Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

việt nam hội nhập kinh tế thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.55 KB, 21 trang )

VIỆT NAM HỘI NHẬP KINH TẾ THẾ GIỚI
Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế:

I.

Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đã và đang là xu
thế nổi bật của kinh tế thế giới đương đại. Phù hợp với xu thế đó, từ năm 1986 đến
nay, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc
tế với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Việt Nam sẵn
sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc
lập và phát triển”. Việt Nam luôn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương
hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam là bạn, đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp
tác quốc tế và khu vực.
Hội nhập kinh tế quốc tế là việc gắn kết nền kinh tế nước ta với các nền kinh
tế khác trên thế giới. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế
giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản
phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
II. Nội dung của hội nhập
-Từ năm 1996 tới nay Việt Nam đã ký kết 8 hiệp định Thương Mại quan trọng ảnh
hưởng lớn đến tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam.


Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) (1996)



Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) (2004)




Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA) (2006)



Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP) (2008)



Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) (2009)



Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN – Australia và New
Zealand(AANZFTA) (2010)



Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN– Ấn Độ (AIFTA) (2010)



Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Chile (VCFTA) (2012)




-Nếu như tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ 1986 - 1990 chỉ đạt
4,4%/năm thì bình quân thời kỳ 1991 - 2011 đạt 7,34%/năm. Đặc biệt, sau

khi gia nhập WTO, Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trong năm
2007, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 8,46% (là mức cao nhất trong vòng 11
năm trước đó). Do ảnh hưởng từ những biến động của nền kinh tế thế giới,
tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2011 - 2013 giảm xuống còn 5,6%.
Ngoài ra, có thể nói thành tựu về tăng trưởng kinh tế được nhìn nhận một
cách rõ ràng nhất là đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội
và ra khỏi danh sách các nước kém phát triển sau 30 năm đổi mới.



- Về thương mại hàng hóa: Các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế
quan như QUOTA, giấy phép xuất khẩu…, biểu thuế nhập khẩu được giữ
hiện hành và giảm dần theo lịch trình thỏa thuận…



- Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với các
bốn phương thức: cung cấp qua biến giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ,
thông qua liên doanh.



- Về thị trường đầu tư: Không áp dụng đối đầu với đầu tư nước ngoài yêu
cầu về tỉ lệ nội địa hóa, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận
nguồn ngoại tệ khuyết khích tự do hóa đầu tư



Tình hình Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
có một số điểm nổi bật sau:





1. Việt Nam đang tích cực tham gia và phát huy vai trò thành viên trong
các tổ chức kinh tế quốc tế.






Với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế: WTO, ASEAN,
APEC, Việt Nam đã nỗ lực thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết và
tích cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các tổ chức này. Cụ thể
như sau:




* Trong khuôn khổ WTO:




- Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính sách
thương mại theo hướng minh bạch và tự do hóa hơn, việc cải cách này thể
hiện ở các cam kết đa phương về pháp luật và thể chế cũng như các cam
kết mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ.





- Việt Nam đã thực hiện đúng các cam kết đa phương và các cam kết mở
cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ cũng như các biện pháp cải cách đồng bộ
nhằm tận dụng tốt các cơ hội và vượt qua thách thức trong giai đoạn ta hội
nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu.




- Là thành viên của WTO, ta đã cố gắng tham gia tích cực các cuộc đàm
phán trong khuôn khổ WTO ở các nội dung có liên quan đến Việt Nam có
liên quan đến Việt Nam như nông nghiệp, công nghiệp, sở hữu trí tuệ, trợ
cấp thủy sản và chương trình hỗ trợ thương mại của WTO…..




- Việt Nam đang tích cực chuẩn bị cho phiên rà soát chính sách thương
mại lần đầu tiên của Việt Nam, dự kiến diễn ra trong khoảng thời gian đầu
năm 2013.




* Trong khuôn khổ ASEAN





- Sau 16 năm tham gia Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN,
1995-2011), mối quan hệ hợp tác khu vực giữa Việt Nam với ASEAN
ngày càng phát triển toàn diện và có tác động sâu sắc tới đời sống kinh tế,
xã hội và chính trị của Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam
trên các diễn đàn hợp tác khu vực và thế giới. Đối với Việt Nam, ASEAN


luôn là đối tác thương mại và đầu tư lớn nhất (riêng năm 2009, ASEAN là
nhà đầu tư lớn thứ 2 của Việt Nam, sau Hoa Kỳ).



- Việc thực hiện các cam kết hội nhập sâu rộng nhằm xây dựng Cộng đồng
ASEAN vào năm 2015 đã đóng góp thiết thực cho việc cải thiện môi
trường luật pháp trong nước, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng như làm cơ sở, làm tiền đề giúp Việt
Nam tham gia các khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương khác.




- Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Chủ tịch luân phiên của ASEAN
vào năm 2010, trong năm 2011, Việt Nam đã tích cực tham gia các
chương trình hợp tác nhằm thực hiện Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.
Cho tới nay, Việt Nam là một trong số các nước có tỷ lệ thực hiện cao các
biện pháp và sáng kiến đề ra trong Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng
đồng kinh tế ASEAN.





* Trong khuôn khổ APEC




- Đối với Việt Nam, Diễn đàn APEC có ý nghĩa hết sức quan trọng. APEC
là khu vực dành viện trợ phát triển lớn nhất, chiếm tới 65% tổng số vốn
đầu tư nước ngoài, 60% giá trị xuất khẩu, 80% giá trị nhập khẩu, và 75%
tổng số khách du lịch quốc tế tới Việt Nam. Hầu hết các đối tác chiến
lược quan trọng và các đối tác kinh tế - thương mại hàng đầu của ta là các
nền kinh tế thành viên của APEC.




- Kể từ khi trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn APEC năm 1998,
Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc các cam kết hợp tác của APEC như
Báo cáo về Chương trình Hành động Quốc gia hàng năm, thực hiện
Chương trình Hành động tập thể, các kế hoạch hợp tác về thuận lợi hoá


thương mại, đầu tư... Ta cũng đảm nhận vị trí Chủ tịch và điều hành nhiều
Nhóm công tác quan trọng như Nhóm Công tác Y tế nhiệm kỳ 2009 2010, Nhóm công tác về Đối phó với tình trạng khẩn cấp, Nhóm công tác
về thương mại điện tử… Việt Nam đã triển khai thành công hơn 60 sáng
kiến, đồng bảo trợ hàng trăm sáng kiến trên hầu hết các lĩnh vực thương
mại, đầu tư, hợp tác kinh tế kỹ thuật, y tế, đối phó với thiên tai, chống
khủng bố... Việt Nam đã được đánh giá là một trong những thành viên
năng động, đã có nhiều sự đóng góp tích cực cho Diễn đàn APEC.




* Trong khuôn khổ ASEM






- Là diễn đàn đại diện hơn 60% dân số thế giới và đóng góp hơn 50% tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, ASEM không chỉ là cầu nối cho quan
hệ đối tác mới giữa hai châu lục Á-Âu mà còn hướng tới mục tiêu đem lại
những đóng góp thiết thực cho hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế
giới.
GDP



THEO Quỹ tiền tệ quốc tế năm 2017 :đứng thứ 127 đạt 6895 đô la



Theo thống kê Ngân hàng thế giới năm 2011-2015 đứng thứ 124 đạt 5629
đô la



Theo thống kê CIA 1993-2015 đứng thứ 131 đạt 6100 đô la








2. Việt Nam đang tích cực tham gia vào đàm phán, ký kết các Hiệp định
thương mại tự do




Trong những năm gần đây, thế giới đang được chứng kiến sự gia tăng
nhanh chóng của các Hiệp định thương mại tự do (FTA) để thiết lập các
Khu vực thương mại tự do. Phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc
tế của thế giới và khu vực, tiến trình đàm phán và ký kết các FTA của Việt
Nam đã được khởi động và triển khai cùng với tiến trình gia nhập các tổ
chức quốc tế và khu vực. Đến nay, Việt Nam đã tham gia thiết lập FTA với
15 nước trong khung khổ của 6 FTA khu vực, bao gồm:




+ Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) được thiết lập bởi Hiệp
định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung từ năm 1996; mở rộng sang lĩnh
vực đầu tư bởi Hiệp định khu vực đầu tư ASEAN (AIA) từ năm 1998 sau
đó được thay thế bằng Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA).





+ Khu vực thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc được thiết lập bởi
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế quốc tế ASEAN – Trung Quốc
(ACFTA) năm 2002 và Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN – Trung
Quốc (ACTIG) năm 2004, thực hiện từ 1/7/2005; riêng Việt Nam còn
được điều chỉnh bởi Biên bản ghi nhớ Việt Nam – Trung Quốc (tháng
7/2005).




+ Khu vực thương mại tự do ASEAN- Hàn Quốc được thiết lập bởi Hiệp
định hàng hoá ASEAN-Hàn Quốc (AKTIG) ký tháng 8 năm 2006, thực
hiện từ 1/6/2007. Khu vực thương mại tự do ASEAN – Nhật Bản được
thiết lập bởi Hiệp định đối tác Kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản
(AJCEP) ký kết năm 2003, thực hiện từ năm 1998, riêng Việt Nam còn
được điều chỉnh bởi Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản
(VJEPA) năm 2008; thực hiện từ 1/1/2009.




+ Khu vực thương mại tự do ASEAN – Úc và Niu Dilân được thiết lập bởi
Hiệp định thương mại tự do và quan hệ kinh tế thân thiện toàn diện


ASEAN – Úc và Niu Dilân (AANZCERFTA), ký kết từ tháng 2/2009,
thực hiện từ 1/1/2010.




+ Khu vực thương mại tự do ASEAN - Ấn độ bước đầu hình thành và
thiết lập bởi Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Ấn
độ (AICECA) ký năm 2003 và Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN Ấn độ (AITIG) ký kết năm 2009, thực hiện từ 01/06 năm 2010.




Ngoài việc ký kết và tham gia các Hiệp định Thương mại tự do với tư
cách là thành viên khối ASEAN thì Hiệp định Thương mại tự do đầu tiên
mà Việt Nam ký kết với tư cách là một bên độc lập là Hiệp định đối tác
kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (2008), tiếp đó là Hiệp định Thương mại tự
do Việt Nam – Chi Lê (11/11/2011). Hiện Việt Nam đang nghiên cứu tiền
khả thi và triển khai đàm phán FTA với một số đối tác như EFTA (bao
gồm 4 nước là Thuỵ Sỹ, Na Uy, Liechtenstein và Ai-xơ-len), Liên minh
Hải quan (bao gồm 3 nước là Nga, Belarus và Kazakhstan), EU, Đài
Loan, Thổ Nhĩ Kỳ...



Việt Nam cũng đã chính thức tham gia vào đàm phán Hiệp định Đối tác
kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) từ tháng 11/2010.




3. Việt Nam đã và đang thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế với
mức độ tự do hoá sâu rộng





* Các cam kết trong khuôn khổ WTO:



Toàn bộ các cam kết về thuế quan của Việt Nam trong WTO được thể
hiện trong Biểu cam kết về Hàng hoá của Việt nam:






- Việt Nam cam kết ràng buộc với toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu hiện
hành gồm 10.600 dòng thuế.




- Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi 23% so với
mức thuế bình quân hiện hành (thuế suất MFN) của Biểu thuế (từ 17,4%
xuống còn 13,4%). Thời gian thực hiện sau 5- 7 năm.




- Trong toàn bộ Biểu cam kết, Việt Nam cắt giảm thuế với khoảng 3.800
dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của Biểu thuế);





* Cam kết thuế quan của Việt Nam trong các FTA khu vực




- Về mức độ tự do hoá: cơ bản là cao hơn mức cam kết gia nhập WTO của
Việt Nam. Trong đó, khoảng 90% số dòng thuế (tính theo dòng thuế của
kim ngạch nhập khẩu) với khung thời gian thực hiện cắt giảm xuống 0%
trong vòng 10 năm, có một số ít tỉ lệ dòng thuế được phép linh hoạt trong
khoảng thời gian kéo dài thêm 2 – 6 năm. Trong đó, mức độ tự do hoá
trong cam kết AFTA/CEPT/ATIGTA cao nhất (99 dòng thuế 8 số), thấp
nhất là trong cam kết AIFTA/AITIG (80 dòng thuế 6 số) và trong cam kết
AJCEP (88,6% dòng thuế 10 số).




- Về lộ trình cắt giảm thuế: Với AFTA, ACFTA và AKFTA việc giảm thuế
sẽ được thực hiện theo lộ trình qui định cho các bước giảm thuế hàng năm
(AFTA: 1996 – 2006 – 2015 – 2018, AKFTA: 2007 – 2016 – 2018). Mô
hình giảm thuế đối với các FTA còn lại (AJCEP, AIFTA, AANZFTA,
VJEPA) sẽ cắt giảm dần đều từng năm để đạt mức thuế suất cuối cùng
theo cam kết. (AJCEP: 2008 – 2018 – 2024, VJEPA: 2009 – 2019 – 2015,
AANZFTA: 2010 – 2018 – 2020, và AIFTA: 2010 – 2018 – 2021).






* Cam kết thuế quan của Việt Nam trong FTA Việt Nam – Chi Lê




- Việt Nam cam kết xoá bỏ thuế quan đối với 87,8% số dòng thuế trong
biểu thuế nhập khẩu hiện hành (chiếm 91,22% kim ngạch nhập khẩu từ
Chi lê sang Việt Nam năm 2007) trong vòng 15 năm. Trong 12,2% số
dòng thuế còn lại có 4,08% số dòng thuế thuộc danh mục loại trừ (không
tham gia giảm, xoá bỏ thuế), 3,37% số dòng thuế được giữ nguyên thuế
suất cơ sở và 4,75% số dòng thuế được giảm thuế một phần.




4. Việt Nam đã và đang gặt hái được những thành tựu trong việc tự do hoá
thương mại và mở cửa thị trường




- Thời kỳ 2001-2010, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình
quân 17,42%, cao hơn 2,42% so với chỉ tiêu đề ra tại Chiến lược phát
triển xuất khẩu 2001-2010.





Tính riêng trong giai đoạn 2007-2010, là giai đoạn sau khi gia nhập WTO,
xuất khẩu tăng bình quân 14% năm, nhập khẩu tăng bình quân 11% năm.




Đến năm 2011, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hóa
xuất khẩu đạt 96,3 tỷ USD là là mức cao nhất từ trước tới nay, tăng 33,3%
so với kỷ lục đạt được trong năm 2010. Đồng thời, mức nhập siêu của
năm 2011 là mức thấp nhất trong vòng 5 năm qua.




- Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 đã có sự
chuyển dịch khá tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế


biến và giảm dần hàng xuất khẩu thô. Trong đó, tỷ trọng của nhóm hàng
nông, lâm, thuỷ sản giảm dần từ 29,37% năm 2001 xuống còn 23,3% vào
năm 2010; nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đã tăng
mạnh từ 35,72% vào năm 2001, lên 48,9% năm 2010; nhóm hàng nhiên
liệu khoáng sản giảm từ 34,92% năm 2001 xuống còn 27,8% năm 2010.



- Thị trường ngoài nước ngày càng mở rộng, đa dạng. Số lượng thị trường
xuất khẩu đã tăng gấp hơn 1,4 lần sau 10 năm, từ 160 thị trường lên trên
230 thị trường. Cơ cấu thị trường xuất, nhập khẩu đã có sự chuyển dịch
theo hướng giảm dần lệ thuộc vào thị trường Châu Á.





CÁC SỰ KIỆN ĐÁNG CHÚ Ý VỀ KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2016



Môi trường kinh doanh được cải thiện rõ rệt



Theo Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá, Việt Nam đứng thứ 82/190 về
mức dộ dễ dàng kinh doanh.



Trong 11 tháng, cả nước đã có 101.683 doanh nghiệp đăng kí thành lập
mới, nâng số doanh nghiệp hoạt động nâng số điểm hoạt động vào thời
điểm cuối tháng 11 lên cao nhất trong 6 năm trở lại đây.




Sự trổi đậy mạnh mẽ của ngành sản xuất



Chỉ số quản trị mua hàng PMI - một chỉ số tổng hợp về tình trạng sản xuất
có thể thấy việt nam đang có sự tang vọt mạnh mẽ ở ngành sản xuất.




Cán cân thương mại khả quan




Theo báo cáo của CEL Consulting- công ty tư vấn quản lí chuổi cung ứng
logistics tại khu vực đông nam á cho biết việt nam không bị thâm hụt cán
cân thương mại xuất nhập khẩu.




Tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 158,5 tỷ USD, tăng 7,5% trong khi
kim ngạch nhập khẩu ước đạt 156,6 tỷ USD, tăng 3,5%.



Tổng thống mỹ Obama đến thăm Việt Nam



Bên cạnh những quyết định mang tính chất bước ngoặt về chính trị, ngoại
giao giữa 2 nước, chuyến viếng thăm của tổng thống Obama mở ra những
cơ hội cho nền kinh tế Việt NAm




Tăng trưởng GDP không đạt mục tiêu



Tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2016 dự kiến đạt 6,3 – 6,5%,
không đạt chỉ tiêu 6,7% đặt ra cũng như mục tiêu trung bình của nhiệm kỳ
(từ 6,5 – 6,7%).



Nguyên nhân khiến đà tăng trưởng bị kìm hãm là sự sụt giảm của công
nghiệp khai khoáng, nông nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề của thiên tai, hạn
hán, sự cố môi trường…



Tuy vậy, kinh tế Việt Nam vẫn có những điểm sáng khi Chính phủ đã
hoàn thành được 11/13 chỉ tiêu đã được Quốc hội giao cho như: giữ tốc độ
tăng giá tiêu dùng dưới 5%, giảm tỷ lệ hộ nghèo, huyện nghèo; nâng tỷ lệ
khu công nghiệp…



TPP không được thông qua



Việc ông Donald Trump, người thế hiện rõ sự hướng nội và có thái độ
không thân thiện với tự do hoá thương mại thắng cử đã khiến cho số phận
của Hiệp định TPP đang đi vào “ngõ cụt”.




Dệt may tăng trưởng thấp nhất trong vòng 10 năm



Theo thống kê, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành dệt may năm 2016
đã không đạt mục tiêu. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 5,2%, thấp nhất
trong 10 năm gần đây. Nguyên nhân được đưa ra là do tổng cầu thế giới
yếu, giá sản phẩm giảm…




Năm 2017, theo các chuyên gia dự báo, ngành dệt may Việt Nam vẫn sẽ
đối diện với những khó khăn khi lực cầu chưa được cải thiện. Tuy nhiên,
mục tiêu của kim ngạch xuất khẩu của ngành đặt ra là 30,5 tỷ USD.



III)TÁC ĐỘNG



Hiện nay, phạm vi đối tác FTA của Việt Nam đã khá rộng và toàn diện,
trong 3 - 5 năm tới sẽ chạm đến các dấu mốc quan trọng của nhiều Hiệp
định và dần tiến đến tự do hóa thuế quan hầu hết các mặt hàng nhập khẩu
với các đối tác thương mại chính. Ngoài ra, việc ký kết 2 Hiệp định và
tuyên bố kết thúc 2 Hiệp định quan trọng TPP và Việt Nam - EU sẽ tác

động đáng kể đến nền kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn tới.



Cụ thể:



-Đối với xuất, nhập khẩu: Quá trình thực hiện các cam kết cắt giảm thuế
quan trong hội nhập kinh tế quốc tế, hoàn thiện hệ thống quản lý hải quan
theo tiêu chuẩn quốc tế và cắt giảm hàng rào thuế quan đã tạo ra tác động
tích cực đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam.



Cơ hội lớn nhất là mở rộng thị trường nhờ cắt giảm thuế và dỡ bỏ rào cản
thương mại để tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Nếu như năm 2007, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam là 111,3
tỷ USD (trong đó xuất khẩu là 48,5 tỷ USD và nhập khẩu là 62,7 tỷ USD),
thì tới năm 2015 tổng kim ngạch xuất nhập



khẩu của Việt Nam đã tăng khoảng 3 lần đạt 328 tỷ USD (trong đó nhập
khẩu là 165,6 tỷ USD và xuất khẩu là 162,4 tỷ USD).



-Đối với chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu: Hội nhập kinh tế
quốc tế đã thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu

sản xuất hàng hóa xuất khẩu theo hướng tích cực, phù hợp với chủ trương
công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, theo đó tập trung nhiều hơn vào các
mặt hàng chế biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng công nghệ và giá trị gia
tăng cao hơn.



-Đối với thu hút FDI: Cùng với việc cải thiện môi trường đầu tư, hội nhập
kinh tế quốc tế đã và sẽ mở ra các cơ hội lớn đối với lĩnh vực đầu tư của


Việt Nam. Đầu tư tại Việt Nam, các nhà đầu tư có thể tiếp cận và hưởng
ưu đãi thuế quan từ các thị trường lớn mà Việt Nam đã ký kết FTA như
khu vực ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ...


-Đối với thu ngân sách nhà nước: Lộ trình cắt giảm thuế trong các FTA sẽ
dẫn tới giảm nguồn thu NSNN đối với hàng hóa nhập khẩu.



Ngoài ra, khi hàng rào thuế quan được gỡ bỏ nhưng các hàng rào kỹ thuật
không hiệu quả, Việt Nam sẽ trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm
chất lượng kém, ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng trong khi lại
không bảo vệ được sản xuất trong nước.



Đặc biệt, sản phẩm nông nghiệp và các doanh nghiệp, nông dân Việt Nam
đứng trước sự cạnh tranh gay gắt, trong khi đó hàng hóa nông sản và nông

dân là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong hội nhập.




-Đối với lĩnh vực đầu tư: Việc gia tăng dòng vốn nước ngoài vào Việt
Nam cũng đặt ra yêu cầu về tăng cường năng lực của cơ quan quản lý
trong việc giám sát dòng vốn ra vào, tránh nguy cơ bong bóng hoặc rút
vốn ồ ạt, để nền kinh tế có thể hấp thụ lượng vốn một cách có hiệu quả.



IV)Thuận lợi và thách thức



Việt Nam tham gia tổ chức thương mại Thế giới (WTO) ngày 7/11/2006.
Đây là dấu mốc quan trọng của Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế
quốc tế. Hội nhập quốc tế luôn tồn tại hai mặt đối lập. Đó là hội nhập kinh
tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ thuận lợi và đem lại không ít
những thách thức. Kiểm chứng cho nhận định chính là tình hình thực tế
sau 3 năm hội nhập kinh tế của nước ta.



a. Thuận lợi khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.



+. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thuận lợi trong thị trường xuất

nhập khẩu Việt Nam được hưởng ưu đãi về thuế quan , xóa bỏ hàng rào
phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hòa
của Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. Tạo điều kiện cho chúng ta
mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai. Cùng với sự dần lớn


mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta là mở rộng kinh doanh
dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia.



+. Hội nhập kinh tế quốc tế góp vấn thu hút vốn đầu từ nước ngoài.Chúng
ta đã và sẽ tiếp tục thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài.



+. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa
học, công nghệ tiên tiến.



+ Hội nhập quốc tế (gia nhập WTO) sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường
quốc tế về kinh tế, chính trị, ngoại giao... Thực tế cho thấy vai trò của
nước ta trong các hoạt động của WTO, ASEAN, APEC, ASEM và các tổ
chức quốc tế ngày càng được nâng cao (giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN…



.+ Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.



+. Hội nhập kinh tế thế giới tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển KH&CN trong thời gian tới.Quá trình đổi mới đất nước đã tạo ra
những tiền đề mới cho sự phát triển KH&CN của nước ta trong thời gian
tới.



b/Thách Thức Việt Nam hội nhập kinh tế, quốc tế



Một là, cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn. Cạnh tranh không chỉ giữa
doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước trên thị trường nước
ngoài để xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ mà cạnh tranh ngay trên thị
trường trong nước.



Lấy một thí dụ thực tế như: Nhiều siêu thị lớn do các doanh nghiệp nước
ngoài đầu tư đã mọc lên. các siêu thị này, với tiềm lực tài chính mạnh,
mạng lưới cung cấp hàng liên kết toàn cầu, kinh nghiệm kinh doanh cả
trăm năm . sẵn sàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao và phong
phú của người tiêu dùng. Do đó Những cửa hàng tạp hóa nhỏ lẻ hoặc
những siêu thị nội phải cạnh tranh khốc liệt để tồn tại, thậm chí bị phá sản
vì không thể cạnh tranh với siêu thị ngoại. Sau khi gia nhập WTO Việt



Nam có thị trường rộng hơn, cơ hội rộng hơn nhưng thách thức cũng
nhiều hơn. Rất nhiều doanh nghiệp đã gặp phải nhiều khó khăn trong việc
xuất khẩu sản phẩm của mình. Bởi để có thể xuất khẩu sản phẩm sang các
thị trường khó tình như Nhật Bản , EU… thì yêu cầu được đặt ra rất cao
như về chất lượng sản phẩm, giá cả…


Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các
yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụ tiềm ẩn nhiều rủi ro,
trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội.Thách thức ở đây là đề ra được
những chính sách đúng đắn nhằm tăng cường khả năng kiểm soát vĩ mô,
nâng cao tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền
kinh tế, củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khắc phục
những khó khăn ngắn hạn. Tóm lại, phải tạo dựng được môi trường để quá
trình chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực diễn ra một cách suôn sẻ,
với chi phí thấp.



Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cầu hết sức cấp
bách cho việc bổ sung và hoàn thiện thể chế. Trong thời gian qua, mặc dù
đã có nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp luật có liên quan đến
kinh tế và thương mại nhưng chúng ta vẫn còn rất nhiều việc phải làm.



Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã làm bộc lộ nhiều bất cập của nền
hành chính quốc gia. Do một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là
minh bạch hóa nên khi gia nhập WTO, nền hành chính quốc gia chắc chắn

sẽ phải có sự thay đổi theo hướng công khai hơn, minh bạch hơn và hiệu
quả hơn. Đó phải là nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của mọi
người dân, trong đó có doanh nghiệp và doanh nhân, lấy người dân, doanh
nghiệp, doanh nhân làm trọng tâm phục vụ, khăc phục mọi biểu hiện trì
trệ, thờ ơ và vô trách nhiệm. Nếu không tạo ra được một nền hành chính
như vậy thì chẳng những không tận dụng được các cơ hội do hội nhập
kinh tế nói chung và việc gia nhập WTO nói riêng đem lại mà cũng không
chống được tham nhũng, lãng phí nguồn lực.



Năm là, để bảo đảm tiến trình hội nhập đạt hiệu quả, bên cạnh quyết tâm
về chủ trương, cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và đội
ngũ doanh nhân đủ mạnh. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với Việt


Nam do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành
nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự
chuẩn bị phù hợp, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài
hạn rất khó khắc phục.


Sáu là, hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến sự hợp tác về an ninh và văn hóa.
Đồng thời, việc mở cửa thị trường, mở rộng giao lưu trong điều kiện bùng
nổ thông tin hiện nay, bên cạnh nhiều mặt tốt, những cái xấu cũng du nhập
vào, đòi hỏi các cấp lãnh đạo, quản lý và mọi người dân phải nâng cao bản
lĩnh chính trị, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhằm nâng cao sức đề
kháng, chống lại sự tha hóa, biến chất, chống lại lối sống hưởng thụ, tự do

sản




V. Biện pháp:



Đốí với cơ quan quản lý Nhà nước:



Tăng cường tuyên truyền cho các doanh nghiệp các thông tin về lộ trình
và các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.



Nâng cao năng lực giám sát thị trường tài chính nhằm kịp thời đối phó với
những biến động của dòng vốn, những ảnh hưởng lây lan từ khủng hoảng
tài chính của một nước trong khu vực.



Đối với hiệp hội ngành nghề:



Tiếp tục đẩy mạnh vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản
lý, tạo điều kiện kết nối giao lưu giữa các doanh nghiệp hội viên; tăng
cường phổ biến thông tin hội nhập về pháp luật của các nước, sở hữu trí
tuệ, sở hữu công nghiệp, quản lý chất lượng, các quy tắc xuất xứ... cho

doanh nghiệp hội viên; hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu.



Tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại - đầu tư theo thị trường,
ngành hàng, lĩnh vực kinh doanh cụ thể để nâng cao khả năng tiếp cận thị


trường trong và ngoài nước cũng như hỗ trợ doanh nghiệp tiếp thị thương
hiệu của sản phẩm, doanh nghiệp tới các thị trường xuất khẩu trọng điểm.


Triển khai các hoạt động cung cấp và tư vấn cho các doanh nghiệp về
pháp luật kinh doanh, các kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế cũng như
kinh nghiệm đối phó với các vụ kiện quốc tế, các rào cản thương mại của
các thị trường xuất khẩu.



Đối với doanh nghiệp:



Chủ động tìm hiểu và nghiên cứu về thông tin, kiến thức về hội nhập kinh
tế quốc tế, pháp luật quốc tế. Mặc dù Việt Nam đã ký kết không ít các hiệp
định thương mại tự do với các nước và khu vực, song sự hiểu biết của
doanh nghiệp trong nước về các FTAs là khá hạn chế, trong khi đó các
doanh nghiệp FDI lại rất chủ động và chuẩn bị khá kỹ để đón đầu và tận
dụng ưu đãi từ các FTAs.




Do vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu về TPP cũng như các FTAs là việc cần
thiết các doanh nghiệp nếu muốn đứng vững trong cạnh tra-nh. Bên cạnh
đó cũng cần có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ và các hiệp hội để doanh
nghiệp có thể tiếp cận các thông tin từ TPP, FTAs một cách nhanh nhất và
đầy đủ nhất.



Chủ động đầu tư và đổi mới trạng thiết bị công nghệ theo chiều sâu nhằm
nâng cao chất lượng sản phẩm, bởi nếu không đáp ứng được các tiêu
chuẩn quốc tế thì sản phẩm của doanh nghiệp không thể cạnh tranh với
các nước khác. Như vậy, dù hiệp định có mở ra cơ hội, doanh nghiệp cũng
không thể tiếp cận thị trường và tham gia vào chuỗi cung ứng.



Chủ động lựa chọn và thay đổi nguồn nguyên liệu đầu vào. Việc loại bỏ
thuế quan cho các đối tác trong TPP chỉ áp dụng đối với các sản phẩm
hàng hóa có nguồn gốc xuất xứ nội khối. Trên thực tế, với các FTA đã ký
kết, cũng chỉ có khoảng 30% doanh nghiệp đã tận dụng được các ưu đãi
thuế quan.



Do đó, doanh nghiệp cần phải chủ động trong việc lựa chọn nguồn gốc
của các nguyên phụ liệu, đáp ứng các tiêu chuẩn về nguồn gốc xuất xứ.



Đồng thời phải thực hiện tốt như các yêu cầu khác (vệ sinh, kiểm dịch
động thực vật, hàng rào kỹ thuật…).


THÀNH TỰU:



Từ chỗ thiếu lương thực (năm 1988 còn phải nhập khẩu 45 vạn tấn) đến
năm 1990 Việt Nam đã đáp ứng đủ nhu cầu lương thực cho nhân dân, có
dự trữ và bắt đầu xuất khẩu. Đến nay trung bình mỗi năm nước ta xuất
khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo, đứng thứ nhì thế giới, sau Thái Lan.



Từ chỗ khan hiếm hàng hóa, hầu như mọi thứ phải mua theo tem phiếu
hay hạn mức cung cấp của Nhà nước đến chỗ trên thị trường mọi thứ hàng
hóa được mua bán tự do, đáp ứng nhu cầu có khả năng thanh toán của
nhân dân và các doanh nghiệp.



Từ chỗ siêu lạm phát (năm 1986 mức lạm phát là trên 700%) mà chỉ sau
vài năm lạm phát giảm xuống 2 con số, rồi 1 con số.



VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI:




-GDP do khu vực có vốn đầu tư nước ngoài/tổng GDP của cả nước từ chỗ
chưa có gì, đến năm 2005 đạt 15,16%, năm 2010 đạt 17,69% và năm 2013
đạt 19,55%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)/tổng vốn đầu tư phát
triển toàn xã hội đạt khá cao (bình quân của thời kỳ 2006-2010 là 25,3%,
của thời kỳ 2011-2013 là 22,6%).




XUẤT KHẨU:



-Nếu như năm 2007, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam là
111,3 tỷ USD (trong đó xuất khẩu là 48,5 tỷ USD và nhập khẩu là 62,7 tỷ
USD), thì tới năm 2015 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã
tăng khoảng 3 lần đạt 328 tỷ USD (trong đó nhập khẩu là 165,6 tỷ USD
và xuất khẩu là 162,4 tỷ USD).



-Năm 2015, tỷ trọng xuất khẩu các nhóm hàng sản phẩm dệt may, giày
dép, nông sản có xu hướng giảm xuống trong khi đó tỷ trọng của các


nhóm sản phẩm như máy vi tính, linh kiện điện tử, điện thoại tăng lên,
chiếm tới 27,7% tổng giá trị kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.




HẠN CHẾ:



-Chính Phủ tham gia các FTA chưa thực sự chủ động và mới chỉ tập trung
vào các lợi ích mang tính ngắn hạn như cắt giảm thuế quan, mà chưa chú
trọng đúng mức đến các mục tiêu dài hạn như nâng cao năng lực cạnh
tranh, chất lượng tăng trưởng, cải cách môi trường, thể chế trong nước.



-Việc tập trung các nỗ lực hội nhập kinh tế vào khu vực Đông Á đã làm
tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế nước ta vào các nền kinh tế lớn trong
khu vực về các nguồn nguyên phụ liệu, máy móc thiết bị, đầu tư, công
nghệ và tài chính.(ví dụ:khủng hoảng tài chính năm 2008)



-tạo điều kiện cho các nước đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam,
trong khi đó, ta chưa thiết kế được những biện pháp bảo hộ phù hợp với
cam kết quốc tế để bảo hộ sản xuất trong nước. (Ví dụ:Thái Lan…)



Ví dụ:



Sự kiện Donald Trump đắc cử tổng thống Mỹ




Theo đánh giá của ông Trịnh Quang Anh, Giám đốc nghiên cứu Ngân
hàng TMCP Maritime Bank: "Với câu chuyện nước Mỹ, ngay sau đây có
thể sẽ là trường phái mới, phá vỡ truyền thống, một thế giới đầy rủi ro, bất
định. Câu chuyện TPP rủi ro cao nên sẽ phải xem lại nhiều kế hoạch đã
thông qua bởi tương lai sáng lạn chúng ta đều vẽ trên TPP".



Báo cáo của Uỷ ban Giám sát Tài chính Quốc gia cũng chỉ rõ, nền kinh tế
trong năm 2017 sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, trước
hết là từ môi trường kinh tế thế giới tiềm ẩn nhiều yếu tố bất định, trong
đó có sự bất ổn từ chính trị. Theo đó, có thể ảnh hưởng tới tăng trưởng
kinh tế và thương mại toàn câu và dẫn tới những diễn biến khó lường với
dòng vốn đầu tư nước ngoài...




Một số chuyên gia dự báo, nếu ông Trump thắng cử nhiều khả năng Mỹ sẽ
tăng cường áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại, tăng thuế nhập
khẩu và ảnh hưởng đến nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
sang Mỹ như dệt may, giầy dép, điện thoại, máy vi tính và điện tử, gỗ,
máy móc và thủy sản... Đây đều là những ngành có kim ngạch xuất khẩu
trên 1 tỷ USD sang Mỹ trong 9 tháng đầu năm 2016. Điều này còn dẫn tới
khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) buộc phải dừng các biện pháp
nới lỏng tiền tệ hiện nay, tác động tiêu cực đến dòng vốn chảy vào các thị
trường chứng khoán toàn cầu, trong đó có Việt Nam.




Trên trang cá nhân, trước khi cuộc bầu cử, chuyên gia kinh tế Lê Hồng
Giang cho rằng, quan điểm của ông Trump là điển hình của chủ nghĩa
protectionism, nghĩa là free trade (thương mại tự do) có hại cho kinh tế và
việc làm của Mỹ. Do đó, ông Trump muốn xóa bỏ các hiệp định thương
mại và đánh thuế lên hàng hóa nhập khẩu để bảo vệ các nhà sản xuất nội
địa. Hàng xuất khẩu của các nước (cả Việt Nam) vào Mỹ sẽ bị ảnh hưởng
nghiêm trọng.



Điều này gây những tác động xấu đến nền kinh tế nước ta trong giai đoạn
tới



CÁC KỈ LỤC KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2016



110.100 doanh nghiệp thành lập mới



Dự trữ ngoại hối đạt 41 tỷ USD, cao nhất từ trước tới nay




Huy động thị trường trái phiếu sơ cấp đạt kỉ lục 281.000 tỷ đồng



Chứng khoán tăng trưởng cao nhất Đông Nam Á



FDI đạt kỉ lục trên 24 tỷ USD



10 triệu lượt khách quốc tế đến việt nam




ĐIỂM NHẤN SỰ KIỆN KINH TẾ TÀI CHÍNH KINH TẾ TRONG
NƯỚC TUẦN TỪ 27/2 ĐẾN 4/3/2017




CHỈ SỐ PMI NGÀNH SẢN XUẤT CAO NHẤT TRONG 2 NĂM



Chỉ số PMI ngành sản xuất của Việt Nam trong tháng 02/2017 đạt 54,2
điểm - mức cao nhất trong 21 tháng qua, tăng mạnh so với mức 51,9 của
tháng 01/2017 và cao hơn nhiều so với mức bình quân 50,2 của khu vực

ASEAN.



THÁNG 2/2017 NHẬP SIÊU 1,2 TỶ USD



Trong tháng 02/2017, cả nước đã nhập siêu khoảng 1,2 tỷ USD, chủ yếu
do sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán,các doanh nghiệp thường bắt đầu chu kỳ
sản xuất mới nên nhu cầu nhập khẩu phục vụ cho sản xuất cao hơn tháng
1. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt khoảng 27,2 tỷ USD, trong đó, kim
ngạch xuất khẩu đạt khoảng 13 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm
2016; kim ngạch nhập khẩu đạt khoảng 14,2 tỷ USD, tăng 19,6% so với
cùng kỳ năm 2016. Tính chung 2 tháng đầu năm, giá trị nhập siêu khoảng
40 triệu USD (tổng kim ngạch xuất khẩu là 27,34 tỷ USD, nhập khẩu là
27,38 tỷ USD).



NGUỒN VỐN 100000 TỶ ĐỒNG CHO NÔNG NGHIỆP CAO



Hội nhập kinh tế quốc tế là việc gắn kết nền kinh tế nước ta với các
nền kinh tế khác trên thế giới. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với
khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay
thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.




×