Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

tác động của hội nhập quốc tế đối với nền kinh tế của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.28 KB, 29 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


HỌC PHẦN KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC
TẾ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA
VIỆT NAM

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Quỳnh Trang

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2017

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


TIỂU LUẬN

TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Quỳnh Trang

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 05, năm 2017

2




LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngày nay, nước ta trong bối cảnh hiện đại hóa, công nghiệp hóa ngày càng được đầy
mạnh để xứng danh với các cường quốc năm châu. Đồng thời, kinh tế thị trường ngày
càng phát triển cùng với việc áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật để nâng cao nâng
suất lao động, chất lượng sản phẩm và thúc đẩy kinh tế phát triển, dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Và đất nước ngày càng phát triển việc giao lưu, hợp tác và tham gia các tổ chức thế giới
và khu vực nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển là hướng đi đúng đắn và hợp với xu thế của
thời đại. Tuy nhiên, việc hội nhập quốc tế có rất nhiều thách thức xung quanh những cơ
hội mà chúng ta chưa nhìn thấy rõ ràng và chưa có biện pháp cụ thể để thực hiện vấn đề
này một cách hiệu quả. Thêm vào đó, việc phát triển kinh tế là vô cùng cần thiết đối với
sự phát triển của một nước đang phát triển như nước ta. Cũng như vấn đề hội nhập quốc
tế có tác động như thế nào và làm thế nào tận dụng được cơ hội và hạn chế thách thức
nhằm phát triển kinh tế nước nhà
Vì vậy, đòi hỏi nước ta phải hội nhập quốc tế để thúc đẩy nền kinh tế nước nhà phát triển.
Tuy nhiên, vấn đề hội nhập quốc tế vẫn còn ít được nghiên cứu, đa phần chỉ nghiên cứu
về nền kinh tế thị trường, vai trò của kinh tế mà bỏ qua vấn đề hội nhập quốc tế hoặc có
nghiên cứu cũng chỉ là khái quát chưa đi sâu vào tìm hiểu và đưa ra giải pháp cụ thể. Chỉ
có một số ít nhà nghiên cứu về tác động của hội nhập quốc tế đối với sự phát triển kinh
tế.
Chính vì vậy, nhóm chúng tôi quyết định nghiên cứu đề tài: “ TÁC ĐỘNG CỦA HỘI
NHẬP QUỐC TẾ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM” , thông qua thực trạng
chúng tôi sẽ đưa ra những biện pháp thích hợp nhằm nâng cao sự hội nhập quốc tế nhằm
phát triển nền kinh tế nước ta, làm cho nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển để thúc
đẩy xã hội phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao, nước
ta sánh vai với các cường quốc như lời Bác Hồ dặn.

1



CHƯƠNG MỘT: CƠ SỞ LÝ LUẬN
Khái niệm: Hội nhập kinh tế quốc tế là việc gắn kết nền kinh tế nước ta với các nền kinh
tế khác trên thế giới. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới,
hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong
nước có hiệu quả.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập kinh tế quốc tế: Hội nhập kinh tế
quốc tế là một chủ trương nhất quán và là nội dung trọng tâm trong chính sách đối ngoại
và hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng ta trong quá trình đổi mới đất nước. Thực hiện chủ
trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, đất nước chúng ta đã từng bước, chủ động hội
nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Hơn 30 năm qua, mặc dù tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến nhanh chóng,
phức tạp nhưng trong các kỳ đại hội của Đảng, Đảng ta luôn có những nhận thức xác
đáng về thời đại, về thế giới và tình hình khu vực để trên cơ sở đó, định hướng những
chính sách đối nội và đối ngoại phù hợp, bám sát tình hình.
Đại hội VI mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta đưa ra chủ trương tranh thủ
những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng
rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế trong “Hội đồng tương trợ kinh tế và mở
rộng với các nước khác".
Tới Đại hội VII, Đảng ta định hướng “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với các quốc
gia, các tổ chức kinh tế".
Tại Đại hội VIII, thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu được đề cập trong các văn kiện của Đảng:
“Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”.
Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh việc “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo
tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự
chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”.

2



Ngày 27-11-2001, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “Về hội
nhập kinh tế quốc tế”. Tại Đại hội X, Đảng ta đã nhấn mạnh chủ trương “chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”.
Ngày 05-02-2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số
08-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền
vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối
đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, trong đó có chủ trương rất quan
trọng là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Từ “hội nhập kinh tế quốc tế” của các
kỳ đại hội trước, chuyển sang “hội nhập quốc tế” một cách toàn diện là một phát triển
quan trọng về tư duy đối ngoại của Đảng ta tại Đại hội XI.
Ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc
tế. Đây là văn kiện quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, làm rõ và thống nhất nhận thức
trong toàn Đảng, toàn dân về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Nghị quyết đã xác
định rõ hội nhập quốc tế sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt, hội
nhập kinh tế phải gắn với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế.
Đại hội XII xác định phương hướng đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc
tế như sau:
-

Tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết, chuẩn bị kỹ các điều kiện thực hiện các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới, tham gia các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực
kinh tế, thương mại, đầu tư,…Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng
hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một
đối tác cụ thể; kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn hội nhập kinh tế quốc tế với

-

xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ…

Rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thực thi có hiệu quả
các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết. Hoàn thiện thể chế để tận
dụng cơ hội và phòng ngừa, giảm thiểu các thách thức do tranh chấp quốc tế, nhất là
tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế. Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù
3


hợp với pháp luật quốc tế.( Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Sđd, tr.104-110)
Tình hình Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế:
− Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là xu thế nổi bật của kinh tế thế giới đương
đại. Phù hợp với xu thế đó, từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã tiến hành công
cuộc đổi mới và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế với phương châm “đa dạng
hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Việt
Nam luôn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp
tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các
quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng
hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu
vực.
− Đến năm 2015, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 185/193 nước thành viên Liên
Hợp quốc, thiết lập quan hệ “đối tác chiến lược” với 13 nước, quan hệ “đối tác
chiến lược” trên một số lĩnh vực với 2 nước, quan hệ “đối tác toàn diện” với 11
nước. Trong các đối tác trên có 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên
Hợp quốc.
− Việt Nam đã gia nhập hầu hết các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng, mở rộng
hợp tác về chính trị, quốc phòng, an ninh và các lĩnh vực khác; từng bước khẳng
định được hình ảnh và vị thế của một quốc gia tích cực và có trách nhiệm; tăng
cường sự hiểu biết của cộng đồng quốc tế về văn hoá, con người và đất nước Việt

Nam; đóng góp tích cực cho duy trì, bảo vệ môi trường hòa bình chung thông qua
các cơ chế, diễn đàn an ninh quốc tế và khu vực, thông qua xây dựng các chuẩn
mực, quy tắc ứng xử chung quốc tế và khu vực; được bầu vào Hội đồng Nhân
quyền của Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016 với số phiếu cao; là thành viên Ủy
ban Di sản thế giới - UNESCO.
4


− Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như
Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới. Tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh và đưa lên một tầm cao hơn
bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, ký kết các
hiệp định hợp tác kinh tế đa phương. Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực thương mại
tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Đây được coi là một bước đột phá về hành
động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tiếp đó, năm 1996
Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) và đến năm 1998,
Việt Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
(APEC).
− Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi quan
trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm phán gia nhập Tổ
chức này.
Thời cơ và thách thức khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế:
− Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một trong những động lực quan trọng để
phát triển kinh tế - xã hội, làm tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia; giúp hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng thị trường, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ được khối lượng lớn vốn
đầu tư, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý và các nguồn lực quan trọng
khác; tạo thêm nhiều việc làm; nâng cao dân trí và cải thiện đời sống vật chất, tinh

thần của nhân dân. Năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế từ
Trung ương đến địa phương được nâng lên một bước; tổ chức, bộ máy các cơ quan
quản lý nhà nước được củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động. Đội ngũ doanh
nhân Việt Nam có bước trưởng thành đáng kể.
− Hội nhập kinh tế quốc tế đã đóng góp quan trọng vào việc mở rộng và đưa quan hệ
của nước ta với các đối tác đi vào chiều sâu, tạo thế đan xen lợi ích, góp phần gìn
giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; giữ vững độc lập, chủ
5


quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và
trật tự, an toàn xã hội; quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, nâng
cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
− Bên cạnh đó Việt Nam đang phải đối mặt với một số thách thức như sau: Mặc dù
đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, hội nhập kinh tế quốc tế trong một số
lĩnh vực vẫn còn một số hạn chế, như:
− Tăng trưởng xuất khẩu nhanh nhưng chưa thực sự vững chắc, chất lượng tăng
trưởng và hiệu quả xuất khẩu còn thấp, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tuy đã chuyển
dịch mạnh sang hàng chế biến, chế tạo, nhưng vẫn còn phụ thuộc nhiều vào doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; nhập siêu vẫn là nguy cơ, còn không ít bất cập
trong cơ cấu nhập khẩu. Về cơ bản nền kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào tăng trưởng
thương mại, vào khai thức tài nguyên, khoáng sản, xuất khẩu hàng nông sản thô
với hàm lượng chế biến thấp và gia công hàng hóa ở công đoạn thấp của chuỗi giá
trị (dệt may, da giày, điện tử…).
− Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt
Nam nói chung còn thấp, chịu sức cạnh tranh lớn từ doanh nghiệp nước ngoài, dẫn
đến một số ngành trong nước bị ảnh hưởng do tác động của việc mở cửa thị
trường, nhập khẩu tăng mạnh, song thu ngân sách từ thuế nhập khẩu bị giảm,…
Năng suất lao động tăng chậm, thu hút đầu tư vẫn dựa vào lợi thế nhân công và chi
phí mặt bằng rẻ, chi phí năng lượng thấp đã ảnh hướng nhiều đến năng lực cạnh

tranh của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp, sản phẩm.
− Khả năng tích lũy vốn nhân lực và tiến bộ công nghệ của Việt Nam còn rất khiêm
tốn, biểu hiện ở mức năng suất lao động thấp và trình độ công nghệ của đa số
doanh nghiệp còn khá lạc hậu.
− Các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ trong các lĩnh vực
chưa được triển khai đồng bộ, nhịp nhàng trong một chiến lược tổng thế.
− Chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng chậm được cải thiện. Năng lực đội
ngũ cán bộ, công chức, doanh nhân chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập.
6


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG
Tham gia vào các tổ chức kinh tế và khu vực giúp kinh tế Việt Nam phát triển một cách
nhanh chóng. Những cơ hội mà hội nhập mang lại mà nước ta tận dụng được sẽ làm nền
tảng cho nền kinh tế sớm sánh vai với các cường quốc.
Đầu tiên là phá được thế bao vây cấm vận, làm cho vị thế và vai trò quốc tế của Việt
Nam được tăng cường: tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho phát triển
đất nước. Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với tất cả các nước lớn và hầu hết các
nước trên thế giới; gia nhập nhiều tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng; trở thành thành
viên có vai trò quan trọng trong ASEAN; đồng thời lần đầu tiên đảm nhiệm thành công
vai trò ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc (nhiệm kỳ 20082009). Do vậy, vị trí của nước ta trong chính sách khu vực của các đối tác cũng ngày
càng được coi trọng hơn.
Duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và tương đối ổn định, góp phần cải thiện
đời sống của nhân dân. Năm 1990, thu nhập bình quân đầu người nước ta ở mức dưới
100 USD, năm 2005 đạt 640 USD, năm 2010 đạt 1168 USD. Tuy nhiên đến Đại hội XII
của Đảng, “Tốc độ tăng Tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm đạt trên
5,9%/năm. Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng lên; GDP năm 2015 đạt
193,4 tỷ USD, bình quân đầu người khoảng 2.109 USD; GDP bình quân đầu người năm
2016 ước tính đạt 48,6 triệu đồng, tương đương 2.215 USD, tăng 106 USD so với năm
2015.

Việt Nam đã và đang gặt hái được những thành tựu trong việc tự do hoá thương mại và
mở cửa thị trường
− Cơ hội lớn nhất là mở rộng thị trường nhờ cắt giảm thuế và dỡ bỏ rào cản thương
mại để tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Nếu như năm
2007, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam là 111,3 tỷ USD (trong đó
xuất khẩu là 48,5 tỷ USD và nhập khẩu là 62,7 tỷ USD), thì tới năm 2015 tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã tăng khoảng 3 lần đạt 328 tỷ USD
(trong đó nhập khẩu là 165,6 tỷ USD và xuất khẩu là 162,4 tỷ USD).
7


− Trong đó, các đối tác FTA của Việt Nam đều là các đối tác thương mại quan trọng,
thể hiện ở giá trị thương mại lớn và tỉ trọng cao trên tổng số liệu thương mại với
thế giới của Việt Nam hằng năm. Thương mại của Việt Nam với các đối tác đã và
đang đàm phán luôn chiếm trên 80% tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam.
− Trong thời gian tới, khi các cam kết FTA bước vào giai đoạn cắt giảm sâu, đặc biệt
các FTA với Hoa Kỳ, EU có hiệu lực sẽ thúc đẩy xuất khẩu mạnh hơn, đem đến
nhiều cơ hội mở rộng thị trường cho hàng hóa của Việt Nam đồng thời giúp đa
dạng hóa thị trường nhập khẩu, tránh phụ thuộc vào các thị trường nguyên liệu
truyền thống.
− Việc thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới sẽ tạo
ra cơ hội mở rộng, đa dạng hóa thị trường với mức ưu đãi cao, tham gia sâu hơn
vào chuỗi cung ứng, mạng lưới sản xuất toàn cầu; góp phần tích cực vào quá trình
đổi mới đồng bộ và toàn diện, khơi dậy tiềm năng của đất nước và sức sáng tạo
của các tầng lớp nhân dân, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao trình độ phát
triển, giảm dần tỉ trọng gia công lắp ráp của nền kinh tế. Nước ta cũng có cơ hội
tham gia chủ động và sâu hơn vào quá trình định hình và cải cách các định chế, cơ
chế, cấu trúc khu vực và quốc tế có lợi cho ta và có điều kiện thuận lợi để đấu
tranh bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, lợi ích của các tổ chức, cá nhân; bảo đảm
độc lập, tự chủ, củng cố và duy trì môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc. Doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung có cơ hội để phát triển mạnh
hơn, sáng tạo hơn và có sức cạnh tranh hơn. Người tiêu dùng có thêm cơ hội lựa
chọn hàng hóa, dịch vụ chất lượng cao, giá cả cạnh tranh; bảo đảm tiêu chuẩn vệ
sinh, môi trường.
− Thị trường ngoài nước ngày càng mở rộng, đa dạng. Số lượng thị trường xuất khẩu
đã tăng gấp hơn 1,4 lần sau 10 năm, từ 160 thị trường lên trên 230 thị trường. Cơ
cấu thị trường xuất, nhập khẩu đã có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần lệ thuộc
vào thị trường Châu Á.
− Đối với chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu: Hội nhập kinh tế quốc tế đã
thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng hóa
8


xuất khẩu theo hướng tích cực, phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa theo
hướng hiện đại, theo đó tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có
giá trị và hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn.
− Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có sự chuyển dịch khá tích cực theo
hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến và giảm dần hàng xuất khẩu thô. Đến
nay, tỷ trọng xuất khẩu các nhóm hàng sản phẩm dệt may, giày dép, nông sản có
xu hướng giảm xuống trong khi đó tỷ trọng của các nhóm sản phẩm như máy vi
tính, linh kiện điện tử, điện thoại tăng lên. Theo báo cáo tình hình kinh tế - xã hội
năm 2016 vừa được Tổng cục Thống kê công bố, năm 2016, kim ngạch hàng hóa
xuất khẩu ước tính đạt 175,9 tỷ USD, còn nhập khẩu ước đạt 173,3 tỷ USD. Cả
năm nay, nước ta xuất siêu 2,68 tỷ USD
− Đối với thu hút FDI: Cùng với việc cải thiện môi trường đầu tư, hội nhập kinh tế
quốc tế đã và sẽ mở ra các cơ hội lớn đối với lĩnh vực đầu tư của Việt Nam. Đầu tư
tại Việt Nam, các nhà đầu tư có thể tiếp cận và hưởng ưu đãi thuế quan từ các thị
trường lớn mà Việt Nam đã ký kết FTA như khu vực ASEAN, Trung Quốc, Hàn
Quốc, Ấn Độ...
Bên cạnh đó, việc thực hiện các cam kết trong các Hiệp định thế hệ mới như TPP,

EVFTA (dỡ bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư và dịch vụ, bảo hộ đầu tư công bằng, không
phân biệt đối xử, mở cửa thị trường mua sắm Chính phủ, dịch vụ tài chính…) sẽ khiến
cho môi trường đầu tư của Việt Nam trở nên thông thoáng hơn, minh bạch hơn, thuận lợi
hơn từ đó sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn nữa.
Hiện nay đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ đã có dự án đầu tư vào Việt Nam, trong đó
có nhiều công ty và tập đoàn lớn, tiên tiến. Điều này góp phần làm chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp, phát triển lực lượng sản xuất và tạo công ăn việc làm
cho người lao động trong nước. Theo số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và
Đầu tư), tính chung trong 12 tháng năm 2015, tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là
22,757 tỷ USD, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm 2014.

9


Đại hội XII của Đảng đánh giá: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài phục hồi, vốn đăng ký giai
đoạn 2011-2015 đạt 99 tỷ USD, thực hiện đạt 60,5 tỷ USD. Vốn ODA ký kết khoảng 27,8
tỷ USD, giải ngân khoảng 22,3 tỷ USD, đóng góp quan trọng vào kết cấu hạ tầng”
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa học kĩ thuật
công nghệ tiên tiến, mở rộng giao lưu các nguồn lực nước ta với các nước: Việt Nam gia
nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được kĩ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước đi trước
để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tạo cơ sở vật chất kĩ thuật cho
công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường để khai
thông thị trường nước ta với khu vực và thế giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có
hiệu quả. Qua đó mà các kĩ thuật, công nghệ mới có điều kiện du nhập vào nước ta, đồng
thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kĩ thuật, công nghệ nước ngoài nhằm phát triển năng
lực kĩ thuật, công nghệ quốc gia. Do yêu cầu sử dụng lao động của các công nghệ đó cao,
có khả năng tạo nên nhiều việc làm mới. Trong những năm qua, cuộc cách mạng khoa
học kĩ thuật, nhất là công nghệ thông tin và viễn thông phát triển mạnh làm thay đổi bộ
mặt kinh tế thế giới và đã tạo điều kiện để Việt Nam tiếp cận và phát triển mới này. Sự
xuất hiện và đi vào hoạt động của nhiều khu công nghiệp mới và hiện đại như Hà Nội,

TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng...và những xí nghiệp
liên doanh trong ngành công nghệ dầu khí đã chứng minh điều đó.
Với dân số khoảng 80 triệu người, nguồn nhân lực nước ta khá dồi dào. Nhưng nếu
chúng ta không hội nhập quốc tế thì việc sử dụng nhân lực trong nước sẽ bị lãng phí và
kém hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước ta khai
thông, giao lưu với các nước. Ta có thể thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động hoặc có
thể sử dụng lao động thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu. Đồng
thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kĩ thuật cao, các công nghệ mới, các phát minh
sáng chế mà ta chưa có.
Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần củng cố hệ thống chính trị, nâng cao uy tín, vai trò của
Đảng và Nhà nước, duy trì hoà bình ổn định, tạo dựng môi trường thuận lợi để phát triển
kinh tế, nâng cao vị trí Việt Nam trên trường quốc tế. Đây là thành tựu lớn nhất sau hơn
nhiều năm triển khai các hoạt động hội nhập. Trước đây, Việt Nam chỉ có quan hệ chủ
10


yếu với Liên Xô và các nước Đông Âu, nay đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với 166
quốc gia trên thế giới. Với chủ trương coi trọng các mối quan hệ với các nước láng giềng
và trong khu vực Châu á Thái Bình Dương. Chúng ta đã bình thường hoá hoàn toàn quan
hệ với Trung Quốc và các quốc gia trong khu vực Đông Nam á. Việt Nam đã có những
bước phát triển quan trọng trong quan hệ với Hoa Kỳ kể từ sau bình thường hóa quan hệ
(1995); cụ thể, quan hệ kinh tế phát triển nhanh; quan hệ an ninh, quân sự từng bước
được thiết lập; hợp tác về khoa học kỹ thuật, giáo dục, y tế, lao động, văn hóa v.v.. không
ngừng được mở rộng. Đồng thời, Việt Nam cũng ưu tiên phát triển quan hệ với các nước,
các trung tâm chính trị - kinh tế lớn của thế giới theo các khuôn khổ phù hợp. Điều này
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng môi trường quốc tế
hoà bình, ổn định nhằm tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Đánh giá những thành tựu trong hội nhập quốc tế những năm 2010-2015, Văn kiện Đại
hội XII của Đảng khẳng định: “Hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, góp phần quan trọng
vào việc tăng cường nguồn lực cho phát triển, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước”. Trên tinh thần đó, Đại hội XII của Đảng xác định: “Nâng cao hiệu quả hoạt
động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình và tạo điều
kiện thuận lợi để phát triển đất nước”
Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích mà còn đặt nước ta
trước nhiều thử thách. Nếu chúng ta không có biện pháp ứng phó tốt thì sự thua thiệt về
kinh tế và xã hội có thể rất lớn. Ngược lại, nếu chúng ta có chiến lược thông minh, chính
sách không khéo thì sẽ hạn chế được thua thiệt, dành được lợi ích nhiều hơn cho đất
nước.
Sức ép cạnh tranh trên thị trường quốc tế
Nếu như những ưu đãi về hàng rào thuế quan và xóa bỏ phí thuế quan tạo điều kiện cho
nước ta mở rộng thị trường xuất khẩu ra các nước thì nó cũng gây ra những thách thức
khá nghiêm trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam: tham gia vào các tổ chức quốc tế
và khu vực, nước ta phải giảm dần phí thuế quan và xóa bỏ hàng rào phi thuế quan thì
hàng hóa nước ngoài sẽ ồn ạt đổ vào nước ta, chèn ép nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh trong nước, kéo theo hệ quả xấu về việc làm, thu nhập, đời sống người lao động.
11


Tham gia về tổ chức kinh tế quốc tế để đi đến tự do hóa thương mại tức là chấp nhận tư
cách thành viên cạnh tranh ngang bằng với các nước khác. Nhưng hiện tại chúng ta còn
tụt hậu khá xa về kinh tế (nhất là trình độ phát triển công nghệ và thu nhập bình quân đầu
người) so với các nước trong các tổ chức kinh tế mà ta đang tham gia. Đây là một thách
thức, bất lợi lớn đòi hỏi ra phải nổ lực và quyết tâm cao. Đã vậy, trên thị trường quốc tế ta
chỉ mới xuất khẩu các mặt hàng sơ chế như: dầu thô,gạo, cà phê,...còn các sản phẩm công
nghiệp chế biến nhất là các sản phẩm chất lượng cao còn hạn chế, sức cạnh tranh yếu.
Trong khi đó, giá mặt hàng nguyên liệu và sơ chế lại còn bấp bênh hay bị tác động xấu,
bất lợi cho các nước xuất khẩu.
Thách thức lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ một nước đang phát triển có trình
độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ
doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ nói riêng và của toàn bộnền

kinh tế nói chung còn nhiều hạn chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại chưa hoàn
chỉnh. Cho nên, nước ta sẽ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh cả ở trong nước cả trên
trường quốc tế ở 3 cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia.
− Sản phẩm: cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn cả trong và ngoài nước với nhiều đối
thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng hơn.
− Doanh nghiệp: đối mặt với nguy cơ rủi ro kinh tế,tình trạng phá sản doanh nghiệp
luôn hiện hữu và trở nên rất tiềm tàng.
Do thực hiện những cam kết của một thành viên WTO, nhất là việc phải cắt giảm mạnh
thuế nhập khẩu, mở cửa sâu rộng về kinh tế, trong đó có việc phải mở cửa các lĩnh vực
thương mại hàng hoá và dịch vụ nhạy cảm cao như: ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông,
năng lượng, vận tải, chuyển phát nhanh, nông nghiệp.... Ngoài ra, trong hội nhập kinh tế
quốc tế,nhiệm vụ phát triển khu vực kinh tế tư nhân cũng đòi hỏi phải giải quyết nhiều
vấn đề vềnhận thức, cơ chế, chính sách,... Về cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nước ta
còn nhiều khó khăn về nhãn hiệu thương mại, bản quyền tác giả, bảo vệ thiết kế công
nghiệp và ngườidân chưa có thói quen tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ.
12


VD: 44.500 doanh nghiệp phá sản, giải thể từ đầu năm 2014, tăng 12,9% so với cùngkỳ
năm trước. Trong đó có 6.400 doanh nghiệp giải thể; 7.600 doanh nghiệp đăng ký tạm
ngừng hoạt động có thời hạn và tới 30.500 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ đóng mã
số doanh nghiệp hoặc không đăng ký.
Chính vì liên tiếp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh nên đến một giai đoạn nào đó
không kham nổi, buộc doanh nghiệp phải rút lui khỏi thị trường hoặc một số doanh
nghiệp chọn phương án chuyển nhượng thương hiệu cho các tập đoàn đa quốc gia. Đơn
cử,công ty Tribico (thành lập năm 1992), từng là sản phẩm hàng Việt Nam chất lượng
caonhưng mới đây chuyển quyền sở hữu cho Uni President (Đài Loan), phở 24 (thành lập
năm2003) là phở Việt chính hiệu với 60 chi nhánh trong nước và 20 chi nhánh ở châu Á
nhưng hiện nay lại do công ty JolliBee (Philippines) là chủ. Không chỉ có hai sản phẩm
Việt kể trênmà nhiều sản phẩm khác như: Diana, Dạ Lan, P/S… dần dần đã chuyển giao

công nghệ vàthương hiệu cho các tập đoàn đa quốc gia nhằm tránh những khó khăn trong
tình hình kinh tế khủng hoảng và nhiều biến động như hiện nay. Cà phê Trung Nguyên
(Trung quốc), thuốclá VINATABA ( Indo), Petro Vietnam, kẹo dừa Bến Tre (Trung Quốc,
cà phê Buôn MaThuật, Đắk Lắk (Pháp), nước mắm Phan Thiết (Mỹ)..
− Quốc gia: Xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam do Diễn đàn Kinh
tếThế giới (WEF) công bố cho năm 2014-2015, VN nằm ở mức rất khiêm tốn và ít
có cải thiệntừ nhiều năm nay.
− Biểu đồ:

Xếp hạng năng lực cạnh tranh của các quốc gia ASEAN

13


Nguồn: Diễn đàn Kinh tế thế giới WEF công bố cho năm 2014-2015
Sự phân phối lợi ích không đồng đều giữa các khu vực, các ngành, các vùng miền của
đất nước
Trên lĩnh vực xã hội, quá trình hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá đặt ra một
thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện chủ trương tăng trưởng kinh tế đi
đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Sở dĩ vậy là vì lợi ích
của toàn cầu hoá được phân phối một cách không đồng đều, những nước có nền kinh tế
phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Trong phạm vi mỗi quốc gia cũng vậy, một bộ phận
dân cư được hưởng lợi ích ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá;
nguy cơ thất nghiệpvà sự phân hoá giàu nghèo sẽ tăng lên mạnh mẽ. Sức ép toàn diện khi
nước ta thực hiện cáccam kết với WTO sẽ đè nặng lên khu vực nông nghiệp là nơi có tới
gần 70% dân số và lựclượng lao động xã hội, đồng thời chúng ta còn sự hạn chế lớn về
sức cạnh tranh của hànghóa, về sự chưa phù hợp của nhiều chính sách... Trong tình hình
như đã nêu, cơ cấu xã hội có thể biến động phức tạp và khó lường, làm cho sự phân tầng,
phân hoá xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực đối với bản thân sự phát triển của đất
nước.


14


Sự ràng buộc về các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính - tiền tệ, đầu tư khi hội nhập
quốc tế
Trong quá trình hội nhập quốc tế, cũng như các nước đang phát triển khác, nước ta phải
chịu sự ràng buộc của các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính - tiền tệ, đầu tư... chủ
yếu do các nước phát triển áp đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và sự điều
tiết vĩ mô bất hợp lý của các nước phát triển hàng đầu. Dựa vào sức mạnh kinh tế và mức
đóng góp vốn khống chế ở các thiết chế tài chính, tiền tệ và thương mại quốc tế, các nước
này đặt ra các“luật chơi” cho phần còn lại của thế giới khi tham gia IMF, WB, WTO... Tự
do hoá thương mại và tự do hoá kinh tế, đáng lẽ phải là cái đích cần vươn tới, thì bị họ
xác định như xuất phát điểm, như điều kiện tiên quyết đối với các nước đang phát triển
trong tiến trình hội nhậpquốc tế. Trên thực tế, đây là hoạt động lũng đoạn của tư bản độc
quyền quốc tế. Trong hoàn cảnh này, sự cạnh tranh kinh tế quốc tế và sự điều tiết vĩ mô
nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tụctrở nên bất bình đẳng và bất hợp lý mà dĩ nhiên phần bất
lợi lớn thuộc về tuyệt đại đa số cácnước đang phát triển trong đó có nước ta.
Thí dụ như khu vực nông nghiệp, nông dân, trong đàm phán khi gia nhập tổ chức thương
mại thế giới. Trung ương cũng đã chỉ đạo làm sao đối tượng là người nông dân và một số
mặt hàng nông sản phải được bảo hộ ở mức độ hợp lý. Chúng ta cũng đã đạt được cam
kết riêng đối với bốn mặt hàng trong nông nghiệp, có bảo hộ bằng cách duy trì hạng
ngạch nhập khẩu,được phép duy trì khoảng 10% tổng số chi phí cho nông nghiệp để trợ
cấp cho khu vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân.các nước nghèo và đang phát triển
một mặt thừa nhận toàn cầu hóa sẽ tiếp tục là xu thế áp đảo trong thế kỷ thứ XXI, nhưng
đòi hỏi toàn cầu hóa phải đem đến những cơ may đồng đềucho tất cả các nước, trước hết
phải xóa nợ cho các nước nghèo, phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để các nước nghèo và
đang phát triển có khả năng hội nhập vào tiến trình toàn cầu hóa.Muốn vậy, các nước
phát triển không được sử dụng các tổ chức và thể chế quốc tế để áp đặt các luật chơi có
lợi cho họ và tất nhiên bất lợi cho các nước nghèo và đang phát triển, chẳnghạn các nước

phát triển đòi hỏi mở cửa thị trường cho các lĩnh vực mũi nhọn mà họ chiếmưu thế trong
khi khép lại hoặc bảo hộ các thị trường của họ đối với các mặt hàng truyền thống hoặc
còn chút ít ưu thế của các nước nghèo và đang phát triển. Họ bảo hộ nền nôngnghiệp của
họ, hạn chế sự thâm nhập các sản phẩm nông nghiệp của các nước nghèo và đang phát
15


triển, buộc các nước này phải cơ cấu lại nền kinh tế trong khi không chịu cơ cấu lại
nềnkinh tế của họ.
Các nước phát triển chủ yếu đầu tư lẫn nhau, còn số vốn đầu tư vào các nước đang phát
triển rất ít, trong đó các nước nghèo lại càng nhận được phần ít hơn. Họ chuyển giao cho
các nướcnày những công nghệ cũ kỹ, nhà máy xí nghiệp gây ô nhiễm để đi vào những
ngành mũi nhọn, từ đó luôn giữ chìa khóa phát triển trong tay họ. Còn các nước nghèo và
đang phát triển lắm khi buộc phải vét cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên của mình, hy
sinh môi trường sinh thái hòng đổi lấy sự phát triển có hạn. Họ đòi hỏi các nước đi vào
nền kinh tế thịtrường, hội nhập vào tiến trình toàn cầu hóa, đẩy nhanh tư nhân hóa, dân
chủ hóa theo kiểu phương Tây nhằm tạo những tiền đề để chuyển hóa các chế độ chính trị
mà họ không ưa. Họ rêu rao về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và dân chủ hóa, về sự
"biện chứng hỗn hợp giữa phát triển với hiện đại hóa và dân chủ hóa". Những nước nào
chống lại thì họ bao vây cấm vận. Điều họ muốn chính là làm thế nào nhào nặn tất cả các
quốc gia dân tộc trên thếgiới này theo hình mẫu tư bản chủ nghĩa phương Tây của họ.
Trình độ phát triển khoa học và công nghệ còn thấp, đội ngũ cán bộ quản lý còn non kém
Dĩ nhiên ngoài việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tạo cơ hội tiếp nhận tiến bộ kĩ thuật
và công nghệ, nước ta vẫn có thể sử dụng ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu để nhập công
nghệ mới về phục vụ các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song vì nước ta còn nghèo, dự trữ
ngoại tệ rất hạn hẹp, kinh nghiệm tiếp cận thị trường bên ngoài chưa nhiều, trình độ thẩm
định công nghệ lại kém và khả năng quản lý sản xuất kinh doanh với công nghệ cao còn
yếu cho nên còn đường thích hợp hơn với nước ta hiện nay là tiếp tục đổi mới cơ chế và
chính sách, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn để lấy lại nhịp độ gia tăng thu hút đầu tư
trực tiếp như những năm trước, qua đó tiếp nhân và chuyển giao công nghệ có hiệu quả

hơn.
Để bảo đảm tiến trình hội nhập đạt hiệu quả, bên cạnh quyết tâm về chủ trương, cần phải
có một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và đội ngũ doanh nhân đủ mạnh và chuyên gia
trên nhiều lĩnh vực. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với Việt Nam do phần đông
cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành nền kinh tế mở, có sự tham gia
của yếu tố nước ngoài. Đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học, đặc biệt là các nhà khoa
16


học đầu ngành còn thiếu và yếu, thiếu các trung tâm khoa học lớn; hiệu quả sử dụng các
phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và kết quả hoạt động của các khu công nghệ cao
còn thấp. Thiếu cơ chế quản lý khoa học nhất là cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, trọng
dụng, đãi ngộ nhân tài còn nhiều hạn chế. Mặt khác, rào cản ngôn ngữ cũng là một thách
thức lớn trong quá trình hội nhập,các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu hiểu biết về thị
trường thế giới và luật pháp quốc tế,năng lực quản lý còn yếu, trình độ công nghệ hạn
chế, nên không nắm bắt được cơ hội mởcửa thị trường nước ngoài để đẩy mạnh phát
triển, không tăng được thị phần trong thươngmại quốc tế. Nếu không có sự chuẩn bị phù
hợp, thách thức này sẽ chuyển thành những khókhăn dài hạn rất khó khắc phục.
Nền quản lý hành chính lạc hậu, nhiều thủ tục rườm rà gây ảnh hưởng tiêu cực nghiêm
trọng đến năng lực cạnh tranh, chi phí về thời gian và tiền bạc của doanh nghiệp Việt
Nam, đơn cử như việc các doanh nghiệp Việt Nam cần đến 872 giờ/năm để đóng thuế
trong khi con số bình quân của dịch vụ đó ở các nước ASEAN-6 chỉ là 172 giờ/năm.
Hơn 50% thương hiệu Việt kém trình độ công nghệ!
"95% doanh nghiệp là doanh nghiệp nhỏ và vừa, và trên 51% trong số các doanh nghiệp
này có trình độ công nghệ là yếu kém...". Trong thời điểm khó khăn, dường như các
doanh nghiệp chỉ tập trung cho việc bánhàng, giảm tồn kho mà quên đi yếu tố cốt lõi làm
nên sức mạnh của mình là công nghệ. Doanh nghiệp nào cũng biết công nghệ là một
trong bốn yếu tố then chốt của sản xuất (công nghệ, vốn, con người, quản trị) nhưng
trong điều kiện khó khăn như hiện nay, dường như các doang nghiệp vẫn chưa coi trọng
công nghệ. Nhiều doanh nghiệp cho biết, khó khăn về vốn, tồn kho cũng như những biến

động về nhân sự đã chiếm hết tâm trí của các nhà quản trị. Theo ông Phan Thanh Giản,
Giám đốc Sản phẩm FPT Online, tại Việt Nam, đến 95% doanh nghiệp là doanh nghiệp
nhỏ và vừa, và 13% trong số các doanh nghiệp này có trình độ công nghệ trung bình khá, trên 51% là yếu kém. So với thế giới, hầu hết các doanh nghiệp này sử dụng công
nghệ lạc hậu hơn rất nhiều.
Ảnh hưởng đến môi trường, xã hội, văn hóa Việt Nam

17


Trong thập niên vừa qua, nhiều sự cố môi trường, trong đó có những sự cố nghiêm trọng
đã xảy ra. Ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường diễn ra ở Việt Nam chủ yếu là do hoạt
động phát triển kinh tế-xã hội của đất nước đã và đang được thúc đẩy với tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế cao. 2016 có thể được coi là năm của các “sự kiện” nóng bỏng về môi
trường. chưa bao giờ vấn đề môi trường lại “nóng bỏng” như năm 2016 với dồn dập các
thông tin khiến dư luận dậy sóng.
Điển hình nhất là vụ việc thép Formosa Hà Tĩnh xả thải ra môi trường làm ô nhiễm biển
4 tỉnh miền Trung là Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, làm hải sản
chết hàng loạt, đời sống của người dân lao đao vì mất sinh kế. Chưa kể, hiện tượng cá
chết hàng loạt ở khắp nơi, kể cả ở Hồ Tây (Hà Nội) đã khiến nỗi ám ảnh ô nhiễm không
dứt.
Ngoài ra, còn có thể kể đến dự án giấy Lee&Man ở Hậu Giang. Dù chưa đi vào vận hành
chính thức, nhưng dự án này đã khiến Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản “đứng
ngồi không yên” vì lo ngại nhà máy xả thải làm chết tôm cá.
Rồi đến chuyện Bình Thuận muốn cắt hơn 1.000 ha khu bảo tồn biển Hòn Cau để
“nhường” cho trung tâm nhiệt điện tỷ đô Vĩnh Tân…
Bên cạnh đó, năm 2016 liên tiếp nhiều siêu dự án có số vốn “khổng lồ” được các doanh
nghiệp đề xuất đã dấy lên những tranh luận và lo ngại về môi trường. Đó là siêu dự án
giao thông thủy điện sông Hồng với vốn đầu tư dự kiến lên tới 1,1 tỷ USD, là dự án thép
Hoa Sen Cà Ná ở Ninh Thuận với tổng vốn đầu tư lên tới 10 tỷ USD (giai đoạn 1 là 500
triệu USD)…

Trong một chừng mực nào đó, có thể nói có nhiều nơi, nhiều lúc, việc bảo vệ môi trường
đã bị xem nhẹ, những nguyên tắc để đảm bảo phát triển bền vững đã không được tuân thủ
một cách nghiêm ngặt.
Thực tế đó đặt ra vấn đề tăng trưởng kinh tế có nhất thiết phải đánh đổi về môi trường
hay không? Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định: Kiên quyết không
đánh đổi môi trường vì lợi ích trước mắt”.

18


Thủ tướng chỉ đạo: “Không được thu hút đầu tư bằng mọi giá, phải chú trọng tiêu chí môi
trường. Kiên quyết không vì phát triển kinh tế mà đánh đổi môi trường”.
Thông điệp trước sau như một ấy đã được Thủ tướng tuyên bố xuyên suốt các diễn đàn
và được nhiều nhà đầu tư dẫn lại như một lời cam kết môi trường mạnh mẽ.
Hiện nay, tình hình trong nước, khu vực và thế giới đã có nhiều thay đổi, đang diễn biến
phức tạp, khó lường. Bên cạnh thời cơ, thuận lợi, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức trong phát triển kinh tế - xã hội, khả năng bảo đảm quốc
phòng, an ninh, ổn định chính trị - xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, bảo đảm phát
triển nhanh và bền vững.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn ảnh hưởng đến quyền độc lập, tự chủ của một quốc gia: Độc
lập tự chủ về thực chất là mỗi nước cần có sự lựa chọn con đường và mô hình phát triển
của mình, tự quyết định các chủ trương,chính sách kinh tế - xã hội, tự đề ra mục tiêu,
chính sách, chủ trương chiến lược cho từng thời kì và các biện pháp thực hiện. Nhưng
độc lập tự chủ không có nghĩa là đóng cửa với thế giới, nếu đóng cửa với thế giới là đi
ngược với xu thế chung của thời đại, đẩy đất nước vào tình trạng chậm phát triển. Trái lại,
mở rộng kinh tế hợp tác đôi bên cùng có lợi, nước ta với các nước, các tổ chức thế giới
đan xen vào với nhau, khi nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi lối sản xuất nhỏ, công nghệ
lạc hậu, năng suất lao động kém, sức cạnh tranh yếu trong khi đó các nước đi trước đặc
biệt là các cường quốc tư bản phát triển có lợi thế hơn hẳn về mọi mặt đã đặc ra thách
thức lớn đối với nền kinh tế nước ta làm thế nào để không bị lệ thuộc và từ chỗ bị lệ

thuộc về kinh tế sẽ dẫn đến không tự chủ được các vấn đề chính trị - xã hội.
Tuy nhiên, việc khắc phục những hạn chế, yếu kém, tồn tại và triển khai thực hiện các
cam kết quốc tế mới cũng sẽ đặt ra nhiều khó khăn, thách thức không chỉ về kinh tế mà
còn cả về chính trị, xã hội. Sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhiều ngành, doanh
nghiệp và sản phẩm của nước ta sẽ gặp khó khăn hơn. Việc thực hiện các cam kết sâu
rộng và cao hơn, nhất là vấn đề lao động, việc làm, bảo vệ môi trường... đáp ứng yêu cầu
nội luật hóa các cam kết nếu không được nghiên cứu, chuẩn bị kỹ, có lộ trình, bước đi
phù hợp, sẽ tác động tiêu cực đến quá trình đổi mới, hoàn thiện thể chế, giải quyết những
vấn đề phức tạp, nhạy cảm. Việc thực hiện các tiêu chuẩn của Tổ chức Lao động Quốc tế
19


(ILO) cũng đặt ra những thách thức mới không chỉ đối với quản lý của Nhà nước mà còn
có thể ảnh hưởng đến ổn định chính trị - xã hội, vai trò và hoạt động của Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam.
Còn trong lĩnh vực văn hóa hội nhập đã đặt ra những thách thức. Thứ nhất, ngày nay văn
hóa cũng như các ngành kinh tế khác, trước tiên phải chịu sự quy định của các quy luật
kinh tế thị trường, cơ bản là quy luật lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta, kinh tế và văn hóa gắn liền với nhau hết sức chặt chẽ, kinh tế
không tự mình phát triển nếu thiếu nền tảng văn hóa và văn hóa không phải là sản phẩm
thụ động của kinh tế. Phát triển văn hóa do đó, phải trên cơ sở kết hợp hài hòa với phát
triển kinh tế.
Kinh tế quy định và quyết định văn hóa, vì xét đến cùng, kinh tế là nền tảng vật chất của
văn hóa. Ở phương diện này, kinh tế tác động đến văn hóa có thể đồng thời hoặc riêng rẽ
qua 3 hướng sau: a/ tác động cùng chiều với sự phát triển văn hóa; b/ tác động ngược
chiều với sự phát triển văn hóa; c/ tác động cùng chiều ở khía cạnh này, lĩnh vực này
song lại tác động ngược chiều ở khía cạnh khác, lĩnh vực khác.
Văn hóa tác động đến kinh tế, về đại thể, cũng theo 3 hướng như vậy. Sự tác động của
văn hóa đến kinh tế, dù theo hướng nào thì nhìn chung cũng đều cho kết quả tích cực, cho
trước mắt, đặc biệt cho lâu dài. Vì văn hóa, xét ở hàm nghĩa cơ bản nhất của nó, là kết

tinh của các hoạt động kinh tế và các hoạt động xã hội nói chung; nói cách khác, là giá trị
của các hoạt động đó. Mà đã là giá trị thì chỉ có ý nghĩa tốt đẹp và có ích cho xã hội,
trong đó có kinh tế.
Tuy vậy, văn hóa chỉ tác động đến kinh tế khi quy kinh tế và văn hóa cùng về hình thái
giá trị; tức là cùng quy về lợi nhuận tinh thần. Mà lợi nhuận tinh thần thì thường không
trùng khít với lợi nhuận vật chất. Nhiều lĩnh vực văn hóa (nếu không nói là tất cả) tương
tự như các ngành kinh tế khác, trước tiên phải chịu sự quy định của các quy luật kinh tế
thị trường, cơ bản là quy luật lợi nhuận. Và đây là thách thức hơn là cơ hội đối với văn
hóa.
Vì thế, khi xác định mục tiêu, giải pháp phát triển văn hóa phải căn cứ và hướng tới mục
tiêu, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, để phát triển văn hóa thúc đẩy phát triển kinh tế
20


- xã hội. Khi xác định mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội phải đồng thời xác định mục
tiêu văn hóa, hướng tới xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và
phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao.
Muốn vậy, phải có chính sách kinh tế trong văn hóa để gắn văn hóa với hoạt động kinh tế,
khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho hoạt động văn hóa. Đồng thời, xây dựng
chính sách văn hóa trong kinh tế để chủ động đưa các yếu tố văn hóa thâm nhập vào các
hoạt động kinh tế - xã hội.
Thứ hai, sự lấn lướt của văn hóa “chạy” theo thị trường. Trong nền văn hóa, kể cả ở Việt
Nam hiện nay thường có 3 dạng thức văn hóa tồn tại, phát triển bên cạnh nhau, chồng lấn
nhau là: văn hóa truyền thống, văn hóa hàn lâm, văn hóa “chạy” theo thị trường. Trong
đó văn hóa “chạy” theo thị trường là kết quả và là biểu hiện cụ thể của quy luật lợi nhuận.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các nước phát triển, đặc biệt các nước phương Tây, đều coi
việc xuất khẩu sản phẩm giải trí là một trong những nguồn thu lợi nhuận quan trọng.
Thậm chí hình thức xuất khẩu này đang dần dần lấn lướt những hình thức xuất khẩu
truyền thống.
Những cơ hội và thách thức nêu trên có mối quan hệ qua lại và có thể chuyển hóa lẫn

nhau. Cơ hội có thể trở thành thách thức nếu không được tận dụng kịp thời. Thách thức
có thể biến thành cơ hội nếu chúng ta chủ động ứng phó thành công.
CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP
Trong thời gian tới, tình hình thế giới [và khu vực] còn nhiều diễn biến phức tạp, quá
trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Các quốc gia tham gia
ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Xuất hiện nhiều hình thức liên
kết kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế, khu vực, các hiệp định song phương, đa
phương thế hệ mới. Trong khi đó, Việt Nam sẽ phải thực hiện đầy đủ các cam kết trong
Cộng đồng kinh tế ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn rất nhiều so với giai đoạn trước.
Trong giai đoạn vừa qua, thực hiện chủ trương của Đảng và chỉ đạo sát sao của Chính
phủ, Bộ Công Thương đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương triển khai
21


chủ trương của Đảng và Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế; tiến hành nghiên cứu,
đàm phán và ký kết nhiều thỏa thuận kinh tế thương mại quốc tế. Từ năm 2010 đến nay,
chúng ta đã chuyển sang giai đoạn chủ động đàm phán và ký kết các hiệp định thương
mại tự do (FTA) với nhiều nước trong khu vực và thế giới, tạo điều kiện quan trọng cho
cải cách kinh tế trong nước và mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp, nâng cao lợi thế
cạnh tranh của hàng hóa. Hơn thế nữa, kết quả hội nhập kinh tế to lớn đó còn giúp Việt
Nam thực hiện chiến lược cơ cấu lại thị trường xuất khẩu theo hướng cân bằng hơn, thúc
đẩy cải cách và tái cơ cấu nền kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế,
của doanh nghiệp và sản phẩm. Do vậy, trong giai đoạn mới đòi hỏi chúng ta phải chủ
động và tích cực hơn nữa trong việc tận dụng các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế
mang lại, vuợt qua các khó khăn thách thức, giảm thiểu các tác động tiêu cực của quá
trình hội nhập, cụ thể:
Đối với Nhà nước:
Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hợp tác quốc tế. Đẩy
mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học-công nghệ, giáo

dục-đào tạo và các lĩnh vực khác. Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân,
của cả hệ thống chính trị...; hội nhập là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, chủ động dự
báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu.
− Một nền kinh tế muốn phát triển được không chỉ dựa vào tài nguyên thiên nhiên
sẵn có mà cần phải có những quan điểm chỉ đạo, những chính sách cải cách kinh
tế hợp lí bao gồm trên tất cả các lĩnh vực: thương mại – dịch vụ, đầu tư, tài chính –
tiền tệ.
o Các cam kết trong các hiệp định thương mại quốc tế luôn đặt nước ra
những yêu cầu phải điều chỉnh qui chế thương mại của Việt Nam. Cải cách
thương mại theo hướng mở cửa và tự do hóa luôn là một trong những nội
dung cơ bản hàng đầu của mọi chương trình cải cách cơ cấu.
o Chính sách tài chính bao gồm nhiều mảng, nhiều lĩnh vực phức tạp liên
quan đến toàn bộ chu chuyển vốn và tiền tệ của nền kinh tế. Do đó chính
sách tài chính cũng có phần quan trọng trong phát triển kinh tế. Theo
22


nguyên tắc cơ bản của bất kì tổ chức kinh tế nào cũng đều có miễn giảm
thuế xuất – nhập khẩu, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan. Bên cạnh đó cần có
biện pháp kiểm soát sự biến động của tỉ giá thực tế, quản lí chặt chẻ mọi
khoản vay nước ngoài. Mặt khác cần nâng dự trữ ngoại tệ lên ít nhất là mức
3 tháng nhập khẩu để đảm bảo hiệu lực điều tiết của ngân hàng trung ương
khi cần thiết, cần nâng dần sức cạnh tranh của đồng Việt Nam tránh đi đến
kết cục phá giá mạnh, mất ổn định kinh tế. Thực hiệm chính sách lãi suất
thấp để thu hút đầu tư.
o Đa dạng hóa hơn nữa các loại hình thu hút vốn FDI, rà soát lại thuế xuất
nhập khẩu để khuyến khích nội địa hóa, xây dựng phương án, lộ trình thống
nhất các loại giá cả dịch vụ đối với các doanh nghiệp trong nước và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ngoài ra cần xử lý thỏa đáng mối quan hệ
giữa công nghệ và sử dụng lao động, mối quan hệ giữa tiền lương và vấn đề

việc làm.
− Chính phủ cần phải có những biện pháp cải cách các thủ tục hành chính: cụ thể
hóa sự phân cấp quản lí từ trung ương đến địa phương, phát huy cao độ nguyên tắc
tập trung dân chủ phù hợp với yêu cầu nâng cao hiệu lực chỉ đạo, điều hành thống
nhất và thông suốt của hệ thống tài chính. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế
chính sách nhằm thực thi có hiệu quả các cam kết hội nhập, tạo môi trường kinh
doanh bình đẳng, minh bạch, ngày càng phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc
tế, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
− Việc nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ làm công tác khoa học không thể
thực hiện trong thời gian ngắn mà đòi hỏi nhiều thời gian và tâm sức cũng là
những thách thức không nhỏ cho việc phát triển nền khoa học và công nghệ nước
nhà. Tăng cường chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc
tế, đồng thời nâng cao năng lực nghiên cứu, đánh giá và dự báo các vấn đề mới,
các xu thế vận động của hội nhập, đặc biệt trong việc thực hiện các cam kết
thương mại, các FTA ở cấp độ cao hơn để có các điều chỉnh chính sách và biện
pháp phù hợp; hoàn thiện hệ thống quản lý, điều hành thị trường đủ năng lực, hoạt
động hiệu quả để bảo vệ trị trường trong nước, duy trì môi trường cạnh tranh lành
mạnh, gắn với bảo vệ môi trường.
23


×