Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Đánh giá hoạt động tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh xuân mai chương mỹ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (946.45 KB, 107 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Trong cơ chế thị trường, cung cấp tín dụng là chức năng cơ bản của
NHTM. Trong những năm gần đây, nhu cầu về vốn của nền kinh tế là rất lớn
thì NHTM ngày càng thể hiện vai trò vô cùng quan trọng của mình thông qua
hai chức năng: Một là, huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong các tổ chức kinh tế
và trong dân cư. Hai là, phân phối nguồn vốn đó cho tất cả các thành phần
kinh tế có nhu cầu sản xuất kinh doanh một cách hợp lý để sử dụng vốn có
hiệu quả. Bên cạnh đó, ngân hàng còn cung ứng các dịch vụ thanh toán
…Hiện nay Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập sâu và rộng với quốc tế,
điều đó đã đặt các NHTM trong một môi trường cạnh tranh ngày càng khốc
liệt hơn. Để các NHTM nâng cao được năng lực cạnh tranh thì việc đánh giá
toàn bộ hoạt động tín dụng là một việc làm cần thiết. Theo hướng đó em lựa
chọn đề tài “ Đánh giá hoạt động tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn chi nhánh Xuân Mai - Chương Mỹ - Hà Nội” với mong
muốn góp một phần nhỏ để từng bước hoàn thiện hoạt động tín dụng, đáp ứng
nhu cầu cho vay vốn của người dân và mang lại hiệu quả ngày càng cao cho
ngân hàng.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đề xuất các giải pháp hoàn thiện đánh giá hoạt động tín dụng ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Xuân Mai, huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động tín dụng ngân hàng
- Đánh giá hoạt động tín dụng tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn chi nhánh Xuân Mai- Chương Mỹ- Hà Nội.



2

- Đề xuất một số giải pháp đánh giá hoạt động tín dụng tại ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Xuân Mai- Chương Mỹ- Hà Nội
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là hoạt động tín dụng và đánh
giá hoạt động của tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
chi nhánh Xuân Mai- Chương Mỹ- Hà Nội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
+ Về không gian
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động tín dụng tại ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Xuân Mai- Chương Mỹ- Hà Nội.
Chủ yếu quan hệ giữa ngân hàng và kinh tế hộ nông dân.
+ Về thời gian
Luận văn sử dụng số liệu thu thập trong 3 năm 2012-2014 để phân tích.
4. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động tín dụng ngân hàng
thương mại.
Chương 2. Đặc điểm cơ bản về Ngân hàng NNo & PTNT Chi nhánh
Xuân Mai và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3. Kết quả nghiên cứu


3

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một định chế tài chính cung cấp các dịch vụ
tài chính đa dạng mà đặc trưng là tín dụng, nhận tiền gửi và cung ứng các
dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm
thỏa mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội. Đây là một loại hình
doanh nghiệp đặc biệt vì vốn và tiền vừa là phương tiện, vừa là mục đích kinh
doanh nhưng đồng thời cũng là đối tượng kinh doanh.
* Khái niệm về hiệu quả tín dụng:
Hiệu quả tín dụng là một trong những biểu hiện của hiệu quả kinh tế
trong lĩnh vực ngân hàng, nó phản ánh chất lượng của các hoạt động tín dụng
ngân hàng.
* Khái niệm về doanh số cho vay:
Doanh số cho vay là tổng số tiền mà ngân hàng đã giải ngân cho khách
hàng tính trong một giai đoạn /thời kỳ (hay ngược lại là: số tiền mà khách
hàng vay được của ngân hàng trong một giai đoạn/thời kỳ.
* Khái niệm về doanh số thu nợ:
Doanh số thu nợ là tổng số tiền mà ngân hàng thu được nợ từ khách
hàng trong 1 giai đoạn/thời kỳ (hay ngược lại: Là số tiền mà khách hàng trả
nợ cho ngân hàng trong 1 giai đoạn/thời kỳ).
* Khái niệm về dư nợ:
Là toàn bộ số tiền mà khách hàng nợ ngân hàng tại 1 thời điểm bất kỳ,
gồm cả nợ gốc và nợ lãi.
* Khái niệm về nợ quá hạn:


4

Là một khoản nợ mà người đi vay cá nhân/doanh nghiệp khi đến hạn
phải trả cho ngân hàng cả vốn và lãi theo cam kết, nhưng cá nhân/doanh

nghiệp không trả được cho ngân hàng , nợ quá hạn có tác dụng xấu đến hoạt
động kinh doanh của ngân hàng cũng nhự hoạt động sản xuất kinh doanh của
cá nhân/ doanh nghiệp vay vốn.
* Khái niệm về nợ xấu:
Nợ xấu là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi ngờ về khả
năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, điều này thường xảy ra khi các
con nợ đã tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản. Nợ xấu gồm các khoản nợ
quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên thường quá ba tháng căn cứ vào khả năng trả nợ
của khách hàng để hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp.
* Khái niệm về vốn huy động:
Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngân hàng. Nó là
những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và
các cá nhân trong xã hội. Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có
quyền sở hữu với nguồn vốn này và phải có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả
gốc lẫn lãi khi chủ sở hữu có nhu cầu rút vốn.Vốn này luôn biến động nên
ngân hàng không được sử dụng hết mà phải có dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để
đảm bảo khả năng thanh toán.
Vốn huy động của ngân hàng thương mại chủ yếu bao gồm: Nhận tiền
gửi của các tổ chức kinh tế (tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn),
huy động từ các tầng lớp dân cư (tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu) và nguồn
vốn đi vay.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng ngân hàng
1.1.2.1. Khái niệm
Tín dụng xuất phát từ ngôn ngữ Latinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm).
Trong thực tế, thuật ngữ “tín dụng” được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau,


5

ngay trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín

dụng có một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu
theo nghĩa sau:
Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm
sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển
dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
Trong quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên
cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
Luận văn này xem xét tín dụng như là một chức năng cơ bản của ngân
hàng, vì vậy trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì
tín dụng được hiểu: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa)
giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá
nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao
tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận,
bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên vay
đến khi hạn thanh toán.
“ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các ngân hàng, các tổ
chức tín dụng với các đối tác kinh tế - tài chính của toàn xã hội, bao gồm doanh
nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước”Theo Wikipedia.org
“ Tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng thỏa thuận để khách hàng sử dụng
một tài sản (bằng tiền, tài sản thực hay uy tín) với nguyên tắc có hoàn trả
bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu (tái chiết khấu), cho thuê tài chính,
bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”
Trích quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng do PGS.TS. Nguyễn Văn
Tiến (Chủ biên) – Học viện ngân hàng.
1.1.2.2. Những đặc điểm cơ bản của hoạt động tín dụng của NHTM
- Tài sản trong quan hệ tín dụng ngân hàng chủ yếu bằng tiền.


6


- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy ngân hàng khi chuyển giao tài sản
cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng
hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng, là lý do mà ngân
hàng phải thực hiện phân tích kỹ lưỡng trước khi quyết định cho vay.
- Giá trị hoàn trả thường phải lớn hơn giá trị cho vay, hay nói một cách khác
là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài phần vốn gốc đã vay ban đầu.
- Tín dụng ngân hàng có độ rủi ro cao do những biến động kinh tế - xã hội
hoặc gắn liền với chính ưu điểm do việc ngân hàng có thể cho vay số tiền lớn
hơn nhiều so với vốn tự có, hoặc có sự chuyển đổi thời hạn và phạm vi tín
dụng rộng.
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết
hoàn trả vô điều kiện. Về phía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ
tín dụng như hợp đồng tín dụng hay khế ước nhận nợ hoặc các giấy tờ tương
tự thực chất là lệnh phiếu, trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện
cho ngân hàng khi đến hạn thanh toán.
1.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng
Có thể phân loại tín dụng ngân hàng thành nhiều loại khác nhau tùy vào
cách tiếp cận, theo không gian và thời gian:
1.1.3.1. Căn cứ theo khách hàng vay vốn
Hoạt động tín dụng có thể chia thành 2 loại:
- Tín dụng đối với doanh nghiệp: Là loại hình cho vay để phục vụ cho sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Thời hạn cho vay có thể theo ngắn hạn,
trung hạn hoặc dài hạn tùy vào nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
- Tín dụng đối với cá nhân: Là loại hình cho vay để bù đắp nhu cầu tiêu dùng
cá nhân hay các hoạt động kinh doanh của cá nhân. Thời hạn cho vay có thể
là ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn, tùy theo mục đích sử dụng vốn vay và
nguồn trả nợ của cá nhân.


7


1.1.3.2. Căn cứ vào thời hạn cho vay
Tín dụng được chia làm 3 loại:
- Tín dụng ngắn hạn: thời hạn từ 12 tháng trở xuống, tài trợ cho nhu cầu bổ
sung vốn lưu động của các doanh nghiệp hoặc nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của
cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các nhu
cầu sửa chữa, cải tạo, mua sắm tài sản cố định có thời gian thu hồi vốn nhanh
hoặc các nhu cầu thiếu hụt vốn có nhưng có thời hạn hoàn vốn trên một năm.
- Tín dụng dài hạn: thời hạn trên 5 năm, tài trợ cho công trình xây dựng như: nhà,
sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, có thời gian sử dụng lâu.
1.1.3.3. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay
Chia thành tín dụng cho sản xuất và tín dụng tiêu dùng
- Tín dụng cho sản xuất, lưu thông hàng hóa: là loại tín dụng phục vụ cho
các nhà sản xuất và kinh kinh hàng hóa. Nhằm đáp ứng nhu cầu về để mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường…nhằm nâng cao
doanh số bán hàng, gia tăng lợi nhuận.
- Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng được sử dụng để đáp ứng cho vay các
nhu cầu tiêu dùng, đáp ứng cho nhu cầu phục vụ đời sống và vốn vay thường
được thu hồi dần từ nguồn thu nhập của cá nhân vay vốn. Việc cho vay tiêu
dùng ngoài lợi nhuận từ hoạt động tín dụng còn giúp các ngân hàng mở rộng
quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động các loại tiền gửi
cho ngân hàng đồng thời tạo điều kiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, nhờ
vậy nâng cao thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng.
1.1.3.4. Phân loại theo tính chất đảm bảo:
Chia thành tín dụng có bảo đảm và tín dụng có bảo đảm không bằng tài sản
- Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản: là loại hình tín dụng mà để giảm thiểu rủi
ro ngân hàng thường yêu cầu khách hàng có tài sản cầm cố hoặc thế chấp nghĩa



8

vụ trả nợ của chủ thể vay vốn được bảo đảm bằng tài sản của chủ thể vay vốn,
tài sản hình thành từ vốn vay hoặc bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba.
- Tín dụng bảo đảm không bằng tài sản: (gồm có tín chấp và bảo lãnh bằng uy
tín): là loại tín dụng mà ngân hàng chủ động lựa chọn khách hàng để cho vay
trên cơ sở khách hàng có tín nhiệm với ngân hàng, có năng lực tài chính và có
phương án, dự án khả thi có khả năng hoàn trả nợ vay hoặc NHTM nhà nước
được cho vay theo chỉ định của Chính phủ hoặc cho cá nhân, hộ gia đình nghèo
vay vốn có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội.
1.1.3.5. Theo hình thức cấp tín dụng
Theo cách phân loại này tín dụng gồm có: phát hành giấy tờ có giá, cho
vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, bao thanh toán.
- Phát hành giấy tờ có giá: tổ chức tín dụng được phát hành chứng chỉ tiền
gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân
trong nước và ngoài nước theo quy định của ngân hàng Nhà Nước.
- Cho vay: hiện nay theo quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động tín
dụng, tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15%
vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay
từ các nguồn ủy thác của Chính Phủ, của các tổ chức, cá nhân hoặc trường
hợp khách hàng vay là tổ chức tín dụng khác, nếu nhu cầu vốn của một khách
hàng vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng hoặc khách hàng có nhu
cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì các tổ chức tín dụng được cho vay hợp
vốn theo quy định của Thống đốc ngân hàng Nhà Nước.
Trong trường hợp đặc biệt, để thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà
khả năng hợp vốn của các tổ chức tín dụng chưa đáp ứng được yêu cầu vay
vốn của một khách hàng thì Thủ tướng Chính phủ có thể quyết định mức cho
vay tối đa đối với từng trường hợp cụ thể…



9

- Bảo lãnh (tái bảo lãnh): mức bảo lãnh, chiết khấu thương phiếu và các giấy
tờ có giá khác đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ so với vốn
tự có của tổ chức tín dụng do thống đốc ngân hàng Nhà nước quy định.
- Cho thuê tài chính: mức cho thuê tài chính đối với một khách hàng của tổ
chức tín dụng thực hiện theo quy định của Chính phủ.
1.1.4. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế
Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế và
đời sống xã hội trong nền kinh tế thể hiện ở các vai trò sau đây:
- Góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế, làm cho quá trình sản xuất và
kinh doanh của các cá thể, cá nhân diễn ra thường xuyên hơn, tăng cường cơ
sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các
tổ chức, cá nhân thực tế không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Trong đó thực tế
tình hình Việt Nam trong năm qua đã chứng minh khó khăn lớn nhất mà họ
gặp phải trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay là sự thiếu hụt về vốn trong kinh
doanh, trong khi ngân hàng là nơi đảm bảo nhu cầu thường xuyên.
- Tín dụng giúp Ngân hàng thực hiện chức năng là trung gian tài chính của
nền kinh tế, đối với mỗi cá nhân, với một khoản tiền nhỏ thì rất khó để có thể
đầu tư, kinh doanh hay mua sắm những vật có giá trị lớn. Nhưng nếu nhiều
người góp lại thì nó sẽ trở thành một khoản tiền lớn. Tuy nhiên việc tập trung
lượng vốn nhỏ này lại rất khó khăn đối với chỉ một người hay một nhóm
người mà họ không được mọi người trong xã hội biết đến và tin tưởng. Trong
khi đó nền kinh tế có rất nhiều nhu cầu chi cho đầu tư phát triển về hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cơ sở hạ tầng và tiêu dùng cá
nhân. Để kết nối các trường hợp trên phải nhờ đến các tổ chức tín dụng đặc
biệt là các NHTM. Thông qua hoạt động tín dụng của ngân hàng, số tiền nhàn
rỗi trong dân cư sẽ giảm xuống và được sử dụng cho các mục đích có lợi cho
nền kinh tế.



10

- Tín dụng ngân hàng thực hiện việc huy động và phân bổ lại các nguồn lực
vì vậy nó là một trong những công cụ điều tiết vĩ mô, góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nền kinh tế nước ta xuất phát từ nền nông nghiệp lạc hậu, là một nước
đang phát triển, có sự tụt hậu về kinh tế, kỹ thuật so với các nước khác rất lớn.
Chúng ta cần phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Để làm được điều
đó, Nhà nước phải phân bổ các nguồn lực cho hợp lý giữa các ngành, trong đó
hoạt động tín dụng sẽ là kênh phân bổ nguồn lực hợp lý nhất hạn chế lãng phí
khi Nhà nước muốn mở rộng hay phát triển một ngành, lĩnh vực nào đó, Nhà
nước sẽ có những khuyến khích bằng các chính sách công cụ, trong chính
sách tín dụng như có những ưu đãi về lãi suất, thời hạn, tài sản đảm bảo trong
việc vay vốn…để cá nhân, doanh nghiệp chú ý đến và thực hiện đầu tư. Hoạt
động tín dụng gắn với cơ chế bảo lãnh, khi các nguồn tài nguyên đất đai, tài
sản là thị trường, thông qua hoạt động tín dụng sẽ chuyển các nguồn lực ấy
thành vốn.
- Thúc đẩy và phát triển quan hệ kinh tế với các đối tác, doanh nghiệp nước
ngoài. Trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay, sự phát triển của một quốc
gia không thể nằm ngoài sự phát triển kinh tế thế giới và tín dụng ngân hàng
đã trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh tế với các nước khác
nhau. Đối với các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng, tín
dụng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nguồn vốn đối ứng trong
đầu tư mở rộng hàng hóa, nguồn tín dụng từ nước ngoài cũng là một nhân tố
quan trọng đối với phát triển đất nước.
1.2. Hoạt động tín dụng và các chỉ tiêu đánh giá
1.2.1. Hoạt động tín dụng
Theo luật các tổ chức tín dụng năm 2010: “Hoạt động ngân hàng là

hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên


11

là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch
vụ thanh toán”.
Hiện nay, với sự phát triển của nền kinh tế và khoa học công nghệ, hoạt
động kinh doanh dịch vụ của ngân hàng ngày càng đa dạng. Bên cạnh các
hoạt động truyền thống như huy động vốn và cho vay tín dụng và đầu tư, dịch
vụ thanh toán, NHTM còn được thực hiện một số hoạt động khác như: cung
ứng dịch vụ bảo hiểm, kinh doanh ngoại hối, tư vấn tài chính, bảo quản vật
quý giá…
1.2.2. Hoạt động tín dụng đối với nông nghiệp nông thôn
Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông
nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Nông thôn có thể được xem xét trên nhiều góc độ:
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Kinh tế nông thôn là một khu vực của nền
kinh tế gắn liền với địa bàn nông thôn. Kinh tế nông thôn vừa mang những đặc
trưng chung của nền kinh tế về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về cơ chế
kinh tế…vừa có những đặc điểm riêng gắn liền với nông nghiệp, nông thôn.
Xét về mặt kinh tế - kỹ thuật, kinh tế nông thôn có thể bao gồm nhiều
ngành kinh tế như: Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ…trong đó nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là ngành chủ
yếu. Xét về mặt kinh tế - xã hội, kinh tế nông thôn bao gồm nhiều thành phần
kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể….Xét về mặt không
gian và lãnh thổ, kinh tế nông thôn gồm các vùng như: Vùng chuyên canh lúa,
vùng chuyên canh cây màu, vùng trồng cây ăn quả, làng nghề truyền thống…
Hoạt động tín dụng giúp người nông dân thoát khỏi cảnh khó khăn, đói
nghèo, có khả năng vươn lên hòa nhập với cộng đồng và trở nên giàu có. Góp
phần nâng cao đời sống nhân dân đặc biệt là hộ nghèo, giảm tỷ lệ đói nghèo,

phục vụ cho sự phát triển và lưu thông hàng hóa, góp phần giải quyết công ăn
việc làm, khai thác khả năng tiểm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình


12

tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ tăng trưởng tín dụng
và tăng trưởng kinh tế.
- Hoạt động tín dụng góp phần trực tiếp vào chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở
nông thôn thông qua áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tạo ra
các ngành nghề, dịch vụ mới trong nông nghiệp đã góp phần thực hiện phân
công lại lao động trong nông nghiệp và lao động xã hội.
- Đánh giá hiệu quả chương trình tín dụng nông nghiệp, nông thôn của Nhà
nước đối với địa phương. Sau hơn 10 năm triển khai thực hiện Quyết định số
67/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, chính sách tín dụng đối với khu
vực nông nghiệp, nông thôn đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ:
Một là: chính sách tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn đã
thực sự được khơi thông dòng chảy tín dụng về nông thôn. Nếu như tại thời
điểm trước khi ban hành Quyết định số 67/1999/QD-TTg (cuối năm 1998), dư
nợ tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn chỉ đạt 34.000 tỷ đồng,
thì sau 10 năm (cuối năm 2009), dư nợ tín dụng cho vay khu vực này của
ngành Ngân hàng đã tăng gấp 9 lần và đạt hơn 292.919 tỷ đồng. Tính chung,
tốc độ tăng trưởng tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn bình
quân trong 10 năm là 21,78%. Cơ cấu nợ cũng đã được cải thiện theo hướng
tăng dần tỷ trọng đầu tư vốn trung và dài hạn. Năm 2009, cho vay trung và
dài hạn chiếm 40%, cho vay ngắn hạn chiếm 60%. Chất lượng tín dụng cho
vay nông nghiệp được đảm bảo, nợ xấu được duy trì ở mức thấp.
Hai là, chính sách tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn đã
tạo điều kiện cho hàng chục triệu lượt hộ nông dân với đối tượng khách hàng
khác ở nông thôn tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ngân hàng, đẩy lùi tình

trạng cho vay nặng lãi ở khu vực nông thôn. Các hộ nông dân thực sự trở
thành chủ thể sản xuất kinh doanh, bình đẳng đối với các đối tượng khách
hàng khác trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Nhiều người


13

nhờ nguồn vốn vay ngân hàng đã thoát nghèo và làm giàu bằng chính các sản
phẩm nông nghiệp trên quê hương mình. Đời sống vật chất và tinh thần của
đại bộ phận nông dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn từng bước được đổi
mới theo hướng văn minh, hiện đại.
Ba là, chính sách tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn đã
thực sự làm thay đổi và dịch chuyển cơ cấu kinh tế các vùng, các ngành, theo
hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nguồn
vốn tín dụng đã góp phần tạo sự phát triển vượt bậc trong sản xuất nông
nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực, nhiều sản phẩm nông nghiệp trở thành
những hàng hóa xuất khẩu chủ lực, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường
quốc tế.
Bốn là, chính sách tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn đã
thu hút được sự tham gia tích cực của các tổ chức tín dụng, với vai trò chủ
đạo là hệ thống các ngân hàng thương mại nhà nước. Mạng lưới giao dịch của
các tổ chức tín dụng được phát triển với nhiều hình thức đa dạng và mở rộng
đến các hộ dân ở vùng sâu, vùng xa, trong đó, đóng vai trò quan trọng nhất là
Ngân hàng NNo & PTNT với dư nợ cho vay đối với khu vực nông nghiệp, nông
thôn chiếm khoảng 70% tổng dư nợ lĩnh vực này của cả hệ thống ngân hàng.
Năm là, bên cạnh việc cho vay đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất của
các hộ nông dân thì tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn đã góp
phần đưa tín dụng ngân hàng đến tay người nghèo theo các chương trình kinh
tế, cho vay ưu đãi, góp phần xóa đói giảm nghèo ở một bộ phận nông dân gặp
khó khăn và bảo đảm an sinh xã hội ở nông thôn.

Sáu là, chính sách tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn đã
tạo điều kiện xã hội hóa hoạt động tín dụng. Nhiều tổ chức chính trị xã hội
như Hội phụ nữ, đoàn thanh niên…đã trở thành thành viên tích cực tham gia
vào quá trình đưa vốn tín dụng ngân hàng đến tận hộ nông dân. Việc tương


14

trợ, liên kết, giúp đỡ lẫn nhau sản xuất, hướng dẫn sử dụng vốn giữa các
thành viên trong Hội cùng với sự hỗ trợ từ các tổ chức tín dụng đã góp phần
giúp người nông dân sử dụng đồng vốn hiệu quả hơn.
Bên cạnh những kết quả to lớn mà tín dụng mang lại thì nó vẫn còn một
số hạn chế:
- Hoạt động tín dụng đối với ngân hàng nông nghiệp nông thôn là hoạt động
có tính rủi ro cao. Ngoài những nguyên nhân khách quan như thiên tai, bão
lụt, dịch bệnh cây trồng vật nuôi…thường xảy ra trên diện rộng, thiệt hại lớn
còn là những nguyên nhân khác từ bản thân hộ nông dân như: Thiếu kiến thức
làm ăn, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, sức cạnh tranh kém, ảnh hưởng
đến chất lượng và hiệu quả đầu tư dẫn đến nghèo khó.
- Do cơ sở hạ tầng kém phát triển, xuống cấp nặng nề gây khó khăn cho việc
giao thương, buôn bán và vận tải hàng hóa nên nhiều hộ chưa có điều kiện sử
dụng vốn ngân hàng, hơn nữa trình độ dân trí chưa cao là những cản trở cho
việc thực hiện các chính sách tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn.
- Vốn tín dụng ngân hàng chưa đồng bộ với các giải pháp khuyến nông, khuyến
lâm, khuyến ngư, cung cấp vật tư kỹ thuật cho sản xuất và tổ chức thị trường,
lồng ghép các chương trình kinh tế xã hội đối với nông nghiệp, nông thôn.
Nông dân còn nhiều vấn đề khó khăn nên điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế
còn nhiều tồn tại, vốn và hiệu quả đầu tư thấp.
- Việc xác định đối tượng được vay vốn còn những bất cập: Với hộ nghèo thì
theo cơ chế phải là hộ nghèo thiếu vốn sản xuất kinh doanh nhưng việc bình

nghị và xét chọn từ Uỷ ban nhân dân xã do ban XĐGN lập danh sách đơn
thuần chỉ là danh sách hộ nghèo, việc bình xét hộ nghèo còn mang tính chủ
quan của người tham gia bình chọn, dẫn đến có hộ thu nhập thấp khá mà vẫn
là hộ nghèo. Nhiều hộ không có điều kiện và năng lực tổ chức sản xuất, hộ
nghèo thuộc diện cứu trợ xã hội hoặc có những hộ không thuộc hộ nghèo


15

cũng trong danh sách được vay vốn. Với hộ trung bình và hộ khá kỳ trước hộ
vay làm ăn nhưng bị thua lỗ chưa trả hết nợ vẫn đến kỳ này vẫn được vay tiếp
và vay nhiều hơn.
- Phương thức đầu tư chưa phong phú dẫn đến việc sử dụng vốn vay sai mục
đích, vốn vay không phát huy hiệu quả, ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư vốn.

1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn
+ Các tiêu chí định tính
- Bảo đảm nguyên tắc cho vay
- Bảo đảm điều kiện cho vay
- Thẩm định trước khi cho vay
+ Tiêu chí đánh giá sự hài lòng của khách hàng: Đây là tiêu chí quan trọng
nhất đánh giá mức độ thỏa mãn nhu cầu của khách hàng: nhu cầu vay, lãi
suất, thủ tục vay, mạng lưới điểm giao dịch thuận lợi.
- Các chỉ tiêu định lượng đánh giá hoạt động tín dụng bao gồm khả năng huy
động vốn và cho vay, chất lượng hoạt động tín dụng.
Tỷ lệ doanh số cho vay

=

Tỷ lệ doanh số thu nợ


=

Tỷ lệ nợ quá hạn

=

Tỷ lệ nợ xấu

=

Doanh số cho vay
Tổng lượng vốn huy động

Doanh số thu nợ
Tổng dư nợ của ngân hàng
Dư nợ quá hạn
Tổng đã nợ

Nợ xấu
Tổng dư nợ

x 100%

x 100%

x 100%

x 100%



16

Vòng quay vốn tín dụng

=

Hiệu suất sinh lời của NH

=

Doanh số cho vay
Tổng lượng vốn huy động
Tổng dư nợ cho vay
Tổng nguồn vốn lưu động

x 100%

x 100%

Lợi nhuận của ngân hàng = Tổng thu - Tổng chi - Thuế.

Tỷ suất tín dụng

Tỷ lệ dự phòng rủi ro

Tỷ lệ lãi treo

Tỷ lệ dư nợ có
tài sản bảo đảm


=

=

Tổng lợi tức tín dụng trong kỳ
Tổng số tiền cho vay trong kỳ
Quỹ dự phòng rủi ro
Tổng dư nợ
Lãi treo

=

=

Tổng dư nợ

Giá trị tài sản bảo đảm
Tổng dư nợ

x 100%

x 100%

x 100%

x 100%

Ngoài các chỉ tiêu trên còn có một số chỉ tiêu khác:
- Các dịch vụ đi kèm với hoạt động tín dụng.

- Sự phụ thuộc của ngân hàng vào số ít khách hàng lớn.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng và đánh giá hoạt
động tín dụng
1.3.1. Các hoạt động tín dụng
- Chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
Mỗi một ngân hàng đều phải có chiến lược kinh doanh cụ thể, phù hợp
với đặc điểm hoạt động, quy mô, thế mạnh. Một ngân hàng quy mô nhỏ, tiềm
lực tài chính yếu cần lựa chọn cho mình một phân đoạn thị trường phù hợp,


17

không thể tham gia đầu tư vào những dự án đòi hỏi vốn lớn, rủi ro cao. Lựa
chọn chiến lược kinh doanh phù hợp sẽ nâng cao chất lượng tín dụng cho
ngân hàng.
- Chính sách cấp tín dụng của ngân hàng.
Chính sách cấp tín dụng bao gồm: chính sách khách hàng, chính sách
lãi suất và phí, chính sách tài sản đảm bảo là kim chỉ nam cho những ứng xử
tín dụng của ngân hàng đối với khách hàng, nó dảm bảo cho ngân hàng hoạt
động hiệu quả, hạn chế rủi ro. Khi chính sách tín dụng không phù hợp với khả
năng, quy mô của ngân hàng sẽ không mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng,
không đáp ứng nhu cầu của khách hàng và do đó sẽ ảnh hưởng xấu đến chất
lượng tín dụng và ngược lại.
- Quy trình tín dụng của ngân hàng.
Mỗi ngân hàng đều có một quy trình tín dụng riêng, quy định các công
việc cụ thể cần phải làm khi thực hiện cấp tín dụng. Quy trình tín dụng của
ngân hàng chặt chẽ, quy định rõ ràng công việc của phòng ban liên quan, vừa
đảm bảo thuận tiện và tạo sự hài lòng cho khách hàng. Một quy trình lỏng lẻo,
chồng chéo sẽ gây ra rủi ro ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.
- Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ:

Hoạt động của ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro vì vậy mỗi ngân hàng
đều phải chú trọng vào công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, kiểm tra khách
hàng và kiểm tra chính trong nội ngân hàng. Để nâng cao chất lượng tín dụng
Ngân hàng cần phải kịp thời phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp
luật có ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Muốn vậy thì việc đào tạo
đội ngũ cán bộ có năng lực trình độ và trách nhiệm thực hiện công tác kiểm
tra, kiểm soát là một vấn đề quan trọng cần được chú trọng ở các ngân hàng.
- Chất lượng cán bộ tín dụng.


18

Cán bộ tín dụng chính là người trực tiếp tiếp xúc, cung cấp sản phẩm
tín dụng cho khách hàng vì vậy chất lượng cán bộ tín dụng cũng ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng tín dụng. Khi cán bộ tín dụng yếu kém về chuyên
môn sẽ không đánh giá đúng phương án cho vay ảnh hưởng đến chất lượng
khoản vay, có thể gia tăng nợ xấu cho ngân hàng. Mặt khác thực tế những
năm qua đã chứng minh, đạo đức của cán bộ tín dụng đóng vai trò quan trọng,
cán bộ thông đồng với khách hàng trục lợi, "vay ké", cho vay để hưởng hoa
hồng, kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay sơ sài, định kỳ hạn trả nợ không
chính xác. Ngân hàng có chất lượng tín dụng cao khi tuyển chọn được những
cán bộ tín dụng vừa giỏi chuyên môn và có đạo đức trong công việc.
- Chất lượng công nghệ của ngân hàng.
Cùng với sự phát triển kinh tế, công nghệ ngày càng có vai trò quan
trọng trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt là truy cập dữ liệu, thanh, quyết
toán, nối mạng, quản lý rủi ro tín dụng. Trình độ công nghệ càng cao càng trợ
giúp nhiều cho ngân hàng trong việc sàng lọc những khách hàng, ngành nghề
có mức độ rủi ro cao cũng như thu nhập đủ các cơ sở dữ liệu thông tin về từng
khách hàng. Ở các nước phát triển, công nghệ ngân hàng rất phát triển.
Công nghệ ngân hàng thể hiện ở trang bị công nghệ thông tin hiện đại,

khả năng phân tích, xử lý thông tin, từ đó rút các kết luận, nhận định phục vụ
cho quản trị ngân hàng, các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả kinh
doanh, hạn chế rủi ro … Công nghệ của ngân hàng còn thể hiện khả năng chi
phối, kiểm soát đối với hoạt động của các bộ phận tác nghiệp.
1.3.2. Nhân tố khách quan
Từ phía khách hàng và các yếu tố kinh tế, xã hội.
- Nhân tố từ phía khách hàng vay vốn.
+ Khả năng quản lý hoạt động kinh doanh, năng lực quản lý tài chính
của khách hàng: Khách hàng vay có mối liên hệ mật thiết với ngân hàng,
khách hàng quản lý tài chính tốt, ứng phó nhanh với những thay đổi của thị


19

trường, hoạt động kinh doanh thuận lợi sẽ có khả năng trả nợ đúng hạn từ đó
nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng.
+ Đạo đức, uy tín của khách hàng: Rủi ro đạo đức xảy ra do thông tin
không cân xứng tạo ra sau khi cuộc giao dịch diễn ra. Khách hàng có thể làm
giả phương án kinh doanh để vay ngân hàng hoặc sau khi vay vốn mặc dù làm
ăn kinh doanh có lãi vẫn chây ì, không trả nợ. Uy tín của khách hàng cũng là
một nhân tố đáng quan tâm, uy tín của khách hàng là tiêu chí để đánh giá sự
sẵn sàng trả nợ và kiên quyết thực hiện các nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng
từ phía khách hàng. Uy tín của khách hàng được thể hiện dưới nhiều khía
cạnh như: chất lượng, giá cả hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm, mức độ chiếm lĩnh
thị trường, các mối quan hệ kinh tế tài chính, vay vốn, trả nợ với khách hàng,
bạn hàng và ngân hàng. Uy tín được khẳng định và kiểm nghiệm bằng kết quả
thực tế. Vì vậy thẩm định tư cách đạo đức, uy tín của khách hàng vay là một
nội dung quan trọng khi cấp tín dụng cho khách hàng.
- Nhân tố từ môi trường kinh tế xã hội.
+ Môi trường kinh tế: Môi trường vĩ mô và sự phát triển kinh tế của

vùng mà Ngân hàng hoạt động có ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng. Đặc
biệt, sự thay đổi chính sách của chính phủ có ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín
dụng của Ngân hàng: khuyến khích tăng trưởng, chống lạm phát xử lý tỉ giá
đặc biệt chính sách của Ngân hàng Nhà nước thông qua các công cụ điều tiết
như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở:
+ Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc là một quy định của NHNN về tỷ lệ giữa tiền
mặt và tiền gửi mà các NHTM bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh
khoản. Khi NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc NHTM sẽ bị hạn chế vốn để cho
vay từ đó ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng vốn theo nhu cầu của khách hàng.
+ Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất mà NHNN đánh vào khoản tiền cho
các NHTM vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt ngắn hạn hoặc bất thường của


20

các Ngân hàng này. Hoạt động của Ngân hàng thường tiềm ẩn nhiều nhân tố
khó lường, để đáp ứng nhu cầu thanh khoản, NHTM có thể phải đi vay
NHNN. Khi NHNN tăng lãi suất tái chiết khấu, các NHTM có xu hướng giảm
tiền vay từ đó ảnh hưởng đến lượng vốn đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
+ Nghiệp vụ thị trưởng mở: Là hoạt động NHNN mua vào hoặc bán ra
những giấy tờ có giá của Chính phủ trên thị trường. Thông qua hoạt động mua
bán giấy tờ có giá, NHNN tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các
tổ chức tín dụng từ đó điều tiết lượng cung ứng tiền tệ và tác động gián tiếp
đến lãi suất thị trường. Khi NHNN bán ra những giấy tờ có giá của Chính phủ
như trái phiếu Chính phủ, các NHTM mua, khi đó lượng tiền của các NHTM
giảm xuống, tiền tệ bị thắt chặt, giảm lượng vốn đáp ứng nhu cầu cho vay và
ngược lại.
Hoạt động của ngân hàng hay khách hàng đều chịu tác động của môi
trường kinh tế. Chính sách kinh tế vĩ mô ổn định sẽ giúp cho hoạt động của
khách hàng ít bị biến động và việc dự báo về tình hình tài chính, kinh doanh

của khách hàng cũng thuận lợi hơn. Khi chính sách kinh tế vĩ mô biến động
gây khó khăn cho ngân hàng trong việc phân tích, dự báo chính xác hoạt động
kinh doanh, tài chính của khách hàng cũng như khó có thể lường trước được
những rủi ro khách hàng phải đối mặt, do vậy mà ngân hàng không thể đánh
giá đúng khả năng trả nợ của khách hàng trong tương lai, khi đó chất lượng
tín dụng của ngân hàng sẽ kém đi.
Chính sách tài chính của Chính phủ bao gồm chính sách về thuế, xuất
nhập khẩu, đầu tư, chính sách về các yếu tố đầu vào ảnh hưởng tới hoạt động
của các doanh nghiệp, qua đó tác động đến hoạt động của ngân hàng. Các
chính sách này đều tác động trực tiếp đến các yếu tố đầu vào của quá trình sản
xuất, khi các chính sách thay đổi theo hướng bất lợi sẽ làm giảm lợi nhuận
của doanh nghiệp và khả năng trả nợ cho ngân hàng.


21

+ Môi trường chính trị - xã hội:
Sự mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo hay xung đột xã hội thông qua các
cuộc biểu tình, đình công, bạo động, chiến tranh luôn đe dọa sự ổn định của
đất nước. Việt Nam với 54 dân tộc có những phong tục, truyền thống khác
nhau, trình độ văn hóa và khoảng cách giàu nghèo cũng khác nhau nên các
Ngân hàng phải luôn chú ý đến từng đối tượng, từng vùng hoạt động để nâng
cao chất lượng tín dụng của ngân hàng cũng như để góp phần vào hiệu quả
kinh tế chung của đất nước.
+ Môi trường pháp lý:
Môi trường pháp lý thể hiện ở các văn bản quy phạm pháp luật quy
định về hoạt động của ngân hàng, nó ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng.
Ở Việt Nam hiện nay môi trường pháp lý chưa thực sự tạo thuận lợi cho hoạt
động tín dụng do có nhiều văn bản pháp luật ban hành ra chưa đầy đủ hoặc
chồng chéo, nhiều bất cập ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.

Ngoài các nguyên nhân trên còn có một số nguyên nhân bất khả kháng
ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng như: thiên tai lũ lụt, chiến
tranh, thảm họa … đây là những yếu tố bất ngờ không tránh khỏi ảnh hưởng
đến toàn xã hội cũng như ngân hàng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến đánh giá hoạt động tín dụng.
Đánh giá hoạt động tín dụng của ngân hàng là vấn đề lớn, phức tạp,
chịu tác động của nhiều yếu tố:
Một là yêu cầu quản trị ngân hàng, đảm bảo đầy đủ đồng bộ các yếu tố.
Quan điểm chiến lược (kế hoạch phát triển), chính sách, triển khai hoạt động
kinh doanh, đánh giá. Việc đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện giúp cho
NHTM thấy được cơ hội, thách thức, kết quả và hạn chế để kết nối phát huy
được cơ hội, điểm mạnh, hạn chế, thách thức và điểm yếu để có chiến lược
phù hợp.


22

Hai là lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá:
+ Sự kết hợp giữa định tính và định lượng.
+ Giữa ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
+ Giữa các chỉ tiêu số lượng và chất lượng.
+ Giữa phát triển ổn định và phòng ngừa rủi ro.
+ Giữa kinh doanh các sản phẩm truyền thống và sản phẩm hiện đại.
Ba là lựa chọn đối tượng đánh giá:
+ Đánh giá nội bộ ngân hàng (thường dựa vào hệ thống chỉ tiêu tự đánh
giá).
+ Đánh giá xếp hạng tín dụng của các tổ chức quốc tế có uy tín hoặc các tổ
chức trong nước.
+ Đánh giá của các chuyên gia ngân hàng.
+ Đánh giá của khách hàng.

+ Đánh giá của ngân hàng Nhà nước.
Trong các đối tượng đánh giá trên đây, đánh giá của khách hàng có vị
trí quan trọng nhất, nếu định lượng thường có trong số cao nhất.
Bốn là năng lực của tổ chức và cá nhân đánh giá.
+ Năng lực tổ chức được thể hiện:
- Lựa chọn đối tượng, chọn mẫu đại diện, số lượng mẫu, nội dung đánh giá
tư liệu xử lý tổng hợp kết quả.
- Năng lực của cán bộ đánh giá: Kiến thức + kỹ năng + Thái độ để khách
quan hóa kết quả đánh giá.
- Công khai kết quả đánh giá.
1.4. Kinh nghiệm hoạt động tín dụng nông nghiệp nông thôn ở một số
nước trên thế giới và Việt Nam và bài học có thể vận dụng cho chi nhánh
Xuân Mai
1.4.1. Kinh nghiệm một số nước trên thế giới


23

- Hoạt động tín dụng nông thôn ở Trung Quốc.
Trung Quốc hiện có gần 1,34 tỷ dân năm 2014, nông nghiệp đóng vai
trò hết sức quan trọng và đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của
Trung Quốc. Sau 36 năm cùng với tiến trình cải cách mở cửa (1978 - 2014),
nền nông nghiệp Trung Quốc đã có nhiều thay đổi, phát triển theo hướng hiện
đại hóa. Trước tình trạng giá lương thực trong nước leo thang, khoảng cách
giàu nghèo giữa khu vực thành thị và nông thôn ngày càng lớn, Trung Quốc
đang tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng tham gia vào hoạt động
cấp vốn cho nông dân. Chính phủ Trung Quốc thực hiện những nỗ lực đưa
vốn đến vùng nông thôn trong lúc lạm phát ở nước này đạt mức kỷ lục 6,5%
cao nhất trong vòng 12 năm qua, mà nguyên nhân chính là do giá lương thực
leo thang.

Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng ổn định, sản lượng lương thực liên
tục tăng. Khu vực I (nông nghiệp) đạt 4.771,2 tỷ nhân dân tệ (NDT), tăng
trưởng 4,5% khu vực II (công nghiệp và xây dựng) đạt 22.059,2 tỷ nhân dân
tệ (NDT), tăng trưởng 10,6%, khu vực III (dịch vụ) đạt 20.326 tỷ nhân dân tệ,
tăng trưởng 8,9%. Như vậy tỷ trọng khu vực I trong GDP là 10,12%, có thể
thấy tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế vẫn cao (ở các nước phát triển chỉ
khoảng 1% - 3%).
Người nông dân phải lệ thuộc nhiều vào nguồn vốn vay từ các hợp tác
xã tín dụng nông thôn. Các tổ chức này hiện đang chiếm khoảng 10% trong
tổng số tiền gửi 42.900 tỷ NDT trong các ngân hàng và các định chế tài chính
ở Trung Quốc và chủ yếu cung cấp các khoản vay nhỏ có giá từ 500 NDT 20.000 NDT cho các hộ nông dân. Giải pháp này giúp khoảng 700 triệu nông
dân Trung Quốc có thể tiếp cận các nguồn vốn vay dễ dàng hơn, từ đó đẩy
mạnh sản xuất, gia tăng sản lượng nông nghiệp và tạo thêm động lực cho nền
kinh tế vốn đang tăng trưởng nhanh của nước này. Tính đến năm 2014, nông


24

nghiệp cùng với các ngành kinh tế chủ lực khác như lâm nghiệp, chăn nuôi
chiếm gần 14% tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Trung Quốc. Việc nông
dân có thể tiếp cận vay vốn dễ dàng hơn cũng sẽ giúp hạn chế tình trạng lao
động trẻ từ nông thôn di chuyển ra thành thị để tìm việc làm khiến các vùng
nông thôn càng bị tụt lại phía sau so với các thành phố lớn do thiếu vốn đầu tư
và lao động.
Năm 2006, Chính phủ Trung Quốc cũng đã mở rộng một kế hoạch thử
nghiệm thành lập bảy công ty cho vay nhỏ ở một số tỉnh nông nghiệp như Sơn
Tây, Tứ Xuyên. Đến nay, số công ty cho vay nhỏ ở các tỉnh này đã tăng lên
đến khoảng 380, Ủy ban pháp chế ngân hàng của Trung Quốc (CBRC) và
ngân hàng nhân dân Trung Quốc (PBoC) đã ban hành một số hướng dẫn
nhằm bỏ bớt một số rào cản xung quanh việc xác định loại hình công ty cho

vay ở nông thôn, các nguồn vốn huy động của các tổ chức này và các vấn đề
khác như quy trình xử lý tình trạng phá sản chẳng hạn. Theo kế hoạch này,
các công ty cho vay nhỏ có thể huy động vốn từ hai ngân hàng trở lên bên
cạnh các kênh huy động truyền thống như cổ đông và các nguồn viện trợ. Để
khuyến khích các công ty cho vay nhỏ ấn định lãi suất cho vay phù hợp với
rủi ro tín dụng, Chính phủ Trung Quốc cũng cho phép các công ty có thể thu
lãi cho vay cao hơn chi phí huy động đến bốn lần và tối thiểu bằng 0,9 lần
mức lãi suất cho vay thời hạn một năm (hiện nay là 7,47%, mức cao nhất
trong chín năm trở lại đây).
Hệ thống ngân hàng làng xã của Bank Rakyat Indonesia.
Năm 1984, ngân hàng quốc doanh chuyên về phát triển nông nghiệp
Bank Rakyat Indonesia (BRI) thành lập hệ thống Unit Desa (UD), tức là ngân
hàng làng xã. Tuy trực thuộc BRI, UD là đơn vị hạch toán độc lập có lãi và
toàn quyền quyết định chủ trương hoạt động kinh doanh. Hệ thống UD dựa
vào mạng lưới chân rết các đại lý tại các làng xã, hiểu biết rõ về địa phương
và nắm thông tin về các đối tượng đi vay. Các đại lý này theo dõi hành động


25

của người đi vay và thi hành các hợp đồng vay. Ngoài ra, người đi vay phải
được một nhân vật có uy tín tại địa phương (như cha đạo, thầy giáo, quan
chức chính quyền) giới thiệu. Phần lớn các khoản cho vay không cần thế chấp
dựa trên giả định là uy tín tại địa phương đủ quan trọng để đảm bảo tránh vỡ
nợ. Hơn nữa, có nhiều chương trình khuyến khích người đi vay trả nợ đúng
hạn, ví dụ ai trả nợ sớm thì sẽ được hoàn trả một phần lãi. Ngoài các chương
trình cho vay hiệu quả, UD cũng có nhiều dịch vụ tài chính khác. Nổi bật nhất
là dịch vụ tiết kiệm linh hoạt, với giờ giấc hoạt động thuận tiện cho khách,
môi trường thân thiện, cho rút tiền không hạn chế, và nhiều biện pháp khuyến
mãi như tiền thưởng và rút thăm.

Kết quả hệ thống UD đã tự lực được về tài chính, và bắt đầu có lãi lớn
chỉ vài năm sau khi ra đời. Ngay cả trong giai đoạn khủng hoảng tài chính
1997 - 1998, UD vẫn đứng vững, tăng số tiền gửi tiết kiệm trong khi tỷ lệ vỡ
nợ hầu như không tăng. Đến năm 1999, UD có 2,5 triệu khách vay tiền và
khoảng 20 triệu tài khoản tiết kiệm. Hiện nay, UD có mặt trên toàn quốc với
khoảng 3.700 ngân hàng làng xã Hardy etai (2002).
1.4.2. Kinh nghiệm Việt Nam.
- Ngân hàng NNo & PTNT chi nhánh Đồng Tháp.
Đồng Tháp là một trong các tỉnh có tiềm năng và lợi thế phát triển nông
nghiệp hàng hóa với 3 sản phẩm chủ lực: lúa gạo, cá tra và trái cây. Sản phẩm
nông nghiệp chiếm tỷ trọng đáng kể trong GDP của tỉnh. Đối tượng cho vay
tín dụng chủ yếu là hộ nông dân và doanh nghiệp chế biến chiếm tỉ trọng lớn
nhất trong tổng dư nợ.
Cùng với những đặc điểm chung của sản xuất nông nghiệp cả nước,
nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp nói riêng và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói
chung có một số đặc điểm riêng: Phát triển nông nghiệp gắn trực tiếp với
nông nghiệp nông dân, tín dụng là đầu vào quan trọng đối với sản xuất nông


×