Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Vai trò của chính sách thuế TNCN đảm bảo công bằng trong phân phối thu nhập và điều tiết kinh tế vĩ mô liên hệ các chính sách ưu đãi, miễn, giảm thuế TNCN của việt nam trong thời gian gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.22 KB, 29 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA NGÂN HÀNG

Bài thảo luận nhóm môn Thuế
2015-2016

Chủ đề:
“Vai trò của chính sách thuế TNCN đảm bảo công bằng trong phân phối thu nhập
và điều tiết kinh tế vĩ mô. Liên hệ các chính sách ưu đãi, miễn, giảm thuế TNCN của
Việt Nam trong thời gian gần đây.”


Lời mở đầu:
Việt Nam đang đi trên con đường đổi mới và hội nhập với nền kinh tế thế giới, quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển kinh tế, văn hóa xã hôi,…làm chuyển biến
nhiều mặt của xã hội trong đó có sự chênh lệch khoảng cách giàu nghèo, sự mất công
bằng trong xã hội cũng ngày càng gia tăng.
Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế trực thu có vai trò hêt sức quan trọng. Pháp
lệnh thuế thu nhập cá nhân ra đời năm 1991 đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung và ban
hành luật thuế mới nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu nghèo góp phần thực hiện
công bằng xã hội và đảm bảo ổn định điều tiết vĩ mô nền kinh tế trong nước .
Chính sách thuế thu nhập cá đã góp phần không nhỏ trong việc đảm bảo công bằng
xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp trong xã hội, điều tiết vĩ mô
nền kinh tế ổn định song vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục
Đề tài “ Vai trò của chính sách thuế TNCN đảm bảo công bằng trong phân phối
thu nhập và điều tiết kinh tế vĩ mô. Liên hệ các chính sách ưu đãi, miễn, giảm thuế
TNCN của Việt Nam trong thời gian gần đây” sẽ góp phần phân tích, đánh giá hiệu quả,
hạn chế của chính sách khi tham gia vào nền kinh tế thị trường từ đưa ra đề xuất với cơ
quan có thẩm quyền nhằm ban hành chính sách quản lý thuế thu nhập cá nhân có hiệu
quả .



I.

Lý thuyết chung về thuế thu nhập cá nhân
1. Khái niệm thuế TNCN

TNCN là sắc thuế đánh vào thu nhập chịu thuế của cá nhân trong kì tính thuế.
2. Đặc điểm thuế TNCN

Tính trực thu: thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của người nộp thuế. Người chịu thuế
và người nộp thuế chính là chủ thể có thu nhập thuộc diện chịu thuế.
Phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của người nộp thuế: phần thu nhập chịu thuế của
chủ thể được tính toán dựa trên thu nhập thực tế hay chính là dựa trên kết quả kinh doanh
của người nộp thuế.
Thường được đánh lũy tiến: phần thu nhập tăng thêm càng cao thì sẽ phải tính thuế
suất càng cao. Việc áp dụng thuế suất lũy tiến từng phần góp phần điều tiết người có thu
nhập cao, góp phần thực hiện công bằng xã hội.
Là loại thuế có độ nhạy cảm cao: vì nó liên quan đến lợi ích cụ thể của người nộp
thuế và liên quan hầu hết đến mọi cá nhân trong xã hội.
3. Công thức

Thuế TNCN = thu nhập tính thuế * thuế suất
4. Những văn bản pháp luật về thuế TNCN :
o Luật thuế TNCN 04/2007/QH12 ngày 21 tháng 11 năm 2007.
o Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế TNCN số 26/2012/QH13 ngày 22 tháng

11 năm 2012 .
o Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi bổ sung một số điều của các luật thuế.
o Nghị định số 65/2013/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2013 của Chính Phủ quy định chi tiết
một số điều của Luât thuế TNCN và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế

TNCN.
o Nghị định 91/2014/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều tại các Nghị định về thuế .
o Thông tư 111/2013/TT-BTC quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
thuế TNCN và hướng dẫn thi hành Nghị định số 65/2013.


o

Thông tư 151/2014/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 91/2014/NĐ-CP ngày
01/10/2014 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Nghị định quy

định về thuế.
o Luật quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành .

II.

Vai trò của thuế TNCN
1. Vai trò của thuế TNCN trong việc điều tiết vĩ mô trong nền kinh tế.
M.Keynes là nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh đã đề xướng tư tưởng can thiệp
của nhà nước vào hoạt động của nền kinh tế để đạt được “cầu hiệu quả” thông qua
chính sách thuế, trong đó có thuế thu nhập cá nhân. Ông cho rằng, con người có xu
hướng tăng tiêu dùng của mình theo tốc độ tăng của thu nhập, nhưng không phải tăng
theo cùng mức tăng của thu nhập. Cùng với tốc độ tăng của thu nhập thì tốc độ tiết
kiệm tăng nhanh hơn. Đây chính là nguyên nhân làm cho cầu không đạt hiệu quả.
Bởi vậy, cần phải có chính sách thuế đánh vào thu nhập đưa vào tiết kiệm để kích
thích tiêu dùng và tăng đầu tư phát triển kinh doanh. Theo ông, khuynh hướng tiêu
dùng ở những người có thu nhập thấp sẽ cao hơn những người có thu nhập cao. Vì
vậy, nhà nước phải đánh thuế thu nhập theo kiểu thuế suất lũy tiến để phân phối lại
thu nhập của những người có thu nhập cao đưa vào tiết kiệm. Sự tiết kiệm thừa cần
được thu bằng thuế để hướng chúng vào đầu tư phát triển kinh tế.


Thực hiện điều tiết nền kinh tế trong điều kiện tăng năng suất và hiệu quả kinh
doanh theo lý thuyết “trọng cung” các nhà kinh tế học thuộc trường phái này mà đại
biểu là Laffer đã đưa ra đường cong lý thuyết nổi tiếng gọi là đường cong Laffer .


Đồ thị đường cong Laffer
Mô hình đường cong Laffer cho thấy quan hệ giữa thuế suất và tổng thu nhập từ
thuế.
Mức thuế suất bằng không thì thu ngân sách từ thuế cũng bằng không. Ở chiều đối
lập, nếu thuế suất bằng 100% thì thu nhập từ thuế cũng bằng không vì lúc đó người ta
không muốn làm việc. Như vậy , qua đồ thị đường cong Laffer ta thấy , nếu thuế suất
được hạ thấp thì có thể số thu của ngân sách sẽ không bị giảm thậm chí còn tăng lên do
kinh tế được kích thích tăng trưởng và sự ủng hộ đồng tình của các đối tượng nộp thuế.
Điều này cho thấy, nếu mức thuế suất thuế thu nhập cá nhân được xác định ở mức hợp lý
sẽ có tác động kích thích tăng trưởng kinh tế đồng thời tăng thu ngân sách, tăng phúc lợi
xã hội. Bên cạnh đó thông qua chính sách miễn giảm ưu đãi, thuế TNCN có thể tác động
trực tiếp đến định hướng tiêu dùng và đầu tư theo hướng có lợi, thực hiện mục tiêu điều
chỉnh kinh tế của Nhà nước.

Trong khi huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước thì thuế cũng thực hiện điều
tiết kinh tế thông qua việc quy định các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn
đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế, xây dựng các mức thuế phải nộp phù hợp...,
qua đó kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung, phù hợp với lợi ích của xã
hội. Việc điều tiết kinh tế của thuế gắn liền với vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà


nước, Nhà nước sử dụng thuế để tác động đến nền kinh tế quốc dân: điều chỉnh chu kỳ
kinh tế, cơ cấu ngành, khu vực và từng vùng lãnh thổ… Cụ thể:



Tạo lập nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước :
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, trong đó thuế thu nhập cá nhân
là một trong những bộ phận quạn trọng cấu thành thuế nói chung nên cũng góp phần
quan trọng để tạo nguồn tài chính cho nhà nước. Thuế thu nhập cá nhân được tính với
diện rộng, khả năng tạo nguồn thu ngân sách lớn. Bên cạnh đó, thuế thu nhập cá nhân tác
động trực tiếp đến thu nhập của dân cư mà người dân của bất kỳ quốc gia nào cũng đều
mong muốn và cố gắng có thu nhập ngày càng cao để nâng cao đời sống vật chất tinh
thần. Thuế thu nhập cá nhân luôn có sự gia tăng nhanh chóng với sự tăng lên của thu
nhập bình quân đầu người



Điều chỉnh chu kỳ nền kinh tế:
Đây là một trong những nội dung quan trọng của quá trình sử dụng công cụ thuế điều
chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường thì sự phát triển theo chu kỳ là điều
không thể tránh khỏi. Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng ổn định, Nhà nước đã sử dụng thuế
để điều chỉnh quá trình đó. Trong những năm khủng hoảng và suy thoái kinh tế, Nhà
nước có thể hạ thấp mức thuế, tạo ra những điều kiện ưu đãi về thuế thuận lợi nhằm kích
thích nhu cầu tiêu dùng để tăng đầu tư và mở rộng sức sản xuất. Điều đó có thể đưa nền
kinh tế thoát khỏi khủng hoảng nhanh chóng. Ngược lại, trong thời kỳ phát triển quá
mức, có nguy cơ dẫn đến mất cân đối, bằng cách tăng thuế, thu hẹp đầu tư, Nhà nước có
thể giữ vững nhịp độ tăng trưởng theo mục tiêu đặt ra.



Điều tiết thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm:
Thuế thu nhập cá nhân cũng có vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Loại thuế này điều
tiết trực tiếp thu nhập của cá nhân nên một mặt tác động trực tiếp đến tiết kiệm, mặt khác
làm cho khả năng thanh toán của các cá nhân bị giảm. Từ đó cầu hành hóa, dịch vụ giảm

sẽ tác động đến sản xuất.


B. Vai trò của thuế TNCN trong đảm bảo công bằng xã hội

Đảm bảo công bằng xã hội là một trong những mục tiêu nói chung của thuế. Để đảm
bảo vai trò ấy, việc đánh thuế TNCN đã dựa trên khả năng trả thuế của đối tượng nộp
thuế, không mang tính tận thu và có xét đến điều kiện, hoàn cảnh sống của từng người.
Thông thường thuế TNCN chỉ đánh vào thu nhập cao hơn mức khởi điểm thu nhập chịu
thuế, không đánh vào những cá nhân có thu nhập vừa đủ nuôi sống bản thân và gia đình ở
mức cần thiết. Giảm thuế cho các cá nhân mang gánh nặng cho xã hội.
Vai trò đảm bảo công bằng của thuế TNCN được thể hiện qua:


Khi TNCN tăng lên thì thuế TNCN tăng lên:
Bậc
thuế

Phần thu nhập tính
thuế/ năm (triệu đồng)

1
2
3
4
5
6
7



Đến 60
Trên 60 đến 120
Trên 120 đến 216
Trên 216 đến 384
Trên 384 đến 624
Trên 624 đến 960
Trên 960

Phần thu nhập tính
thuế/ tháng (triệu đồng)

Đến 5
Trên 5 đến 10
Trên 10 đến 18
Trên 18 đến 32
Trên 32 đến 52
Trên 52 đến 80
Trên 80

Thu
ế suất
(%)

5
10
15
20
25
30
35


Điều tiết thu nhập qua đó thể hiện vai trò giảm khoảng cách giàu nghèo.
Sự mất cân bằng thu nhập có thể bởi vì sự khác nhau về :
+ Kĩ năng
+ Trình độ học vấn
+ Mức độ sẵn lòng chấp nhận sự không chắc chắn
+ Mức độ sở hữu tài sản ( khoảng 70% tài sản được sở hữu bởi chỉ 10% gia đình )
+ Sự không hoàn hảo của thị trường …


Trong cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế nước ta, nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng
lớn thu nhập trong lĩnh vực nông nghiệp thấp, số lao động tập trung trong lĩnh vực này lại
cao chính vì vậy phần lớn thu nhập cá nhân ở mức độ trung bình và thấp. Tuy nhiên cũng
có một bộ phận dân cư có thu nhập cao vượt trội, các cá nhân có thu nhập rất cao ấy
thường làm việc trong lĩnh vực: dịch vụ, công nghiệp,.. họ là những người làm việc cho
các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, trong khu chế suất, các ca sĩ, cầu thủ nổi tiếng, cá
nhân là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam,….Không chỉ vậy, trong cũng một ngành
nghề, mức lương tại các vị trí khác nhau cũng rất khác nhau, ta có thể xem ở một vài ví
dụ:

Biểu đồ: Thu nhập, số thuế phải nộp, số thuế thiếu và nộp phạt của 4 ca sĩ ( đv:
Triệu đồng)
Nguồn: Baomoi.com


Biểu đồ: mức lương nhân viên Vietnam Airlines qua các năm.
Nguồn: Kienthuc.net.vn
Qua một vài ví dụ đã cho ta thấy được, phần thuế từ các cá nhân có thu nhập cao pải
nộp là tương đối lớn chính vì vậy nó đã tác động tích cực trong việc giảm khoảng cách
giàu nghèo trong xã hội.



Phát hiện thu nhập bất hợp pháp
Các hành vi lợi dụng kẽ hở của luật pháp như: tham ô, hối lộ, buôn bán hàng cấm,
lừa đảo chiếm đoạt tài sản quốc gia,.. xuất hiện rất nhiều trên thực tế. Những hành vi tiêu
cực ấy đã gây thất thoát một lượng lớn tiền của NSNN, gây nguy hiểm cho xã hội, ảnh
hưởng xấu đến chính trị, kinh tế, văn hóa nước ta. Việc các cá nhân trng đối tượng nộp
thuế khai báo các khoản tiền phát sinh trong thu nhập của mình với các cơ quan thuế
chính là một hình thức làm sáng tỏ số thu nhập của mỗi cá nhân, chính vì vậy làm giảm
những loại tội phạm kể trên.

III.

Thực trạng của các chính sách thuế TNCN những năm gần đây.
1. Thực trạng những năm trước năm 2012
• Việc giảm trừ thuế:


Luật thuế TNCN có quy định giảm trừ gia cảnh trước khi tính thuế đối với thu nhập
từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú (mức giảm trừ gia
cảnh cho bản thân người nộp thuế 4 triệu đồng/tháng; cho mỗi người phụ thuộc là 1,6
triệu đồng/tháng). Người có thu nhập thấp hơn mức giảm trừ gia cảnh thì chưa phải nộp
thuế. Người có thu nhập cao hơn mức giảm trừ gia cảnh phải nộp thuế theo biểu thuế luỹ
tiến từng phần gồm 7 bậc (5%; 10%; 15%; 20%; 25%; 30%; 35%).
Quy định nêu trên đã thể hiện nguyên tắc công bằng và khả năng nộp thuế của người
có thu nhập, cụ thể: Người có thu nhập thấp thì chưa phải nộp thuế, người có thu nhập
cao hơn phải nộp thuế nhiều hơn, người có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khác
nhau thì mức nộp thuế khác nhau.



Các khoản phụ cấp, trợ cấp được trừ không tính vào thu nhập chịu thuế từ tiền lương,
tiền công
Tại điểm b khoản 2 Điều 3 Luật thuế TNCN quy định: “b) Các khoản phụ cấp, trợ
cấp, trừ các khoản phụ cấp, trợ cấp theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công,
phụ cấp quốc phòng, an ninh, phụ cấp độc hại, nguy hiểm đối với những ngành, nghề
hoặc công việc ở nơi làm việc có yếu tố độc hại, nguy hiểm, phụ cấp thu hút, phụ cấp khu
vực theo quy định của pháp luật, trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi, trợ cấp do suy giảm
khả năng lao động, trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng tháng, trợ cấp thôi việc, trợ cấp
mất việc làm theo quy định của Bộ luật lao động, các khoản trợ cấp khác do Bảo hiểm xã
hội chi trả, trợ cấp giải quyết tệ nạn xã hội”.
Việc quy định cụ thể các khoản phụ cấp, trợ cấp như nêu trên đã tạo thuận lợi trong
thực hiện, tuy nhiên trong thực tế vẫn tiếp tục phát sinh các khoản phụ cấp, trợ cấp mới
phát sinh theo quy định của các văn bản pháp luật về lao động, về BHXH ban hành sau
này. Bên cạnh đó, qua rà soát cho thấy Luật hiện hành có quy định một số khoản phụ cấp
mang bản chất tiền lương, tiền công (như phụ cấp thu hút, phụ cấp khu vực) nhưng hiện
đang được trừ ra khỏi thu nhập chịu thuế là chưa phù hợp; một số khoản có quy định (trợ


cấp giải quyết tệ nạn xã hội) nhưng đến nay không còn nữa (do được thay thế bằng chính
sách khác).


Các khoản tiền lương, nguồn khác không được miễn thuế
Theo luật thuế TNCN (khoản 10, Điều 4 và khoản 1 Điều 21) thì tiền lương hưu do
các nguồn khác ngoài Quỹ BHXH chi trả không được miễn thuế TNCN, đồng thời các
khoản đóng góp vào các quỹ ngoài các quỹ bảo hiểm bắt buộc như quỹ BHXH, BHYT,
bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số ngành nghề mà pháp luật quy định phải
tham gia bảo hiểm bắt buộc không được trừ vào thu nhập tính thuế.




Mức giảm trừ gia cảnh
Theo quy định tại Luật thuế TNCN, mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế là
4.000.000 đồng/người/tháng, mức giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu
đồng/tháng (không giới hạn số người phụ thuộc). Mức giảm trừ gia cảnh này được xây
dựng trên cơ sở tham chiếu các chỉ tiêu GDP bình quân đầu người, mức thu nhập, chi tiêu
trung bình của xã hội và tiền lương tối thiểu tại thời điểm Luật có hiệu lực năm 2009.
Nếu so sánh mức giảm trừ gia cảnh với một số nước trong khu vực thì mức giảm trừ gia
cảnh hiện hành cho người nộp thuế của Việt Nam khá cao (bằng khoảng 2,5 lần GDP
bình quân đầu người tại thời điểm Luật có hiệu lực năm 2009 và bằng khoảng 1,7 lần
GDP bình quân đầu người năm 2011). Ví dụ: Trung Quốc (từ ngày 01/9/2011) quy định
một mức giảm trừ gia cảnh (không quy định mức riêng cho bản thân người nộp thuế hay
cho người phụ thuộc) là 42.000 NDT/năm (tương đương 6.404 USD/năm và bằng 1,23
lần GDP bình quân đầu người năm 2011); In-đô-nê-xi-a quy định mức giảm trừ cho cá
nhân người nộp thuế là 15,84 triệu rupi/năm (tương đương 1.830 USD/năm và bằng
khoảng 0,527 GDP bình quân đầu người năm 2011); Ma-lai-xi-a quy định mức giảm trừ
cho cá nhân người nộp thuế là 9.000 RM/năm (tương đương 2.687 USD/năm và bằng
khoảng 0,312 lần GDP bình quân đầu người năm 2011).
Với mức giảm trừ hiện hành thì một người độc thân có thu nhập 4 triệu đồng/tháng
chưa phải nộp thuế; người nộp thuế có thu nhập 7,2 triệu đồng/tháng mà phải nuôi hai


người phụ thuộc cũng chưa phải nộp thuế; người có thu nhập 10 triệu đồng/tháng nếu
nuôi 01 người phụ thuộc thì số thuế phải nộp là 220 nghìn đồng, nếu nuôi 02 người phụ
thuộc thì tiền thuế phải nộp là 140 nghìn đồng (bằng 1,4% thu nhập chịu thuế), phần thu
nhập sau khi nộp thuế của cá nhân là 9,86 triệu đồng (98,6% thu nhập chịu thuế).

2. Thực trạng năm 2012


Theo thông tin từ chính phủ ngày 21/6/2012, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về
việc ban hành một số chính sách thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho tổ chức và cá nhân
trong năm 2012 với tỷ lệ 95,79% ĐBQH tán thành.


Quyết định miễn giảm thuế
Miễn thuế TNCN từ ngày 01/7/2012 đến hết ngày 31/12/2012 đối với cá nhân, hộ
kinh doanh có thu nhập tính thuế từ tiền lương, tiền công và từ kinh doanh đến mức phải
chịu thuế TNCN ở bậc 1 của biểu thuế luỹ tiến từng phần. + Miễn số thuế khoán thuế
TNCN từ ngày 01/01/2012 đến hết ngày 31/12/2012 đối với cá nhân, hộ kinh doanh cho
công nhân, người lao động, sinh viên, học sinh thuê nhà trọ, phòng trọ; chăm sóc, trông
giữ trẻ; cung ứng suất ăn ca với điều kiện giữ ổn định mức giá không cao hơn mức giá
tháng 12/2011.
Bên cạnh đó, cá nhân, hộ kinh doanh cho công nhân, người lao động, sinh viên, học
sinh thuê nhà trọ, phòng trọ; chăm sóc, trông giữ trẻ; cung ứng suất ăn ca phải thông báo
bằng văn bản cho cơ quan Thuế quản lý trực tiếp và chính quyền cấp phường, xã biết
trước ngày 01/11/2012 về việc đã thực hiện giá không cao hơn giá tháng 12/2011 ngay từ
ngày 01/01/2012. Trường hợp cá nhân, hộ kinh doanh nhà trọ, phòng trọ; chăm sóc, trông
giữ trẻ; cung ứng suất ăn ca đã nộp số thuế TNCN quý I, quý II/2012 (kể cả quý III/2012
do chưa nhận được thông báo miễn thuế của cơ quan Thuế) thì được hoàn lại số thuế đã
nộp.


Về nội dung này Ủy ban TVQH cho biết, trước đó, nhiều ý kiến của ĐBQH đề nghị
miễn thuế TNCN đối với cá nhân có thu nhập tính thuế từ tiền lương, tiền công và từ kinh
doanh đến mức phải chịu thuế TNCN ở bậc 1 trong 6 tháng cuối năm 2012. Tuy nhiên, có
ý kiến cho rằng, không nên miễn thuế TNCN ở bậc 1 đối với thu nhập tính thuế từ tiền
lương, tiền công và từ kinh doanh vì người có thu nhập tới mức phải nộp thuế TNCN ở
bậc 1 không phải là đối tượng khó khăn nhất, cần hỗ trợ hiện nay. Nếu miễn thuế cho các
đối tượng này trong 6 tháng cuối năm 2012 sẽ giảm thu NSNN từ 1.900 - 2.000 tỷ đồng.



Giảm trừ gia cảnh
1. Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế
đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân
cư trú. Giảm trừ gia cảnh gồm hai phần sau đây:
a) Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 9 triệu đồng/tháng (108 triệu
đồng/năm);
b) Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 3,6 triệu đồng/tháng.
Trường hợp chỉ số giá tiêu dùng (CPI) biến động trên 20% so với thời điểm Luật có
hiệu lực thi hành hoặc thời điểm điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh gần nhất thì Chính
phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh quy định tại
khoản này phù hợp với biến động của giá cả để áp dụng cho kỳ tính thuế tiếp theo.”

3. Thực trạng năm 2013

Năm 2013 là năm chính phủ điều tiết kinh tế vĩ mô khá mạnh tay thông qua công cụ
thuế, trong đó chính sách thuế thu nhập cá nhân là một công cụ quan trọng để điều tiết .


Giảm đối tượng chịu thuế:
Bổ sung hướng dẫn không tính vào thu nhập chịu thuế từ tiền lương tiền công đối
với các khoản sau: khoản tiền ăn giữa ca, ăn trưa do người sử dụng lao động tổ chức bữa


ăn giữa ca cho người lao động dưới các hình thức như trực tiếp nấu ăn, mua suất ăn, cấp
phiếu ăn; khoản tiền mua vé máy bay khứ hồi do người sử dụng lao động trả hộ.


Tăng mức giảm trừ gia cảnh.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNCN đã nâng mức giảm trừ gia
cảnh từ 4 triệu đồng/tháng lên 9 triệu đồng/tháng đối với người nộp thuế và từ 1,6 triệu
đồng/tháng lên 3,6 triệu đồng/tháng đối với người phụ thuộc. Việc điều chỉnh nâng mức
giảm trừ gia cảnh đã thực hiện được mục tiêu giảm tỷ lệ động viên thuế đối với người
nộp thuế, góp phần tháo gỡ khó khăn kịp thời cho người nộp thuế.



Tăng đối tượng miễn thuế:
Bổ sung hướng dẫn miễn thuế TNCN đối với trường hợp chuyển nhượng, nhận thừa
kế, quà tặng bất động sản là công trình xây dựng trong tương lai và nhà ở hình thành
trong tương lai giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con
nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; bố vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với
cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh chị em ruột với nhau.
Bổ sung tiền lương hưu nhận được hàng tháng từ Quỹ hưu trí tự nguyện được miễn
thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công. Bổ sung khoản học bổng nhận được từ tổ
chức trong nước và ngoài nước bao gồm cả tiền sinh hoạt phí cũng được miễn thuế đối
với thu nhập từ tiền lương, tiền công.



14 loại thu nhập được miễn thuế thu nhập cá nhân
Tại điều 4 của Nghị định số 65/2013/NĐ-CP nêu rõ 14 loại thu nhập được miễn thuế
thu nhập cá nhân.
Theo đó, thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản; Thu nhập từ chuyển nhượng nhà
ở; Thu nhập từ giá trị quyền sử dụng đất của cá nhân được Nhà nước giao đất không phải
trả tiền hoặc được giảm tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật; Thu nhập từ nhận
thừa kế, quà tặng là bất động sản (bao gồm cả nhà ở, công trình xây dựng hình thành



trong tương lai theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản) không phải đóng
thuế thu nhập cá nhân.
Các hộ gia đình, cá nhân trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản chưa qua chế biến thành các sản phẩm
khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường. Các khoản thu nhập từ chuyển đổi đất nông
nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao để sản xuất cũng thuộc diện miễn
thuế.

Các khoản thu nhập từ lãi tiền gửi tại ngân hàng, tổ chức tín dụng
được miễn thuế thu nhập cá nhân
Các khoản thu nhập từ lãi tiền gửi tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, thu nhập từ lãi
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ; Thu nhập từ kiều hối; Phần tiền lương, tiền công làm việc
ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so với tiền lương, tiền công làm việc ban ngày,
làm trong giờ theo quy định của pháp luật; Tiền lương hưu do Quỹ bảo hiểm xã hội chi
trả theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, tiền lương hưu nhận được hàng tháng từ quỹ
hưu trí tự nguyện. Cá nhân sinh sống, làm việc tại Việt Nam được miễn thuế đối với tiền
lương hưu do nước ngoài trả cũng được miễn thuế thu nhập cá nhân.
Nghị định cũng quy định, thu nhập từ học bổng; Tiền bồi thường bảo hiểm nhân thọ,
phi nhân thọ, bảo hiểm sức khoẻ, tiền bồi thường tai nạn lao động, các khoản bồi thường


nhà nước và các khoản bồi thường khác theo quy định của pháp luật; Thu nhập nhận
được từ các quỹ từ thiện được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập hoặc
công nhận, hoạt động vì mục đích từ thiện, nhân đạo, không nhằm mục đích thu lợi
nhuận; Thu nhập nhận được từ nguồn viện trợ nước ngoài vì mục đích từ thiện, nhân đạo
dưới hình thức Chính phủ và phi Chính phủ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt cũng thuộc đối tượng được hưởng quy định này.

4. Thực trạng năm 2014


Năm 2014Có thêm một số chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế TNCN
Thông tư 128/2014/TT-BTC quy định giảm thuế TNCN đối với cá nhân làm việc tại
khu kinh tế và khu kinh tế cửa khẩu.Cá nhân ký hợp đồng lao động với Ban quản lý khu
kinh tế, cơ quan quản lý Nhà nước tại khu kinh tế và thực tế làm việc tại khu kinh tế . Cá
nhân ký hợp đồng lao động với tổ chức, cá nhân có cơ sở kinh doanh tại khu kinh tế và
thực tế làm việc tại khu kinh tế …

5. Thực trạng những tháng đầu năm 2015

Năm 2015 bắt đầu từ ngày 01/01/2015 nhiều quy định mới về thuế thu nhập cá nhân
bắt đầu có hiệu lực.


Luật thuế ưu đãi:
Thu nhập của cá nhân kinh doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống
không thuộc thu nhập chịu thuế.
Cá nhân kinh doanh nộp thuế thu nhập cá nhân theo tỷ lệ trên doanh thu đối với từng
lĩnh vực, ngành nghề sản xuất kinh doanh như sau:


- Phân phối, cung cấp hàng hóa: 0,5%
- Dịch vụ, xây dựng không bao thầu nguyên vật liệu: 2% (Riêng hoạt động cho thuê
tài sản, đại lý bảo hiểm, đại lý xổ số, đại lý bán hàng đa cấp: 5%).
- Sản xuất, vận tải, dịch vụ có gắn với hàng hóa, xây dựng có bao thầu nguyên vật
liệu: 1,5%
- Hoạt động kinh doanh khác: 1%


Luật miễn thuế TNCN bổ sung:
Thu nhập từ tiền lương, tiền công của thuyền viên là người Việt Nam làm việc cho

các hãng tàu nước ngoài hoặc các hãng tàu Việt Nam vận tải quốc tế. Thu nhập của cá
nhân là chủ tàu, cá nhân có quyền sử dụng tàu và cá nhân làm việc trên tàu từ hoạt động
cung cấp hàng hóa, dịch vụ trực tiếp phục vụ hoạt động khai thác, đánh bắt thủy sản xa
bờ.



Giảm trừ gia cảnh
Được giảm trừ gia cảnh cả khi người phụ thuộc chưa có mã số thuế
Đối với khoản tiền nhà ở, điện, nước và các dịch vụ kèm theo (nếu có) không bao
gồm: khoản lợi ích về nhà ở do người sử dụng lao động xây dựng, cung cấp miễn phí cho
người lao động làm việc tại khu công nghiệp; nhà ở do người sử dụng lao động xây dựng
tại khu kinh tế, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế
đặc biệt khó khăn cung cấp miễn phí cho người lao động. Các khoản phụ cấp, trợ cấp
không tính vào thu nhập chịu thuế được tổng hợp tại Danh mục tổng hợp các khoản phụ
cấp, trợ cấp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành làm cơ sở xác định thu nhập
chịu thuế TNCN từ tiền lương, tiền công.
Các khoản giảm trừ được trừ vào thu nhập chịu thuế của cá nhân trước khi xác định
thu nhập tính thuế từ tiền lương, tiền công, thu nhập từ kinh doanh thực hiện được tính
như sau: Trường hợp trong kỳ tính thuế cá nhân cư trú chưa tính giảm trừ gia cảnh cho


bản thân hoặc tính giảm trừ gia cảnh cho bản thân chưa đủ 12 tháng thì được tính đủ 12
tháng nếu thực hiện quyết toán thuế theo quy định.
Việc giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc mà người nộp thuế có nghĩa vụ nuôi
dưỡng được tính kể từ tháng có phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng như: Người phụ thuộc đã
đăng ký và có đầy đủ hồ sơ chứng minh người phụ thuộc theo quy định của Bộ Tài chính
thì được tính giảm trừ gia cảnh trong năm 2014, kể cả trường hợp người phụ thuộc chưa
được cơ quan Thuế cấp mã số thuế.
Đánh giá công cụ thuế TNCN tại Việt Nam. Những khuyến nghị của nhóm nhằm


IV.

hạn chế các nhược điểm còn tồn tại.
1. Phân tích ưu, nhược điểm của công cụ thuế TNCN
a. Những ưu điểm của công cụ thuế TNCN
Thuế TNCN là một công cụ thuế bộc lộ khá nhiều ưu điểm, đặc biệt tron việc phát
huy vai trò của nó trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô và đảm bảo công bằng xã hôi. Và
luật thuế TNCN ngày càng được hoàn thiện hơn, giúp thuế TNCN hướng gần hơn đến
mục tiêu của nó. Hơn nữa Luật thuế thu nhập cá nhân gồm có 4 chương,với 35 điều
khoản đã thể hiện đầy đủ tính chất pháp lý cho các cơ quan chuyên môn xác định đúng
đối tượng nộp thuế; Thu nhập chịu thuế; Thu nhập được miễn thuế và căn cứ tính thuế
thu nhập cá nhân một cách chính xác theo tinh thần của luật thuế thu nhập cá nhân.
Ưu điểm của thuế TNCN


Góp phần khắc phục nhược điểm của một số loại thuế khác :
Một số thuế gián thu như thuế GTGT, thuế TTĐB đều có nhược điểm là có tính lũy
thoái và ảnh hưởng đến người nghèo nhiều hơn người giàu vì khi tiêu thụ cùng một loại
hàng hóa mọi người không phân biệt giàu nghèo và đều phải chịu thuế như nhau. Nếu
tính thuế thu nhập cá nhân theo phương pháp lũy tiến từng phần sẽ khắc phục được
nhược điểm này.



Góp phần hạn chế sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp:


Trong doanh nghiệp thường tồn tại cả thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập
cá nhân. Giữa hai loại thuế này luôn luôn tồn tại mối quan hệ gắn bó với nhau. Thuế thu

nhập cá nhân còn góp phần khắc phục sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp khi có sự
thông đồng giữa các doanh nghiệp hay giữa doanh nghiệp với cá nhân. Trong trường hợp
doanh nghiệp kê khai cao hơn thực tế những chi phí phải trả cho các cá nhân để làm thu
nhập tính thuế của doanh nghiệp nhằm mục đích trốn thuế thu nhập doanh nghiệp thì các
cá nhân nhận được những khoản trả nói trên sẽ phải nộp thêm thuế thu nhập cá nhân đối
với phần thu nhập nhận được kê khai tăng thêm đó. Thu nhập doanh nghiệp tăng thường
kéo theo sự tăng lên của thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp .


Đối tượng chịu thuế ngày càng được mở rộng

Một số khoản thu nhập trước đây không được quy định, nhưng luật mới đã được bổ
sung như : Thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương mại, thu nhập từ quà tặng là chứng
khoán, phần vốn trong các cơ sở kinh doanh,… góp phần tăng nguồn thu cho NSNN và
giúp thuế TNCN phát huy vai trò của mình trong việc điều tiết thu nhập.


Đổi mới cách phân loại thu nhập chịu thuế để xác định nghĩa vụ thuế

Việc phân chia thu nhập chịu thuế theo nguồn phát sinh thu nhập như: thu nhập từ
kinh doanh,thu nhập từ tiền lương, tiền công, thu nhập từ đầu tư vốn, thu nhập từ chuyển
nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản, từ trúng thưởng, bản quyền, chuyển nhượng
quyền thương mại, thu nhập từ thừa kế, nhận quà tặng. Cách phân loại này là cơ sở tính
thuế phù hợp với từng laoij thu nhập.


Bổ sung các quy định về thu nhập miễn thuế giúp đảm bảo mục tiêu công bằng

xã hội, giảm khoảng cách giàu nghèo.
Các khoản thu nhập miễn thuế rất hợp lý như: thu nhập từ tiền lương làm ban đêm,

làm thêm giờ, tiền thưởng cho các cá nhân về việc phát hiện ra các hành vi vi phạm pháp
luật, học bổng từ NSNN, thu nhập từ viện trợ, từ thiện từ các tổ chức trong và ngoài
nước,….


Việc quy định như trên góp phần tăng cường lao động sản xuất, thúc đẩy quá trình
phát triển nền kinh tế, thể hiện sự ưu đãi của nhà nước tới các đối tượng khó khăn.
b. Những nhược điểm còn tồn tại của thuế TNCN

Bên cạnh những điểm tích cực, quy định mới về tính thuế thu nhập cá nhân cũng bộc
lộ những hạn chế. Các cơ quan chức năng dường như chưa tính hết được những hệ lụy
đằng sau quy định đó mà cụ thể là lợi ích của nhiều hộ kinh doanh cá thể đang bị ảnh
hưởng rõ ràng.


Bất lợi về ngưỡng doanh thu tính thuế
Cá nhân, hộ kinh doanh có thu nhập từ 100 triệu đồng/ năm hoặc tương đương 8,4
triệu đồng/tháng thì mới bắt đầu đóng thuế thu nhập cá nhân. Quy định này vẫn được giữ
nguyên mà không có thay đổi. Với cách tính mới, kinh doanh có doanh thu từ 8,4 triệu
đồng/tháng hoặc tương đương 280.000 đồng/ngày là sẽ phải đóng thuế thu nhập cá nhân.
Ngưỡng doanh thu tính thuế này sẽ không có gì khác với cách tính cũ trong trường
hợp đối tượng nộp thuế không được giảm trừ gia cảnh. Tuy nhiên, thực tế người nộp thuế
thường thuộc diện giảm trừ gia cảnh với các khoản giảm trừ khác nhau (chẳng hạn: giảm
trừ gia cảnh cho bản thân, giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc). Nếu chủ hộ kinh
doanh được giảm trừ gia cảnh cho bản thân (mức D = 9 triệu đồng/tháng) thì để phát sinh
nghĩa vụ nộp thuế, thu nhập chịu thuế (ký hiệu Rxs) phải lớn hơn 9.
Bảng 1 mô tả ngưỡng doanh thu phát sinh nghĩa vụ nộp thuế theo các tính cũ và mới.
Dễ thấy rằng, cách tính cũ có lợi hơn cho các hộ kinh doanh vì ngưỡng doanh thu cao
hơn nhiều mới phải bắt đầu nộp thuế thu nhập cá nhân. Ví dụ, các hộ kinh doanh phân
phối hàng hóa trước kia khi doanh thu từ 128,57 triệu đồng/tháng trở lên mới phải nộp

thuế. Trong khi từ năm 2015, cứ đạt doanh thu từ 8,4 triệu đồng/tháng là phát sinh nghĩa
vụ.
Bảng 1. So sánh ngưỡng doanh thu phát sinh nghĩa vụ nộp thuế.


Giả định mức giảm trừ là 9 triệu đồng/tháng
Sự khác biệt này còn lớn hơn đáng kể nếu như đối tượng nộp thuế có các khoản giảm
trừ nhiều hơn. Chẳng hạn, nếu chủ hộ kinh doanh phân phối hàng hóa có 2 con nhỏ là
người phụ thuộc thì ngưỡng doanh thu phát sinh nghĩa vụ nộp thuế sẽ là: (9 + 3,6 x 2) /
7% = 231,43 (triệu đồng/tháng).


Kinh doanh có doanh thu nhỏ đóng thuế nhiều hơn
Một bất lợi khác cho hộ kinh doanh có doanh thu nhỏ là mức thuế phải nộp sẽ tăng
lên ở mỗi mức doanh thu so với cách tính cũ. Mức chênh lệch nhiều hay ít phụ thuộc vào
nhóm hoạt động ngành nghề và giá trị doanh thu.
Bằng cách tính toán các mức thuế thu nhập cá nhân tương ứng với mỗi giá trị doanh
thu theo cách tính cũ và cách tính mới, chúng ta có thể tính được được chênh lệch mức
thuế thu nhập cá nhân mới so với cũ.
Nếu lấy giá trị thuế thu nhập cá nhân phải nộp theo cách tính mới trừ đi giá trị thuế
thu nhập cá nhân phải nộp theo cách tính cũ chúng ta có được kết quả như Bảng 2.
Cách tính thuế thu nhập cá nhân mới không có lợi cho các hộ kinh doanh nhỏ. Dựa
trên các tính toán ở Bảng 2, hộ kinh doanh thuộc nhóm 2 (ví dụ: dịch vụ ăn uống, giải
khát) sẽ đóng thuế nhiều hơn trước nếu doanh thu hàng tháng dưới 84 triệu đồng.


Các hộ kinh doanh thuộc nhóm 3 (ví dụ: kinh doanh nhà nghỉ, nhà trọ) có mức doanh
thu hàng tháng dưới 214 triệu đồng cũng sẽ đóng nhiều thuế hơn theo cách tính mới.
Như vậy, cách tính thuế thu nhập cá nhân mới dường như đem lại lợi ích cho các hộ
kinh doanh quy mô lớn mà “bỏ quên” lợi ích của các hộ kinh doanh quy mô nhỏ và vừa.

Chính vì thế, hài hòa lợi ích của đối tượng nộp thuế là điều mà lần sửa đổi quy định về
thuế mới nhất này chưa làm được.
Bảng 2. Chênh lệch của mức thuế thu nhập cá nhân phải nộp theo cách tính mới so
với cách tính cũ
(đơn vị: triệu đồng/tháng)


Nếu mức chênh lệch đạt giá trị âm thì bắt đầu có lợi từ cách tính thuế thu nhập cá
nhân mới


Không công bằng cho người kinh doanh
Cách tính thuế thu nhập cá nhân mới tạo ra động cơ thúc đẩy hộ kinh doanh (có đăng
ký nhưng chưa thực hiện đúng pháp luật về kế toán, hóa đơn chứng từ) đứng trước hai
lựa chọn.
Thứ nhất, thành lập doanh nghiệp là giải pháp để được hạch toán chi phí. Nhiều ý
kiến cho rằng, hộ kinh doanh nếu có thể thì nên chuyển sang thành lập doanh nghiệp vì
như vậy sẽ được trừ đi chi phí. Công ty chỉ phải đóng thuế thu nhập dựa trên phần tiền
còn lại sau khi đã trừ đi chi phí. Và nếu doanh thu nhỏ hơn chi phí (lỗ) thì sẽ được miễn
thuế thu nhập doanh nghiệp.
Lựa chọn thứ hai là tăng giá cung cấp hàng hóa, dịch vụ để bù đắp mức thuế cao
hơn. Đây là một phản ứng có phần tiêu cực nhưng không phải là không thể xảy ra. Với
việc chỉ các hộ kinh doanh nhà trọ có doanh thu khoảng trên 214 triệu đồng/tháng mới có
lợi từ quy định mới về thuế thu nhập cá nhân, các chủ nhà trọ doanh thu thấp hơn ngưỡng
214 triệu đồng sẽ có động cơ để tăng giá thuê nhà. Người chịu thiệt thòi cuối cùng sẽ là
những người đi thuê như công nhân, sinh viên – những đối tượng thường có thu nhập
thấp trong xã hội.


Những khuyến nghị của nhóm đưa ra nhằm hạn chế những nhược điểm của công

cụ thuế TNCN
Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, Các chính sách ưu đãi miễn, giảm thuế thu nhập cá
nhân của Luật thuế đã đạt được mục tiêu đề ra khi ban hành Luật.Tuy nhiên, trong xu
hướng hội nhập ngày càng sâu hơn nữa vào nền kinh tế thế giới, hệ thống thuế thu nhập
cá nhân Việt Nam đang gặp những thách thức lớn. Hy vọng trong thời gian tới các bộ,
ban ngành chức năng sẽ có những biện pháp phù hợp với hoản cảnh của nước ta. Trong
thời gian vừa qua thuế thu nhập cá nhân đã bao quát và mở rộng được đối tượng nộp
thuế, đối tượng chịu thuế, theo đó, số người nộp thuế đã tăng lên theo các năm, các loại
thu nhập mới phát sinh trong nền kinh tế đã dần bao quát được.
Một số khuyến nghị của nhóm:
- Cần xác định ngưỡng khởi điểm tính thuế thu nhập cá nhân và mức chiết trừ gia
cảnh cho các đối tượng phụ thuộc phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế có lạm
phát cao, phù hợp với thu nhập bình quân của mọi thành viên trong xã hội, huy động tối
đa số lượng các đối tượng chịu thuế, góp phần làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà
nước, đảm bảo sự công bằng xã hội.
- Tăng cường công tác kiểm tra , kiểm soát các khoản thu nhập không được phản ánh
trên các sổ sách kế toán của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế. Có chế tài xử phạt đủ
sức răn đe đối với các đối tượng cố tình khai man thu nhập hoặc giấu thu nhập để giảm
bớt khoản thuế thu nhập cá nhân phải nộp cho nhà nước.
- Phải quản lý chặt chẽ thu nhập từ tiền lương, tiền công, thực hiện kê khai và nộp
thuế thông qua cơ quan chi trả thu nhận, theo đó mức thuế thu nhập cá nhân được khấu
trừ tại nguồn theo biểu thuế suất lũy tiến từng phần đối với các khoản chi trả thu nhập
cho những cá nhân ký hợp đồng lao động từ 4 tháng trở lên và khấu trừ 10% thu nhập đối
với khoản chi trả cho cá nhân không có hợp đồng lao động hoặc hợp đồng lao động dưới
4 tháng nếu số tiền mỗi lần chi trả từ 500.000 đ trở lên. Cơ quan chi trả thu nhập phải có
trách nhiệm thu và chuyển số thuế thu được vào kho bạc nhà nước.


- Các điều luật và thông tư dưới luật phải được thể chế hết sức đơn giản, rõ ràng,
nhất quán, giúp cho các tổ chức, các cá nhân hiểu rõ được luật thuế thu nhập cá nhân, từ

đó họ nâng cao ý thức, trách nhiệm của họ đối với xã hội .
- Luật không nên quy định ngưỡng khởi điểm tính thuế thu nhập cá nhân bằng một
mức tiền tuyệt đối, làm như vậy phải thường xuyên điều chỉnh ngưỡng khởi điểm tính
thuế khi tốc độ lạm phát của nền kinh tế tăng cao.
- Phải tăng cường công tác tuyên truyền Luật thuế thu nhập cá nhân trên các phương
tiện truyền thông để mọi người trong xã hội hiểu rõ được ý nghĩa, vai trò của hệ thống
thuế nói chung, thuế thu nhập cá nhân nói riêng đối với sự phát triển của xã hội, từ đó
giúp cho họ có nhận thức đúng đắn và coi nộp thuế là trách nhiệm, là nghĩa vụ của người
dân yêu nước.
- Luật nên thay đổi mức thuế suất theo biểu thuế lũy tiến sao cho khoảng cách giữa
các mức không quá chênh lệch, có như vậy mới khuyến khích được những người lao
động có tài năng, đồng thời cũng giảm được hiện tượng khai man thu nhập, hiện tượng
gian lận thuế.

Câu hỏi củng cố:

8 câu hỏi trắc nghiệm
Câu 1: Vai trò của thuế thu nhập cá nhân đối với nền kinh tế xã hội là:
a)
b)
c)
d)

Tạo lập nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước, góp phần thực hiện công bằng xã hội.
Điều tiết thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm.
Góp phần phát hiện thu nhập bất hợp pháp.
Cả a, b, c.



×