Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Thế nào là một mặt hàng sử dụng nhiều lao động hoặc vốn trong trưởng hợp nào thì một quốc gia được coi là tương đối dồi dào về lao động hoặc vốn trong điều kiện thương mại quốc tế hiện nay cần phải có những giải pháp gì để kh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.7 KB, 36 trang )

ĐỀ TÀI:
Thế nào là một mặt hàng sử dụng nhiều lao động hoặc vốn? Trong trưởng hợp nào thì
một quốc gia được coi là tương đối dồi dào về lao động hoặc vốn trong điều kiện thương
mại quốc tế hiện nay? Cần phải có những giải pháp gì để khai thác có hiệu quả những lợi
thế của Việt Nam theo quan điểm H-O trong điều kiện hội nhập KTQT hiện nay?


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
I. Các giả thuyết H-O
Lý thuyết H-O được xây dựng dựa trên một loạt các giả thiết đơn giản sau đây:
-

-

-

-

-

Thế giới bao gồm 2 quốc gia (Nhật Bản và Việt Nam), 2 yếu tố sản xuất (lao động
và vốn), và 2 mặt hàng (thép và vải), mức độ trang bị các yếu tố ở mỗi quốc gia là
cố định, và mức độ trang bị các yếu tố ở hai quốc gia là khác nhau.
Công nghệ sản xuất là giống nhau giữa hai quốc gia: nếu giá cả các yếu tố sản xuất
là như nhau thì để sản xuất 1 m vải các nhà sản xuất vải ở Việt Nam và ở Nhật Bản
sẽ sử dụng lượng lao động như nhau và lượng vốn như nhau.
Các mặt hàng khác nhau sẽ có hàm lượng các yếu tố sản xuất khác nhau, và không
có sự hoán vị về hàm lượng các yếu tố sản xuất tại bất kỳ mức giá cả yếu tố tương
quan nào (vải luôn là mặt hàng có hàm lượng lao động cao, còn thép- mặt hàng có
hàm lượng vốn cao).
Cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên cả thị trường hàng hóa lẫn thị trường yếu tố sản


xuất (mức giá trên thị trường là duy nhất và được xác định bởi cung cầu, và trong
dài hạn giá cả hàng hóa đúng bằng chi phí sản xuất)
Chuyên môn hóa là không hoàn toàn (hai nước có quy mô tương đối giống nhau,
không có nước nào được coi là nước nhỏ so với nước kia)
Các yếu tố sản xuất có thể di chuyển tự do trong mỗi quốc gia, nhưng không di
chuyển được giữa các quốc gia.
Sở thích là giống nhau giữa hai quốc gia (nếu hai nước có cùng mức thu nhập và
mức giá cả hàng hóa thì sẽ có xu hướng tiêu dùng lượng hàng hóa như nhau)
Thương mại được thực hiện tự do, chi phí vận chuyển bằng 0.

II Hàm lượng các yếu tố sản xuất và mức độ dồi dào của các yếu tố sản xuất.
Lý thuyết H-O được xây dựng dựa trên 2 khái niệm cơ bản là hàm lượng (mức độ sử
dụng) các yếu tố và mức độ dồi dào của các yếu tố. Một mặt hàng được coi là sử dụng
nhiều (một cách tương đối) lao động nếu tỷ lệ giữa lượng lao động và các yếu tố khác
(như vốn hoặc đất đai) sử dụng để sản xuất ra một đơn vị mặt hàng đó lớn hơn tỷ lệ tương
ứng các yếu tố đó để sản xuất ra một đơn vị mặt hàng thứ 2. Tương tự nếu tỷ lệ giữa vốn
và các yếu tố khác là lớn hơn thì mặt hàng đó được coi là sử dụng nhiều vốn. Chẳng hạn,
mặt hàng X đươc coi là sử dụng nhiều lao động nếu:


Lx Ly
>
Kx Ky

Trong đó:
Lx và Ly là lượng lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị X và Y, còn K x và Ky là
lượng vốn cần thiết để sản xuất ra một đơn vị X và Y, một cách tương ứng.
- Định nghĩa về hàm lượng vốn (hay hàm lượng lao động) không căn cứ vào tỷ lệ
giữa lượng vốn (hay lượng lao động) và sản lượng, cũng như số lượng tuyệt đối vốn (hay
lao động), mà được phát biểu dựa trên tương quan giữa lượng vốn và lượng lao động cần

thiết để sản xuất ra một đơn vị sản lượng.
Tương tự, nước A được coi là dồi dào tương đối về lượng lao động nếu:
LA
L
> B
K A KB

LA và LB là lượng lao động ở các nước A và B một cách tương ứng.
KA và KB là lượng vốn ở các nước A, B
-

Mức độ dồi dào của một yếu tố sản xuất của một quốc gia được đo không phải
bằng số lượng tuyệt đối mà bằng tương quan giữa số lượng yếu tố đó với các yếu
tố sản xuất khác của quốc gia.

III. Định lý Heckscher-Ohlin:
Với các giả thiết quan trọng nêu trên, đặc biệt là dựa trên 2 khái niệm về hàm lượng các
yếu tố và mức độ dồi dào các yếu tố sản xuất, nội dugn của lý thuyết H-O có thể được
phát biểu qua định lý sau đây:
Một nền kinh tế có lợi thế so sánh trong việc sản xuất, và do đó sẽ xuất khẩu những mặt
hàng sử dụng nhiều tương đối yếu tố sản xuất mà nó dồi dào, và nhập khẩu những mặt
hàng sử dụng nhiều tương đối yếu tố mà nó khan hiếm.
IV. Đánh giá lý thuyết Heckscher-Ohlin:
1. Ưu điểm
- Giải thích khoa học chặt chẽ và có tính logic cao về nguồn gốc lợi thế so sánh và

thương mại giữa các quốc gia.


-


-

2.
-

-

-

Là một bộ phận cấu thành của lý thuyết kinh tế có ảnh hưởng lớn nhất đến hiện
nay- lý thuyết cân bằng tổng quát của trưerường phái tân cổ điển và do đó góp
phần quan trọng trong việc giải thích cơ chế vận hành của cơ chế thị trường.
Là công cụ hứu ích nghiên cứu các vấn đề liên quan đến giá cả các yếu tố sản xuất
và thương mại và ảnh hưởng của thương mại đến quá trình phân phối thu nhập
trong mỗi quốc gia.
Kết quả của các công trình kiểm chứng thực tế lý thuyết H-O thường bị bóp méo
bởi các yếu tố không hoàn hảo trên thị trường.
Hạn chế
Thương mại nội ngành: Các mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia
phải có hàm lượng các yếu tố khác nhau. Nhưng trên thực tế, một tỷ trọng lớn và
ngày càng gia tăng của thương mại quốc tế về các sản phẩm rất giống nhau nhưng
lại khác nhau về sự khác biệt của sản phẩm.
Ảnh hưởng của quá trinh tự do hóa thương mại: Lý thuyết này cho rằng trên thực
tế phải đi cùng những biến đổi lớn trong quá trình phân bổ nguồn lực và mâu
thuẫn xã hội. Tuy nhiên trên thực tế thì quá trình phân bổ lại nguồn lực rất hạn chế
và dường như thương mại có tác dụng làm tăng năng suất của tất cả các yếu tố sản
xuất cũng như phúc lợi của tất cả các tầng lớp khác nhau trong xã hội.
Hơn một nửa thương mại quốc tế được diễn ra giữa các quốc gia công nghiệp phát
triển- những nước được coi là có mức độ trang bị các yếu tố sản xuất tương đối

giống nhau mâu thuẫn với dự đoán của lý thuyết H-O là lợi thế so sánh xuất phát
từ sự khác biệt về mức độ trang bị các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia.
V.

Điều kiện một quốc gia được coi là dồi dào về lao động hoặc vốn
theo lý thuyết củ H-O

Lý thuyết H-O cho rằng lợi thế tương đối xuất phát từ sự khác nhau của các yếu tố sản
xuất. Đó chính là các nguồn lực cần thiết cho quá trình sản xuất: đất đai, lao động và tư
bản. Do mức độ sẵn có của các yếu tố này ở các quốc gia là khác nhau nên điều này tạo
ra sự khác biệt trong chi phí sản xuất. Một quốc gia được coi là dồi dào tương đối về lao
động (hay về vốn) nếu tỷ lệ giữa lượng lao động (hay lượng vốn) và các yếu tố sản xuất
khác của quốc gia đó lớn hơn tỷ lệ tương ứng của các quốc gia khác.
Chẳng hạn, quốc gia A được coi là dồi dào tương đối về lao động so với quốc gia B nếu
LA
L
> B
K A KB

Trong đó:


LA, LB là lượng lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm tại hai quốc gia A
và B
KA, KB lần lượt là lượng vốn cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm tại 2 quốc
gia A và B.
Sự dồi dào của một yếu tố sản suất của một quốc gia theo lý thuyết H-O dễ dàng được
minh chứng trên thực tế. Ví dụ như nước Hoa Kỳ trong một thời gian dài là một nước
xuất khẩu lớn trên thế giới về hàng nông sản, và điều này phản ánh một phần về sự dồi
dào khác thường của Hoa Kỳ về diện tích đất có thể canh tác. Hay ngược lại, Trung Quốc

nổi trội về xuất khẩu những hàng hóa được sản xuất trong những ngành thâm dụng lao
động như là dệt may và giày dép. Điều này phản ánh mức độ dồi dào tương đối của Trung
Quốc về lao động giá rẻ. Nước Hoa Kỳ, vốn không có nhiều lao động giá rẻ, từ lâu đã là
nước nhập khẩu chủ yếu những mặt hàng này.
Mức độ dồi dào của một yếu tố sản xuất của một quốc gia được đo không phải bằng số
lượng tuyệt đối mà bằng tương quan giữa số lượng yếu tố đó với các yếu tố sản xuất khác
của quốc qia. Một nước có thể có số lượng tuyệt đối các nhân tố đất đai và lao động nhiều
hơn hẳn so với nước khác, nhưng lại chỉ có mức độ dồi dào tương đối một trong hai yếu
tố đó mà thôi.
CHƯƠNG 2: GIẢI PHÁP GÌ ĐỂ KHAI THÁC CÓ HIỆU QUẢ NHỮNG LỢI THẾ
CỦA VIỆT NAM THEO QUAN ĐIỂM H-O TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
KTQT HIỆN NAY
I. Những lợi thế của Việt Nam khi hội nhập nền kinh tế thế giới và khu vực

Hội nhập kinh tế thế giới và khu vực là quá trình gắn bó một cách hữu cơ nền kinh
tế quốc gia đó với nền kinh tế thế giới hay khu vực góp phần khai thác các nguồn lực bên
trong có hiệu quả. Việt Nam đã và đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, trên tất cả
các lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư, sẽ tác động tích cực mở ra nhiều cơ hội phát
triển kinh tế trong nước như: Hiệp định FTA với Hàn Quốc đã có hiệu lực; Cộng đồng
Kinh tế ASEAN - Việt Nam đã kết thúc đàm phàn FTA với EU, Hiệp định đối tác kinh tế
xuyên Thái Bình Dương...
Tham gia hội nhập vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực đã tạo điều
kiện cho Việt Nam phát triển một cách nhanh chóng. Những cơ hội của hội nhập mang lại
mà Việt Nam tận dụng một cách triệt để sẽ làm bàn đạp để nền kinh tế sánh vai với các
cường quốc năm châu.


Trước đây, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng thô có hàm lượng lao động
cao như: than, cà phê, dầu thô, may mặc,… đây là những mặt hàng mà việt nam có lợi thế
do có nguồn nguyên vật liệu phong phú, đa dạng nguồn nhân công dồi dào, gia nhân công

rẻ… Nhưng hiện nay việt nam đang tích cực và chủ trương thu hút vốn, công nghệ và
kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ bên ngoài để thay thế mặt hàng xuất khẩu theo hướng
tăng tỷ trọng những mặt hàng có hàm lượng chất xám cao để tăng kim ngạch xuất khẩu,
đồng thời giảm các mặt hàng là nguyên liệu thô chưa qua sơ chế để sử dụng một cách có
hiệu quả hơn các nguồn lực để phát triển kinh tế một cách bền vững.
1. Vị trí địa lí

Vị trí của Việt Nam rất thuận lợi để trở thành trung tâm giao nhận vận tải biển
quốc tế. Nằm trên tuyến đường giao lưu hàng hải quốc tế từ các nước thuộc Liên Xô cũ,
Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Triều Tiên sang các nước Nam Á, Trung Đông và châu Phí.
Ven biển Việt Nam, nhất là từ Phan Thiết trở vào có nhiều cảng nước sâu, khí hậu tốt,
không ccó bão, sương mù. Điều này cho phép tàu bè nước ngoài có thể thực hiện chuyển
tải hàng hóa, sửa chữa, tiếp nhiên vật liệu an toàn quanh năm.
Việt Nam nằm trên trục đường bộ và đường sắt từ châu Âu sang Trung Quốc qua
Campuchia, Lào, Thái Lan, Mianma, Pakistan, Ấn Độ,...
Vận tải hàng không nước ta có nhiều sân bay đặt biệt: sân bay Tân Sơn Nhất nằm
ở vị trí rất lí tưởng, cách đều thủ đô các thành phố quan trọng trong vùng ( Băng Cốc,
Giacacta, Manila, Singapore,...)
Vị trí địa lí thuận lợi của Việt Nam tạo khả năng phát triển các hoạt động trung
chuyển, tái xuất khẩu, và chuyển hàng hóa qua các khu vực lân cận. Đây chính là nguồn
tài nguyên vô hình rất quan trọng
2. Nguồn nhân lực

Lợi thế lớn nhất của Việt Nam là có lực lượng lao động dồi dào và cơ cấu lao động
trẻ. Việt Nam có một nguồn lao động dồi dào; tư chất con người thông minh, cần cù,
sáng tạo, tiếp thu nhanh ngành nghề và khoa học công nghệ, có khả năng ứng xử linh
hoạt; mặt khác, giá nhân công lại rẻ.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến hết năm 2016, quy mô lực lượng lao
động từ 15 tuổi trở lên ở Việt Nam là 71.03 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi
lao động là 54.43 triệu người. Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2016

là 53,3 triệu người. Tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 41,9%; khu
vực công nghiệp và xây dựng 24,7%; khu vực dịch vụ là 33,4%. Lao động từ 15 tuổi
trở lên đang làm việc trong khu vực thành thị là 31,9%, làm việc khu vực nông thôn là
68,1%. Chất lượng lao động cũng đã từng bước được nâng lên; tỷ lệ lao động qua đào tạo


tăng từ 30% lên 40% trong vòng 10 năm trở lại đây (theo số liệu của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội), trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 38,5%. Lao động qua
đào tạo đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Lực
lượng lao động kỹ thuật của Việt Nam đã làm chủ được khoa học – công nghệ, đảm nhận
được hầu hết các vị trí công việc phức tạp trong sản xuất kinh doanh mà trước đây phải
thuê chuyên gia nước ngoài
Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp, do
vậy, tỷ lệ lao động tham gia vào thị trường lao động chính thức còn thấp, đạt khoảng
33%. Chất lượng và cơ cấu lao động vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển và
hội nhập. Khoảng 45% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp hầu như chưa qua đào tạo.
Chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn thấp, là một trong những “điểm nghẽn” cản trở
sự phát triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cơ hội để nguồn lực của nước ta khai thông giao
lưu với thế giơí bên ngoài. Việt Nam đã xuất khẩu lao động qua các hợp đồng gia công
chế biến hàng xuất khẩu và nhập khẩu lao động kỹ thuật công nghệ mới rất cần thiết. Như
vậy với lợi thế nhất định về nguồn lao động cho phép lựa chọn dạng hình phù hợp tham
gia vào hội nhập và qúa trình hội nhập đã tạo điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn lao
động Việt Nam.

3. Tài nguyên thiên nhiên

Tài nguyên thiên nhiên ở nước ta đa dạng và phong phú bao gồm đất đai, rừng
biển, nguồn nước, khoáng sản đủ loại, khí hậu (sức gió, ánh nắng, lượng mưa để có thể
hình thành năng lượng tự nhiên) và tài nguyên du lịch. Có thể nói rằng với một nguồn tài
nguyên như thế đất nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi và tiềm năng để phát huy lợi thế

của mình so với một số nước NIEs, Đông A' (những nước có thị trường xuất nhập khẩu
lớn ở nước ta)
Việt Nam có diện tích tự nhiên khoảng 331.698km2, bờ biển dài hơn 3.260km,
được xếp ở quy mô trung bình, đứng thứ 59 trong tổng số 200 quốc gia và vùng lãnh thổ
10 trên thế giới. Việt Nam có sự đa dạng về địa chất, địa hình, tài nguyên khoáng sản
tương đối phong phú về chủng loại, một số loại có trữ lượng, tiềm năng tài nguyên lớn có
thể phát triển thành các ngành công nghiệp, như dầu khí, bô-xít, ti-tan, than, đất hiếm...;
tiềm năng năng lượng tái tạo lớn, đặc biệt năng lượ ng gió, mặt trời, địa nhiệt, sinh khối .
Mặc dù tổng lượng nước mặt (khoảng 830-840 tỷ m3/năm), nước dưới đất (khoảng 63 tỷ
m3/năm) khá lớn, nhưng do địa hình hẹp, nhiều vùng dốc ra biển, hơn 60% lượng nước
mặt có nguồn gốc từ nước ngoài, nên tình trạng thiếu nước cục bộ theo vùng và theo mùa


vẫn xảy ra, có lúc, có nơi gay gắt. Trải dài trên nhiều vĩ tuyến, từ nhiệt đới ẩm đến á nhiệt
đới, với nhiều vùng núi cao, Việt Nam có nhiều hệ sinh thái rừng với sự đa dạng và
phong phú về các loài động vật, thực vật. Với diện tích vùng biển thuộc chủ quyền, quyền
chủ quyền và quyền tài phán trên 1 triệu km2, Việt Nam thực sự là một quốc gia biển với
nhiều loại hình tài nguyên đa dạng và phong phú, nhất là nguồn lợi thủy sản, tiềm năng vị
thế phát triển giao thông, cảng biển, du lịch... Lượng khách đi du lịch trên toàn cầu liên
tục gia tăng tiếp tục tăng trong những năm tới với xu hướng chuyển dịch dòng khách từ
Châu Âu sang khu vực Đông Á - Thái Bình Dương trong thế kỷ 21. Du lịch các nước
Đông Nam Á (ASEAN) giữ vị trí quan trọng trong khu vực Đông Á - Thái Bình Dương,
trong đó Việt Nam là một trong những quốc gia thu hút được lượng khách lớn khách du
lịch quốc tế.
Việt Nam có những điều kiện tài nguyên thuân lợi và tiềm năng để phát huy lợi thế
của mình. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải sử dụng nguồn tài nguyên đó như thế
nào cho hợp lí. Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố mà các quốc gia phát huy thế mạnh, lợi
thế của mình trong khi mở cửa giao lưu với các nước khác trên thế giới, chính vì vậy việc
khai thác sử dụng bừa bãi tài nguyên thiên nhiên dẫn đến sự cạn kiệt tài nguyên. Do đó
trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ, cho

phép con người sử dụng chất xám, phát minh, nghiên cứu từng bước tìm ra những vật
liệu nhân tạo thay thế cho nguồn tâì nguyên hiện có. Việt Nam chúng ta có nhiều nguồn
tâì nguyên chưa được khai thác hợp lí và đúng mức để phục vụ cho phát triển kinh tế xã
hội. Vì vậy, chúng ta cần phải biết khai thác và sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên thiên
nhiên để tăng sức cạnh tranh trong việc sản xuất một số mặt hàng có ưu thế.
4. Hội nhập kinh tế quốc tế giúp Việt Nam tăng thu hút đầu tư nước ngoài.

Cùng với việc cải thiện môi trường đầu tư, hội nhập kinh tế quốc tế đã và sẽ mở ra
các cơ hội lớn đối với lĩnh vực đầu tư của Việt Nam. Đầu tư tại Việt Nam, các nhà đầu tư
có thể tiếp cận và hưởng ưu đãi thuế quan từ các thị trường lớn mà Việt Nam đã ký kết
FTA như khu vực ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ...

Bên cạnh đó, việc thực hiện các cam kết trong các Hiệp định thế hệ mới như TPP,
EVFTA (dỡ bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư và dịch vụ, bảo hộ đầu tư công bằng, không
phân biệt đối xử, mở cửa thị trường mua sắm Chính phủ, dịch vụ tài chính…) sẽ khiến
cho môi trường đầu tư của Việt Nam trở nên thông thoáng hơn, minh bạch hơn, thuận lợi
hơn từ đó sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn nữa.


Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2016, cả nước thu hút được 2.556 dự án
FDI với số vốn đăng ký đạt gần 15,2 tỉ đô la Mỹ, tăng 27% về số dự án và giảm 2,5% về
vốn đăng ký so với cùng kỳ năm ngoái. Bên cạnh đó, có 1.225 lượt dự án đăng ký điều
chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt hơn 5,765 tỉ đô la Mỹ, tăng 50,5% về số dự án
và giảm 19,7% về vốn tăng thêm.
Trong năm 2016, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký cấp phép mới đạt hơn 9,8 tỉ đô la Mỹ, chiếm
64,6% tổng vốn đăng ký cấp mới; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt hơn 1,522 tỉ đô
la Mỹ, chiếm 10,1%; ngành bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có
động cơ khác đạt 367 triệu đô la Mỹ, chiếm 2,4%; các ngành còn lại đạt 3,48 tỉ đô la Mỹ,
chiếm 22,9%.


Nếu tính cả vốn đăng ký bổ sung của các dự án đã cấp phép từ các năm trước và
góp vốn, mua cổ phần thì tổng vốn FDI vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm
2016 đạt hơn 15,53 tỉ đô la Mỹ, chiếm 63,8% tổng vốn đăng ký; ngành bán buôn và bán
lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt gần 1,9 tỉ đô la Mỹ, chiếm
7,8%; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt hơn 1,686 tỉ đô la Mỹ, chiếm 6,9%; các
ngành còn lại đạt 5,24 tỉ đô la Mỹ, chiếm 21,5%.
Sự gia tăng mạnh mẽ của vốn đầu tư nước ngoài được thể hiện rõ nét qua các thời
kỳ. Từ khoảng 30,67 tỷ USD, chiếm 24,32% tổng vốn đầu tư xã hội giai đoạn 2005-2010
đã tăng lên 53,47 tỷ USD, chiếm 22,75% tổng vốn đầu tư xã hội giai đoạn 2010-2015.
Ngoài ra, luồng vốn FDI còn góp phần quan trọng vào xuất khẩu. Chủ trương
khuyến khích đầu tư nước ngoài hướng vào xuất khẩu đã tạo thuận lợi cho nước ta trong
việc nâng cao năng lực và mở rộng thị trường xuất khẩu. Và còn góp phần làm thay đổi
cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo chiều hướng giảm tỷ trọng sản phẩm khai khoáng, mặt
hàng sơ cấp, tăng dần tỷ trọng hàng chế tạo.
Khu vực FDI còn góp phần ổn định thị trường trong nước, hạn chế nhập siêu
thông qua việc cung cấp cho thị trường nội địa các sản phẩm chất lượng cao do doanh
nghiệp trong nước sản xuất, thay vì phải nhập khẩu như trước đây.
5. Hội nhập kinh tế quốc tế giúp Việt Nam tiếp thu được khoa học - công nghệ mới

Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, hội nhập quốc
tế về khoa học và công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần thiết lập vị thế
mới của Việt Nam và được xác định là một động lực thúc đẩy các hoạt động khoa học và
công nghệ nước ta. Đây là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước học hỏi cách thức quản


lý mới, sử dụng công nghệ mới trong sản xuất và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Cải tiến và hoàn thiện các dây chuyền sản xuất theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa
sẽ giúp các doanh nghiệp giảm được chi phí, tạo ra những sản phẩm mới có chất lượng,
đa dạng về mẫu mã, bao bì… tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước đủ sức cạnh

tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ về hợp tác khoa học và công nghệ với gần 70
nước, tổ chức quốc tế và vùng lãnh thổ. Hơn 80 hiệp định hợp tác khoa học và công nghệ
cấp chính phủ và cấp bộ đã được ký kết và đang thực hiện. Việt Nam đang là thành viên
của gần 100 tổ chức quốc tế và khu vực về khoa học và công nghệ. Từ năm 2000 đến nay,
có hơn 540 thỏa thuận, hợp đồng hợp tác quốc tế được thực hiện tại các cơ sở nghiên cứu
triển khai các cấp; hơn 400 nhiệm vụ nghiên cứu song phương giữa các tổ chức khoa học
và công nghệ Việt Nam với các tổ chức khoa học và công nghệ của các nước trên thế giới
đã và đang được thực hiện.
Bên cạnh đó, một số chương trình hợp tác với các đối tác nước ngoài cũng được
triển khai mạnh mẽ, góp phần hỗ trợ đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ. Thông
qua chương trình hợp tác với Công ty ABI (Nhật Bản), quy trình công nghệ bảo quản quả
vải thiều bằng công nghệ CAS được hoàn thiện và lần đầu tiên giới thiệu sản phẩm tại
Hội chợ hàng nông sản Kan-đa ở Tô-ky-ô. Thông qua hợp tác với Công ty Juran (I-xraen), dây chuyền xử lý quả vải không xông SO2 (lưu huỳnh đi-ô-xít) đang được giới thiệu
và triển khai thử nghiệm tại Bắc Giang. Hiệp định tài trợ Dự án đổi mới sáng tạo (IPP)
giai đoạn 2 được ký kết thành công, nhằm hỗ trợ hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật để Luật và Chiến lược khoa học và công nghệ của Việt Nam đi vào cuộc sống;
tăng cường đào tạo về đổi mới sáng tạo và hình thành đội ngũ chuyên gia tư vấn đổi mới
công nghệ cho các doanh nghiệp.

II. Những giải pháp khai thác hiệu quả các lợi thế của Việt Nam khi hội nhập kinh tế

quốc tế
1. Thành lập các vùng phát triển sản xuất những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh
Thực hiện Chương trình đồng bộ phát triển và nâng cấp cụm ngành và chuỗi giá trị
sản xuất của các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh thuộc 5 ngành: điện tử và công nghệ
thông tin, dệt may, chế biến lương thực thực phẩm, máy nông nghiệp, du lịch và các dịch
vụ liên quan.
Theo Chương trình, sẽ nâng cấp và hình thành các cụm ngành đặc trưng ở một số
địa phương. Cụ thể:



Cụm ngành điện tử gia dụng ở Bình Dương; Cụm ngành điện tử nghe nhìn ở
khu vực các tỉnh/thành phố Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang, thành phố Hà Nội, Hải
Dương; cụm sản phẩm công nghệ thông tin và dịch vụ liên quan ở Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng.

Cụm ngành dệt sợi và may mặc ở khu vực các tỉnh Thái Bình, Nam Định,
Ninh Bình, Bắc Giang; cụm ngành may mặc ở thành phố Hồ Chí Minh (chuyên về cung
ứng nguyên phụ liệu và dịch vụ) và khu vực miền Trung (chuyên về ODM).

Cụm ngành chế biến sản phẩm thủy sản ở các tỉnh vùng Tây Nam Bộ; cụm ngành
chế biến thủy sản và nông sản ở các tỉnh duyên hải và cao nguyên miền Trung; cụm
ngành chế biến nông sản ở các tỉnh trung du phía Bắc.

Cụm ngành máy và thiết bị nông nghiệp ở khu vực các tỉnh/thành phố: Hà Nội,
Hải Dương, Hải Phòng và cụm ngành tại khu vực các tỉnh/thành phố Hồ Chí Minh, Long
An, Đồng Nai.

Cụm du lịch Hải Phòng – Quảng Ninh phát triển các sản phẩm du lịch tham quan
thưởng ngoạn thắng cảnh và sinh thái biển; Cụm du lịch Đà Nẵng – Thừa Thiên Huế –
Quảng Nam phát triển cụm sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng biển gắn với vui chơi giải trí,
tham quan thắng cảnh, tìm hiểu di sản văn hoá; Cụm du lịch Khánh Hoà – Bình Thuận
phát triển các sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng biển dài ngày, vui chơi giải trí đô thị, tham
quan khám phá cảnh quan, thể thao biển; Cụm du lịch Bình Định – Phú Yên – Ninh
Thuận phát triển theo các sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng biển gắn với thiên nhiên hoang
sơ; Cụm du lịch thành phố Hồ Chí Minh – Bà Rịa – Vũng Tàu phát triển dịch vụ nghỉ
dưỡng biển và giải trí đô thị; Cụm du lịch đảo Phú Quốc với các sản phẩm du lịch nghỉ
dưỡng biển, khám phá đảo.
2. Khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên


2.1 Tài nguyên đất
Đất đai phì nhiêu nên chú trọng vào việc trồng trọt và chăn nuôi. Nhà nước, chính
quyền địa phương và người dân nên có những chiến lược hoặc chính sách khoanh vùng
để phát triển nông nghiệp lâu dài và bền vững Những vùng đất có hàm lượng phù sa lớn


như đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long nên có chính sách khoanh vùng
trồng lúa. Tránh việc lấn chiếm đất để xây dựng cơ sở hạ tầng. Ở những vùng đất đỏ
bazan như trung du miền núi phía bắc, ở tây Nguyên và vùng Tây Nam Bộ phát triển
những loại cây trồng có giá trị phục vụ cho công nghiệp như chế biến cây chè ở Thái
Nguyên, cây cao su ở Tây Nguyên và cây điều, cây ca cao ở Tây Nam Bộ... Việt Nam có
nhiều vùng đồi núi thoai thoải rât phù hợp cho việc chăn thả gia súc, đặc biệt là gia súc
lớn mang lại hiệu quả kinh tế cao. Hơn nữa, việc kết hợp "3 nhà"”: nhà nước, nhà doanh
nghiệp, nhà nông cũng rất hiệu quả cho việc phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay.
Do đó mô hình này cũng nên được nhân rộng ra. Vì nó không những mang lai lợi ích cho
nông dân mà còn đối với doanh nghiệp chế biến và phân phối sản phẩm, với nhà nước.
Sản xuất nông nghiệp nước ta luôn dao động theo thị trường. Trong quá trình hội
nhập kinh tế thế giới, sản xuất nông nghiệp sẽ còn chịu các tác động lớn khi Việt Nam
thực hiện các hiệp định thương mại tự do. Để khai thác hiệu quả lợi thế về sản xuất nông
nghiệp, chúng ta cần thực hiện những giải pháp sau:
-

Cần tập trung tăng năng suất và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Cần cải tạo, phát triển các loại giống có năng suất cao và áp dụng tiến bộ
khoa học - kỹ thuật
Thực hiện cơ giới hóa, hiện đại hóa, xây dựng vùng nguyên liệu gắn với nhà
máy chế biến và thực hiện đa dạng hóa sản phẩm. Có chính sách thu hút đầu tư trong và
ngoài nước, đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, nhất là nông nghiệp công
nghệ cao.

Đầu tư mạnh cho nghiên cứu khoa học (giống cây trồng và vật nuôi, kể cả
những giống có gien chuyển đổi thích nghi với điều kiện canh tác khắc nghiệt của nông
dân vùng sâu, vùng xa); công nghệ sau thu hoạch.

-

Cần đánh giá cụ thể sức cạnh tranh của từng loại nông sản chủ yếu để có biện pháp khắc
phục những yếu kém, bảo đảm nông sản của nước ta chiếm lĩnh thị trường trong nước
vươn mạnh ra thị trường quốc tế. Trong đó:
Chú trọng các giải pháp đồng bộ về kỹ thuật và kinh tế làm cho sản phẩm thích
ứng với thị trường. - Xác định rõ chủng loại và thị trường xuất khẩu chủ yếu, bảo đảm
giống tốt cho cây trồng xuất khẩu.

-

Xây dựng và phát triển thương hiệu cho các mặt hàng nông sản Việt Nam. Muốn vậy,
điều quan trọng nhất là phải bảo đảm chất lượng của nông sản đúng theo yêu cầu của
người tiêu dùng và của thị trường. Việc hình thành các doanh nghiệp sản xuất, kinh


-

doanh hàng nông sản có quy mô lớn, tăng cường xây dựng các chuỗi cung ứng nông
sản... sẽ là cơ sở ban đầu để hình thành các thương hiệu mạnh của Việt Nam.
Hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống thông tin thị trường từ
trung ương đến các địa phương:
- Có chính sách khuyến khích các địa phương, các doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh hàng nông sản tham gia các hội chợ nông sản trong nước và quốc tế, xây dựng các
trung tâm giao dịch và giới thiệu sản phẩm nông nghiệp Việt Nam ở nước ngoài..
- Nỗ lực thực hiện tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại, đầu tư thông qua đẩy

nhanh đàm phán và ký kết các Hiệp định thương mại song phương và khu vực nhằm tạo
điều kiện tiếp cận thị trường rộng lớn cho nông sản xuất khẩu, như Hiệp định Đối tác
kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định thương mại tự do với Liên
minh châu Âu (EFTA), Liên minh Hải quan Nga - Belarut - Kazakhstan (VCUFTA),
tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)... Chủ động tiếp cận, đàm phán với các đối
tác, quốc gia để giải quyết những tranh chấp, tháo gỡ các rào cản đối với thương mại, tạo
điều kiện cho hoạt động xuất khẩu nông sản.

Ngoài ra, Nhà nước cũng cần tiếp tục duy trì và thực hiện các chính sách hỗ trợ
khác nhằm xóa đói giảm nghèo và giúp đỡ nông dân trong phát triển sản xuất nông sản có
quy mô lớn như: Chính sách khuyến khích nông dân, sản xuất theo quy hoạch; thực hiện
hợp đồng bán sản phẩm cho doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu; chính sách hỗ trợ nông
dân mua sắm trang thiết bị phục vụ sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản... nhằm nâng cao
năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.

2.2.

Tài nguyên biển
Việt Nam có đường bở biển dài 3260 km (không kể các đảo) và đẹp thì nên
phát triển du lịch kinh tế biển. Đây là một trong những lợi thế to lớn mà thiên nhiên ưu
đãi cho Việt Nam. Với những đường bờ biển trải dài từ Bắc vào Nam, đặt biệt, có những
bờ biển được xếp hạng là một trong những bãi biêr nđẹp nhất hành tinh như bãi biển ở
Nha Trang. Nhờ vào lợi thế biển thì loại hình dịch vụ du lịch tham quan nghỉ dưỡng, vui
chơi giả trí, đã và đang được các tỉnh có bờ biển tích cực mở rộng và đưa vào khai thác.
Ngoài việc phát triển du lịch thì loại hình đánh bắt thủy hải sản ngoài khơi và việc nuôi
thủy hải sản trong các vùng gần biển cũng thu về một nguồn lợi rât lớn, phục vụ cho việc
chế biến thủy sản xuất khẩu. Giải pháp chính sách nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng
xuất khẩu thủy sản:



-

-

Đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, con giống; điều chỉnh và giám sát thực hiện tốt quy
hoạch nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy sản. Trên cơ sở quy hoạch đề ra, cần tăng
cường kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch, tăng cường tính công khai, minh bạch đối
với các loại quy hoạch.
Tái cơ cấu ngành thủy sản, chuyển dịch cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu sang các sản
phẩm chế biến sâu, đầu tư phát triển sản phẩm mới có giá trị gia tăng; đa dạng hóa sản
phẩm thủy sản chế biến và phát triển thương hiệu thủy sản Việt Nam. Tập trung chuyển
dịch cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu theo hướng nâng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế
biến sâu, chế biến tinh, ứng dụng công nghệ sinh học, hạn chế tối đa xuất khẩu sản phẩm
thô, giảm nhanh tỷ trọng sản phẩm sơ chế trong cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu, góp
phần bảo tồn và phát huy nguồn lợi thủy sản.

-

Đa dạng hóa và phát triển thị trường mới cho xuất khẩu, tăng cường xúc tiến thương mại,
nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại tại các thị trường trọng
điểm. Trước hết, thực hiện tốt các biện pháp giữ vững thị trường truyền thống, tạo bước
đột phá mở rộng các thị trường xuất khẩu mới có tiềm năng và thực hiện đa dạng hóa thị
trường xuất khẩu. Hoàn thiện hệ thống thông tin thương mại để hỗ trợ cho các doanh
nghiệp xuất khẩu nắm bắt các kênh thông tin về thị trường xuất khẩu; thường xuyên cung
cấp, cập nhật thông tin về thủ tục, quy định nhập khẩu, cũng như nguy cơ bị đánh thuế
chống bán phá giá cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản.

-

Nâng cao khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường, đảm bảo

chất lượng, VSATTP đối với mặt hàng thủy sản xuất khẩu, từ đó tăng số lượng các doanh
nghiệp đạt được các chứng nhận chất lượng và môi trường quốc tế có xu hướng ngày
càng khắt khe của các nước nhập khẩu.

-

Cần kiên trì theo đuổi đường lối phát triển hướng về xuất khẩu và hoạch định một chiến
lược phát triển bền vững xuất khẩu thủy sản quốc gia. Nỗ lực thực hiện tự do hóa và
thuận lợi hóa thương mại, đầu tư thông qua đẩy nhanh đàm phán và ký kết các Hiệp định
thương mại song phương và khu vực nhằm tạo điều kiện tiếp cận thị trường rộng lớn cho
thủy sản xuất khẩu, như Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương
(TPP), Hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EFTA), Liên minh Hải quan
Nga - Belarut - Kazakhstan (VCUFTA), tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)...
Chủ động tiếp cận, đàm phán với các đối tác, quốc gia để giải quyết những tranh chấp,
tháo gỡ các rào cản đối với thương mại, tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu thủy sản.


2.3.

-

Thực thi hiệu quả các chính sách đầu tư, tài chính, tín dụng hỗ trợ phát triển sản xuất và
đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản. Trước hết, nên tiếp tục triển khai các giải pháp hỗ trợ lãi
suất như quy định trong Nghị định 67/2014/NĐ-CP về một số chính sách phát triển thủy
sản, kèm theo Thông tư hướng dẫn thi hành số 22/2014/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà
nước. Triển khai quyết liệt các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu thủy sản đối với những đối
tượng gặp khó khăn, rủi ro trong kinh doanh, đảm bảo kịp thời, hiệu quả và đúng đối
tượng. Có biện pháp hỗ trợ đặc biệt đối với các DNVVN trong các ngành hàng xuất khẩu
thu hút nhiều lao động như thủy sản trong trường hợp có biến động xấu về thị trường,
thời tiết làm hạn chế xuất khẩu để tránh người nông dân và người lao động mất thu nhập,

việc làm.

-

Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, hậu cần dịch vụ thủy sản phục vụ xuất khẩu; đơn giản
hóa thủ tục kiểm nghiệm và hải quan, từ đó giảm thời gian, tiết kiệm chi phí và tăng khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản.
Du lịch dịch vu
Việt Nam có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp kết hợp với di tích lịch sử và văn hóa
ở từng vùng miền nên triển khai mở rộng dịch vụ du lịch. Mỗi vùng trên nước ta đều có
những địa điểm và thắng cảnh đẹp. Để tận dụng được lợi thế này các địa phương nên áp
dụng các dich vụ du lịch này, quảng bá địa phương mình với các tỉnh, thành phố khác
trong cả nước và nước ngoài. Thu hút khách du lịch đến tham quan và mang lại lợi ích
kinh tế cho địa phương, đất nước. Tuy nhiên việc xây dựng và quảng bá hình ảnh du lịch
Việt Nam còn rất hạn chế về cả kinh phí và nhất là cách thức tổ chức thực hiện. Để du
lịch trở thành ngành mũi nhọn, du lịch Việt Nam cần triển khai một số vấn đề trọng tâm
sau:
- Tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò quan trọng của Ngành du lịch
trong điều kiện hiện nay. Mặc dù đã có chuyển biến rõ nét bước đầu trong thời gian qua,
song cần tiếp tục tuyên truyền làm chuyển biến nhận thức sâu rộng trong xã hội về tầm
quan trọng và sự cần thiết của việc phát triển du lịch, nhất là nhận thức tư tưởng của cán
bộ quản lý của các cấp các ngành từ Trung ương đến địa phương. Tạo ra sự chuyển biến
thực chất trong việc ban hành ban hành chính sách phát triển du lịch, nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước về du lịch ở các địa phương trọng điểm phát triển du lịch.
- Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, luật pháp có
liên quan đến du lịch, đặc biệt là các chính sách có liên quan đến tháo gỡ khó khăn cho
các doanh nghiệp du lịch để nâng cao sức cạnh tranh của du lịch như: Điều chỉnh và bổ


sung Luật Du lịch, các Nghị định thông tư hướng dẫn Luật; chính sách về thuế nhập khẩu

phương tiện vận chuyển, trang thiết bị cơ sở lưu trú…; thuế sử dụng, thuê đất tại các
khuôn viên cảnh quan, các khu du lịch, khu du lịch sinh thái; chính sách ưu tiên đầu tư;
chính sách xã hội hóa trong du lịch..Tất cả những nội dung trên phải được thực hiện đồng
bộ, đảm bảo tính minh bạch, cụ thể ổn định và dễ thực hiện.
- Tăng cường đầu tư nâng cao sức cạnh tranh cho du lịch. Đầu tư cho du lịch
có nghĩa là đầu tư cho phát triển kinh tế và xã hội, góp phần tích cực thực hiện các mục
tiêu phát triển bền vững đã đề ra. Trong đầu tư du lịch thì đầu tư cho cơ sở hạ tầng để
phục vụ phát triển du lịch có yếu tố quan trọng đảm bảo thúc đẩy phát triển du lịch, đặc
biệt là tạo điều kiện thu hút khách du lịch và cải thiện điều kiện dân sinh cho cộng đồng
dân cư. Vì vậy, cần tiếp tục thực hiện chương trình hỗ trợ đầu tư hạ tầng du lịch, đồng
thời chú trọng lồng ghép đầu tư hạ tầng với du lịch với các chương trình, đề án phát triển
kinh tế-xã hội; trong giai đoạn tới cần chú trọng đầu tư vào các khu điểm du lịch quốc gia
để tạo đà bứt phá cho du lịch Việt Nam.
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác xúc tiến quảng bá du lịch cùng với nâng cao
chất lượng sản phẩm du lịch mang tính thương hiệu của du lịch Việt Nam, đây là biện
pháp quan trọng để tạo lập hình ảnh và vị thế du lịch trong và ngoài nước nhằm thu hút
khách. Cần thiết lập văn phòng đại diện du lịch Việt Nam tại các thị trường trọng điểm du
lịch.
- Cần tăng cường phối hợp với các ngành và liên kết các vùng, các địa
phương có tiềm năng phát triển du lịch. Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên
ngành, liên vùng nên cần có sự phối hợp tốt hơn các lực lượng của các ngành các cấp
dưới sự chỉ đạo tập trung của Chính phủ mà trực tiếp là Ban Chỉ đạo Nhà nước về du
lịch, ngành du lịch đặc biệt chú trọng sự phối hợp đồng bộ có hiệu quả trong hoạt định
các cơ chế chính sách, tổ chức thực hiện góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho Ngành du
lịch sớm trở thành ngành mũi nhọn. Bên cạnh đó, các vùng du lịch và các địa phương dựa
trên cơ sở tiềm năng điều kiện thuận lợi về tài nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch cần
có giải pháp liên kết đa dạng.
- Không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ nguồn nhân lực du lịch. Chất lượng
nguồn nhân lực du lịch Việt Nam còn kém so với các nước các nước trong khu vực cả về
năng lực quản lý, nghiệp vụ chuyên môn và trình độ ngoại ngữ. Vì vậy, nâng cao chất

lượng cho đội ngũ cán bộ trong ngành là nhiệm vụ trong tâm trong định hướng phát triển
du lịch trong thời gian tới. Đối với đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước cần phải trang bị
kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ du lịch vì phần nhiều cán bộ, công chức ở cấp Tổng
cục Du lịch và các địa phương từ các ngành khác, hoặc học các ngành khác nhau, chưa
nắm vững được kiến thức chuyên ngành du lịch; nâng cao trình độ nghiệp vụ quản lý nhà


nước, đặc biệt là quản lý kinh tế. Đối với nguồn nhân lực các doanh nghiệp và cộng đồng
dân cư chú trọng bồi dưỡng kiến thức thị trường, ngoại ngữ và nghiệp vụ chuyên sâu,
nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên và môi trường.
- Nâng cao hơn nữa vai trò quản lý nhà nước đối với sự nghiệp phát triển du lịch
theo hướng hoàn thiện tổ chức bộ máy chuyên ngành du lịch cấp Trung ương và một số
địa bàn trọng điểm; xây dựng, hoàn thiện các cơ chế chính sách, luật pháp nhằm tạo ra
môi trường kinh doanh thông thoáng hấp dẫn cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế. Tăng cường công tác chỉ đạo để đảm bảo thực hiện tốt các nội
dung, chỉ tiêu phát triển du lịch được phê duyệt trong chiến lược và quy hoạch, chú trọng
các chỉ tiêu phát triển vùng, liên vùng và các địa bàn trọng điểm
2.4. Tài nguyên khoáng sản, năng lượng.
Để khai thác được lợi thé về nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, chúng ta
cần giảm khối lượng xuất khẩu khoáng sản thô, chuyển dần sang xuất khẩu sản phẩm chế
biến, tận dụng cơ hội thuận lợi về thị trường và giá cả để tăng giá trị nhóm hàng nhiên
liệu và khai khoáng.
Những nguồn tài nguyên khoáng sản của nước ta ngày càng trở nên khan hiếm
hơn, mặc dù ngày nay, các doanh nghiệp với các công nghệ hiện đại đã sử dụng nguyên
liệu tiết kiệm hơn trước đây rất nhiều. Với mức dân số ngày càng tăng nhanh, sự lạm
dụng tài nguyên thiên nhiên đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Để khắc phục tình
trạng này, cần áp dung một số giải pháp sau:
- Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng và yêu cầu
khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững tài nguyên
- Tăng cường năng lực tổ chức thực hiện và cơ chế giám sát, đánh giá việc thực thi

các chiến lược, quy hoạch, chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên.
- Tăng mức đầu tư cho thăm dò và đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu và khiển
khai (R&D). Tăng cường đầu tư tìm kiếm nguồn tài nguyên thiên nhiên tại những vùng
xa như ngoài biển khơi hoặc những nguồn có khả năng phục hồi. Đầy mạnh hoạt động
nghiên cứu cơ bản để phát triển những công nghệ mới, có khả năng tái sinh các nguồn tài
nguyên, sử dụng nguyên liệu hiệu quả hơn và hạn chế sự lãng phí.
- Tăng cưởng sử dụng lại các nguồn chất thải. Các loại chất thải công nghiệp và
sinh hoạt được tái sinh nhằm bảo vệ môi trường và tiết kiệm nhiên liêu


- Tích cực tìm kiếm và sử dụng các ngồn năng lượng và nguyên liệu thay thế. Sử
dụng sợi thủy tinh thay cho kim loại; các loại gốm, sứ được sử dụng rộng rãi trong công
nghiệp điện lực cà ngành hàng không.
- Thiết kế lại sản phẩm. Việc thiết kế lại sản phầm nhằm hợp lí hóa việc sử dụng
các yếu tố vật chất trong chế tạo sản phẩm. Đảm bảo sử dụng công nghệ sạch không gây
ô nhiễm môi trường.
3. Phát triển nguồn nhân lực
Kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước cho thấy, chỉ có lao động và rẻ không
thể đưa đất nước tiến nhanh, mạnh, có khả năng cạnh tranh quốc tế mà phải có lao động ở
trình độ nhất định. Thành công của các nền kinh tế Đông Á, đặc biệt là Nhật Bản và Hàn
Quốc, không chỉ do chính sách du nhập công nghệ và vốn từ bên ngoài, không chỉ do
truyền thống văn hóa của dân tốc, mà còn do chính sách phát triển nguồn nhân lực. Sự
phát triển nguồn nhân lực cho phép họ vận hành được các nền kinh tế hiện đại, sản xuất
ra các sản phẩm chất lượng cao, cạnh tranh được trên thị trường của các nước phát triển.
Vì vậy, trong khi chất lượng lao động Việt Nam còn thấp, cơ cấu lao động còn nhiều bất
cập, ít có khả năng bắt kịp với quá trình phân công lao động quốc tế thì điều quan trọng
để nâng cao khả năng cạnh tranh là phát triển nguồn nhân lực. Để làm được như vậy,
chúng ta cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học, xóa mù chữ ở người lớn,
đặc biệt tập trung cho các vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa. Đối với một số thành phố lớn,

chúng ta cần thực hiện phổ cập PTCS, một số nơi có điều kiện có thể thực hiện phổ cập
PTTH. Theo báo cáo của WB về tình trạng đói nghèo ở nước ta, mức chi nhà nước cho
một học sinh ở cấp giáo dục tiểu học thấp và gia đình phải trả chừng 45% tổng mức chi
phí cấp đào tạo tiểu học, chi phí của Nhà nước bình quân cho một học sinh cấp 3 cao hơn
cấp tiểu học 13 lần. Tình trạng này hoàn toàn khác so với các nền kinh tế khác. Bởi vì hệ
thống nộp phí thường thấp ở mức tiểu học và tăng dần ở các mức đào tạo cao hơn. Vì vậy
để có thể phổ cập giáo dục ở các cấp, trước hết là cấp tiểu học, nhà nước cần tăng chi
ngân sách cho giáo dục tiểu học và thực hiện công bằng trong chi tiêu cho giáo dục. Đối
với một số tỉnh giảu, thành phố lớn, nên đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục để tăng nguồn lực
cho giáo dục, qua đó, Nhà Nước có thể ưu tiên NSNN cho vùng nghèo, vùng sâu, vùng
xa.
Thứ hai, cần nâng cao chất lượng nguồn lao động ở nước ta. Trong thời gian qua,
nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung
đầu tư phát triển nhân tố con ngừoi. Tuy nhiên, chúng ta mới chỉ chú trọng số lượng,


chưa đầu tư thích đáng để nâng cao chất lượng. Vì vậy, trong thời gian tới, vấn đề chất
lượng phải được chú trọng nhièu hơn bằng cách biện pháp sau đây:
Biện pháp ngắn hạn
Trong lĩnh vực đào tạo, Nhà nước cần ưu tiên ngân sách và huy động ngoài ngân sách để
củng cố các trường dạy nghề tại các địa phương, thực hiện đào tạo có mục tiêu. Các
trường này phải phối hợp với các doanh nghiệp, cơ quan quản lí nhà nước để xác định
nhu cầu đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo để làm căn cứ tuyển chọn và đào tạo cá
nhân đấp ứng nhu cầu theo ngành nghề mà nền kinh tế đang cần. Đồng thời thực hiện
chương trình giới thiệu các em học sinh trung học cơ sở hiểu biết về các trường dạy nghề
(thông qua quảng cáo tới tạn trường học hoặc thuyết trình...) để giúp học sinh tự chọn lựa
và quyết định nghề nghiệp phù hợp với khả năng bản thân
- Nghiên cứu xây dựng quỹ đào tạo chung cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế nhằm đào tạo lại nghề cho lao động bị thất nghiệp do chuyển đổi cơ cấu, do chuyển
giao công nghệ. Chúng ta biết rằng, lao động ngoài quốc doanh chiếm phần lớn trong lực

lượng lao động. Vì vậy, xây dựng quỹ đào tạo chung chính là tạo bình đẳng về cơ hội cho
người lao đọng ngoài quốc doanh được tiếp cận hệ thống đào tạo có mục tiêu, góp phần
cải thiện chất lượng lao động ở nước ta. Để hình thành quỹ này, Nhà nước cần đóng góp
tài chính, đồng thời quy định các doanh nghiệp đóng góp bắt buộc vào quỹ và huy động
các nguồn vốn khác, bao gồm cả viện trợ nước ngoài. Các doanh nghiệp tham gia quỹ
hằng năm được gửi lao động đi đào tạo bằng nguồn từ quỹ.
- Cuối cùng, một trong những vấn đề hết sức quan trọng hiện nay là phải triển khai một
chương trình toàn diện đào tạo các nhà quản lí doanh nghiệp để tạo cơ hội cho các cán bộ
hiện nay nâng cấp trình độ chuyên môn quản lí. Tuy nhiên, khởi đầu của chương trình
này cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, hệ thống giáo dục đào tạo, các tổ chức tài trợ
nước ngoài cũng như các cộng đồng kinh doanh trong và ngoài nước.
• Biện pháp dài hạn
- Nhà nước cần tiếp tục đầu tư cho giáo dục y tế.
- Cần cơ cấu và chấn chỉnh lại hệ thống các trường cao đẳng, đại học và các trường dạy
nghề. Đối với các trường cao đẳng, đại học , cần chú trọng ngay đến ngành nghề, cơ cấu
đào tạo và đặc biệt là chất lượng đàu ra bằng cách nâng cao chất lượng dạy và học.
- Coi trọng công tác dạy nghề. Nhiệm vụ của đào tạo nghề là phải tạo ra một lực lượng lao
động đáp ứng về chất lượng, cơ cấu nghề nghiệp và trình độ tay nghề, kĩ thuật lao động
mà nền kinh tế cần. Mở rộng các trường dạy nghề và xây dựng mối quan hệ chiều ngang
giữa các trường đại học, trường dạy nghề và các nhà đầu tư, cũng như mối quan hệ dọc
giữa các trường dạy nghề và các cơ quan hoạch định chính sách của nhà nước. Có như
vậy, trường dạy nghề mới là một mắt xích quan trọng nhằm nâng cao chất lượng lao
động, góp phần điều chỉnh cơ cấu lao động bất hợp lí hiện nay.
4.Tăng cường tiếp thu, nâng cao trình độ khoa học công nghệ quốc gia

-





Sớm đưa ra chiến lược tổng thể về đổi mới công nghệ làm cơ sở cho việc thiết kế cụ thể
chiến lược phát triển công nghệ gắn với chiến lược sẩn phẩm của doanh nghiệp
Lựa chọn chiến lược đúng đắn giữa vai trò quyết định trong quá trình phát triển
của mỗi nước. Đối với Việt Nam, là nước lạc hậu về công nghệ, Việt Nam nên lựa chọn
chiến lược kết hợp chuyển giao công nghệ và phát triển năng lực công nghệ trong nước.
Tận dụng lợi thế của nước đi sau, Việt Nam cần có sự tập trung cho việc thu hút và
vận dụng sáng tạo các thành phần khoa học kỹ thuật của thế giới, ứng dụng, làm chủ và
mở rộng công nghệ tiến bộ đi đôi với quản lí chặt chẽ công nghệ nhập, lường trước và
ngăn chặn hậu quả tiêu cực lâu dài. Đồng thời phải biết dành nỗ lực nhất định cho những
mũi nhọn phát triển, tìm cách đi tắt, đón đầu tạo nên lợi thế cạnh tranh về các phương
điện khoa học và công nghệ để đảm bảo tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, gắn với việc
xử lí tốt các vấn đề công bằng và tiến bộ xã hội, môi trường sinh thái. Vì vậy, chiến lược
phát triển khoa học công nghệ của đất nước phải xác định rõ các vấn đế sau:



Các quan điểm mục tiêu về đổi mới công nghệ
Các định hướng ưu tiên phát triển công nghệ
Các giải pháp, chiến lược đổi mới và phát triển công nghệ.
Lộ trình đổi mới công nghệ
Phát triển nhân tố con người trong chuyển giao công nghệ để có thể tiếp nhận và làm chủ
công nghệ mới, cải tiến công nghệ nhập cho phù hợp với điều kiện Việt Nam, tiến tới
từng bước sáng tạo công nghệ mới.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay, việc đào tạo lực lượng cán bộ quản lí công nghệ
nhìn chung còn nhiều hạn chế. Để khắc phục tình trạng này, một mặt, chúng ta cần sử
dụng tối đa đội ngũ hiện có, mặt khác, đẩy nhanh hình thức hợp tác về khoa học công
nghệ với nước ngoài và các tổ chức quốc tế để cán bộ công nghệ Việt Nam có cơ hội tiếp
xúc, bổ sung, tìm hiểu và học hỏi để bổ sung, nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn và
kinh nghiệm nghề nghiệp của mình.
Đồng thời, Nhà nước cần tạo điều kiện làm việc cần thiết cho các nhà khoa học

như công cấp thông tin, trang bị, phương tiện thí nghiệm, các cơ sở triển khai; ứng dụng
nhanh các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn; xây dựng môi trường dân chủ, đoàn kết với ý
thức trách nhiệm cao trong lĩnh vực nghiên cứu, khuyến khích trân trọng những tìm tòi
khoa học, những kiến giải khác nhau về các vấn đề khoa học kĩ thuật; tìm ra phương thức
tổ chức nhằm khơi dậy nhiệt tình, phương thức và cơ chế hoạt động cho phép kết hợp và
phát huy tối đa trí tuệ tập thể cũng như tài năng cá nhân của các nhà khoa học; phát hiện
bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài.


Nhà nước cần mạnh dnạ sử dụng các chuyên gia trer tài năng đã được đào tạo có
hệ thống, trả lương đặc biệt cho họ. Trong một số trường hợp cần thiết, cần sử dụng
chuyên gia nước ngoài.


Tạo vốn cho phát triển khoa học công nghệ.
Trước hết, Nhà nước cần dành một tỷ lệ cao hơn trong ngân sách để đàu tư vào
hoạt động khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ thông tin cà tăng vốn cho khoa học
công nghệ phục vụ nông nghiệp. Hằng năm Quốc hội phân bổ 2% tổng chi ngân sách nhà
nước cho lĩnh vực khoa học công nghệ nhằm đẩy mạnh nghiên cứu à áp dụng thành tựu
khoa học công nghệ để phát triển kinh tế xã hội.
Thực trạng về nguồn lực tài chính cho phát triển khoa học công nghệ ở nước ta chỉ
ra rằng, trong thời gian qua, vị trí của khoa học công nghệ trong sự phát triển của đất
nước chưa được chú trọng thích đáng. Kinh phí NSNN cấp cho hoạt động này còn nhỏ
giọt và lãng phí. Vì vậy trong thời gian tới, việc dành thêm vốn ngân sách cho hoạt động
nghiên cứu khoa học công nghệ là cần thiết.
Đồng thời, Nhà nước cần đứng ra tổ chức những tập đoàn hoặc những hiệp hội,
liên minh kinh tế tự nguyện có tiềm lực mạnh, đủ sức đảm bảo vốn cho một hoặc một số
thành viên tiến hành đỏi mới cơ bản công nghệ và kỹ thuật của mình.
Ngoài ra, Nhà nước khuyến khích đỏi mới công nghệ bằng cách thông qua hệ
thống ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp vay vốn như vay với lãi suất

thấp nếu phương án khả thi hay trong điều kiện cần thiết, giảm thuế đối với mặt hàng sản
xuất bằng công nghệ mới.
5. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Để tăng hiệu quả thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới cần thực hiện cải
thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam
là một yêu cầu cấp thiết đối với công tác quản lý nhà nước về FDI, đòi hỏi được thực
hiện liên tục không chỉ hiện nay mà cả các giai đoạn phát triển sau này của đất nước. Cần
có chiến lược, có định hướng, có quy hoạch, có một bộ máy đủ mạnh về quản lý FDI để
xác định các bước đi dài hạn nhằm đạt tới mục tiêu đặt ra, tuy vậy chúng ta đều rõ các
vấn đề về chiến lược, quy hoạch, tổ chức lại bộ máy, nhất là vấn đề nhân sự cho bộ
máy… là những vấn đề tổng hợp, phức tạp không thể hoàn thành trong ngắn hạn một
năm. Khi thực hiện các bước đi dài hạn đó cần tổ chức thực hiện ngay các tác nghiệp nhỏ
trong các bước đi ngắn hạn hàng năm. Cụ thể là :

-

Giải pháp từ luật pháp, chính sách: Cần hoàn thiện hệ thống chính sách theo hướng đồng
bộ hơn, phù hợp với tiến trình hội nhập; các luật mới ra đời cần hạn chế sự ảnh hưởng


-

-

-

-

của các nhà đầu tư FDI, nhưng phải bảo vệ lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư. Trong
đó, cần cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, gọn nhẹ, thông thoáng, vừa tạo

thuận lợi cho DN, vừa phù hợp với cam kết trong AEC…
Giải pháp về quy hoạch: Cần quy hoạch hợp lý, khoa học, có thể phát huy được tính nội
lực gắn với tiến trình hội nhập, nâng cao sức cạnh tranh và tính hiệu quả của nền kinh tế.
Cần công bố rộng rãi các quy hoạch được phê duyệt và đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt
bằng các dự án đầu tư.
Đối với khía cạnh xã hội, cần xây dựng chính sách khuyến khích, thu hút FDI vào
phát triển hạ tầng kỹ thuật, phát triển khu đô thị, xây dựng các công trình phúc lợi xã
hội… Đối với khía cạnh sản xuất, cần tập trung nguồn vốn FDI hướng tới các lĩnh vực ưu
tiên cho các hoạt động sản xuất tạo giá trị gia tăng hay ưu tiên cho các dự án đầu tư công
nghệ cao. Đặc biệt, trong lĩnh vực phát triển công nghiệp phụ trợ, cần nghiên cứu đưa ra
mô hình liên kết ngang, hình thành các DN vệ tinh, sản xuất linh kiện cho các DN FDI
hướng tới xuất khẩu…

Giải pháp hỗ trợ DN: Các cơ quan hoạch định chính sách cần định hướng và khuyến
khích DN trong nước đầu tư nhiều hơn nữa vào nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới
nhằm tăng cường sức cạnh tranh với các đối thủ trong ASEAN; khuyến khích đầu tư phát
triển công nghiệp hỗ trợ, đầu tư các vùng trồng nguyên liệu nhằm tăng tỷ lệ nội địa hóa
nguyên phụ liệu và giảm thiểu sự phụ thuộc vào nhà cung cấp bên ngoài. Với những
nguyên phụ liệu cần phải nhập khẩu, cần ưu tiên nhập khẩu từ các nước ASEAN để đạt
được yếu tố “nội khối”; xây dựng trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ, đẩy
mạnh chuyển giao công nghệ và ứng dụng công nghệ tiên tiến từ các DN FDI vào DN
trong nước. Hoàn thiện khung pháp lý về mua bán – sáp nhập có yếu tố của nước ngoài,
qua đó đẩy mạnh gắn kết về công nghệ, lao động, thị trường và quản trị DN…
Giải pháp về cơ sở hạ tầng: Phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng, quy hoạch hợp lý các KCN
tại địa phương, tăng cường thu hút FDI vào KCN, KCX. Cần có giải pháp khuyến khích
và thu hút FDI vào các địa phương trong cả nước; huy động tối đa nguồn lực để đầu tư
phát triển nâng cao kết cấu hạ tầng; cần thu hút thêm các nguồn vốn xã hội hóa để đầu tư
phát triển kết cấu hạ tầng, ưu tiên vấn đề cấp thoát nước và vệ sinh môi trường, hệ thống
đường cao tốc, đường sắt, đường bộ nối các cảng biển lớn…
Giải pháp xúc tiến đầu tư: Cần nhiều hơn các chính sách thu hút FDI chủ động, không

thụ động ngồi chờ; đẩy mạnh tuyên truyền để DN tích cực hơn trong việc hội nhập và
nắm bắt cơ hội, đón đầu dòng vốn FDI nội khối từ ASEAN; nâng cao hiệu quả hoạt động
xúc tiến đầu tư; tăng cường cơ quan đại diện xúc tiến đầu tư tại một số địa bàn trọng
điểm. Phối hợp với các bộ ngành và địa phương tiếp tục rà soát, xây dựng danh mục bổ
sung các dự án kêu gọi đầu tư với tiêu chí rõ ràng cụ thể.


-

-

Giải pháp về nguồn nhân lực: Nâng cao năng suất chất lượng nguồn lao động cũng là
yêu cầu quan trọng trong thu hút các dự án FDI, Việt Nam phải cải thiện nguồn nhân lực
để có thể duy trì và tăng cường thêm các dự án FDI.
Giải pháp về phối hợp quản lý trong quản lý nhà nước: Để giúp các DN FDI tháo gỡ
vướng mắc thủ tục hành chính nhanh chóng, cần có sự phối hợp can thiệp giữa Trung
ương và địa phương trong việc cấp phép và quản lý các dự án đầu tư nước ngoài. Đẩy
mạnh việc phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương trong công tác kiểm tra,
giám sát thực hiện Luật của các địa phương, tránh ban hành chính sách ưu đãi vượt
khung; rà soát lại tính khả thi và tính phù hợp của các dự án FDI chưa thực hiện; tăng
cường năng lực đào tạo, bồi dưỡng các bộ quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài, nâng cao
năng lực thực thi và hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài của cơ
quan chức năng.

Về phía DN: Ngoài các giải pháp để thúc đẩy đầu tư nước ngoài thì các DN trong nước
phải chuẩn bị kỹ cho hội nhập. Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm và của DN
trong nước nhằm hấp thụ được dòng vốn đầu tư nước ngoài, gắn kết chặt chẽ, học hỏi, tận
dụng cơ hội từ khu vực này. Các DN trong nước cần chủ động trong việc tham gia sản
xuất, đa dạng nguồn cung nguyên liệu nhằm tận dụng ưu đãi từ các hiệp định thương mại;
đồng thời, có chiến lược nghiên cứu, nắm bắt thị hiếu tiêu dùng để cung cấp các sản

phẩm thị trường cần, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu.
6. Chính phủ cần đẩy mạnh việc thực hiện các chính sách ưu đãi và hỗ trợ cho các
doanh nnghiệp
Chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước phải ddảm bảo phù hợp với định hướng
phát triển và định hướng đàu tư chung (quy hoạch vùng, ngành nghề) trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các chính sách ưu đãi này chỉ nên tập trung vào một số
doanh nghiệp và ngành nghề có quy mô nhất định chứ không nên áp dụng một cách tràn
lan, phân tán. Chính sách ưu đãi và hỗ trợ của Nhà nước về nguyên tắc cần đảm bảo sự
bình đẳng của các thành phần kinh tế.
-



Hỗ trợ về tài chính
- Thành lâp các công ty tài chính đầu tư với mục tiêu Nhà nước góp vốn của mình
vào các doanh ngheiẹp có triển vọng (gồm các doanh nghiệp đáp ứng được mục tiêu của
chiến lược phát triển kinh tế hoặc ngành nghề ưu tiên do Chính phủ quy định) thông qua
việc mua cổ phần hoặc trái phiếu. Công ty đầu tư tài chính sẽ thâm gia vào việc quản lí
các doanh nghiệp được đầu tư như một cổ đông và đóng góp vai trò quan trọng trong việc
nuôi dưỡng, định hướng phát triển cho các doanh nghiệp.
- Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doaanh nghiệp; hiện nay, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn gặp rất nhiều khó


khăn trong việc tiếp xúc với các nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn do
không đủ tài sản đảm bảo tiền vay. Vì vaạy, cần hình thành quỹ bảo lãnh tín dụng vho các
doanh nghiệp này để bảo lãnh một phần, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận được các
nguồn vốn dễ dàng thông qua việc cấp bảo lãnh, tái bảo lãnh tín dụng.

-


-

-

Chính sách ưu đãi:
Chính sách hỗ trợ thông tin: Chính sách ưu đãi phải có tác dụng đinh hướng đầu tư và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế. Vì vạy, cần tiến hành rà soát, bổ sung, sửa đổi các chính sách ưu đãi đầu tư theo
hướng:
+ Tập trung các hình thức ưu đãi thuế về một đầu mối là luật thuế, xóa dần tình
trạng ban hành tran lan cái ưu đãi thuế tại nhiều văn bản khác nhau, dẫn đến khó điều
hành và tùy tiện trong thực hiện.
+ Các chính sách ưu đãi phải nhằm vào mục đích phát triển rõ ràng, mang lợi ích
lâu dài cho nền kinh tế.
+ Hình thành hệ thống thông tin về kinh tế- tài chính trong phạm vi cả , nước để
tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, các nhà quản lí có khả năng tiếp cận
với những thông ttin cần thiết về doanh nghiệp, mà trước hết là những thông tin có liên
quan đến việc đăng kí kinh doanh, báo cáo tài chính của các doanh nghiệp. Nhà nước
thiết lập và công bố công khai những thông tin cần thiết về định hướng đầu tư và phát
triển của từng ngành, vùng và lãnh thổ.
Chính sách thương mại: cần tiếp tục cải cách theo hướng tự do hóa. Lộ trình cho việc cải
cách chính sách này cần phải phù hợp với chính sách đổi mới kinh tế theo hướng mở cửa
để hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Trên cơ sở đó cần xem xét lại vấn đề bảo hộ
kinh tế trong chính sách thương mại mà ta vẫn thực hiện từ trước đến nay. Phải phân biệt
được sự khác nhau giữa bảo hộ các ngành sản xuất còn non trẻ, nhạy cảm trong nước vì
vấn đề quốc kế dân sinh với bảo hộ mậu dịch để có một thị trường khép kín hơn. Căn cứ
vào đường lối đối ngoại của Đảng ta thì quan điểm sau là không thích hợp với những cải
cách mà chúng ta đã thực hiện, trên thực tế đã khẳng định điều đó. Trước mắt, chúng ta
chỉ thực hiện những biện pháp bảo hộ có điều kiện, có giới hạn về thời gian đối với một

số sản phẩm và dịch vụ chọn lọc. Kinh nghiệm của các nước cho thấy chỉ có thể thực
hiện một cách có hiệu quả việc bảo hộ đối với những sản phẩm có khả năng cạnh tranh.
Còn việc bảo hộ những sản phẩm không có khả năng cạnh tranh thì ít có ý nghĩa, thậm
chí tác dụng ngược lại. Các ngành sản suất phải nhanh chóng thoát ra khỏi hàng rào bảo
hộ mậu dịch thì mới có thể phấn đấu tốt cho việc đứng vững trên thị trường và tiếp tục
phát triẻn trong tiến trình hội nhập.
Chính sách thuế: Cần thực hiện cải cách trên hai khía cạnh cơ bản sau:
Thứ nhất, đối với những cam kết về thuế quan của Việt Nam trong các tổ chức
tham gia hội nhập cần sớm đưa ra một lộ trình giảm thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế


quan một cách hợp lí để các doanh nghiệp có thể dự trù được các kế hoạch sản xuất cũng
như chiến lược kinh doanh của mình, có căn cứ để điều chỉnh biểu thuế xuất nhập khẩu
hiện nay cho phù hợp.
Thứ hai, đối với hệ thống thuế nội địa, chính sách thuế cần được sửa đổi chung là
giảm thuế đánh vào sản xuất và tăng tỷ lệ thu từ thuế tiêu dùng. Điều này là phù hợp với
các nền kinh tế chuyển đổi như Viêt Nam, tạo điều kiện dễ dàng hơn trong quá trình
chuyển sang hệ thống thuế mới mà trong đó thuế trực thu và thuế tiêu dùng được áp dụng
chủ yếu như ở các nước phát triển khác
CÂU HỎI THẢO LUẬN
Câu 1 Nước ta là nước nhập khẩu công nghệ của các n ước nước đi tr ước nh ưng chúng ta
rất có thể sẽ trở thành bãi rác công nghệ nếu nh ập kh ẩu không đúng cách => c ần có bi ện pháp gì
để
tránh
tình
trạng
trên
2.
Lợi
thế

phù
hợp
với
ngành
nào

VN
3. Lao động là 1 lợi thế so sánh của VN, nêu ví dụ. Nó ảnh hưởng ntn trong th ương m ại qu ốc t ế
Câu 4: Sự khác nhau giữa lý thuyết l ợi thế so sánh c ủa H-O và David Ricardo
Câu 5: Hiện nay, Nhật có đầu tư vốn ODA vào nước ta nh ưng l ại liên k ết, thực hiện chương trình
đường sắt tại nước ta với giá khá cao. Như vậy trong trường h ợp này n ước ta có l ợi hay không?
Câu 6: Theo như thực tế của nhóm đã nêu, nước ta có ngu ồn lao động d ồi dào nh ưng th ực t ế, lao
động nước ta chưa quen với các công nghệ sản xuất cao, hi ện đại, tiền công tr ả cho công nhân l ại
cao
=>
Nước
ta

lợi
thế
hay
không?
Nêu

biện
pháp
nhằm
nâng
cao
nguồn

nhân
lực
Câu 7: Mặc dù tài nguyên thiên nhiên phong phú, là điều ki ện thu ận l ợi cho phát tri ển c ủa đất n ước,
nhưng hiện nay tài nguyên nước ta bị nước ngoài xâm chiếm nh ư Biển Đông của n ước ta bị các tàu
đánh cá Trung Quốc xâm phạm, hay bị Trung Quốc đưa giàn khoan H ải D ương 981 vào khu v ực
biển Đông gần quần đảo Hoàng Sa => Cần có những bi ện pháp gì để bao
̉ vê ̣ chu ̉ quyên
̀ biên
̉ ?
Câu 8: Một nước được coi là dồi dào về lao động hoặc vốn trong đk TMQT hi ện nay nh ư th ế nào?
Câu 9: Chất lượng Lao động nước ta hiện nay ch ưa cao, số l ượng l ớn thì lao động có ph ải là m ột
lợi
thế
của
nước
ta
hiện
nay?
Câu 10: Ví dụ về Mỹ là môṭ nước xuât́ khâu
̉ nông san
̉ l ớn nên phan
̉ anh
̉ phân
̀ nao
̀ m ưc đô ̣ dôì dao
̀
bât́ thường cua
̉ Mỹ về diên
̣ tich
́ đât́ canh tać nhưng thực tế Mỹ không có lợi thế về đât?

́
TRẢ LỜI CỦA NHÓM

Câu 1 Nước ta là nước nhập khẩu công nghệ của các nước nước đi trước
nhưng chúng ta rất có thể sẽ trở thành bãi rác công nghệ nếu nhập khẩu
không đúng cách => cần có biện pháp gì để tránh tình trạng trên
Hiện nay, hoạt động chuyển giao công nghệ ở nước ta chưa thực sự phát triển, hoạt
động chủ yếu là nhập công nghệ tức là mua bán các trang thiết bị máy móc của các


×