Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

phương thức mở rộng kinh doanh trên thị trường nhật bản của công ty vietfood

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.78 KB, 23 trang )

Mục lục

1


Lời mở đầu
Thế giới ngày càng phẳng khi các nước ngày càng hội nhập
sâu rộng cả về quy mô cũng như chiều sâu.Việt Nam cũng
không nằm ngoài dòng chảy kinh tế của thế giới khi đang dần
khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc tế. Chúng ta
đã đàm phán và kí kết nhiều hiệp định quan trọng trên nhiều
phương diện, cả song phương và đa phương với nhiều quốc gia
trên thế giới. Có thể kể tới các hiệp định về song phương lớn
như Hiệp định hợp tác kinh tế toàn diện Việt Nam - Nhật Bản,
Hiệp định kinh tế tự do Việt Nam - Chilê,… về đa phương có
Hiệp ước kinh tế các nước Asean (AEC), Hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP). Đây là cơ hội lớn để Việt Nam phát triển
toàn diện mạnh mẽ cả về kinh tế cũng như chính trị, để doanh
nghiệp Việt mở rộng thị trường ra nước ngoài nhưng cũng là
thách thức nếu nền kinh tế chưa đủ mạnh để thống lĩnh thị
trường trước hàng hóa từ nước ngoài. Do đó rất cần các doanh
nghiệp Việt Nam có một lộ trình dài hạn và bản lĩnh để thành
công trên thương trường.
Hôm nay nhóm 8 xin trình bày phương thức mở rộng kinh
doanh trên thị trường Nhật Bản của công ty Vietfood - công ty
chuyên chế biến các sản phẩm sấy khô từ hoa quả để từ đó làm
rõ các yếu tố thúc đẩy công ty mở rộng thị trường kinh doanh
ra nước ngoài trong sự hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

2



Khái quát về công ty Vietfood

I.



Tên đầy đủ của Vietfood là Công ty Cổ phần nông sản Vietfood,
được thành lập vào ngày 18 tháng 10 năm 2014 với mục tiêu
trở thành một doanh nghiệp chuyên sản xuất các sản phẩm sấy
khô từ hoa quả tươi cung cấp cho thị trường miền bắc. Hoa quả
tươi được nhập hoàn toàn từ các nông trại uy tín có đầy đủ các
chứng chỉ an toàn vệ sinh thực phẩm như VietGAP ở các huyện
ngoại thành Hà Nội như Thanh Oai, Thường Tín, Gia Lâm,… Dây
3


chuyền sản xuất của công ty được nhập khẩu từ Cộng hòa Liên
bang Đức theo quy trình khép kín nên đảm bảo các chỉ số về
dinh dưỡng, vi sinh đáp ứng các tiêu chuẩn ngặt nghèo quốc tế.
Sản phẩm đạt tiêu chuẩn ISO 9001:2015, cúp vàng thương hiệu


Việt và hiện tại đã có mặt trên thị trường toàn quốc.
Công ty có trụ sở chính tại 207 Giải Phóng, Hai Bà Trưng, Hà
Nội. Từ quy mô 70 nhân viên ban đầu đến năm 2016 công ty đã
có 1000 nhân viên đáp ứng tốt năng lực sản xuất của công ty.
Tổng vốn điều lệ 1000 tỷ đồng. Năm 2016, doanh thu công ty
đạt 1700 tỷ đồng, lợi nhuận thu về 150 tỷ đồng, đóng góp lớn
vào khoản thuế của nhà nước. Các sản phẩm chính của công ty

gồm mít sấy khô, chuối sấy, khoai sấy đã được thị trường tiếp
nhận và ngày càng mở rộng doanh số. Tính bình quân mỗi năm
doanh thu công ty tăng 20 – 30% với mạng lưới phân phối toàn



quốc.
Với khẩu hiệu đặt lợi ích người tiêu dùng lên hàng đầu, công ty
luôn chú ý sản phẩm của mình phải luôn đảm bảo nhất về chất
lượng trong từng khâu của quá trình sản xuất. Có thể thấy rõ
mục tiêu của công ty thông qua logo. Chữ V có nghĩa là Việt,
nhưng cũng có nghĩa là Victory hay Value. Đây là lời khẳng định
của công ty Vietfood sẽ quyết tâm chiến thắng trên thương
trường, chiến thắng bằng chính niềm tin của người tiêu dùng.
Với cách kinh doanh có tâm, có tài và có tầm, công ty sẽ truyền
được giá trị của mình đóng góp lớn cho nhà nước và xã hội. Chữ
V được tô màu xanh có ý nghĩa sản phẩm luôn tươi sạch nhất,
trong lành nhất. Màu da cam là biểu tượng của lương thực dùng



làm nguyên liệu của công ty như khoai, mít,...
Vào quý II năm 2016, nhận thấy việc phân phối sản phẩm ở
Việt Nam có dấu hiệu ổn định, tăng trưởng về thị phần chậm
4


hơn, công ty hiểu rằng thị trường trong nước đã bắt đầu bão
hòa. Công ty cần tìm một thị trường hoàn toàn mới để phát huy
tối đa nguồn lực hiện tại. Do Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp

định tự do kinh tế nên việc chọn lựa một thị trường nước ngoài
là điều không khó do chất lượng sản phẩm của công ty có thể
đáp ứng các tiêu chuẩn của nước ngoài. Và công ty đã lựa chọn
đầu tư vào thị trường đầy tiềm năng là Nhật Bản. Vậy những
nguyên nhân nào dẫn tới việc chọn thị trường Nhật Bản ta sẽ
cùng phân tích ở phần II.

5


Lựa chọn và phương thức thâm nhập thị trường Nhật Bản
Động cơ thúc đẩy

II.
II.1.

Có nhiều mục đích và động cơ thúc đẩy công ty Vietfood
chế biến nông sản khô mở rộng ra thị trường Nhật Bản xuất
phát từ môi trường kinh doanh cả trong và ngoài nước. Chúng
tôi sẽ phân tích động cơ theo hai phần là lực đẩy và lực kéo



Lực kéo từ thị trường Nhật Bản
Mở rộng phạm vi thị trường kinh doanh
Thị trường Nhật Bản ưa chuộng nông sản nhiệt đới. Do sự
khác biệt giữa các mùa vụ, khác biệt về chủng loại rau quả do
khác biệt về vùng khí hậu, sở thích của người Nhật đối với hoa
quả có vị ngọt và đặc biệt là hiện nay nhận thức của người tiêu
dùng với lợi ích sức khỏe của họ nên các mặt hàng như chuối,

dứa, đu đủ, xoài và bơ rất được thị trường Nhật Bản ưa chuộng.
Các sản phẩm nông sản khô sử dụng được lâu, an toàn và tiện
lợi nên doanh nghiệp có thể mở rộng mặt hàng này trên thị
trường Nhật Bản.
Nhu cầu nhập khẩu nông sản của Nhật gia tăng. Nhu cầu về
mặt hàng nông sản của Nhật ngày càng tăng do tỷ lệ nông
nghiệp ngày càng nhỏ đi trong cơ cấu GDP của Nhật, từ gần
13% năm 1960 xuống chỉ còn hơn 1% năm 2012. Do vậy, tỷ lệ
đảm bảo tự cấp lương thực ở Nhật cũng giảm mạnh trong nhiều
năm qua. Gần đây, Nhật đã nới lỏng hơn một số tiêu chí về dư
lượng kháng sinh đối với gạo nhằm tăng lượng nhập khẩu gạo
so với trước đây. Ngoài ra, việc Nhật Bản tham gia đàm phán
Hiệp ước đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ làm giảm
đáng kể các mức thuế cao “khủng khiếp” mà Nhật hiện đang
6


áp dụng với một số mặt hàng nhập khẩu như nông sản, sữa,...
Động lực mở rộng nông nghiệp cũng đến từ đẩy mạnh công tác
thị trường nước ngoài, xúc tiến thương mại đối với các mặt
hàng nông - lâm - thủy sản; tăng cường phối hợp giữa Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Công thương, trong đó có
hệ thống Thương vụ tại nước ngoài; Xây dựng mạng lưới thông
tin thông suốt, thúc đẩy quan hệ, khâu nối xuất - nhập khẩu
nông - lâm - thủy sản, kết nối giữa các thị trường với Việt Nam;
nâng cao năng lực cập nhật và vượt qua các rào cản kỹ thuật,
kịp thời xử lý các tranh chấp phát sinh trong thương mại nông lâm - thủy sản; tổ chức các sự kiện, diễn đàn xúc tiến thương
mại các mặt hàng nông - lâm - thủy sản và xúc tiến đầu tư vào
ngành nông nghiệp, phát triển nông thôn; phối hợp chặt chẽ
trong việc thực hiện tốt vai trò thông tin về thực hiện các cam

kết hội nhập trong lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam với các
đối tác song phương và đa phương.
Số lượng hàng hoá và trị giá hàng hoá (doanh số) được
cung ứng và tiêu thụ tuỳ thuộc vào số người quan tâm đến sản
phẩm hay dịch vụ của Vietfood. Thường hướng tới mục tiêu gia
tăng giá trị. Xuất phát từ lý do làm tăng sức mạnh thị trường
tương đối so với đối thủ. Mở rộng phạm vi của tổ hợp các đơn vị
kinh doanh, phần nào giảm bớt rủi ro. Thị trường nội địa luôn bị
giới hạn về sức mua, về nhu cầu. Nếu một doanh nghiệp tham
gia hoạt động kinh doanh ở thị trường nước ngoài sẽ khắc phục
được sự chật hẹp của thị trường nội địa do số lượng khách
hàng, sức mua và khả năng cung ứng của khách hàng trên thị
trường thế giới luôn lớn hơn thị trường ở từng quốc gia. Nếu
doanh nghiệp luôn mở rộng hoạt động kinh doanh ra nhiều khu
7


vực thị trường khác nhau sẽ cho phép doanh nghiệp nâng cao
doanh số kinh doanh của mình.
Việc vươn ra thị trường nước ngoài, mở rộng phạm vi tiêu
thụ hàng hoá còn có tác dụng giúp cho công ty chúng tôi mở
rộng khối lượng cung ứng hoặc tiêu thụ, từ đó sẽ tạo điều kiện
cho doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao hơn. Vì vậy, chính
việc mở rộng cung ứng hoặc tiêu thụ là một động cơ chủ yếu
đối với một doanh nghiệp khi tham gia thực hiện hoạt động
kinh doanh quốc tế. Mặt khác, khi phải đứng trước một thị
trường nội địa đã bão hoà, công ty Vietfood bắt đầu tìm kiếm
các thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, khi mở rộng ra những thị
trường mới, công ty lại chịu áp lực phải tăng doanh số bán và
lợi nhuận cho tổ chức của chúng tôi. Chúng tôi thấy rằng sự gia

tăng thu nhập quốc dân đầu người và sự tăng trưởng dân số
của các quốc gia đã tạo ra những thị trường đầy hứa hẹn cho
hoạt động của mình.


Lợi thế so sánh về mặt hàng nông sản
Vietfood mong muốn làm thế nào tránh được sự biến động
thất thường của doanh số mua, bán và lợi nhuận. Cho nên,
chúng tôi đã nhận thấy rằng thị trường nước ngoài và việc mua
bán hàng hoá ở đó như là một biện pháp quan trọng giúp chúng
tôi tránh được những đột biến xấu trong kinh doanh. Đặc biệt
tận dụng tốt lợi thế so sánh về mặt hàng nông sản sẽ giúp công
ty tối ưu hóa trong cạnh tranh với các đối thủ. Chính việc đa
dạng hoá hình thức và phạm vi kinh doanh sẽ giúp Vietfood
khắc phục được tình trạng khan hiếm nguồn nhân lực trong
khuôn khổ một quốc gia. Đa dạng hoá các hoạt động thương
8


mại và đầu tư nước ngoài cho phép doanh nghiệp khắc phục
những rủi ro trong kinh doanh (phân tán rủi ro), cho phép
doanh nghiệp khai thác hiệu quả các lợi thế so sánh của mỗi
quốc gia trong hoạt động kinh doanh nhằm tối đa hoá lợi
nhuận. Và thường hướng tới mục tiêu gia tăng giá trị xuất phát
từ lý do làm tăng sức mạnh thị trường tương đối so với đối thủ
khi nguồn cung cấp nông sản để sản xuất rất dồi dào về cả số
lượng và chất lượng.


Chính sách ưu đãi của chính phủ Nhật

Có thể nói, hiện nay cửa xuất khẩu hàng qua Nhật Bản
đang mở rộng, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tăng
năng lực cạnh tranh trên thị trường Nhật Bản. Thời gian qua,
Việt Nam và Nhật Bản đã ký kết nhiều thỏa thuận kinh tế quan
trọng như Hiệp định Đối tác kinh tế Việt - Nhật (VJEPA) được
triển khai đồng bộ vào năm 2010 đến nay. Điểm quan trọng của
thỏa thuận này là việc giảm thuế mạnh mẽ các mặt hàng nông
sản xuất khẩu (XK) vào Nhật Bản như trong số 2.020 dòng thuế
nông sản, Nhật Bản đã xóa bỏ ngay đối với 784 dòng, chiếm
36% tổng số dòng thuế nông sản và chiếm 67,6% giá trị hàng
XK của Việt Nam. Theo lộ trình VJEPA, đến năm 2020 sẽ có trên
800 dòng sản phẩm nông sản và thủy sản Việt Nam vào Nhật
với thuế suất 0%. Các dòng thuế có lộ trình giảm từ 3 đến 5
năm, bao gồm 14 sản phẩm có nhiều tiềm năng XK, như: đậu
tương, cùng các loại hoa quả và các loại nông sản khác. Đây là
một động lực lớn giúp chúng tôi mong muốn phát triển sản
phẩm nông sản khô sang thị trường Nhật Bản.



Lực đẩy từ thị trường trong nước
9




Thị trường trong nước bão hòa, tăng trưởng chậm
Với việc mở rộng xây dựng thêm một số nhà máy sản xuất
mới để mở rộng quy mô sản xuất, cộng thêm việc thị trường
trong nước đang dần trở nên bão hòa, khiến công ty tồn kho

một số lượng sản phẩm tạm thời. Trong khi đó tăng trưởng của
công ty tăng ít trong giai đoạn gần đây do đã khai thác gần hết
dung lượng thị trường ở Việt Nam, thị phần công ty đã trở nên
ổn định. Các yếu tố trên thôi thúc ban lãnh đạo công ty tìm
kiếm cơ hội kinh doanh sản phẩm ở nước ngoài, đặc biệt là các
thị trường uy tín với các nhà sản xuất ở Việt Nam. Sau một
tháng họp bàn, ban lãnh đạo nhận thấy đầu tư kinh doanh ở thị
trường Nhật Bản là phù hợp nhất, đầy đủ điều kiện để tăng lợi
nhuận.



Thị trường trong nước cạnh tranh gay gắt
Chính sách khuyến khích doanh nghiệp kinh doanh sản
xuất bằng các chính sách ưu đãi như giảm thuế, cải cách các
thủ tục hành chính,... dẫn tới tăng số lượng doanh nghiệp cạnh
tranh nhau. Ở lĩnh vực hàng nông sản khô, chất lượng các sản
phẩm cũng tương đồng do được đầu tư lớn về dây chuyền sản
xuất hiện đại, áp dụng công nghệ cao cùng sự kiểm định chặt
chẽ của cơ quan có thẩm quyền, nhất là mẫu mã bao bì cũng
được thiết kế vô cùng đẹp mắt. Không những thế hàng nông
sản Trung Quốc cũng đang tranh giành thị phần với các nhà sản
xuất Việt Nam khi có lợi thế về giá. Do đó việc bán sản phẩm ra
nước ngoài là lối thoát cho công ty để tăng quy mô kinh doanh
nhằm thu lợi nhuận.

10


II.2.




Các yếu tố tác động
Tình hình chính trị
Tình trạng tham nhũng ở Nhật Bản
Nhật Bản rất chú trọng việc giáo dục đạo đức cho công
chức và xây dựng đội ngũ công chức trong sạch, liêm khiết. Để
ngăn chặn sự hoành hành của nạn tham nhũng, chính phủ Nhật
kiên quyết thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch trong
các thủ tục hành chính; trang bị những công cụ điều tra đặc
biệt nhằm phát hiện ra bằng chứng tham nhũng; trả lương cao
để công chức bảo đảm cuộc sống mà “không cần tham nhũng”.
Chính những lý do đó mà các nhà kinh doanh nước ngoài đến
Nhật không phải lo phần “chi phí phụ gia bôi trơn” cho hoạt
động kinh doanh.



Mức độ bình ổn của xã hội
Chính quan niệm quân nhân – thần trung và chữ tín trong
Nho giáo đã làm nên thành công trong phát triển kinh tế, xã hội
và bình ổn chính trị ở Nhật Bản. Những quan niệm đó làm giảm
xung đột giữa giới chủ và công nhân, người công nhân tuân
theo lệnh của lãnh đạo tổ chức một cách tuyệt đối, các tổ chức
dành chế độ tuyển dụng suốt đời cho nhân viên. Chữ tín cũng
giúp xây dựng quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp trong
nước với nhau, giữa các công ty sản xuất và nhà cung ứng tạo
ra một xã hội Nhật Bản khá bình ổn.




Quan hệ Việt – Nhật
Tổng kim ngạch hai chiều Việt Nam – Nhật Bản ngày càng
tăng. Hiện nay, Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của
Việt Nam sau Hoa Kỳ. Tính đến hết tháng 11 năm 2013, kim
ngạch thương mại hai chiều đã đạt xấp xỉ 22,94 tỷ USD, tăng

11


1,7% so với cùng kỳ năm 2012. Trong đó, Việt Nam xuất siêu
hơn 1,8 tỷ USD.
Hình thành các cơ quan như cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật
Bản (JICA), Hiệp định đối tác kinh tế (EPA) Việt Nam – Nhật Bản
từ tháng 1/2007 và đến nay đã trải qua 7 phiên đàm phán
chính thức; thông qua một loạt các chương trình hợp tác kinh tế
nhằm cải thiện môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh và
các cơ sở hạ tầng phần mềm cho phát triển thương mại. Ngoài
ra, Nhật Bản còn có thuế ưu đãi GSP cho các mặt hàng nông
sản các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng.
Ngày 25/12/2008, tại Tokyo, Việt Nam và Nhật Bản đã ký
Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA). Đây là
một sự kiện kinh tế, chính trị rất có ý nghĩa, tạo dựng nền tảng
chắc chắn cho việc hình thành một khu vực thương mại tự do
song phương, trong đó hàng hoá, vốn, công nghệ, lao động sẽ
được lưu chuyển thông thoáng, thuận lợi. Đầu tư trực tiếp (FDI)
của Nhật Bản tại Việt Nam cũng tăng trưởng mạnh mẽ. Các
công ty của Nhật Bản, trong đó có nhiều tập đoàn uy tín đang
mở rộng sự hiện diện của mình tại Việt Nam với quy mô đầu tư

ngày một lớn. Với cơ cấu kinh tế mang tính bổ sung mạnh mẽ,
Hiệp định VJEPA tạo cơ hội để doanh nghiệp, người tiêu dùng
hai nước tiếp cận các nguồn vốn, công nghệ, nguyên nhiên liệu
và hàng hoá một cách hiệu quả nhất. Cùng với các thoả thuận
trước đó giữa Nhật Bản với ASEAN, Hiệp định VJEPA sẽ hoàn tất
chuỗi cung ứng giá trị của các doanh nghiệp Nhật Bản và
ASEAN trong khu vực. Do vậy, về ngắn hạn, Hiệp định không
gây ra những xáo trộn tiêu cực trong khi về dài hạn sẽ tác động
đến sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu kinh tế của hai nước
12


trong mối tương quan với các nền kinh tế khu vực và thế giới.
Đây chính là nền tảng kinh tế thiết thực, bảo đảm sự thành
công của Hiệp định VJEPA trong việc thực thi những mục tiêu
mà chính phủ hai nước đã đề ra. Các mặt hàng thuỷ sản, nông
sản, dệt may, sắt thép, hoá chất, linh kiện điện tử sẽ có mức
cam kết tự do hoá mạnh mẽ nhất.


Về thuế suất
Việt Nam và Nhật Bản có hai hiệp định mà hai bên có cam
kết sâu sắc về thuế quan đó là VJEPA và Hiệp định thương mại
tự do giữa ASEAN và Nhật Bản (AJCEP). Nhật Bản cam kết loại
bỏ thuế quan đối với 94% giá trị nhập khẩu từ Việt Nam trong
vòng 10 năm. Ngay khi hiệp định có hiệu lực, Nhật Bản ngay
lập tức loại bỏ thuế quan đối với 7.287 dòng thuế, tương đương
80% biểu thuế. Theo VJEPA, trong vòng 10 năm, khoảng 92%
hàng hoá sẽ được miễn thuế khi vào thị trường của mỗi bên.
Nhật Bản cam kết tự do hoá đối với 94,53% kim ngạch trong

vòng 10 năm.
Việt Nam và Nhật Bản đều là những nước tham gia ký kết
Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), vì vậy,
các doanh nghiệp Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường Nhật
Bản sẽ nhận được những thuận lợi nhất định về chính sách
cũng như thuế suất.




Tình hình kinh tế
Về mức sống:
Nhật Bản là nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới với GDP
(2015) là hơn 4100 tỷ USD, dự trữ ngoại tệ thứ hai thế giới, dân
số chưa đến 130 triệu người. Tuy nhiên thu nhập bình quân đầu
người của Nhật Bản hiện vào khoảng 40.000 USD.
13




Trình độ cơ sở hạ tầng
Nhật Bản là một nền kinh tế phát triển ổn định và hoàn
thiện, cơ sở hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ kinh doanh phát triển
vượt bậc. Đến với Nhật Bản, các doanh nghiệp hoàn toàn không
phải bận tâm đến việc phải tốn thêm chi phí để xây dựng cơ sở
hạ tầng hay phát triển nguồn cung ứng nguyên vật liệu phục vụ
cho việc sản xuất cũng như kinh doanh của mình.




Hệ thống phân phối hàng hóa
Trong hệ thống phân phối hàng hóa của Nhật Bản, từ khi
sản phẩm được sản xuất cho đến khi giao cho các cửa hàng bán
lẻ, tồn tại nhiều cấp phân phối trung gian. Trung bình ở Nhật có
2,21 nhà bán buôn nằm giữa người bán lẻ và người sản xuất,
cao gấp 2 lần so với con số 0,73 ở Pháp và 1 ở Mỹ. Hệ thống
phân phối hàng hóa khép kín và qua nhiều tầng nấc làm cho
giá hàng hóa tăng đáng kể khi tới tay người tiêu dùng. Giá bán
lẻ ở Nhật Bản trung bình cao hơn ở Mỹ là 48%, ở Anh là 55%,
điều này hạn chế sự thâm nhập thị trường Nhật Bản của các
công ty nước ngoài.




Các vấn đề pháp luật
Quyền sở hữu trí tuệ
Nhật Bản là một quốc gia châu Á có bề dày phát triển hệ
thống bảo hộ sở hữu trí tuệ. Ngày 3/7/2002, thủ tướng Junichiro
Koizumi đã thành lập hội đồng chiến lược quyền sở hữu trí tuệ,
thảo ra những nét chính về chiến lược bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ của Nhật Bản. Chính vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam khi
hoạt động ở Nhật Bản buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy
định về quyền sở hữu trí tuệ.



Tiêu chuẩn môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm


14


Do vấn đề môi trường đang ngày càng được người dân Nhật
Bản quan tâm, các sản phẩm thâm nhập vào thị trường Nhật
Bản tuân thủ yếu tố thân thiện với môi trường là một lợi thế.
Năm 1989, Nhật Bản ban hành dấu Ecomark – dấu chứng nhận
sản phẩm không làm hại sinh thái. Năm 2006, Nhật Bản thực
hiện “Luật vệ sinh an toàn thực phẩm sửa đổi”, với tất cả các lô
hàng thực phẩm nhập khẩu, thắt chặt quy định và bổ sung một
số loại dư lượng hóa chất không được phép có trong thực phẩm
và tiếp tục nâng mức hạn chế dư lượng hóa chất cho phép.



Các vấn đề văn hóa
Văn hóa trong tiêu dùng
Đặc điểm người tiêu dùng Nhật Bản là tính đồng nhất, 90%
người tiêu dùng cho rằng họ thuộc về tầng lớp trung lưu. Người
Nhật có những đặc điểm chung như: không đòi hỏi tất cả các
sản phẩm nhất thiết phải có độ bền lâu năm mà là các sản
phẩm có vòng đời ngắn nhưng chất lượng phải tốt, kiểu dáng
đẹp, hoàn hảo, tiện dụng,…
Nhật Bản là nước có dân số già, vì vậy, thị trường Nhật Bản
sẽ hướng tới phục vụ nhu cầu và sự hưởng thụ của những người
già.



Văn hóa trong kinh doanh

Phong cách làm việc, giao dịch của các doanh nghiệp Nhật
Bản rất nghiêm chỉnh, lễ nghi, tôn trọng nhau. Trong văn hóa
kinh doanh giao tiếp của người Nhật, có 4 vấn đề mà các doanh
nghiệp Việt Nam cần chú ý coi trọng, đó là cách chào hỏi
nghiêm túc, đúng giờ, làm việc ngoài giờ và phải có danh thiếp.
Thiếu 1 trong 4 yếu tố trên mà đặc biệt là thiếu danh thiếp vì lý
do quên không mang hoặc không có, coi như việc hợp tác làm
ăn sẽ chắc chắn gặp khó khăn. Bên cạnh đó, doanh nghiệp
15


Nhật Bản luôn tìm hiểu trước khi hợp tác làm ăn, nếu nóng vội
thì khó có thể hợp tác thành công.

16


II.3.

Phương thức thâm nhập
Việc nghiên cứu thị trường nước ngoài rất quan trọng
đối với bất kì một doanh nghiệp nào muốn vươn ra thị trường
thế giới để mở rộng thị phần cũng như uy tín, thương hiệu. Đó
là chìa khóa thành công đưa các doanh nghiệp tiến xa hơn,
khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Thâm nhập thị
trường quốc tế với những bước đi như thế nào để có thể mang
lại những lợi ích tối đa luôn là câu hỏi lớn đặt ra cho mỗi doanh
nghiệp trong giai đoạn hội nhập quốc tế. Bởi mỗi nước có một
nền văn hóa khác nhau, một chế độ chính trị luật pháp khác
nhau nếu không tìm hiểu kĩ những yếu tố đó thì doanh nghiệp

không thể thành công tại thị trường mà mình muốn thâm nhập.
Đối với Vietfood, phương thức thâm nhập chủ yếu sẽ là
xuất khẩu. Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hóa và dịch vụ từ
quốc gia này sang quốc gia khác. Dưới giác độ kinh doanh, xuất
khẩu là việc bán các hàng hóa và dịch vụ. Dưới giác độ phi kinh
doanh như làm quà hoặc viện trợ không hoàn lại thì hoạt động
đó lại là việc lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ qua biên giới quốc
gia. Trong kinh doanh, hoạt động xuất khẩu diễn ra dưới hai
hình thức là Xuất khẩu trực tiếp và Xuất khẩu gián tiếp. Tuy
nhiên các phương thức xuất khẩu ở mỗi giai đoạn khác nhau lại
khác nhau. Khi mới bắt đầu xuất khẩu, Vietfood lựa chọn
phương thức xuất khẩu gián tiếp thông qua các trung gian hoạt
động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Xuất khẩu gián tiếp là hình
thức xuất khẩu mà nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu phải thông
qua một người thứ ba, người này là trung gian. Trước khi thâm
nhập vào thị trường Nhật Bản hoàn toàn mới mà chưa có một
sự hiểu biết nhất định về thị trường đó, Vietfood sẽ tìm một đối
17


tác đã có chỗ đứng ở thị trường nội địa để liên doanh giảm
thiểu những rủi ro liên quan đến chính trị luật pháp mà mình có
thể mắc phải, thay vì đứng ra kinh doanh độc lập. Khi mới thâm
nhập thị trường có lẽ quy mô của thị trường Vietfood sẽ rất nhỏ,
vì thực tế khi nhập một lượng hàng hóa vào nước Nhật thì
thường xuyên bị hạn chế về số lượng. Đồng thời qua liên doanh
chúng ta có thể thâm nhập sâu hơn vào thị trường Nhật Bản.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng chưa am hiểu tốt thị
trường, chưa nắm bắt được phương thức kinh doanh tại Nhật
Bản. Ví dụ, trong lĩnh vực cà phê, Việt Nam là nước xuất khẩu

cà phê đứng thứ nhì thế giới, giá cạnh tranh được với cà phê
Brazil, người Nhật Bản cũng rất thích cà phê Việt Nam, song
muốn xuất khẩu cà phê sang Nhật Bản phải qua sàn giao dịch,
chứ không thể giao dịch trực tiếp. Thứ trưởng Hồ Xuân Hùng nói
rằng: “Đây là điểm yếu mà doanh nghiệp Việt Nam chưa nắm
được”. Ngoài ra, giữa các doanh nghiệp Nhật Bản thường có
mối quan hệ rất chặt chẽ. Vì vậy, Vietfood muốn thâm nhập thị
trường Nhật Bản nên thông qua các doanh nghiệp trong nước
đã khẳng định được uy tín tại thị trường này. Đồng thời tạo mối
quan hệ với doanh nghiệp nước bạn để họ giúp quảng bá
thương hiệu. Hơn nữa, phương thức này giảm bớt được chi phí
nghiên cứu tìm kiếm bạn hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
kinh doanh như: mở rộng kênh phân phối, mạng lưới kinh
doanh, am hiểu thị trường giảm được rủi ro, giảm các chi phí
trong quá trình giao dịch. Tuy nhiên, công ty khó có thể kiểm
soát việc tiêu thụ hàng hoá ở nước ngoài. Hơn nữa, các đại lý
trung gian thường không phải là những người tiếp thị năng nổ
và thường không tạo ra được một lượng bán lớn. Doanh nghiệp
18


không nên cố duy trì một phương thức khi mà nó đã không
còn phù hợp với môi trường thực tế.
Khi đã có chỗ đứng trên thị trường nội địa

Vietfood sẽ

chuyển sang phương thức thâm nhập khác: xuất khẩu trực tiếp.
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu do một doanh
nghiệp trong nước trực tiếp xuất khẩu hàng hoá cho một doanh

nghiệp nước ngoài thông qua các tổ chức của chính mình.
Phương thức xuất khẩu này đòi hỏi vốn đầu tư và các chuyên
viên có kiến thức, kinh nghiệm. Công ty sẽ tự đứng ra kinh
doanh độc lập để thống nhất trong các quyết định về vốn, kĩ
thuật,... Lựa chọn phương thức xuất khẩu trực tiếp, giúp
Vietfood am hiểu sâu sắc tình hình thị trường, thường xuyên
cập nhật được những nhu cầu mới và tâm lý thị hiếu thay đổi
của khách hàng để kịp thời cải tiến sản phẩm, thoả mãn tốt
nhất nhu cầu đó. Như vậy công ty có thể ứng xử năng động với
từng thị trường nước ngoài. Mặt khác, công ty không phải chịu
những chi phí xuất khẩu trung gian và lợi nhuận không bị chia
sẻ. Mặt khác, xuất khẩu trực tiếp còn cho phép công ty có sự
liên hệ trực tiếp với thị trường, nắm bắt được phản ứng của thị
trường để tìm ra những cơ hội mới và những xu hướng mới của
thị trường, quản lý các hoạt động, nắm bắt hiểu biết các đối thủ
cạnh tranh để điều chỉnh những kế hoạch thích ứng,... Đối với
xuất khẩu trực tiếp, Vietfood lựa chọn hệ thống phân phối qua
đại diện thương mại quốc tế và đại lý bán lẻ:


Về đại diện thương mại quốc tế
Vietfood sẽ chọn ra hai đại diện thương mại chính (có thể là
hệ thống siêu thị, nhà hàng, khách sạn… tại Nhật bản). Các đại
19


diện này thường xuyên báo cáo hàng tháng tình hình doanh số,
mức độ tiêu thụ cũng như có kế hoạch hàng hóa cụ thể hàng
tháng và đưa ra đề xuất để Vietfood kịp thời cải thiện tình hình.
Đồng thời, thông qua các đại diện thương mại này, sản phẩm

Vietfood có thể tạo uy tín với người tiêu dùng Nhật và đặc biệt
với các doanh nghiệp bán lẻ trong giai đoạn đầu với chi phí
thấp nhất có thể.


Về đại lý bán lẻ:
Thâm nhập nhanh vào cửa hàng bán lẻ: Do đặc điểm của
thị trường Nhật có mật độ dân cư Nhật đông đúc nên các cửa
hàng bán lẻ sẽ là điểm mua sắm ưa thích, vì không phải lái xe
đến các vùng ngoại ô xa xôi, nơi có các siêu thị lớn. Nên các
cửa hàng bán lẻ sẽ là mục tiêu phân phối trực tiếp của Công ty.
Mặt khác, hệ thống phân phối của Nhật Bản còn tồn tại song
song hệ thống nhập khẩu. Theo đó, bất cứ một công ty nào
cũng có thể nhập khẩu bất cứ một sản phẩm nào từ nước ngoài
song song với các tổng đại lý nhập khẩu. Đây chính là cánh
cổng cho Vietfood phân phối hàng trực tiếp cho các công ty này
thay vì phải thông qua các tổng đại lý phân phối và tất nhiên là
chi phí lớn do kênh phân phối dài sẽ được giảm đi đáng kể. Để
có thể cung cấp hàng trực tiếp vào các công ty đòi hỏi Vietfood
phải có một quá trình xây dựng uy tín với các công ty này. Điều
này chỉ có thể thực hiện bằng các cam kết hợp đồng đảm bảo
chất lượng hàng hóa và doanh nghiệp sẽ chịu hoàn toàn trách
nhiệm từ vận chuyển đến tiêu dùng.
Tất nhiên, với hình thức xuất khẩu trực tiếp, ban lãnh đạo
công ty lúc này phải mất nhiều thời gian hơn và tăng thêm chi
20


phí cho việc quản lý một lực lượng bán hàng nhiều hơn. Khó
khăn ở đây là những người bán hàng, hoặc là người nước ngoài

không quen thuộc sản phẩm và các thực tế Marketing của công
ty, hoặc là những người bán hàng người Việt Nam không quen
thuộc với thị trường nước ngoài.

21


III.

Kết luận
Thế giới ngày cảng phẳng, các quốc gia đang ngày càng
đẩy mạnh hợp tác, giao lưu kinh tế trên nhiều phương diện.
Việc tham gia kinh doanh quốc tế đem lại lợi ích rất lớn cho
công ty, mở rộng thị trường cũng như tiếp thu được vốn, nguồn
lực từ nước ngoài. Tuy nhiên doanh nghiệp cần nâng cao chất
lượng sản phẩm, tăng tính cạnh tranh thì mới đủ sức vươn ra
biển lớn. Cải tiến khoa học công nghệ, năng lực quản lý mới tồn
tại và phát triển được. Doanh nghiệp mạnh chính là doanh
nghiệp biết nắm bắt thời cơ và đưa ra những quyết sách phù
hợp. Bên cạnh đó, nghệ thuật dùng người cũng rất quan trọng,
dùng chính người lãnh đạo là người nội địa sẽ hiểu được thị hiếu
của người tiêu dùng nội tốt hơn và hiểu rõ môi trường chính trị,
luật pháp ở nước sở tại, tránh phạm những sai lầm rủi ro có thể
xảy ra. Luôn không ngừng đổi mới sản phẩm để phù hợp với thị
hiếu người tiêu dùng trong từng giai đoạn. Nắm bắt được tâm lí
khách hàng chính là con đường đi tới thành công của một
doanh nghiệp. Bởi khách hàng là nhân tố quan trọng quyết định
sự sống còn của doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần phải chú ý đến
các đối thủ cạnh tranh hiện tại cũng như tiềm ẩn để có những
hướng đi phù hợp. Cố gắng tìm ra những kẽ hở của đối thủ đó

chính là thị trường tiềm năng, là cơ hội cho doanh nghiệp. Hi
vọng với cách kinh doanh và mở rộng thị trường của công ty
Vietfood chúng tôi sẽ mang lại cho các bạn một số kinh nghiệm
bổ ích để thành công.

22


Tài liệu tham khảo
1.
2.
3.

Thesaigontime.vn
Số liệu thực tế từ công ty
Vneconomy.vn

23



×