Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

vai trò của nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1006.82 KB, 29 trang )

Lí do chọn đề tài
Một trong những cơ sở, nền tảng quan trọng nhất để thực hiện chiến lược phát triển
đó là nguồn lực con người. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với mục tiêu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, tiến tới dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
hiện nay, con người và nguồn nhân lực (nguồn lực con người) được coi là nhân tố quan
trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh tế nước ta.
Lịch sử phát triển xã hội đã chứng minh rằng, trong mọi giai đoạn, con người là yếu tố
đóng vai trò quyết định sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của xã hội. Các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác khẳng định rằng, sự phát triển của xã hội không phải do bất kỳ
một lực lượng siêu nhiên nào, mà chính con người đã sáng tạo nên lịch sử của mình - lịch
sử xã hội loài người. Nhận thức rõ vai trò to lớn của nguồn lực con người, trong công
cuộc đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh
đến nguồn lực con nguời, coi đó là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất cho sự phát triển
nhanh và bền vững của đất nước. Phát triển con người Việt Nam toàn diện - đó cũng
chính là động lực, là mục tiêu nhân đạo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà
chúng ta đang từng bước tiến hành. Bởi lẽ, người lao động nước ta ngày càng đóng vai
trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trong sự phát triển nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa, thì chất lượng người lao động là nhân tố quyết định. Nghị quyết Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và
phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Thực tiễn đã chứng tỏ rằng không có người
lao động chất lượng cao, chúng ta không thể phát triển kinh tế, không thể đưa nước ta
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Nhưng cũng chính vì nghèo nàn, lạc hậu về kinh tế mà
chất lượng của người lao động nước ta chưa cao. Để thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn này và
tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, thì một nước còn đang ở tình trạng kém phát triển như nước ta không thể không
xây dựng một chính sách phát triển lâu bền, có tầm nhìn xa trông rộng, phát triển con
người, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Vấn đề cốt lõi là ta phải thực hiện chiến lược
1



Giáo dục - Đào tạo nguồn nhân lực, phát triển con người đạt đến những giá trị phù hợp
với đặc điểm văn hoá và những yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực
hiện quá trình đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cũng như xu hướng
phát triển kinh tế xã hội chung trên toàn thế giới. Vì vậy, trong bài tiểu luận này chúng ta
sẽ cùng nhau tìm hiểu về vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế, xã hội.
1. Cơ sở lí luận về vai trò của nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế - xã hội
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Nguồn nhân lực
Nhân lực là sức lực con người, nằm trong mỗi con người và làm cho con người hoạt
động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của cơ thể con người và đến
một mức độ nào đó, con người đủ điều kiện tham gia vào quá trình lao động – con người
có sức lao động.
“Nguồn lực con người” hay “nguồn nhân lực” là khái niệm được hình thành trong
quá trình nghiên cứu, xem xét con người với tư cách là một nguồn lực là động lực của sự
phát triển. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực.
Xem xét dưới các góc độ khác nhau có thể có những khái niệm khác nhau về
nguồn nhân lực nhưng những khái niệm đều thống nhất nội dung cơ bản: Nguồn nhân lực
là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, con người với tư cách yếu tố cấu thành lực
lượng sản xuất giữ vị trí hàng đầu, là nguồn lực cơ bản và nguồn lực vô tận của sự phát
triển, không thể chỉ được xem xét đơn thuần ở góc độ số lượng hay chất lượng mà là sự
tổng hợp của cả số lượng và chất lượng. Không chỉ là bộ phận dân số trong độ tuổi lao
động mà là các thế hệ con người với những tiềm năng, sức mạnh trong cải tạo tự nhiên,
cải tạo xã hội.
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn lực đó được xem xét ở hai khía
cạnh. Trước hết, với ý nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra nguồn lực. Nguồn nhân lực
nằm trong bản thân con người, đó cũng là sự khác nhau cơ bản giữa nguồn lực con người
2



và các nguồn lực khác. Thứ hai, nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể nguồn nhân lực
của từng cá nhân con người. Với tư cách là một nguồn nhân lực của quá trình phát triển,
nguồn nhân lực là nguồn lực con người có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh
thần cho xã hội được biểu hiện là số lượng và chất lượng nhất định tại một thời điểm nhất
định.
Ở nước ta khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng rộng rãi từ khi bắt đầu công
cuộc đổi mới. Điều này được thể hiện rõ trong các công trình nghiên cứu về nguồn nhân
lực. Theo giáo sư viện sỹ Phạm Minh Hạc, nguồn lực con người được thể hiện thông qua
số lượng dân cư, chất lượng con người (bao gồm thể lực, trí lực và năng lực phẩm chất).
Như vậy, nguồn nhân lực không chỉ bao hàm chất lượng nguồn nhân lực hiện tại mà còn
bao hàm cả nguồn cung cấp nhân lực trong tương lai.
Khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng rộng rãi ở các nước có nguồn kinh tế
phát triển từ những năm giữa thế kỷ thứ XX, với ý nghĩa là nguồn lực con người, thể hiện
một sự nhìn nhận lại vai trò yếu tố con người trong quá trình phát triển. Nội hàm nguồn
nhân lực không chỉ bao hàm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động,
cũng không chỉ bao hàm về mặt chất lượng mà còn chứa đựng hàm ý rộng hơn.
Trước đây, nghiên cứu về nguồn lực con người thường nhấn mạnh đến chất lượng
và vai trò của nó trong phát triển kinh tế xã hội. Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế,
con người được coi là một phương tiện hữu hiệu cho việc đảm bảo tốc độ tăng trưởng
kinh tế bền vững thậm chí con người được coi là nguồn vốn đặc biệt cho sự phát triển –
vốn nhân lực.Về phương diện này Liên Hợp Quốc cho rằng nguồn lực con người là tất cả
những kiến thức kỹ năng và năng lực con người có quan hệ tới sự phát triển kinh tế xã
hội của đất nước. Ngày nay, nguồn nhân lực còn bao hàm khía cạnh về số lượng, không
chỉ những người trong độ tuổi mà cả những người ngoài độ tuổi lao động.
Vì vậy, có thể định nghĩa “nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng con
người với tổng hòa các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức tinh thần

3



tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy dộng vào quá trình
lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.”
1.1.2 Nguồn nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm chỉ những người lao động cụ thể, có
trình độ lành nghề (về chuyên môn kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể , theo tiêu
thức phân loại lao động về chuyên môn kỹ thuật nhất định (đại học, trên đại học, lao động
kỹ thuật lành nghề) có kỹ năng lao động giỏi và khả năng thích ứng nhanh với những
với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất kinh doanh, có sức khỏe và
phẩm chất tốt, có khả năng vận dụng sáng tạo những tri thức, những kỹ năng đã được đào
tạo vào quá trình lao động sản xuất nhằm đem lại năng suất lao động, chất lượng và hiệu
quả cao.
1.1.3 Phát triển nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực là quá trình tạo ra sự biến đổi về số lượng và chất lượng
nguồn nhân lực nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng chúng để đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Phát triển nguồn nhân lực chính là nâng
cao vai trò của nguồn nhân lực con người trong sự phát triển kinh tế-xã hội, qua đó làm
gia tăng giá trị của con người.
1.1.4 Phát triển kinh tế-xã hội
Phát triển kinh tế-xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh
thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ sản xuất nâng
cao chất lượng văn hóa. Phát triển là xu thế chung, của từng cá nhân và của cả mọi người
trong quá trình sống.
1.2 Vai trò của con người trong phát triển kinh tế - xã hội
1.2.1 Nguồn lực con người là động lực, mục tiêu của sự phát triển
Nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình, con người không thể trông chờ vào sự ban ơn
của tự nhiên mà còn phải tiến hành sản xuất, muốn sản xuất con người phải có nguồn lực
4


vật chất, nguồn lực tài chính, nguồn lực công nghệ v.v… và hợp thành các nguồn lực cho

sự phát triển, trong đó nguồn lực con người là yếu tố cách mạng và động nhất.
Khi đề cập đến tính cách mạng của nguồn nhân lực là đề cập đến sự sáng tạo ra
những công cụ lao động, nguyên nhiên vật liệu, năng lượng để thay thế cho hoạt động lao
động của con người, tạo ra những bước nhảy vọt trong kỹ thuật sản xuất, thể hiện khả
năng chế ngự, làm chủ và khai thác tự nhiên của con người.
Khi đề cập đến khía cạnh động nhất của nguồn nhân lực là nói đến sự sáng tạo của
con người là vô tận, sự sáng tạo đó dẫn đến ngày càng giảm chi phí về nguồn lực con
người cho việc sản xuất sản phẩm, do đó làm gia tăng khả năng tăng năng suất lao động.
Cần phải nhấn mạnh rằng, nguồn nhân lực là nguồn lực về con người, gắn liền với
cuộc sống con người vì vậy mới là động lực của sự phát triển. Mặt khác, mục tiêu và
động lực của sự phát triển là hai phạm trù khác nhau song cùng nằm trong một chủ thể đó
là con người. Điều đó chỉ rõ mâu thuẫn biện chứng và sự phức tạp trong lĩnh vực quản lý
con người mà các nhà quản lý tính đến.
1.2.2 Yếu tố nguồn lực con người trong phát triển kinh tế - xã hội
Con người là nhân vật trung tâm của xã hội, là chủ thể chân chính sáng tạo ra mọi
giá trị vật chất - tinh thần để phục vụ lại chính đời sống của mình. Nhấn mạnh vai trò của
con người trong quá trình sản xuất Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Xã hội có
cơm ăn, áo mặc, nhà ở là nhờ lao động của con người”.
Vai trò tổng quát, quyết định của con người
- Con người là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải,
vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội
- Con người là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội
- Con người sáng tạo ra những giá trị văn hóa, tinh thần

5


1.2.3. Đóng góp của nguồn nhân lực Việt Nam trong phát triển kinh tế-xã hội
Nguồn lao động Việt Nam chính là một trong những yếu tố đóng góp thu hút vốn
đầu tư, do Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, số lượng lao động lơn, chất lượng lao

động được cải thiện đáng kể, có khả năng nắm bắt được công nghệ hiện đại và tiến bộ
của thế giới. Bên cạnh đó chi phí nhân công rẻ, đây thật sự là một thế mạnh rất lớn của
lao động Việt Nam trong việc thu hút nhà đầu tư trong cũng như ngoài nước.
Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập với thế giới, nền kinh tế chúng ta đã là
nền kinh tế thị trường, chính phủ đang kêu gọi nguồn vốn đầu tư nước ngoài, FDI chính
là nguồn vốn quan trọng cho sự tái đầu tư nền kinh tế, cũng như để làm gia tăng tích tụ
tài sản, mở rộng quy mô sản xuất, vơi sự gia tăng nguồn FDI trong các năm qua chính là
nguyên nhân quan trọng của sự phát triển kinh tế rất cao của chúng ta trong các năm gần
đây và với những đóng góp của nguồn lao động như thế, chắc chắn các nhà đầu tư nước
ngoài sẽ không bỏ qua thị trường Việt Nam.
Bên cạnh đó khi nguồn nhân lực được đào tạo có chất lượng cao là một trong những
yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao
động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo
cùng với công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra
năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta đó là một quá trình tất yếu để phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn
công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trí
lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và phát triển bền vững. Đảng ta đã xác định phải lấy việc phát huy chất lượng
nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Nguồn nhân lực
chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm phát triển bền
vững. Tạo điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
6


Với những đóng góp rất lớn cho nền kinh tế nước nhà, chúng ta thấy được tầm quan
trọng của yếu tố lao động, qua đó cố gắng khắc phục những mặt hạn chế, từng bước hoàn

thiện cả về mặt số lượng lẫn chất lượng nguồn lao động, có như vậy nền kinh tế Việt Nam
mới từng bước đi lên.

7


2. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam
2.1 Số lượng (quy mô) nguồn nhân lực Việt Nam
Việt Nam có quy mô dân số lớn (khoảng hơn 90 triệu dân, xếp thứ 13 thế giới, thứ 3
Đông Nam Á), tốc độ tăng trưởng cao (tỷ lệ tăng dân số cơ học của Việt Nam mỗi năm
tương đương một tỉnh), cơ cấu dân số thuận lợi (hơn 60% trong độ tuổi lao động) để hình
thành nguồn nhân lực phát triển kinh tế – xã hội.
Lực lượng lao động nước ta hiện nay khoảng 52.207.000 người; hàng năm trung
bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động.
2.2 Chất lượng nguồn nhân lực
2.2.1 Trạng thái sức khỏe
Sức khỏe của nguồn nhân lực là trạng thái thoải mái về thể chất cũng như tinh thần
của con người. Để phản ánh điều đó có nhiều chỉ tiêu biểu hiện như: Tiêu chuẩn đo lường
về chiều cao, cân nặng, các giác quan nội khoa, ngoại khoa, thần kinh, tâm thần, tai, mũi,
họng…Bên cạnh đó việc đánh giá trạng thái sức khỏe còn thể hiện thông qua các chi tiêu:
tỷ lệ sinh, chết, biến động tự nhiên, tuổi thọ trung bình, cơ cấu giới tính. Ở đây chủ yếu
bàn tới yếu tố chiều cao, cân nặng, tuổi thọ trung bình, cơ cấu giới tính.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ cơ cấu dân số vàng, thời kỳ mà nhóm dân số trong
độ tuổi lao động cao gần gấp đôi nhóm dân số trong độ tuổi phụ thuộc.
Bên cạnh đó, nước ta cũng đang phải đối mặt với xu hướng già hóa dân số trong
tương lai gần. Theo ý kiến của các chuyên gia, quá trình già hóa dân số của Việt Nam sẽ
đến nhanh hơn dự kiến.Theo dự báo, đến năm 2024, cả nước có 12.811.400 người cao
tuổi, chiếm tỷ lệ 13% trong tổng dân số, vượt tiêu chuẩn xã hội già hóa và đây sẽ là thách
thức lớn đối với nguồn nhân lực Việt Nam.
Cơ cấu giới tính trẻ sơ sinh có biểu hiện mất cân đối nghiêm trọng, số trẻ sinh ra là

con thứ ba có xu hướng gia tăng, theo đó, nếu như năm 2015, tỉ số giới tính khi sinh tại
nước ta là 112,8/100 thì trong 6 tháng năm 2016, tỉ lệ này đã đạt mức 113,4/100, tương
8


đương cứ 100 bé gái được sinh ra thì có hơn 113 bé trai cũng ra đời. Các chuyên gia lo
ngại, nếu tỉ số giới tính tiếp tục gia tăng và ngày càng lan rộng như hiện nay thì vấn đề về
cân bằng giới của Việt Nam trong 20 – 25 năm sau là hết sức nghiêm trọng và ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng nguồn nhân lực.
Theo thống kê, chiều cao trung bình của nam giới Việt Nam chỉ đạt 164,4 cm, thấp
hơn 13 cm so với chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Chiều cao trung bình của nữ
thanh niên Việt Nam là 153,4 cm, thấp hơn 10,7 cm của WHO ( tính đến năm 2016). Như
vậy, đã tăng thêm 2,1 cm và 1,1 cm trong 10 năm qua. Nếu so với thời điểm trước "đổi
mới" năm 1996, chiều cao trung bình tăng thêm 4,4 cm và 3,4 cm ở hai giới.
Không chỉ cải thiện chiều cao, cân nặng trung bình của người Việt ở nam và nữ
cũng nhích lên hiện là 54 và 46 kg. Trong vòng 25 năm qua, chỉ số này tăng thêm 3 kg
(nam) và 1 kg (nữ).
Những con số này không chỉ phản ánh chiều cao, cân nặng của người Việt đang ở
đâu trên bản đồ thế giới mà nó còn ảnh hưởng đến thể lực, trí tuệ, hình ảnh của cả một
quốc gia, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực và sự phát triển kinh tế của đất nước.
Bảng chiều cao trung bình của Việt Nam so với một số quốc gia năm 2016
Quốc gia

Chiều cao trung bình nam

Chiều cao trung bình nữ

Độ tuổi

Australia


181,4 cm

169,5 cm

18-24

Trung Quốc

170,2 cm

158,6 cm

17-20

Ấn Độ

173 cm

165 cm

20

Indonesia

164,4 cm

155 cm

23-29


Nhật

171,5 cm

158 cm

19

Malayisa

168,4 cm

157,7 cm

25-34

Norway

182 cm

168 cm

20-29

Philippines

164,9 cm

155,6 cm


20+

Singapore

170,6 cm

160 cm

17-25

Hàn Quốc

173,9 cm

161,1 cm

19

9


Thái Lan

167,5 cm

157,3 cm

20+


Mỹ

178,9 cm

164,8 cm

20-39

Việt Nam

164,4 cm

153,4 cm

20-24

Nguồn: theo Guatemala, iNCAP Oriente Study
Thể lực của người Việt Nam nhìn chung còn thấp kém, phần lớn chưa đáp ứng yêu
cầu cường độ làm việc của xã hội công nghiệp hiện đại và các chuẩn quốc tế. Theo đánh
giá của Viện Khoa học Thể dục-Thể thao (Uỷ ban Thể dục-thể thao), so với thể lực của
thanh thiếu niên các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Inđônêsia thì thể
chất người Việt Nam từ 6-20 tuổi còn kém hơn về chiều cao, cân nặng, sức mạnh, sức bền
và chỉ tương đương về sức nhanh, sự khéo léo và mềm dẻo. Theo kết quả điều tra năm
2000 số người lao động không đủ tiêu chuẩn về cân nặng là 48,7%, số người suy dinh
dưỡng là 28%, số phụ nữ thiếu máu là 40%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi
theo chiều cao (tỷ lệ thấp còi) còn cao (năm 2005 l 26%), cao hơn nhiều so với các nước
Trung Quốc (17%), Philippin (11%) và Thái Lan (16%); và điều này sẽ còn tiếp tục tác
động tiêu cực đến thể trạng và thể lực của người lao động trong tương lai.
Như vậy tình trạng sức khoẻ người Việt Nam ở mức trung bình kém, điều này làm
giảm chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá của

đất nước và giảm sức cạnh tranh của lao động Việt Nam trên thị trường lao động thế giới.
2.2.2 Trình độ văn hóa
Trình độ văn hóa là sự hiểu biết của người lao động đối với những kiến thức phổ
thông không chỉ về lĩnh vực tự nhiên mà còn bao gồm cả lĩnh vực xã hội. Ở một mức độ
cho phép nhất định nào đó thì trình độ văn hoá của dân cư thể hiện mặt bằng dân trí của
một quốc gia.
Trình độ văn hoá của nguồn nhân lực được thể hiện thông qua các quan hệ tỷ lệ:
- Số lượng và tỷ lệ biết chữ

10


- Số lượng và tỷ người qua các cấp học tiểu học, trung học cơ sở, phổ thông trung
học, cao đẳng, đại hoc, trên đại học,…
Đây là một trong những chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân
lực cũng như trình độ phát triển của kinh tế xã hội
Tỷ lệ biết chữ trong độ tuổi 15-50 toàn quốc là 97,3%, trong độ tuổi 15-35 là
98,5%. Đây là số liệu được đưa ra trong hội nghị sơ kết 3 năm (2013-2015).
Về mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục, theo báo cáo, tỷ lệ biết chữ trong độ
tuổi 15-50 toàn quốc là 97,3% (cao hơn 1,3% so với mục tiêu Đề án), trong độ tuổi 15-35
là 98,5% (cao hơn 0,5% so với mục tiêu Đề án). Số người mới biết chữ tiếp tục học và
không mù chữ trở lại là 83,9%.
Đối với các tỉnh thuộc khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ tỷ lệ tương ứng
với 94,6% và 97,0%. Tính đến tháng 12.2015, 63/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập
giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục THCS.
Kết quả học tập nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ cũng đạt được những thành
tích đáng kể. Số cán bộ, công chức, viên chức tham gia học tập nâng cao trình độ ứng
dụng công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu, vị trí việc làm đạt 81,2%, cao hơn mục tiêu
đề ra 1,2%.
Cụ thể hơn, cán bộ, công chức, viên chức có trình độ ngoại ngữ bậc 2 đạt 31,2%,

bậc 3 đạt 9,9%; số công nhân lao động có kiến thức cơ bản về tin học và ngoại ngữ đáp
ứng yêu cầu công việc và giao lưu văn hóa đạt 43,7%.
Tỷ lệ tốt nghiệp THPT năm 2015: Khối THPT đạt 93,42%, khối GDTX đạt 70,08%,
bình quân chung là 91,58%.
Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh. Điều này có thể
được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo nhân lực. Theo số liệu
thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học và cao đẳng là 2.058.922 người, số tốt
11


nghiệp là 405.900 người; số học sinh các trường trung cấp chuyên nghiệp là 421.705
người.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế:
- Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng,
miền, địa phương,… chưa đồng nhất, chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã
hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
- Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ là
công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế. Trong môi trường làm
việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá thế giới luôn là điểm yếu của lao
động Việt Nam.
2.2.3 Trình độ chuyên môn kĩ thuật
Trình độ chuyên môn kỹ thuật thể hiện sự hiểu biết, khả năng thực hành về một
chuyên môn, nghề nghiệp nào đó. Đó cũng là trình độ được đào tạo ở các trường chuyên
nghiệp, chính quy. Các chỉ tiêu phản ánh trình độ chuyên môn kỹ thuật như:
- Số lượng lao động được đào tạo và chưa qua đào tạo
- Cơ cấu lao động được đào tạo:
+ Cấp đào tạo
+ Công nhân kỹ thuật và cán bộ chuyên môn
+ Trình độ đào tạo (cơ cấu bậc thợ…)
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn bộ lực

lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%, trong đó ở thành thị là 33,7%, gấp 3 lần tỷ lệ
này ở khu vực nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ lệ này là 20,3% đối với nam và
15,4% đối với nữ; tỷ lệ nhân lực được đào tạo trình độ cao (từ đại học trở lên) trong tổng
12


số lao động qua đào tạo ngày càng tăng (năm 2010 là 5,7%, năm 2012 là 6,4%, sơ bộ
năm 2013 là 6,9% ).
Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu so với nhu
cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, nhất là để tham gia vào
chuỗi giá trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị đó.
Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ chuyên
môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về năng lực thực hành
và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp; vẫn cần có thời gian bổ
sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả. Nhiều năm qua, chúng ta đã cảnh báo
về tình trạng sinh viên tốt nghiệp ở các trường đại học, cao đẳng rất yếu cả về kiến thức,
kỹ năng và thái độ nghề nghiệp, dẫn đến tình trạng thất nghiệp nhiều, năng suất lao động
thấp nhưng chưa có biện pháp tháo gỡ. Cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo và cơ cấu
vùng miền trong các lĩnh vực kinh tế ngày càng mất cân đối nghiêm trọng. Hiện nay,
quan niệm về chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực trong các khu vực kinh tế ở nước ta
đã lạc hậu so với quan niệm của nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam vẫn chỉ coi trọng
bằng cấp, coi lao động có bằng cấp cao là chất lượng cao.Tỷ lệ đào tạo đại học, cao đẳng
so với trung cấp, công nhân kỹ thuật nghề là 7/3 dẫn tới thực trạng “thừa thầy, thiếu thợ”.
Sinh viên ra trường khó tìm được việc làm phù hợp, thiếu kỹ năng hòa nhập, làm việc
nhóm, giao tiếp với nước ngoài, ứng dụng công nghệ thông tin
Mặc dù các khu công nghiệp, khu chế xuất luôn thiếu lao động, nhất là lao động có
chuyên môn kỹ thuật, nhưng do chất lượng lao động qua đào tạo thấp kém, nên nhiều
doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không muốn nhận sinh
viên, học sinh học nghề, làm cho tỷ lệ người lao động qua đào tạo, nhất là lao động có
trình độ từ cử nhân trở lên không có việc làm, hoặc phải làm trái với nghề được đào tạo

ngày càng cao. Những năm gần đây, khoảng 80% cử nhân mới ra trường không làm đúng
nghề đào tạo, hàng trăm nghìn cử nhân phải xin làm công việc phổ thông; 60-70% sinh
viên tốt nghiệp không kiếm được việc làm ngay sau khi tốt nghiệp, số lao động có trình

13


độ cử nhân trở lên thất nghiệp tăng lên hàng năm. Những tỷ lệ này không có chiều hướng
suy giảm.
2.3. Đánh giá vai trò của nguồn nhân lực Việt Nam:
2.3.1. Về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam đang hình thành 2 loại hình nhân lực: nhân lực phổ thông và
nhân lực chất lượng cao. Nhân lực phổ thông hiện tại vẫn chiếm số đông, trong khi đó, tỷ
lệ nhân lực chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Cái thiếu của Việt Nam hiện nay
không phải là nhân lực phổ thông, mà là nhân lực chất lượng cao.
Nhận định của các chuyên gia trong nước: chất lượng nguồn nhân lực của Việt
Nam thấp và có khoảng cách lớn với các nước trong khu vực.
Đặc điểm nguồn nhân lực Việt Nam: Việt Nam có quy mô dân số lớn (khoảng hơn
90 triệu dân, xếp thứ 13 thế giới, thứ 3 Đông Nam Á), tốc độ tăng trưởng cao (tỷ lệ tăng
dân số cơ học của Việt Nam mỗi năm tương đương một tỉnh), cơ cấu dân số thuận lợi
(hơn 60% trong độ tuổi lao động) để hình thành nguồn nhân lực phát triển kinh tế – xã
hội.
Với số lượng lao động lớn như vậy, Việt Nam có được một nguồn lao động dồi
dào, đáp ứng đủ lực lượng lao động trong tất cả các ngành nghề của xã hội. Việt Nam có
lực lượng lao động lớn (khoảng 52.207.000 người; hàng năm trung bình có khoảng 1,51,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động), một mặt, tạo cơ hội cho nền kinh tế có bước
phát triển mạnh mẽ, mặt khác, tạo sức ép lớn về giải quyết việc làm và đào tạo nghề
nghiệp.
Lao động Việt Nam có truyền thống cần cù, chịu khó, chi phí nhân công vẫn ở
mức hợp lý so với các nước trong khu vực (Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia,
Singapore…). Điều này làm cho nguồn nhân lực Việt Nam được ưa chuộng hơn và có

nhiều cơ hội để lao động sang các nước khác.

14


Đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ ngày càng được tăng cường về số lượng,
bước đầu đã tiếp cận được nhiều tiến bộ khoa học – công nghệ hiện đại.
Tuy nhiên, các chỉ số phát triển nguồn nhân lực để đánh giá năng lực cạnh tranh
quốc gia và tính hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam còn chưa cao. Theo chỉ số đánh
giá của Ngân hàng Thế giới, chất lượng nguồn nhân lực tại Việt Nam chỉ đạt 3,79/10, xếp
hạng thứ 11 (kế chót) trong số 12 quốc gia được khảo sát tại châu Á. Điều này cho thấy
sự yếu kém về chất lượng lao động cũng như năng suất lao động và nhiều yếu tố khác của
nguồn nhân lực nước ta. Ngay cả Hàn Quốc đạt đến 6,91 điểm và Ấn Độ 5,76 điểm,
Malaysia thuộc SEA cũng đạt 5,59 điểm. Điều này dấy lên tình trạng đáng báo động về
chất lượng nguồn lao động của nước ta. Không chỉ các chuyên gia nước ngoài mà ngay
cả các chuyên gia trong nước cũng đã nhận thức rõ về vấn đề chênh lệch về chất lượng
của nguồn lao động nước ta.
Với chỉ số cạnh tranh nguồn nhân lực tại Việt Nam chỉ đạt 3,39 trên 10, chúng ta
đang cho thấy sự yếu kém trong chất lượng lao động về mặt ý thức cũng như trình độ kĩ
thuật. Nếu tính tổng trong số 53,4 triệu lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc thì chỉ
có khoảng 49% qua đào tạo, nhưng đào tạo nghề từ 3 tháng trở lên chỉ chiếm khoảng
19% trong tổng số.
Lao động trình độ chuyên môn cao còn ở số lượng thấp, do đó giá trị của nguồn
nhân lực Việt Nam chưa cao và chưa được đánh giá đúng tầm trong khu vực cũng như
trên thế giới. Lao động chuyên môn còn thấp, do đó đất nước chưa thể thật sự phát triển
những ngành công nghệ cao, những ngành yêu cầu lao động phức tạp. Khi đó, Việt Nam
vẫn phải đi thuê nguồn lao động chất lượng cao từ các nước khác, gây ảnh hưởng đến
nguồn ngân sách, nguồn kinh tế của đất nước.
Tóm lại, mặc dù có một số điểm mạnh nhưng nhìn chung chất lượng nguồn nhân
lực Việt Nam hiện nay còn rất thấp so với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước.

15


Đa số người lao động Việt Nam hiện nay chưa hiểu biết nhiều về luật lao động
công nghiệp, về tác phong làm việc cũng như giờ giấc và cử chỉ thái độ trong quá trình
làm việc. Các kỹ năng mềm như làm việc nhóm, làm việc độc lập, thuyết trình hay chia
sẻ kinh nghiệm và giao tiếp với cộng đồng vẫn chưa được phổ biến và trang bị cho người
lao động. Với những mặt yếu kém trên, người lao động Việt Nam vẫn còn rất nhiều điểm
cần phải khắc phục để có thể cạnh tranh với các nguồn nhân lực quốc tế.
Trong bối cảnh đó, việc Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được mở ra vào cuối
năm 2015 và Việt Nam vừa tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã
khiến cho thị trường lao động trong các khu vực ký kết dần trở nên đồng nhất với nhau.
Càng ngày càng có nhiều hiệp định hợp tác quốc tế, mở ra những cơ hội mới cho
người lao động trên thế giới, sẽ không còn bị phân hóa, vùng lãnh thổ. Điều này sẽ tạo
điều kiện cho lao động nước ngoài gia nhập thị trường trong nước dễ dàng hơn vì họ sỡ
hửu những tố chất vượt trội về tiêu chuẩn, trình độ, kỹ năng nghề nghiệp....
Với thị trường mở như vậy, nếu người lao động Việt Nam không thích ứng được
bằng cách hoàn thiện mình về kiến thức, tay nghề, trình độ ngoại ngữ thì sẽ không có cơ
hội vươn ra tầm khu vực, thậm chí, còn có thể thua ngay trên sân nhà. Như trong báo cáo
của Navigos quý II/2016 đã chỉ ra, nhiều tập đoàn đa quốc gia trong lĩnh vực chăm sóc
sức khoẻ, gia súc gia cầm, thú nuôi ở Việt Nam có nhu cầu cao về tuyển dụng nhân sự,
người Việt có thể cạnh tranh được với người Thái về mặt kỹ thuật, nhưng vì hạn chế về
tiếng Anh nên đã để vuột mất cơ hội. Cuối cùng, nhiều nhân sự người Thái đã được điều
chuyển sang Việt Nam để thế vào chỗ mà lẽ ra đấy là của người Việt. Báo cáo còn nhấn
mạnh thêm một khía cạnh, các nhân sự người Thái sẵn sàng học thêm tiếng Việt để nâng
cao sức cạnh tranh cho bản thân.

16



2.3.2. Hạn chế chủ yếu của nguồn nhân lực nước ta.
Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng,
miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã
hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu so với
nhu cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, nhất là để tham gia
vào chuỗi giá trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị đó.
Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ chuyên
môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về năng lực thực hành
và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp; vẫn cần có thời gian bổ
sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả.
Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ là
công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế. Trong môi trường làm
việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá thế giới luôn là điểm yếu của lao
động Việt Nam.
Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân, ý thức
văn hoá công nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người lao động chưa cao.
Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Mặt
khác, đáng lo ngại là năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng tăng chậm hơn so với
các nước đang phát triển trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xia.
Những hạn chế của nguồn nhân lực Viêt Nam nói trên gây kiềm hãm sự phát triển
kinh tế - xã hội. Không đáp ứng đủ số lượng có tay nghề phục vụ cho những công nghiệp
hiện đại. Không cạnh tranh được với nguồn lao động trên thế giới gây nên nạn thất
nghiệp, gây nên áp lực lên nền kinh tế quốc gia.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế nguồn nhân lực Việt Nam

17



Thứ nhất, nguồn lực quốc gia và khả năng đầu tư cho phát triển nhân lực của phần
lớn các gia đình còn hạn chế, chưa đáp ứng điều kiện tối thiểu để bảo đảm chất lượng các
hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao. Nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà
nước cho phát triển nhân lực còn hạn chế; chưa huy động được nhiều các nguồn lực trong
xã hội (nhất là các doanh nghiệp) để phát triển nhân lực.
Thứ hai, quản lý nhà nước về phát triển nhân lực còn những bất cập so với yêu
cầu. Chủ trương, đường lối phát triển nguồn nhân lực chưa được thể chế hoá bằng các
văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách và các kế hoạch phát triển một cách kịp
thời và đồng bộ; việc triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách chưa kịp
thời, chưa nghiêm túc. Nhiều mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chưa tính toán đầy đủ
các điều kiện thực hiện. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong
việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực chưa chặt chẽ.
Thứ ba, hệ thống giáo dục quốc dân - lực lượng nòng cốt trong đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực đất nước bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể là: công tác phân luồng định
hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông chưa tốt; công
tác đào tạo, giáo dục nghề nghiệp chưa thực sự dựa trên cơ sở nhu cầu xã hội, chưa thu
hút được sự tham phát triển nguồn nhân lực từ các đơn vị sử dụng lao động; đội ngũ giáo
viên, giảng viên còn thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn nghiệp vụ, còn sự chênh lệch
lớn về trình độ phát triển giữa các địa phương, vùng, miền; hệ thống phương pháp, công
cụ kiểm tra, giám sát, kiểm định và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo còn lạc hậu, kém
hiệu quả; mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng…
Thứ tư, hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực chưa
đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng về kinh tế, xã hội, văn hoá
nước ta với thế giới. Còn nhiều sự khác biệt trong các quy định về giáo dục nghề nghiệp,
đào tạo nhân lực của hệ thống pháp luật Việt Nam so với pháp luật của các nước; mô hình
hệ thống giáo dục và đào tạo, nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo nhân lực
chưa tương thích và chưa phù hợp với các tiêu chuẩn phổ biến của các nước trong khu
vực và thế giới; chưa thu hút được nhiều các nguồn lực quốc tế cho phát triển nhân lực.
18



Việc tổ chức, đánh giá chất lượng dạy và học ngoại ngữ, bồi dưỡng một số hiểu biết, kỹ
năng cần thiết để hội nhập quốc tế chưa đáp ứng yêu cầu. Môi trường pháp lý, điều kiện
làm việc, cơ chế chính sách chưa bảo đảm cho trao đổi nhân lực giáo dục, đào tạo và
nghiên cứu khoa học giữa Việt Nam và các nước được thực hiện thuận lợi, chưa phát huy
hết tiềm năng của khả năng hợp tác quốc tế này phục vụ phát triển nguồn nhân lực của
đất nước.
2.3.4. Đóng góp của nguồn nhân lực Việt Nam vào GDP.
Theo cách tính năng suất lao động đo bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo
giá hiện hành chia cho tổng số người làm việc bình quân trong 1 năm, năng suất lao động
năm 2005 là 21,4 triệu đồng/người, năm 2010 là 44,0 triệu đồng/người, năm 2012 là 63,1
triệu đồng/người, sơ bộ năm 2013 là 68,7 triệu đồng/người.
Trung bình hàng năm, cơ cấu lao động trong ngành nông, lâm và thủy sản giảm
2,1%/năm, trong đó giảm mạnh nhất là giai đoạn 2001-2005, trung bình giảm 2.4%/năm,
nhưng giai đoạn 2011-2014 tốc độ giảm chỉ còn ở mức -1,5%. Tốc độ tăng tỷ trọng lao
động trong ngành công nghiêp và xây dựng trung bình hàng năm là 3,4%, lớn nhất là giai
đoạn 2001-2005 là 6,2%. Tuy nhiên, giai đoạn 2011-2014 tốc độ tăng không có sự thay
đổi. Trong ngành dịch vụ, tỷ trọng lao động mặc dù có tăng nhưng không nhiều, trung
bình khoảng 2,0%/năm, và là ngành có tỷ trọng tăng duy nhất trong giai đoạn 2011-2014

19


Hình 1: Tỷ trọng lao động theo ngành giai đoạn 2000-2014

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2016)

Hình 2: Đóng góp của các nhân tố vào GDP giai đoạn 2001-2015


Nguồn: Tổng cục Thống kê (2016)
Trong giai đoạn 2001-2015 vai trò của lao động cho tăng trưởng chưa
nhiều. Nếu như năm 2001 đóng góp của lao động là 13,42% thì đến năm 2015
tỷ lệ đóng góp lao động tăng lên 21,23%.

20


Tính theo giai đoạn, cơ cấu đóng góp của các nhân tố có sự thay đổi không
đồng nhất. Nếu như giai đoạn 2001-2005 đóng góp của vốn chiếm tỷ trọng
trung bình 66,73%, của TFP là 11,89%, và lao động là 21,38% thì đến giai
đoạn 2006- 2010 do tăng mạnh nguồn vốn đầu tư, đóng góp của vốn tăng lên
trung bình là 78,16%, của lao động tăng nhẹ lên 26,36%, của TFP giảm mạnh
và có giá trị âm 4,52%. Ngược lại, giai đoạn 2011-2015 vai trò của TFP tăng
mạnh lên trung bình 28,94%, của lao động là giảm nhẹ còn 19,78% và đóng
góp của vốn giảm mạnh còn 51,28%. Tỷ lệ đóng góp của TFP trong tăng
trưởng GDP còn ở mức thấp phản ánh trình độ, ý thức tổ chức và quản lý trong
sản xuất kinh doanh của lao động Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của
nền sản xuất hiện đại.
Với chuỗi số liệu trên, dự báo đến năm 2025 vai trò của vốn vẫn chiếm tỷ
trọng lớn, nhưng giảm còn 54,51%, TFP là 24,63% và lao động là 20,85%, đến
2030 tỷ lệ này là 52,23%, 26,68% và 21,09%.
3. Giải pháp
3.1. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2015-2020
3.1.1. Đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước về phát triển nhân lực
Trong đó, cần tập trung vào việc hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển nhân lực,
đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy
quản lý về phát triển nhân lực. Cần hình thành một cơ quan chịu trách nhiệm thu thập,
xây dựng hệ thống thông tin về cung - cầu nhân lực trên địa bàn cả nước nhằm bảo đảm
cân đối cung - cầu nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới các chính sách, cơ chế,

công cụ phát triển nhân lực (bao gồm các nội dung về môi trường làm việc, chính sách
việc làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, điều kiện nhà ở và các điều kiện sinh sống,
định cư, chú ý các chính sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng cao, nhân tài). Cải tiến
và tăng cường sự phối hợp giữa các cấp các ngành, các chủ thể tham gia phát triển nhân
lực.

21


3.1.2 Bảo đảm nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực
Ngân sách nhà nước là nguồn lực chủ yếu để phát triển nhân lực quốc gia đến năm
2020. Tăng đầu tư phát triển nhân lực cả về giá trị tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng nguồn
vốn đầu tư toàn xã hội. Cần xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng
tập trung chi để thực hiện các chương trình, nhiệm vụ, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu
tiên và thực hiện công bằng xã hội (hỗ trợ đào tạo, phát triển nhân lực ở các vùng sâu,
vùng xa, cho các đối tượng là người dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách,…). Nghiên
cứu đổi mới cơ chế phân bổ và hỗ trợ bằng ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực từ
hỗ trợ cho các đơn vị cung ứng sang hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng và bảo đảm
công bằng giữa các cơ sở công lập và ngoài công lập.
Đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển nhân
lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của người dân đầu tư và
đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức: Trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở
giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hoá, thể dục thể thao; Góp vốn, mua công trái, hình
thành các quỹ hỗ trợ phát triển nhân lực. Cần quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đối
với sự phát triển nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi và có cơ chế, chính sách mạnh để
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tăng đầu tư phát triển nhân lực nói chung và
đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề nói riêng. Mở rộng các hình thức tín dụng ưu đãi cho các cơ
sở giáo dục, đào tạo và cho học sinh, sinh viên để học nghề, học đại học, cao đẳng, hỗ trợ
người lao động học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ.
Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài cho phát

triển nhân lực Việt Nam; sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước ngoài hỗ trợ phát
triển nhân lực (ODA); thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của nước ngoài cho phát triển nhân
lực (đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở giáo dục, đào tạo, bệnh viện, trung tâm thể
thao..).
3.1.3. Đổi mới giáo dục và đào tạo

22


Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp chủ yếu để phát triển nhân lực Việt Nam
trong giai đoạn từ nay đến 2020 và những thời kỳ tiếp theo. Cần quán triệt và triển khai
quyết liệt Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04-11-2013 của Hội nghị Trung ương 8 khoá
XI và Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09-6-2014 của Chính phủ ban hành Chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trước mắt, cần tập
trung vào một số nội dung sau đây:
- Hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân
luồng, khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Tổ chức lại mạng lưới
giáo dục đào tạo, sắp xếp lại hệ thống giáo dục quốc dân cả ở quy mô đào tạo, cơ cấu
ngành nghề, cơ sở đào tạo, quy hoạch lại mạng lưới giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại
học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, vùng, miền và địa phương.
Thực hiện phân tầng giáo dục đại học.
- Đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông, khung chương trình đào tạo ở
bậc đại học và giáo dục nghề nghiệp theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự
học, tự nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào những nội dung, kỹ năng
người học, doanh nghiệp và xã hội cần, đảm bảo liên thông giữa các bậc học, cấp học,
giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Đa dạng hoá các phương thức đào tạo. Có
cơ chế để tổ chức, cá nhân người sử dụng lao động tham gia xây dựng, điều chỉnh, thực
hiện chương trình đào tạo và đánh giá năng lực người học.

- Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học. Cải cách mục
tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin. Từng bước áp dụng kiểm định, đánh giá theo kết quả đầu
ra của giáo dục và đào tạo.
- Đổi mới chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; nâng cao chất
lượng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào giáo dục và đào tạo. Đặc biệt
23


chú trọng việc tổ chức sắp xếp lại và hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các trường sư
phạm trên phạm vi cả nước.
3.1.4. Chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nguồn nhân lực Việt Nam
Xây dựng, thường xuyên cập nhật hệ thống pháp luật về phát triển nguồn nhân lực
Việt Nam phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam nhưng không trái với thông lệ và
luật pháp quốc tế về lĩnh vực này mà Việt Nam tham gia, ký kết, cam kết thực hiện.
Thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới. Xây dựng nội
dung, chương trình và phương pháp giáo dục và đào tạo theo định hướng phù hợp chuẩn
quốc tế và đặc thù Việt Nam; tăng cường quan hệ liên thông chương trình đào tạo giữa
các cơ sở giáo dục và các ngành đào tạo của Việt Nam và quốc tế; thực hiên công nhận
lẫn nhau chương trình đào tạo giữa các cơ sở giáo dục và đào tạo của Việt Nam và của
thế giới; thỏa thuận về việc công nhận văn bằng, chứng chỉ đào tạo giữa Việt Nam với
các nước.
Tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo. Thực hiện đánh giá và quản lý
chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi về giáo dục và đào tạo đại học, sau
đại học và các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, công nghệ giữa các cơ sở giáo dục đại
học Việt Nam và thế giới.
Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài
năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào quá
trình đào tạo nhân lực đại học và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở giáo dục
đại học Việt Nam.

Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và huy động các nguồn
lực xã hội, kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm xây dựng một số trường đại học, cao đẳng và
dạy nghề đạt chuẩn quốc tế. Thu hút các trường đại học, dạy nghề có đẳng cấp quốc tế
vào Việt Nam hoạt động.

24


Tăng cường dạy và bồi dưỡng ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Anh), văn hoá thế giới,
kỹ năng thích ứng trong môi trường cạnh tranh quốc tế cho người Việt Nam.
Để thực hiện thành công các giải pháp trên, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
làm cho cán bộ, công chức của toàn bộ hệ thông chính trị các cấp, các tầng lớp nhân dân,
các nhà trường, các doanh nghiệp, tổ chức hiểu rõ vai trò và trách nhiệm đào tạo và sử
dụng nhân lực, biến thách thức về nhân lực thành lợi thế để phát triển kinh tế, xã hội và
nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
3.2 Một số giải pháp khắc phục những hạn chế của nguồn nhân lực Việt Nam.
Một là, khẩn trương tập trung rà soát, điều chỉnh quy hoạch và kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội phù hợp với chiến lược phát triển quốc gia; xây dựng quy hoạch, kế hoạch
phát triển nguồn nhân lực theo hướng giảm dần lao động không có bằng chuyên môn kỹ
thuật tham gia hoạt động trong nền kinh tế, từ đó điều chỉnh chiến lược đào tạo nghề, cơ
cấu lại hệ thống giáo dục nghề nghiệp, chú trọng đào tạo nghề dài hạn có sự phân tầng
chất lượng, ưu tiên đào tạo những nghề mũi nhọn đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau
trung học. Trên cơ sở đó, các địa phương và các ngành đề xuất nhu cầu và yêu cầu đào
tạo nguồn nhân lực. Đây là giải pháp mang tính đột phá, vì nó có tác động mạnh mẽ đến
toàn bộ hệ thống giáo dục và đào tạo.
Hai là, đổi mới chính sách đầu tư cho công tác dạy nghề theo hướng giảm dần bao
cấp; có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp, xã hội đầu tư vào đào tạo nghề. Trước mắt, có
chính sách hỗ trợ công tác giáo dục nghề nghiệp theo hướng khuyến khích người học,
người dạy và người sử dụng lao động công nhân có tay nghề. Đổi mới chính sách tiền

lương, chế độ bảo hiểm theo hướng nâng cao cho các ngành lao động nặng nhọc, những
công nhân có tay nghề cao, từ đó thu hút phần lớn lao động đi học nghề và tạo động lực
để lao động tích cực học tập nâng cao tay nghề, tạo động lực cho người lao động phấn
đấu, học tập suốt đời.

25


×