơ chế thị trường thừa nhận cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất phát triển, nhưng đồng
thời dẫn tới sự chênh lệch, sự phân hóa giàu nghèo. Đây là mặt trái của cơ chế thị
trường.
Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải có chính sách đúng đắn để cho cơ chế thị trường
đẩy sự phân hóa giàu nghèo vượt qua giới hạn cho phép. Việt Nam đã giải quyết
vấn đề này bằng chính sách xóa đói, giảm nghèo được thực hiện tương đối hiệu
quả.
Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm nghèo: Kinh nghiệm Việt Nam
và một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào giữa
tháng 6-2004, đại diện của nhiều tổ chức và nhà tài trợ quốc tế đã đánh giá cao


những thành tựu của Việt Nam trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo. Việt Nam là

nước có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất khu vực Đông Nam Á.
Thứ ba, đổi mới hệ thống chính trị từ chế độ tập trung quan liêu, với phương thức
quản lý kinh tế hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống
xã hội, thực hiện dân chủ gắn liền với tôn trọng luật pháp, kỷ cương xã hội, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân. Đổi mới trong lĩnh vực này đã góp phần quan
trọng vào việc tháo gỡ những lực cản đối với tăng trưởng kinh tế, phát triển văn
hóa xã hội, nảy sinh ra những nhân tố mới, động lực mới, thúc đẩy công cuộc đổi
mới ở Việt Nam giành được nhiều thành quả.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam gồm ba phần cấu thành: Đảng, Nhà nước, Mặt trận
và các đoàn thể nhân dân. Nói đổi mới hệ thống chính trị thực chất là đổi mới tổ
chức, cán bộ và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị đó. Cụ thể là:
- Đảng Cộng sản Việt Nam “lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận
của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân
dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí
tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng...
Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ
nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái”1.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Nhà nước thể hiện và thực hiện ý chí, quyền
lực của nhân dân, định ra pháp luật, tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng
pháp luật, kế hoạch và các chính sách cụ thể. Lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu
sự giám sát của nhân dân, nhờ vậy đã có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa
và chống tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm
quyền và lợi ích của nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức
chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu
trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam
định cư ở nước ngoài.



Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự
nghiệp đoàn kết toàn dân tộc nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. “Các
đoàn thể nhân dân, tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã xác định, vừa vận
động đoàn viên, hội viên giúp nhau chăm lo, bảo vệ các lợi ích thiết thực; vừa giáo
dục nâng cao trình độ mọi mặt cho đoàn viên, hội viên, vừa tham gia quản lý nhà
nước, quản lý xã hội”2.
Thành tựu đạt được trong việc thực hiện đổi mới hệ thống chính trị là đáng kể. Đổi
mới đã tạo ra bầu không khí dân chủ và cởi mở trong xã hội, đã thiết lập được các
cơ chế và chính sách để thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Tất cả những điều
vừa trình bày trên đây đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị
- xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.
2.

Hạn chế :

- Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, năng suất lao động thấp, chất lượng sản
phẩm chưa tốt, giá thành cao, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp.
- Kinh tế nhà nước chưa được củng cố tương xứng với vai trò chủ đạo, kinh tế tập
thể chưa mạnh.
- Các hoạt động khoa học công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nộng thôn còn ở mức cao. Mức
sống của nhân dân nhất là nông dân ở một số vùng thấp.


CHƯƠNG V: Những bài học kinh nghiệm của công cuộc đổi mới ở Việt Nam:
1. Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh

Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội và trong tám thập kỷ qua, Đảng ta luôn kiên trì mục tiêu đó. Trong hơn 20
năm đổi mới, tình hình thế giới biến động rất phức tạp. Cuối những năm 80, đầu
những năm 90 của thế kỷ XX, chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và
Liên Xô sụp đổ. Chủ nghĩa xã hội hiện thực bị lâm vào thoái trào, phong trào cách
mạng thế giới gặp những khó khăn to lớn chưa từng thấy. Tình hình đó đã tác động
đến cách mạng nước ta. Đứng trước tình thế hiểm nghèo đó, với bản lĩnh chính trị
vững vàng, Đảng ta vẫn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa đã chọn - con
đường hợp quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam để xây dựng một nước Việt
Nam giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, phù hợp với con đường phát triển
của nhân loại.
Trong những năm đổi mới, Đảng ta đã có sự nhận thức sâu sắc hơn, đúng đắn hơn
đối với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được Đại hội VII của Đảng thông qua năm 1991 Đảng
ta đã đưa tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng nước ta.
Trên cơ sở đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, Đảng ta đặt vấn đề xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng, nhất là trong thời kỳ đổi mới đã
khẳng định giá trị, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.


Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là kiên định tính biện
chứng, là điều kiện cơ bản bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới vô cùng phức tạp của tình hình thế giới.
2. Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm
phù hợp
Công cuộc cải tổ, cải cách ở một số nước xã hội chủ nghĩa cho thấy, nếu xác định
đúng mục tiêu, song không xác định đúng phương hướng, bước đi thì vẫn có thể

không thành công. Đối với nước ta, đổi mới là một sự nghiệp có tính chất cách
mạng, toàn diện, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đổi mới toàn diện phải tiến hành đồng bộ trên tất cả các mặt, tuy nhiên phải xác
định trọng tâm, trọng điểm và phải có các bước đi, hình thức, cách làm phù hợp,
phải nắm lấy khâu then chốt trong mỗi thời kỳ, phải nắm vững các mối quan hệ
biện chứng chủ yếu trong đời sống xã hội, đó là quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, giữa kinh tế và chính trị, giữa kinh tế và quốc phòng - an ninh,
trong đó xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Trong quá trình đổi mới, nước ta kế thừa những kinh nghiệm dựng nước và giữ
nước của lịch sử dân tộc, những thành tựu của cách mạng, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc, đồng thời kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn
hóa nhân loại, trong đó có mặt tích cực của kinh tế thị trường, những giá trị tư
tưởng về nhà nước pháp quyền.
Để đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, nước ta đã bảo đảm tốt nhiệm vụ phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt với phát
triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Gắn kết chặt chẽ kinh tế với văn hóa
và bảo đảm môi trường sinh thái. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện công
bằng xã hội trong từng bước phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với nhiệm vụ
quốc phòng - an ninh và đối ngoại.
3. Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò
chủ động, sáng tạo của nhân dân, phù hợp thực tiễn, luôn luôn nhạy bén với
cái mới


Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và tổ chức thực hiện về bản
chất mang tính nhân dân sâu sắc thể hiện ở chỗ nó bắt nguồn từ nhân dân, vì lợi ích
của nhân dân và do nhân dân thực hiện. Chính những sáng kiến của nhân dân, của
cơ sở nảy sinh từ cuộc sống thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc để hình thành chủ trương
đổi mới của Đảng. Đường lối đổi mới phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, thể

hiện ý Đảng lòng dân nên được toàn dân ủng hộ và thực hiện một cách sáng tạo đã
giải phóng được mọi tiềm năng của lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định sự phát
triển xã hội, khơi dậy được tài sức của nhân dân để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Hiện nay, công cuộc đổi mới đang đặt ra nhiều vấn đề cả về lý luận và thực tiễn mà
Đảng ta phải nghiên cứu giải quyết. Vì vậy, phải tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn. Những bài học rút ra trong sự nghiệp đổi mới vừa qua sẽ góp phần
thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đi tới thành công, nhất là phải đối phó với cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu và nhiều vấn đề cấp bách khác như biến đổi khí hậu, dịch
bệnh, v.v..
Do tác động mặt trái của kinh tế thị trường, nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí
đang tiếp tục diễn ra ở một số cán bộ và một số cơ quan quan trọng làm cho quan
hệ giữa Đảng và nhân dân có mặt bị giảm sút. Vì vậy, phải củng cố và tăng cường
mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Lợi ích chính đáng của nhân
dân phải là cơ sở để hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước. Có như vậy
những sáng kiến, kinh nghiệm của quần chúng, tiếng nói, nguyện vọng của nhân
dân mới có thể được biến thành những quyết sách chính trị trong quá trình đổi mới.
4. Phát huy cao độ nội lực, đồng thời khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn coi trọng việc phát huy sức mạnh tổng hợp
để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trong đó phát huy nội lực là nhân tố
quyết định, khai thác nhân tố ngoại lực là quan trọng, kết hợp sức mạnh của dân
tộc với sức mạnh của thời đại.
Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão,
kinh tế tri thức ngày càng phát triển, chúng ta phải chủ động sử dụng những thành
tựu khoa học và công nghệ (công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ
vật liệu mới...) cùng với những thành tựu của kinh tế tri thức để phát triển kinh tế -


xã hội, tạo tiền đề để phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại của thế
giới.

Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế đã trở thành một xu thế khách quan, tác động
đến tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, Đảng ta đã đề ra chủ trương chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế. Vì thế, chúng ta đã xác lập được quan hệ ổn định với các
nước lớn, đã thiết lập ngoại giao với 167 nước, có quan hệ thương mại với 221
nước và vùng lãnh thổ, chúng ta đã gia nhập AFTA, ASEM, APEC và năm 2006 đã
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nhờ vậy, chúng ta đã thu hút ngày
càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài FDI và ODA. Chúng ta cũng đã thiết lập được
quan hệ tín dụng với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, tranh thủ được số lượng
vốn vay ưu đãi của Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân
hàng Phát triển châu Á (ADB), đồng thời tranh thủ kinh nghiệm quản lý của nước
ngoài, mở rộng thị trường để phát triển đất nước.
Sự khai thác ngoại lực làm tăng lên sức mạnh của nội lực. Việc phát huy nội lực
tạo cơ sở cho việc sử dụng ngoại lực có hiệu quả hơn. Trong việc khai thác ngoại
lực, sử dụng sức mạnh của thời đại, chúng ta phải đứng vững trên các nguyên tắc
tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc.
5. Phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng
đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân
Thực tiễn công cuộc đổi mới đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là
nhân tố quyết định thành công của đổi mới. Nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn,
ngày càng hoàn thiện, vai trò lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng được tăng
cường, do đó, công cuộc đổi mới do Đảng ta đề xướng được đông đảo nhân dân
hưởng ứng biến thành hành động sôi nổi, rộng khắp của quần chúng.
Trong quy trình đổi mới, Đảng ta rất coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, coi việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng trong điều kiện mới là nhiệm vụ sống còn trong toàn bộ sự
nghiệp cách mạng.



×