Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.66 KB, 26 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

----------

BÀI TẬP LỚN
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn
Mã môn học

: Th.s Trần Ngọc Hằng
:

HÀ NỘI – 2017


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU…………………………………………………………………2
B.
I.

NỘI DUNG……………………………………………………………….3
NHỮNG LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ……………….3

1.1 Kinh tế thị trường…………………………………………………………3
1.1.1 Khái niệm nền kinh tế thị trường………………………………………….3
1.1.2 Đặc trưng của nền kinh tế thị trường……………………………………...3


1.2

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam…………….4

1.2.1 Vì sao Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa?...................................................................4
1.2.2 Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…………..7
1.2.3 Đặc điểm nền kinh tế thị trường định hướng XHCNở nước ta…………...7
II.

VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA…………………………………....9

2.1 Tính tất yếu về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa………………………………………..9
2.2 Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
Xã hội chủ nghĩa ở ViệtNam………..................................................12
2.3 Nội dung quản lý kinh tế của Nhà nước…………………………………17
III. NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở NƯỚCTA……………………………………………….........18
3.1 Thực trạng nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay……………………18
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay………………..21
C.

KẾT LUẬN……………………………………………………………..24
1



A. MỞ ĐẦU
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoach hóa tập chung sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là một tất yếu khách
quan. Quá trình chuyển đổi được bắt đầu từ đại hội IV năm 1986. Trong quá
trình chuyển đổi từ đó đến nay nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Việc
chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã đưa nước ta
thoát khỏi sự trì trệ về phát triển kinh tế sang một nền kinh tế mới, phát triển
mạnh mẽ hơn. Những thành công bước đầu là do Đảng và Nhà nước ta đã vận
dụng và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin, Đảng và nhà nước đã chủ trương
chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập chung sang cơ chế thị trường nhưng nền kinh
tế thị trường nước ta không phải là nền kinh tế thị trường thuần túy mà là nền
kinh tế thị trường với sự tham gia của Nhà nước với tư cách là người điều tiết
nền kinh tế theo định hướng XHCN.Nhận thức được tầm quan trọng về vai trò
của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường nên chúng em đã chọn đề tài “Vai trò
của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta’’làm đề tài nghiên cứu. Là sinh viên năm hai nên tầm hiểu biết, nhận thức và
lý luận của chúng em còn nhiều hạn chế. Bởi vậy chúng em rất mong được sự
giúp đỡ của cô để bài viết của chúng em được hoàn chỉnh hơn. Chúng em xin
chân thành cảm ơn.

2


B. NỘI DUNG
I. NHỮNG LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
1.1 Kinh tế thị trường
1.1 .1Khái niệm kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, là một
hình thức tổ chức sản xuất xã hội hiệu quả nhất phù hợp với trình độ phát triển

của xã hội hiện nay.
1.1.2 Đặc điểm của kinh tế thị trường.
Các đặc điểm chính của kinh tế thị trường:
Các chủ thể kinh tế có tính tự chủ cao. Mỗi chủ thể kinh tế là một thành phần
của nền kinh tế có quan hệ độc lập với nhau, mỗi chủ thể tự quyết định lấy hoạt
động của mình.
Tính phong phú của hàng hóa. Do các chủ thể kinh tế đều tự quyết định lấy
hoạt động của mình nên bất cứ hàng hoá nào có nhu cầu thì sẽ có người sản
xuất. Mà nhu cầu của con người thì vô cùng phong phú, điều này tạo nên sự
phong phú của hàng hoá trong nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là tất yếu trong kinh tế thị trường. Hàng hoá nào có nhu cầu lớn
thì sẽ có nhiều người sản xuất. Khi có quá nhiều người cùng sản xuất một mặt
hàng thì sự cạnh tranh là tất yếu.
Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế mở, trong đó có sự giao lưu rộng
rãi không chỉ trong thị trường một nước mà giữa các thị trường với nhau.

3


Giá cả hình thành ngay trên thị trường. Không một chủ thể kinh tế nào quyết
định được giá cả. Giá của một mặt hàng được quyết định bởi cung và cầu của
thị trường.
Nền kinh tế thị trường có thể tự hoạt động được là nhờ vào sự điều tiết của
cơ chế thị trường. Đó là các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị,
quy luật cung cầu, lưu thông tiền tệ, cạnh tranh…tác động, phối hợp hoạt động
của toàn bộ thị trường thành một hệ thống nhất.

1.2.Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
1.2.1 Vì sao Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa?

Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển
nhất định của văn minh nhân loại. Nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ
nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản .
Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ
cho mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách
khách quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày
nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển cao và
phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển.
Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng. Còn có
khuyết tật từ trong bản chất của nó do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
chi phối. Mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết
được các vấn đề xã hội, làm tăng thêm tính bất công và bất ổn xã hội, đào sâu
thêm hố ngăn cách giữa người giàu và người ngèo. Trong điều kiện toàn cầu
hoá hiện nay, nó còn rằng buộc các nước kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ
thuộc và bị bóc lột. Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa toàn cầu ngày nay
là sự thống trị của một số ít nước lớn hay một số tập đoàn xuyên quốc gia đối
4


với đa số các nước ngèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giàu và nước
nghèo .
Như C.Mac đã phân tích và dự báo,chủ nghĩa tư bản tất yếu phải nhường chỗ
cho một phương thức sản xuất và chế độ mới văn mới văn minh hơn, nhân đạo
hơn. Chủ nghĩa tư bản mặc dù đã và đang tìm mọi cách để tự điều chỉnh, tự
thích nghi bằng cách phát triển “ nền kinh tế thị trường hiện đại ”,” nền kinh tế
thị trường xã hội “, tạo ra ”chủ nghĩa tư bản xã hội ”, “ chủ nghĩa tư bản nhân
dân ”,” nhà nước phúc lợi chung ” …, Nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất
của nó, chủ nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được. Nền kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa thể hiện xu hướng tự phủ định và tự tiến hoá để chuẩn bị chuyển
sang giai đoạn hậu công nghiệp, theo xu hướng xã hội hoá. Đây là tất yếu khách

quan, là quy luật phát triển của xã hội. Nhân loại muốn tiến lên, xã hội muốn
phát triển thì dứt khoát không thể dừng lại ở kinh tế thị trường chủ nghĩa tư bản.
Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô – Viết là một kiểu tổ chức xã hội, tổ chức
kinh tế muốn sớm khắc phục những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, muốn
nhanh chóng xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức sản
xuất văn minh, hiện đại hơn chủ nghĩa tư bản. Đó là một ý tưởng tốt đẹp, và trên
thực tế suốt hơn 70 tồn tại, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô đã đạt được
nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi hẳn bộ mặt của đất nước và đời sống của
nhân dân Liên Xô. Nhưng có lẽ do nôn nóng, làm trái quy luật, muốn xoá bỏ
ngay kinh tế hàng hoá, áp dụng ngay cơ chế kinh tế phi thi trường,không năng
động, cho nên đã không thành công.
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn
thấp, lại bị triến tranh tàn phá nặng nề . Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý
tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời
thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách
nào ? Đó là câu hỏi lớn cực kì hệ trọng, muốn trả lời thật không đơn giản. Suốt
5


một thời gian dài, Việt Nam cũng như nhiều nước khác Viêt Nam cũng áp dụng
mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết, mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung
mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng, nhất là
đáp ứng được yêu cầu của đất nước thời kỳ có chiến tranh. Nhưng về sau mô
hình này bộc lộ nhiều khuyết đểm và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải
một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều,
chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ đơn giản ,nóng vội không tôn trọng quy luật
khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của đảng cộng sản Việt
Nam (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực

hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra
những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ.
Hội nghị Trung ương 6,khóa VI (tháng 3-1989), đưa ra quan điểm phát triển nền
kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi
“ chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy
luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội ”.
Đến đại hội VII ( tháng 6 năm 1991 ) tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này và
khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nươc trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội của Đảng khẳng định : “ phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước”.
Đại hội VIII của Đảng (6/1996) đưa ra một kết luận mới rất quan trọng : “sản
xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của
nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng
6


chủ nghĩa xã hội và ngay cả khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng”. Những lúc
đó cũng mới nói nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm “
kinh tế thị trường ”.
Đến đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội khẳng định: phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là
mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.Vì vậy nước ta chọn mô hình kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.2 Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội XII đã nêu ra định nghĩa về khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là

nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường,
đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc
tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
1.2.3 Đặc điểm nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Bản chất, đặc trưng nền kinh tế thị định hướng xã hội chủ nghĩa: Nền kinh tế thị
trường Việt nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nó có những đặc
trưng riêng. Đặc trưng đó chính là tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị
trường ở nước ta. Đây là đặc trưng cần thiết và có tính khách quan. Theo ý kiến
của đa số các nhà khoa học Việt nam thì có thể quan niệm định hướng XHCN
nền kinh tế thị trường ở nước ta có những nội dung sau:
Là một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.Vì
vậy, mà nền kinh tế phát triển có hiệu quả trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc gia,
7


lợi ích của nhân dân lao động thông qua hệ thống pháp luật, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế, xã hội.
Là nền kinh tế vừa vận hành theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa
được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận quan trọng
của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Vì nắm
giữ các lĩnh vực kinh tế then chốt, trọng yếu, thông qua đó điều tiết vĩ mô nền
kinh tế, thực hiện phúc lợi xã hội, tránh sự lũng đoạn của kinh tế tư bản chủ
nghĩa bên trong cũng như bên ngoài.
Là một nền kinh tế chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững,

tăng cường tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; phát triển kinh tế đi đôi với phát
triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và từng chính sách phát triển,... Bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh
tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bằng pháp luật, cơ chế, chính
sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế.
Thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu;
đồng thời có các hình thức phân phối khác nữa (phân phối theo vốn, theo tài
năng cùng các nguồn lực khác đóng góp vào sản xuất kinh doanh), vừa khuyến
khích lao động, vừa bảo đảm phúc lợi xã hội cơ bản, bảo đảm sự phân phối
công bằng, hợp lý và hạn chế sự bất bình đẳng trong xã hội.
Kết hợp ngay từ đầu giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, bảo đảm
giải phóng sức sản xuất; xây dựng lực lượng sản xuất kết hợp với củng cố và
hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, nhằm phục vụ cho phát triển
sản xuất và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữa phát triển sản xuất với
từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân; giải quyết tốt các vấn đề xã

8


hội và công bằng xã hội, ngăn chặn các tệ nạn xã hội; giải quyết tốt các nhiệm
vụ chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường và an ninh, quốc phòng.
Mang tính cộng đồng cao theo truyền thống của xã hội Việt Nam, phát triển
kinh tế thị trường có sự tham gia của cộng đồng và vì lợi ích của cộng đồng,
hướng tới xây dựng một cộng đồng xã hội Việt Nam giàu có, đầy đủ về vật chất,
phong phú về tinh thần, dân chủ, công bằng, văn minh, đảm bảo cuộc sống ấm
no và hạnh phúc cho nhân dân.
Dựa vào sự phát huy tối đa nguồn lực trong nước và triệt để tranh thủ nguồn
lực nước ngoài theo phương châm “Kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh
của thời đại” và sử dụng các nguồn lực đó một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao, để
phát triển nền kinh tế đất nước với tốc độ nhanh, hiện đại và bền vững.

Trên đây là các nội dung chính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường
Việt nam và cũng là đặc trung riêng của mô hình thị trường định hướng XHCN
ở nướcta. Nội dung của định hướng XHCN nêu trên không chỉ phản ánh nguyện
vọng và lý tưởng của Đảng, nhà nước và nhân dân ta mà còn phản ánh xu thế
phát triển kháchquan của thời đại cũng như quy luật tiến hoá của lịch sử.

II. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KÍNH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
2.1.Tính tất yếu về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội không chỉ là điểm then chốt trong lý
luận về chủ nghĩa xã hội mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng đối với sự
nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam khẳng định chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đã khẳng định và chứng minh đây là một bước
9


đột phá có tính sáng tạo và cách mạng trong tư duy lý luận của Đảng Cộng sản
Việt Nam về chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa trên thế giới mấy thập niên gần đây đã
chứng minh tư duy coi sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường là đối lập với chủ
nghĩa xã hội là hoàn toàn không phù hợp với thực tế. Sai lầm của các nước xã
hội chủ nghĩa trước đây là, trong một thời gian tương đối dài, đã phủ nhận kinh
tế thị trường, thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp. Tại Việt Nam,
cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp đã tồn tại tương đối dài, từ khi hòa bình
lập lại ở miền Bắc (1954) cho đến cuối những năm 90 của thế kỷ XX. Không
thể phủ nhận được cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp đã phát huy những tác
động tích cực trong việc huy động sức người sức của cho cuộc kháng chiến

chống Mỹ cứu nước. Tuy nhiên sau khi đất nước thống nhất, Nhà nước vẫn thực
hiện cơ chế này nên đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, khiến đất nước
rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm sau đó.
Nhưng với sự đổi mới tư duy của Đảng về kinh tế thị trường qua các đại hội,
từ Đại hội VI đến Đại hội XII đã từng bước làm rõ thêm về nội dung cơ bản của
định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bước đi phù hợp với
nước ta giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức nền kinh tế dựa trên nguyên tắc
và quy luật của kinh tế thị trường cùng với nguyên tắc và bản chất của chủ
nghĩa xã hội. Nó là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội, trong đó quá trình sản xuất,
phân phối, trao đổi, tiêu dùng gắn với thị trường được thực hiện thông qua thị
trườơng dưới sự quản lý của nhà nước. Do đó, kinh tế thị trường không chỉ là
công nghệ, kỹ thuật mà còn là quan hệ xã hội bao hàm yếu tố lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất. Nó gồm nhiều hình thức sở hữu mà trong đó nó phụ thuộc
vào chế độ sở hữu của Nhà nước xã hội chủ nghĩa thống trị. Trong các chế độ
10


xã hội khác nhau, kinh tế thị trường mang tính chất xã hội khác nhau. Tác động
tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào chế độ xã hội,
đường lối của Đảng cầm quyền và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có 2 đặc điểm cơ
bản: Đầu tiên, do đây là nền kinh tế thị trường mới bước đầu hình thành còn sơ
khai, trình độ thấp, các loại hình thị trường chưa hình thành đầy đủ, đồng bộ.
Thứ hai, kinh tế thị trường mang định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng
sản lãnh đạo và do Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý.
Vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước đối với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là tất yếu.
Là một đặc điểm bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được

chi phối bởi bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Không có Đảng
lãnh đạo và Nhà nước xã hôi chủ nghĩa quản lý thì không thể có kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường vốn có xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa. Nên chỉ có Đảng
Cộng sản lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương đúng đắn phù hợp và sự quản lý
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa bằng chính sách pháp luật, các công cụ quản lý
vĩ mô mới hạn chế tính tự phát tư bản chủ nghĩa, đảm bảo tính định hướng xã
hội chủ nghĩa cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Kinh tế thị trường vốn có 2 mặt: Mặt tích cực là thúc đẩy kinh tế tăng trưởng
nhanh, chú trọng lợi ích và hiệu quả kinh tế, … và mặt tiêu cực là sự phân hóa
giàu nghèo ngày càng tăng, hạ thấp giá trị đạo đức, … Mặt trái của nền kinh tế
thị trường mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội nên cần sự quản lý của
Nhà nước để phát huy mặt tích cực và hạn chế tiêu cực của nền kinh tế thị
trường.

11


Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa là lực lượng lãnh đạo và quản lý
xã hội. Lực lượng này có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế
khách quan, chuyển hóa chúng thành đường lối, chính sách, pháp luật, … để tổ
chức, thực hiện nâng cao đời sống nhân dân.
Phát triển tất cả các thành phần kinh tế trên cơ sở đa dạng hóa các quan hệ sơ
hữu, lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo, thực hiện chế độ phân phối lợi ích một
cách hợp lý thông qua việc sử dụng các công cụ quản lý kinh tế, tạo động lực
phát triền mạnh mẽ nền kinh tế.
Tạo môi trường pháp lý lành mạnh về kinh tế để phát triển manh mẽ lực lượng
sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế hoạt động bình đẳng,
tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Thực hiện các chức năng kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh tế theo đúng pháp

luật và chính sách.
2.2 Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Qua gần 30 năm đổi mới, nước ta đã dần chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
hoá, tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vai trò quản lý của nhà nước có những bước chuyển biến lớn trong điều
kiện kinh tế thị trường, thể hiện ở những điểm sau:
Một là, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế thị
trường.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tư cách một nhiệm vụ
chiến lược quan trọng trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa với
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhằm xây dựng một chế
độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để xây
12


dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy thì công cụ, phương tiện
cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sau khi nước ta trở thành thành
viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đòi hỏi chúng ta tiếp tục đẩy
mạnh cải cách hành chính Nhà nước, cải cách pháp luật, đảm bảo cho Nhà nước
không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ
phát triển kinh tế – xã hội, thực hành dân chủ, giữ vững độc lập, tự chủ và hội
nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
Hai là, các nguồn lực do Nhà nước quản lý được phân bổ theo chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phù hợp cơ chế thị trường.
Chính phủ có thể thông qua hệ thống luật pháp và thông qua sự lựa chọn của

mình để tác động đến sản xuất. Đồng thời, thông qua thuế và các khoản chuyển
nhượng để tác động đến khâu phân phối, từ đó tác động đến việc phân bổ các
nguồn lực của nền kinh tế. Kinh nghiệm của Việt Nam trong những năm qua
cho thấy để phân bổ nguồn vốn hiệu quả thì khâu đột phá là giải quyết mối quan
hệ Nhà nước và thị trường. Cho dù sự phân bổ các nguồn lực thuộc về Nhà
nước thì cũng phải tôn trọng các nguyên tắc của thị trường.
Với chủ trương phát triển đồng bộ và vững chắc thị trường tài chính, Nhà
nước đã sử dụng nhiều biện pháp tăng cường quản lý thị trường vốn, đảm bảo
thị trường này vận hành thống suốt, công khai và hiệu quả; nâng cao tính thanh
khoản và tạo được những thay đổi căn bản về thể chế, cấu trúc thị trường để tạo
dựng nền tảng tài chính vững mạnh, đảm đương được vai trò phân bổ nguồn lực
xã hội hiệu quả, đồng thời đảm bảo ổn định tài chính để phát triển bền vững.
Ba là, Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế
kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch.
13


Vai trò kinh tế của nhà nước là hướng tới mục tiêu chung, làm cho dân giàu,
nước mạnh, tăng trưởng ổn định và công bằng xã hội. Sự định hướng nền kinh
tế của nhà nước được thực hiện thông qua việc nhà nước xây dựng quy hoạch,
chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn. Mặt khác, nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi như: hệ thống luật
pháp đồng bộ, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế; hệ thống các văn bản
hướng dẫn, các định chế, các chính sách phát triển kinh tế …để các chủ thể kinh
tế giảm thiểu rủi ro, tranh chấp. Nhà nước đã xây dựng hệ thống pháp lý để
chống lại gian lận bao gồm: hệ thống có liên quan tới những quyền sở hữu,
những điều luật về phá sản và khả năng thanh toán, hệ thống tài chính với ngân
hàng trung ương và các ngân hàng thương mại để giữ cho việc cung cấp tiền
mặt được thực hiện một cách nghiêm ngặt.
Đồng thời, Nhà nước sử dụng công cụ chiến lược, kế hoạch, luật pháp và chính

sách làm căn cứ cho hoạt động kiểm tra, kiểm soát, đánh giá đối với nền kinh tế
để điều tiết các hành vi ứng xử của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, Nhà nước sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ, cơ chế,
chính sách để định hướng, điều tiết nền kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, bên cạnh
sự phát triển tất yếu của xã hội xuất hiện sự phân hoá giàu nghèo ngày càng
tăng. Do vậy, nhà nước cần phải có những biện pháp phân phối lại của cải xã
hội nhằm hạn chế sự phân hoá này, làm lành mạnh xã hội. Nhà nước thực hiện
phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế
gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Điều này
thể hiện rõ rệt nhất tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị trường ở nước ta.

14


Về vấn đề thu nhập, Nhà nước sử dụng hai biện pháp là: Điều tiết tăng thu nhập
được thực hiện thông qua trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng;
chính sách đối với người già, trẻ mồ côi không nơi nương tựa, người tàn tật;
điều tiết giảm thu nhập được thực hiện thông qua công cụ thuế: như thuế thu
nhập cá nhân; thuế thu nhập doanh nghiệp; mặt hàng xa xỉ, cao cấp việc tăng
thuế sẽ góp phần phân phối lại một bộ phận thu nhập trong xã hội.
Về vấn đề an sinh xã hội, Nhà nước có vai trò quyết định trong việc nâng cao
phúc lợi công cộng, xoá đói, giảm nghèo. Các vấn đề như việc làm, sức khoẻ,
bảo hiểm y tế, lương hưu, trợ cấp khó khăn… luôn là những vấn đề rất cần đến
sự quan tâm của Nhà nước.
Tóm lại, Nhà nước có vai trò to lớn trong việc bảo đảm sự ổn định vĩ mô
cho phát triển và tăng trưởng kinh tế, thể hiện sự cân đối, hài hòa các quan hệ
nhu cầu, lợi ích giữa người và người, tạo ra sự đồng thuận xã hội trong hành

động vì mục tiêu phát triển của đất nước. Tính đúng đắn, hợp lý và kịp thời của
việc hoạch định và năng lực tổ chức thực hiện các chính sách phát triển vĩ mô
do Nhà nước đảm nhiệm là điều kiện tiên quyết để hình thành sự đồng thuận đó.
Việc tăng cường quản lý vĩ mô sẽ nâng cao hiệu quả tác động của Nhà nước tới
sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Thêm vào đó, thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường hơn 30 năm đổi mới
cho thấy, Nhà nước ta đã có nhiều tác động tích cực trong việc bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển nền kinh tế này. Việc từng
bước hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch
theo hướng tạo động lực và điều kiện thuận lợi hơn cho khai thác các tiềm năng
trong và ngoài nước để phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng
kinh tế, nhìn chung, không ngừng được nâng cao: thời kỳ 1986 – 1990, tăng
trưởng GDP bình quân đạt 4,5%/năm; 1996 – 2000: 7%/năm; 2001 – 2005:
15


7,5%/năm; năm 2007 đạt 8,48%. Năm 2008, dù phải đối mặt với không ít khó
khăn, nhưng Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng GDP là 6,23% Trong các năm
tiếp theo, do tiếp tục chịu tác động từ cuộc khủng hoảng nợ công 2010, tốc độ
tăng trưởng GDP giai đoạn (2011 – 2015) của Việt Nam tuy đã chậm lại nhưng
vẫn đạt 5,75%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới. GDP tăng trưởng năm
2016 đạt 6,21%. Nhà nước cũng có nhiều chính sách khai thác ngoại lực, biến
ngoại lực thành nội lực cho sự phát triển. Biểu hiện rõ nhất là Nhà nước đã hoàn
thiện Luật Đầu tư, thu hút được nhiều vốn ODA, FDI,… Từ năm 1988 đến hết
năm 2006, có hơn 8.000 dự án đầu tư FDI với tổng vốn đăng ký 74 tỉ USD.
Năm 2006, khu vực FDI đóng góp gần 30% cho tăng trưởng kinh tế; xuất khẩu
của khu vực này chiếm khoảng 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước;
cung cấp việc làm cho khoảng 50 vạn người và việc làm gián tiếp cho 2,5 triệu
người; đào tạo được 8.000 cán bộ quản lý, 30.000 cán bộ kỹ thuật. Giai đoạn

2006 – 2010 đã đánh dấu thời kỳ khởi sắc của dòng vốn FDI, đây là giai đoạn
Việt Nam bước vào WTO và đã tọa ra làn sóng FDI thứ 2 trong năm 2008 khi
cả năm thu hút được 1.171 dự án với tổng vốn đăng ký lên đến 71,1 tỷ USD,
gần bằng số vốn lũy kế của giai đoạn từ 1988 – 2007. Sang năm 2009 – 2010,
vốn FDI sụt giảm rất lớn so với năm 2008 nhưng cũng không phải kết quả tồi
trong bối cảnh kinh tế toàn cầu rơi vào khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh
tế. Giai đoạn từ 2011 đến nay, dù có chút khó khăn bất ổn nhưng nền kinh tế
Việt Nam vẫn đạt được kế hoạch thu hút FDI đề ra, bình quân trên dưới 20 tỷ
USD/năm. Theo số liệu thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài, tính đến ngày
20/12/2016, cả nước đang có 22.509 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký
đạt gần 293,25 tỷ USD.
Hơn thế nữa, Nhà nước đã góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, chỉ số
giá tiêu dùng không ngừng giảm: tháng 9-2008 tăng 0,18%, tháng 10 giảm
0,19%, tháng 11 giảm 0,76%, tháng 12 giảm 0,68%. Kinh tế vĩ mô ổn định: thu
chi ngân sách được cân đối; tổng thu ngân sách nhà nước vượt mức dự toán cả
16


năm, tăng 26,3% so với năm 2007. Kim ngạch xuất khẩu đạt 62,9 tỉ USD, vượt
kế hoạch đề ra; kim ngạch nhập khẩu đạt 80,4 tỉ USD, tăng 28% so với năm
2007. Giai đoạn 2011-2016, xuất khẩu hàng hóa đã đạt tốc độ tăng trưởng cao,
gấp hơn 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP . Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thế giới đã tăng hơn
gấp 3 lần trong 15 năm từ mức 0,25% năm 2001 lên hơn 0,8% năm 2016, đặc
biệt là nhóm hàng nông sản Việt Nam. Mặc dù tỷ trọng đóng góp còn ở mức
thấp song điều này cho thấy mức độ tham gia ngày càng sâu và rộng của Việt
Nam trong chuỗi giá trị thế giới, cải thiện đáng kể vị thế của Việt Nam nói
chung và hàng hóa Việt Nam nói riêng. Về nhập khẩu, tỷ trọng nhập khẩu trong
tổng kim ngạch xuất khẩu có xu hướng giảm dần, góp phần cải thiện cán cân
thương mại Việt Nam. Giai đoạn 2011-2016, nhập khẩu Việt Nam trung bình

tăng trên 14,36%/ năm, thấp hơn hẳn 2 giai đoạn (2001-2010). Những thành tựu
này có vai trò to lớn trong việc giữ vững ổn định xã hội, tạo môi trường thuận
lợi cho tăng trưởng kinh tế.
2.3. Nội dung quản lý kinh tế của Nhà nước.
Để có thể tạo nên những bước đột phá trong phát triển kinh tế đất nước thì
Nhà nước cần có nội dung quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường . Nội
dung quản lý kinh tế của Nhà nước bao gồm những ý chính như sau:
Quyết định chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Toàn bộ sự phát triển của
nền kinh tế phụ thuộc trước hết vào đường lối và chiến lược phát triển kinh tế.
Để xây dựng chiến lược đúng có căn cứ khoa học cần phân tích đúng thực trạng
kinh tế. Để xây dưng chiến lược đúng, có căn cứ khoa học , cần phân tích đúng
thực trạng kinh tế – xã hội, xác định rõ mục tiêu phát triển lựa chọn phương án
tối ưu. Muốn vậy phảI thực hiện dân chủ hoá, khoa học hoá, thể chế hoá quyết
sách.

17


Kế hoạch: Kế hoạch ở đây là kế hoạch thực hiện mục tiêu của quyết định
chiến lược, nó là sự triển khai và cụ thể hoá quyết định chiến lược. Kế hoạch
xác định mục tiêu dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, và nêu ra các biện pháp và
phương thức thực hiện mục tiêu đó.
Tổ chức: Tổ chức là một nội dung quản lý nhằm bảo đảm kế hoạch đã định.
Nó bao gồm việc bố trí hợ ly cơ cấu, xác định rõ chức năng, quyền hạn, trách
nhiệm của các tổ chức và dựa vào yêu cầu cụ thể của các cơ cấu để lựa chọn và
bố trí cán bộ thích hợp.
Chỉ huy và phối hợp: Nền kinh tế là một hệ thống phức tạp, bao gồm nhiều
chủ thể khác nhau, vì thế để cho nền kinh tế hoạt động bình thường, có hiệu
quả, cần có sự chỉ huy thống nhất ( điều chỉnh từ một trung tâm ). Để có thể chỉ
huy nền kinh tế, phải có cơ quan quản lý thống nhất, cơ quan đó có quyền lực,

có đầy đủ thông tin về các mặt để đIều hoà, phối hợp các mặt hoạt động của nền
sản xuất xã hội, giải quyết kịp thời các vấn đề nảy sinh để đảm bảo cân bằng
tổng thể của nền kinh tế.
Khuyến khích và thưởng phạt: Tăng các đòn bẩy kinh tế và động viên tinh
thần, khuyến khích mọi tổ chức kinh tế hoạt động theo định hướng kế hoạch.
Muốn vậy phải có chế độ thưởng phạt rõ ràng, hoạt động theo định hướng kế
hoạch, cố gang thự hiện nhiệm vụ của kế hoạch, làm lợi cho nền kinh tế thì
được khuyến khích; ngược lại, không làm theo định hướng kế hoạch, làm hại thì
phải ngăn chặn và trừng phạt.
III. NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRÒN NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
3.1. Thực trạng nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay.
Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế từng bước được xác lập và tăng
cường thông qua sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước pháp quyền
18


xã hội chủ nghĩa, lấy con người làm trung tâm, vì mọi người và do con người..
Những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xóa bỏ nền kinh tế kế hoạch
hóa, tập trung bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
đã được các nhà đầu tư trong, ngoài nước và người tiêu dùng hưởng ứng nhiệt
tình. Kế hoạch pháp lệnh được dỡ bỏ, các doanh nghiệp tư nhân trong nước và
doanh nghiệp có vốn nước ngoài xuất hiện ngày càng nhiều, hộ nông dân
chuyển sang kinh doanh hàng hóa, hộ tư thương phát triển mạnh, thị trường
hàng hóa và dịch vụ phát triển với quy mô ngày càng lớn, chủng loại phong phú
hơn. Thị trường tài chính phát triển khá nhanh, nhất là thị trường tín dụng, thị
trường chứng khoán. Thị trường bất động sản đã hình thành. Thị trường lao
động và thị trường khoa học - công nghệ đã hình thành và đang phát triển. Xuất,
nhập khẩu phát triển mạnh, nước ta trở thành nước có nền kinh tế mở ở mức độ
cao. Tuy nhiên, các yếu tố xã hội chủ nghĩa, hoặc xuất hiện nhưng không có

hiệu quả, hoặc chưa rõ nét. Cụ thể là thành phần kinh tế nhà nước, nếu hiểu là tổ
hợp của ngân sách nhà nước, tài sản công và doanh nghiệp nhà nước, thì đúng là
chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, nhưng hiệu quả rất thấp, nhất là xét theo
hệ số ICOR của đầu tư công (khoảng 5-6), hay xét theo hiệu quả cá biệt của
doanh nghiệp nhà nước. Thậm chí một số tập đoàn kinh tế nhà nước lớn lâm
vào tình trạng mất vốn, phá sản, nợ nần .Như, nếu tính cả 86.000 tỷ đồng của
Vinashin thì ngay từ cuối năm 2009 nợ của doanh nghiệp nhà nước đã lên tới
54,2% GDP của năm này. Theo báo cáo của Chính phủ, tổng số nợ phải trả hợp
nhất năm 2015 của 103 TĐ, TCT là 1.547.859 tỷ đồng, tăng 1% so với thực
hiện năm 2014. Hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu bình quân năm 2015 là 1,23
lần. Hợp tác xã còn yếu kém hơn nữa, đặc biệt là không hấp dẫn nông dân. Nhà
nước quản lý nền kinh tế chủ yếu theo chính sách ngắn hạn, hiệu lực và hiệu
quả thấp, các vấn đề về lũng đoạn thị trường, gian lận, hàng giả... diễn ra phổ
biến. Nhà nước bị mất dần niềm tin ở nhân dân do quản lý nền kinh tế chưa thực
sự hiệu quả và công bằng, do lợi ích nhóm chi phối nên nhiều chính sách kinh tế
chưa thực sự xuất phát từ lợi ích chung của quảng đại nhân dân lao động. Trong
19


khả năng nguồn lực hiện có, chưa có cơ chế điều tiết phân phối nguồn lực xã
hội và của cải làm ra hợp lý, nên phân hóa giàu - nghèo có khoảng cách ngày
càng lớn, chưa xử lý thật tốt quan hệ giữa sự tự điều tiết của cơ chế thị trường
với sự quản lý, điều tiết của Nhà nước, thủ tục quản lý quan liêu, lãng phí và
tham nhũng chưa được ngăn ngừa hiệu quả,... Những biến động của kinh tế thế
giới đã làm cho số đông người dân làm nông nghiệp có thu nhập thấp, hầu như
rất khó thoát nghèo. Tất cả những vấn đề đó một lần nữa lại đặt ra câu hỏi: tính
xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở đâu? Mặc dù Đại hội XI nhấn
mạnh vấn đề đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, coi hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong ba đột phá
chiến lược..., nhưng thực tế cho thấy những chủ trương này vẫn chưa đem lại

thành quả như mong muốn:
Kinh tế vĩ mô đã ổn định nhưng chưa thật bền vững, còn phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức;
Sản xuất, kinh doanh còn nhiều khó khăn;
Việc thực hiện tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng gặp nhiều khó khăn và chưa đáp ứng được yêu cầu;
Những kết quả bước đầu của việc thực hiện ba đột phá chiến lược chưa đủ để
tạo ra sự chuyển biến về chất trong đổi mới mô hình tăng trưởng, chất lượng
tăng trưởng chưa thật sự được nâng cao và duy trì một cách bền vững;
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém;
Công tác quản lý tài nguyên, môi trường còn nhiều bất cập;
Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu, mục tiêu đề
ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi;

20


An ninh chính trị vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định;
bảo vệ chủ quyền quốc gia còn nhiều thách thức; trật tự, an toàn xã hội vẫn còn
nhiều bức xúc.
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước với nền kinh tế thị
trường.
Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân
vững mạnh, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền
XHCN, của dân, do dân, vì dân, mang bản chất giai cấp công nhân, là công cụ
chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng là công cụ chủ yếu để cùng với MTTQ và các đoàn thể nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân về chính trị, kinh tế và xã hội, tạo ra động lực
mạnh thúc đẩy kinh tế phát triển với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Nhà

nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức,
mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước hoạt
động dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tổ chức đảng và mọi đảng viên đều phải
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Cải cách bộ máy, thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước theo
phương châm “thà ít mà tốt”.
Cải cách bộ máy, thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước ta hiện nay là
nhằm mục đích nâng cao hiệu lực, hiệu quả, quản lý nhà nước trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội, đặc biệt là đối với kinh tế. Do đó cần tiến hành tốt các
nội dung cụ thể sau đây: Một là: Phải phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của
từng tổ chức lập pháp, hành pháp, tư pháp, các mối quan hệ và cơ chế phối hợp
giữa các tổ chức đó với nhau, tinh gọn tổ chức, bộ máy và biên chế; khắc phục
sự trùng lặp, chồng chéo về chức năng làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động
của Nhà nước. Hai là: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, hiện đại
21


hóa nền hành chính quốc gia, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính. Tiếp tục
cải cách chế độ công vụ, công chức, chính sách tài chính công, xây dựng chính
phủ điện tử và từng bước hiện đại hóa nền hành chính Nhà nước. Ba là: Xây
dựng đồng bộ, nâng cao chất lượng và tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống
pháp luật và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện ngày càng tốt
hơn an sinh và phúc lợi xã hội. Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chiến lược
quy hoạch và bằng các nguồn lực, các chính sách hướng các quá trình phát triển
kinh tế - xã hội và hệ thống kinh doanh vào những lĩnh vực và địa bàn cần thiết,
đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của sự phát triển của đất nước.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực tổ chức và quản lý
nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng XHCN. Cán bộ là cái gốc để
hoàn thành tốt mọi công việc. Vì vậy, cần hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế
cán bộ, công chức, coi trọng cả năng lực và đạo đức; bảo đảm tính nghiêm túc,

trung thực trong thi tuyển cán bộ, công chức. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công
chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn, gắn với việc tinh giản biên chế, nâng cao
chất lượng đội ngũ... Tăng cường cán bộ cho cơ sở, nhất là miền núi, vùng sâu,
vùng xa, nơi có nhiều khó khăn. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức... Đổi mới chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã,
phường, thị trấn để họ yên tâm phấn khởi làm việc.
Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật, tăng cường pháp chế. Phát
huy dân chủ là phát huy nguồn sức mạnh to lớn của toàn dân tộc vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, củng cố, nâng cao hiệu lực và hiệu quả
hoạt động của bộ máy Nhà nước nói riêng, từ thực tiễn đời sống chính trị của xã
hội ta hiện nay, ĐH lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh một số yêu cầu sau: Một là,
Phát huy dân chủ trong việc bầu cử, ứng cử, bảo đảm chất lượng và cơ cấu các
đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Hai là, thực hiện tốt quy chế dân chủ,
mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền
làm chủ tham gia quản lý xã hội nói chung và kinh tế nói riêng, thảo luận và
22


quyết định những vấn đề quan trọng; khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình
thức, dân chủ cực đoan. Ba là, Đổi mới và thực hiện cơ chế “một cửa” không
gây khó khăn, phiền hà, sách nhiễu với dân; xác định rõ trách nhiệm của các
cấp, các cơ quan và cán bộ, công chức để tạo ra bước chuyển rõ nét trong việc
giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo của công dân, đặc biệt là những khiếu
nại về đất đai, tham ô, tham nhũng tác động xấu đến sự phát triển tăng trưởng
kinh tế. Bốn là: Bằng các chính sách, biện pháp thích hợp chăm lo cho con
người, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người dân. Năm là: Phát
huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản
lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của mọi tổ chức và cá nhân.
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Tăng cường vai trò

lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước không có nghĩa là Đảng làm thay Nhà
nước, mà vấn đề mấu chốt là giải quyết đúng đắn mối quan hệ: Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Với tư cách là người lãnh đạo, Đảng phải
đưa ra đường lối chiến lược cách mạng nói chung và đường lối chiến lược phát
triển kinh tế nói riêng đúng đắn, có khả năng thực thi trong thực tiễn; Nhà nước
phải bằng chức năng, nhiệm vụ của mình tổ chức, động viên toàn dân tham gia
thực hiện thắng lợi đường lối chiến lược đó của Đảng đề ra; nhân dân phải nâng
cao tinh thần làm chủ tập thể thông qua Nhà nước và bằng Nhà nước để thực
hiện có hiệu quả cao các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng đề ra trong từng
thời kỳ cách mạng. Chỉ có như vậy sự tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng với
Nhà nước mới thực sự có ý nghĩa khoa học và thực tiễn trong đời sống xã hội.

23


C.KẾT LUẬN
Sau 30 năm chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoach hóa tập chung sang nền kinh
tế thị trường đã đem lại cho Việt Nam những thành tựu to lớn cựu kì quan trọng.
Từ đại hội VI Đảng ta đã khởi xướng quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo
KTTT định hướng XHCN phải có sự quản lý của nhà nước, các đại hội tiếp theo
cho đến nay vẫn nhấn mạnh vai trò của Nhà nước là yếu tố quan trọng quyết
định phát triển của nền kinh tế. Vì vậy Đảng và Nhà nước cần có những chính
sách cụ thể hơn nữa để nâng cao mặt tích cực của thị trường hạn chế tối đa mặt
tiêu cực. Đồng thời Nhà nước phải nâng cao hơn nữa hiệu lực pháp lý trong
điều tiết vĩ mô của nền kinh tế. Phất triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa
xã hội nhằm làm cho dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

24



×