Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Phát triển các hình thức liên kết của nông dân trong sản xuất, tiêu thụ xoài và rau tại huyện xuân lộc, tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1006.71 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

LÊ THỊ XUÂN TRANG

PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THỨC LIÊN KẾT CỦA NÔNG DÂN
TRONG SẢN XUẤT, TIÊU THỤ XOÀI VÀ RAU
TẠI HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Đồng Nai, 2012


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Trong sản xuất nông nghiệp người nông dân phải đối mặt với nhiều rủi ro
khác nhau, đó là: rủi ro thời tiết, dịch bệnh và rủi ro trong tiêu thụ sản phẩm làm
ra. Tình trạng biến động xấu về giá cả và nhu cầu tiêu thụ trong thị trường nông
sản làm nảy sinh tình trạng “được mùa, rớt giá” và “được giá, mất mùa” diễn ra
phổ biến mà nông dân không chủ động đối phó được với tình hình.
Bên cạnh đó, việc tiêu thụ nông sản của nông dân thường trải qua nhiều khâu
trung gian, làm cho quá trình tiêu thụ không thông suốt, chênh lệch giữa giá nông
sản do nông dân bán ra với giá nông sản ở thị trường tiêu dùng cuối cùng thường
rất lớn, trong đó giá bán nông sản của nông dân thường thấp so với giá thị trường


nông sản nguyên liệu trong và ngoài nước, dẫn tới phần thu của nông dân thấp
hơn nhiều so với các tác nhân tham gia chế biến, tiêu thụ trong toàn chuỗi giá trị
nông sản.
Một trong những nguyên nhân của thực trạng trên là sản xuất phân tán, manh
mún, nhỏ lẻ, thiếu liên kết, hợp tác giữa các hộ nông dân trong sản xuất và tiêu thụ
nông sản làm ra trong nhiều năm qua, chưa có biện pháp xử lý hữu hiệu.
Vấn đề tiêu thụ nông sản và nâng cao thu nhập của nông dân trong tiêu thụ
nông sản luôn là vấn đề đặt ra đối với các cơ quan hoạch định chính sách và quản
lý nhà nước về nông nghiệp ở Trung ương và địa phương, hiện nay đang tìm tòi
các biện pháp xử lý.
Cụ thể là trong những năm vừa qua Chính phủ đã ban hành Nghị định số
88/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của về chính sách hỗ trợ phát triển
Hợp tác xã 1; đồng thời có chủ trương khuyến khích nông dân hợp tác, liên kết
trong sản xuất và tiêu thụ nông sản bằng Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24
tháng 6 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ
1

Toàn văn Nghị định số 88/2005/NĐ-CP tại Phụ lục số 9


2

nông sản thông qua hợp đồng 2; tiếp đến là Chỉ thị số 25/2008/CT- TTg về tăng
cường chỉ đạo tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng;.
Các văn bản nói trên đã được thực hiện ở nhiều địa phương trong sản xuất,
tiêu thụ các hàng hóa nông sản quan trọng nhưng kết quả thu được thấp 3. Chính
vì vậy Chính phủ đang tiếp tục chỉ đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
xây dựng Đề án “Chính sách thúc đẩy phát triển liên kết sản xuất, tiêu thụ nông
sản giữa nông dân với các đối tác kinh tế khác trong nông nghiệp, nông thôn giai
đoạn 2010-2020” theo chỉ đạo tại Nghị quyết số 26 - NQ/TW Hội nghị lần thứ

7 Ban chấp hành trung ương Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đề
án có mục tiêu đánh giá thực trạng liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân;
doanh nghiệp với tổ chức đại diện của nông dân (HTX, tổ hợp tác; đại diện
nhóm hộ nông dân. . .) và doanh nghiệp - thương lái - hộ nông dân trong sản
xuất - tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng; làm rõ các hình thức kiên kết,
mô hình liên kết hiệu quả giữa các tác nhân trong sản xuất - tiêu thụ nông sản;
xác định vị trí, vai trò của mỗi tác nhân trong một số ngành hàng nông sản
chủ yếu và đánh giá tác động cơ chế chính sách hiện hành; đề ra mục tiêu,
giải pháp lớn nhằm thúc đẩy phát triển liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản
giữa nông dân với các thành phần kinh tế khác.
Với vị trí công tác là cán bộ của Phòng nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai; tôi nhận thấy con đường cơ bản để giúp nông
dân khắc phục những khó khăn và thua thiệt trong tiêu thụ sản phẩm làm ra là hợp
tác, liên kết với nhau, với doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác để cùng nhau
tiêu thụ sản phẩm với giá cả có lợi cho tất cả các bên tham gia liên kết. Trên cơ sở
đó các bên đều thu được lợi ích cao nhất và giảm thiểu những rủi ro như đã trình
bày ở trên.

2

3

Toàn văn Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg tại Phụ lục số 7
Hiện tại mới khoảng 20% nông sản hàng hóa được tiêu thụ thông qua hợp đồng


3

Từ những lý do trên đây, học viên lựa chọn đề tài Phát triển các hình thức
liên kết của nông dân trong sản xuất, tiêu thụ xoài và rau tại huyện Xuân Lộc,

tỉnh Đồng Nai làm đề tài luận văn tốt nghiệp trình độ thạc sĩ kinh tế nông nghiệp
của mình tại trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam.
Mong muốn của học viên là, kết quả nghiên cứu luận văn sẽ đóng góp thiết
thực vào công tác quản lý nhà nước về nông nghiệp của bản thân cũng như của cơ
quan Phòng nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai
hiện nay.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

2.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển các hình thức liên kết
của nông dân trong sản xuất, tiêu thụ nông sản trên địa bàn huyện Xuân Lộc, tỉnh
Đồng Nai.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Luận giải cơ sở lý luận về các hình thức liên kết của nông dân trong sản
xuất, tiêu thụ nông sản hàng hóa.
- Đánh giá thực trạng các hình thức liên kết của nông dân trong sản xuất, tiêu
thụ xoài và rau trên địa bàn huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện, phát triển các hình thức liên kết của nông dân
trong sản xuất, tiêu thụ xoài và rau trên địa bàn huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các hình thức liên kết của nông dân trong sản xuất, tiêu thụ xoài và rau trên
địa bàn huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
3.2. Phạm vi nghiên cứu


4

+ Phạm vi về nội dung: Các hình thức liên kết của nông dân trong sản xuất,

tiêu thụ sản phẩm xoài và rau thông qua hình thành các loại hình tổ chức sản xuất
nông nghiệp như: HTX, THT, CLB, LHCLB.
+ Không gian: Địa bàn huyện Xuân Lộc.
+ Thời gian: Từ năm 2008 đến năm 2011.
4. NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI

- Những nội dung về cơ sở lý luận của về vấn đề nghiên cứu.
- Những nội dung về thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
- Những nội dung về giải pháp đối với vấn đề nghiên cứu.
5. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN VĂN

Ngoài phần đặt vấn đề và kết luận, kết cấu đề tài gồm 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lý luận về các hình thức
liên kết của nông dân trong sản xuất, tiêu thụ nông sản hàng hóa.
- Chương 2: Đặc điểm của huyện Xuân Lộc và phương pháp nghiên cứu.
- Chương 3: Kết quả nghiên cứu.


5

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC
HÌNH THỨC LIÊN KẾT CỦA NÔNG DÂN TRONG SẢN XUẤT, TIÊU
THỤ NÔNG SẢN HÀNG HÓA
1.1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Đến nay đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về chủ đề “Phát triển
mối liên kết trong sản xuất - tiêu thụ nông sản hàng hóa” cụ thể là:
1.1.1. Đề tài của ThS. Nguyễn Trọng Khương, năm 2010
- Đề tài “nghiên cứu cơ sở khoa học đề xuất chính sách tăng cường liên kết

giữa doanh nghiệp chế biến và người nuôi cá tra vùng đồng bằng sông Cửu Long”
nghiên cứu sâu về mối liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp (mối liên kết
dọc), đánh giá tình hình thực hiện các chính sách khuyến khích liên kết tiêu
thụ nông sản thông qua hợp đồng tại Quyết định 80/2002QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ. Qua đó, đề xuất các chính sách nhằm thúc đẩy mối liên kết
sản xuất, tiêu thụ nông sản giữa doanh nghiệp và nông dân, như: Chính sách
kiểm soát giá sàn xuất khẩu; Chính sách kiểm soát giá trần về con giống và
thức ăn cho thủy sản; Chính sách bình ổn giá thu mua nguyên liệu, nâng cao
năng lực và hiệu quả kiểm soát Nhà nước; Chính sách hỗ trợ trực tiếp cho
nông dân và Chính sách hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp.
- Nghiên cứu về sự phát triển các hình thức liên kết của nông dân trong
sản xuất, tiêu thụ xoài và rau trên địa bàn huyện Xuân Lộc, ngoài việc nghiên cứu
các chính sách thúc đẩy mối liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp (Quyết định
số 80/2002/QĐ-TTg), còn nghiên cứu các chính sách thúc đẩy mối liên kết giữa
nông dân với nông dân (Luật HTX năm 2003, Nghị định số 88/2005/NĐ-CP,
Nghị định số 151/2007/NĐ-CP)
1.1.2. Đề tài của Lê Thị Thanh, năm 2010


6

- Đề tài “Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới tình hình liên kết giữa Nhà nông,
Nhà khoa học và Doanh nghiệp trong sản xuất - kinh doanh rau trên địa bàn huyện
Gia Lâm - Hà Nội” đã nghiên cứu sâu về mối liên kết giữa nông dân với các tổ
chức kinh tế thông qua các nội dung liên kết trong sản xuất nông nghiệp (cung
ứng đầu vào; chuyển giao kỹ thuật; phòng chống dịch bệnh; tiêu thụ sản phẩm);
Các hình thức liên kết (Hợp đồng miệng, hợp đồng bằng văn bản); Các phương
thức liên kết (dọc, ngang).
- Nghiên cứu về các hình thức liên kết của nông dân trong sản xuất, tiêu thụ
xoài và rau trên địa bàn huyện Xuân Lộc sẽ nghiên cứu cả mối liên kết giữa nông

dân với các tổ chức kinh tế và mối liên kết giữa nông dân với nông dân; đánh giá các
hình thức liên kết theo 2 nhóm chỉ tiêu đó là: Theo chủ thể tham gia và theo tính tổ
chức. Đồng thời, phân tích việc sử dụng hợp đồng (Hợp đồng miệng, hợp đồng
bằng văn bản) như là những công cụ liên kết.
1.1.3. Báo cáo của Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, năm 2012
- Báo cáo dự án nghiên cứu đánh giá hình thức và tính hiệu quả của các cơ
chế hợp đồng trong nông nghiệp và các phương thức cải thiện việc thực thi hợp
đồng do TS. Chu Tiến Quang thực hiện, đã phân tích 5 loại hợp đồng trong
ngành nông nghiệp đó là: (1) Hợp đồng tập trung, có hình thức phối hợp chặt
chẽ theo ngành dọc giữa người sản xuất và người mua, trong đó hạn ngạch
được phân bổ cho người sản xuất để sản xuất một số lượng hàng hóa đã được
định trước; (2) Hợp đồng đất đai, người mua cũng sở hữu đất đai đang được
người sản xuất sử dụng; (3) Hợp đồng đa phương, gồm nhiều bên tham gia
như chính phủ và các công ty cùng phối hợp trong mối quan hệ giữa người
sản xuất và người mua. Vì vậy, với những hợp đồng này, người nông dân sẽ
được đại diện bởi một hiệp hội và chính quyền có trách nhiệm cung cấp các
dịch vụ mở rộng khác; (4) Hợp đồng không chính thức thường là hợp đồng
miệng giữa các bên để đáp ứng nhu cầu về sản xuất theo mùa và phổ biến với


7

các sản phẩm không đòi hỏi công nghệ chế biến cao; (5) Hợp đồng trung gian
được ký giữa người mua và nhà buôn hơn là ký trực tiếp giữa người mua và
nhà sản xuất. Loại hợp đồng này thường được dùng trong các tình huống có
quá nhiều nhà sản xuất để người mua giám sát và do đó dẫn đến quyết định ký
hợp đồng phụ với các nhà buôn.
- Nghiên cứu về sự phát triển các hình thức liên kết của nông dân trong
sản xuất, tiêu thụ xoài và rau trên địa bàn huyện Xuân Lộc sẽ tập trung nghiên cứu
các loại hợp đồng gồm: Hợp đồng tập trung và Hợp đồng trung gian để làm rõ

mối liên kết sản xuất tiêu thụ giữa nông dân với doanh nghiệp và Hợp đồng
không chính thức để làm rõ mối liên kết giữa nông dân với nông dân trong
sản xuất, tiêu thụ nông sản.
1.1.4. Sách chuyên khảo về vai trò và giải pháp nâng cao vai trò của HTX đối
với xã viên trong nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam
- Sách do TS. Chu Tiến Quang - Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung
ương biên soạn đã nghiên cứu mối liên kết giữa nông dân với nông dân trong
HTX và các hoạt động liên kết thông qua mô hình hợp tác xã mang lại lợi ích cho
nông dân tham gia liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản. Bao gồm:
+ Hoạt động cung ứng vật tư cho xã viên sản xuất nông nghiệp: Hoạt động
này khẳng định vai trò, ý nghĩa của HTX đối với xã viên về cung ứng vật tư,
đảm bảo cho xã viên có điều kiện chủ động đầu tư theo đúng yêu cầu của sản
xuất. Khi HTX thực hiện tốt cung ứng vật tư cho xã viên thì xã viên sẽ phát
triển sản xuất tốt hơn so với không nhận được dịch vụ này, từ đó vai trò của
HTX sẽ được xác lập và phát triển trong xã viên. Để thực hiện được vai trò
cung ứng vật tư cho xã viên, đòi hỏi Ban quản trị của HTX biết chủ động nắm
bắt đúng nguyện vọng và cam kết của xã viên trong HTX về sử dụng các loại
vật tư mà họ cần, tìm nơi cung ứng tốt nhất và thuận lợi nhất để mang các loại
vật tư về cho xã viên.


8

+ Hoạt động cung cấp dịch vụ sản xuất nông nghiệp: Làm đất, thủy lợi,
bảo vệ cây trồng vật nuôi trong quá trình sản xuất nông nghiệp của xã viên…
các dịch vụ này có ý nghĩa rất quan trọng, đảm bảo cho xã viên nâng cao năng
suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi.
+ Hoạt động chế biến, tiêu thụ sản phẩm: Hoạt động chế biến và tiêu thụ
nông sản có ý nghĩa làm tăng giá trị nông sản và giúp xã viên tiêu thụ có lợi
nhất. Bản thân từng hộ xã viên có thể thực hiện được cả hai hoạt động này,

nhưng phương thức chế biến và tiêu thụ mang tính thủ công nên chất lượng
chế biến thấp và không tạo khối lượng sản phẩm lớn theo yêu cầu của khách
hàng, nhất là đối với thị trường xuất khẩu.
- Nghiên cứu về sự phát triển các hình thức liên kết của nông dân trong
sản xuất, tiêu thụ xoài và rau trên địa bàn huyện Xuân Lộc cũng được nghiên cứu
trong loại hình tổ chức HTX, ngoài ra, còn được nghiên cứu trong các tổ chức
khác như Câu lạc bộ, Tổ hợp tác.
1.1.5. Đề án “Chính sách thúc đẩy phát triển liên kết sản xuất, tiêu thụ nông
sản giữa nông dân với các đối tác kinh tế khác trong nông nghiệp, nông thôn
giai đoạn 2010-2020”
- Đề án đã đưa ra những chính sách sau: (1) Rà soát bổ sung quy hoạch
theo hướng sản xuất hàng hóa; (2) Hỗ trợ đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng vùng
nguyên liệu (doanh nghiệp được ngân sách Nhà nước hỗ trợ kinh phí nâng
cấp, tu sửa các cơ sở hạ tầng sản xuất mức trợ tối đa không quá 40% tổng
kinh phí của công trình đối với vùng sản xuất ngành hàng nông sản đặc biệt
ưu tiên và 20% đối với ngành hàng nông sản ưu tiên); (3) Cung cấp dịch vụ
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; (4) Hướng dẫn chế tài xử lý vi phạm
hợp đồng trong liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản giữa nông dân và
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; (5) Chính sách hỗ trợ các đối tác
tham gia liên kết sản xuất chế biến tiêu thụ nông sản (Đối với doanh nghiệp,


9

hỗ trợ kinh phí nâng cấp hạ tầng, giảm 20% mức thuế thu nhập doanh nghiệp
khi liên kết với nông dân ở vùng nguyên liệu ngành hàng đặc biệt ưu tiên và
giảm 10% đối với vùng nguyên liệu ngành hàng ưu tiên, trích 1% lãi trước
thuế của các doanh nghiệp trong vùng nguyên liệu xây dựng Quỹ phòng
chống rủi ro trong liên kết; Đối với Nông dân, được hỗ trợ theo cơ chế chính
sách hiện hành về đất đai, tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyên ngư,

đào tạo nghề, tư vấn pháp lý; Đối với tổ chức kinh tế của nông dân (HTX, tổ
hợp tác), được miễn không thu thuế thu nhập doanh nghiệp cho HTX làm
dịch vụ cầu nối tiêu thụ nông sản giữa nông dân và doanh nghiệp trong vùng
nguyên liệu trong 10 năm, được hỗ trợ đào tạo, tư vấn pháp lý; Đối với nhà
khoa học được ưu tiên hỗ trợ thực hiện các đề tài nghiên cứu tạo ra công nghệ
mới và thực hiện dự án sản xuất thử nghiệm, miễn thuế thu nhập.
1.1.6. Báo cáo điều tra hiện trạng các Tổ hợp tác trong nông nghiệp, nông
thôn Việt Nam năm 2009
- Qua nghiên cứu báo cáo điều tra về Tổ hợp tác trong nông nghiệp nông
thôn, học viên nhận thấy mô hình Câu lạc bộ sản xuất ở huyện Xuân Lộc (mà
thường được gọi là Câu lạc bộ năng suất cao) có mô hình tổ chức, đặc điểm
hoạt động cơ bản và vai trò của nó đối với người nông dân giống như Tổ hợp
tác. Cụ thể là:
+ Về mô hình tổ chức: Tổ hợp tác và Câu lạc bộ đều có tổ chức rất đơn
giản, các tổ viên cùng hoạt động trong một lĩnh vực nào đó, hợp nhau lại,
thống nhất về những công việc chung cần làm và bầu ra người điều hành các
công việc đó.
+ Về đặc điểm hoạt động: Tổ hợp tác và Câu lạc bộ đều là một loại hình
tổ chức kinh tế thuộc khu vực tư nhân, được hình thành tự nguyện bởi các
thành viên tham gia, thuộc sở hữu tập thể của tất cả những thành viên tham


10

gia và được quản lý bởi chính những thành viên với mục tiêu chính là tăng
thu nhập hoặc mang lại lợi ích chung cho các thành viên.
+ Tổ hợp tác và Câu lạc bộ đều có vai trò giúp người dân nông thôn trên
những khía cạnh chủ yếu sau: (1) Thiết lập các mối liên hệ xã hội với nhau để
nâng cao vị thế trong xã hội; (2) Đa dạng hoá sản xuất sang những lĩnh vực
mà từng người riêng lẻ không thể làm được; (3) Nâng cao giá cả sản phẩm;

(4) Tăng năng suất, hiệu quả của các hoạt động sản xuất giống nhau; (5) Giảm
chi phí các đầu vào của sản xuất, đặc biệt những đầu vào phải mua từ thị
trường; (6) Tiếp cận dễ dàng hơn với thị trường và với chi phí thấp; (7) Có
khả năng hơn trong huy động vốn đầu tư vào sản xuất quy mô lớn hơn; (8)
Tạo điều kiện cho nhiều người học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm; (9) Giảm bớt
rủi ro do biến động của thiên nhiên gây ra; (10) Giúp người dân có tiếng nói
chung, uy lực hơn trong đàm phán với những đối tác lớn hơn trên thị trường;
(11) Tạo ra cơ sở tốt hơn để những người sản xuất nhỏ liên kết có lợi với các
tổ chức kinh tế lớn trong quan hệ cung ứng và dịch vụ sản xuất, kinh doanh và
củng cố quan hệ giữa các cá nhân có cùng các mối quan tâm giống nhau; (12)
Tạo cơ hội để xây dựng mối quan hệ hợp tác tin cậy lẫn nhau, chia sẽ thông
tin, phối hợp hành động, cùng gánh vác các công việc chung và tạo ra "lưới
an sinh xã hội phi chính thức" ở nông thôn.
- Nghiên cứu về sự phát triển các hình thức liên kết của nông dân trong
sản xuất, tiêu thụ xoài và rau trên địa bàn huyện Xuân Lộc sẽ đánh giá thực trạng
và đề ra giải pháp phát triển liên kết của nông dân trong mô hình CLB của huyện
Xuân Lộc.
1.1.7. Đề tài của TS. Võ Phước Tấn, năm 2003
- Đề tài “Phương thức tiêu thụ nông sản vùng Đông Nam Bộ, thực trạng
và giải pháp đổi mới phù hợp yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam”
đã nêu lên các phương thức tiêu thụ, kênh tiêu thụ nông sản hàng hóa ở vùng


11

Đông Nam Bộ, Đồng thời, đề xuất giải pháp phát triển các phương thức tiêu
thụ nông sản. Trong đó, có các phương thức liên kết tiêu thụ nông sản như:
(1) Tiếp tục phát triển và hình thành các HTX để tăng khả năng liên kết của
nông dân, phát triển hoạt động của HTX theo hình thức đại lý hoặc hợp đồng
tiêu thụ nông sản; (2) Hình thành và phát triển mối liên kết giữa HTX với

doanh nghiệp để tạo ra sức mạnh cho các doanh nghiệp và HTX trong việc
phát triển kinh doanh.
- Kênh tiêu thụ và phương thức tiêu thụ nông sản có ảnh hưởng rất lớn
đến tình hình và sự phát triển sản xuất hàng hóa cũng như lợi ích của người
nông dân. Do đó, nghiên cứu về sự phát triển các hình thức liên kết của nông
dân trong sản xuất, tiêu thụ xoài và rau trên địa bàn huyện Xuân Lộc sẽ đánh giá
lợi ích của nông dân qua việc áp dụng các kênh tiêu thụ, phương thức tiêu thụ
nông dân hàng hóa trên địa bàn huyện. Từ đó, có những giải pháp phát triển sự
liên kết của nông dân nhằm áp dụng những kênh, những phương thức tiêu thụ có
lợi nhất cho nông dân.
1.2.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI LIÊN KẾT CỦA NÔNG DÂN TRONG

SẢN XUẤT, TIÊU THỤ NÔNG SẢN HÀNG HÓA
1.2.1. Đặc điểm của sản xuất, tiêu thụ nông sản hàng hóa
- Sản xuất nông nghiệp hàng hóa là quá trình sản xuất ra sản phẩm nông
nghiệp để buôn bán, trao đổi nhằm mục tiêu thu lợi nhuận. Sản xuất nông nghiệp
hàng hóa có quy mô sản xuất lớn, phương thức sản xuất hiện đại. Trong sản xuất
hàng hóa, thì lợi nhuận và thu nhập là động lực kích thích sản xuất, thúc đẩy cải
tiến kỹ thuật, sử dụng các nguồn lực sản xuất, tiết kiệm và có hiệu quả.
- Tiêu thụ là sự trao đổi hàng hóa, trong đó một hay một nhóm chủ thể này
tiếp nhận một sản phẩm mong muốn từ một cá nhân hay một tổ chức khác bằng
cách chuyển cho cá nhân hay tổ chức đó một giá trị tương xứng. Nông sản hàng


12

hóa được tiêu thụ khi các trao đổi diễn ra thông qua một thỏa thuận đa dạng trong
đó cả hai bên cùng có lợi.

Tiêu thụ nông sản hàng hóa còn liên quan đến việc xác định nhu cầu thực sự
của người tiêu dùng, từ đó có sự tổ chức và điều phối hàng hóa đến người tiêu thụ
thông qua các kênh phân phối hoặc các cơ sở bán buôn. Khi đã xác định được nhu
cầu sẽ hình thành nên các thị trường tiêu thụ của từng chủng loại sản phẩm và từ
đó có cách tổ chức và hình thành phương thức tiêu thụ nông sản một cách hợp lý.
- Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp 4:
+ Sản xuất nông nghiệp diễn ra trong không gian rộng, gắn với các điều kiện
tự nhiên, sinh thái và xã hội rất đa dạng và phức tạp: Việt Nam vẫn là một nước
nông nghiệp, diện tích đất sản xuất nông nghiệp trải khắp. Trong khi đó, mỗi
vùng lại có điều kiện thời tiết, khí hậu, địa hình, cơ cấu mùa vụ, có điều kiện
kinh tế xã hội, tập quán canh tác khác nhau và đối tượng của sản xuất nông
nghiệp là cơ thể sống, chúng sinh trưởng và phát triển theo quy luật riêng.
+ Sản xuất nông nghiệp không ổn định, sản lượng mỗi loại cây trồng, vật
nuôi luôn biến động theo thời gian, dưới tác động của nhiều yếu tố tự nhiên, điều
kiện canh tác, quyết định của người sản xuất và nhu cầu của thị trường: Sản xuất
nông nghiệp là ngành sản xuất có chu kỳ sản xuất dài, ít nhất phải mất một vài
tháng, dài phải mất vài chục năm, nhưng lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố,
do đó tính bấp bênh, rủi ro cao, sản xuất nông nghiệp không chỉ phụ thuộc
vào điều kiện tự nhiên mà còn phụ thuộc vào thị trường, tình hình sản xuất
của các nước khác trên thế giới.
+ Sản xuất nông nghiệp luôn là tác nhân trực tiếp, quan trọng đối với môi
trường sinh thái: Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ
yếu và không thể thay thế được và quá trình sản xuất nông nghiệp có ảnh
Theo Giáo trình môn học Xây dựng và phân tích chính sách nông nghiệp nông thôn - do
TS. Chu Tiến Quang biên soạn và giảng dạy.
4


13


hưởng trực tiếp đến môi trường sinh thái theo hai hướng. Hướng thứ nhất là
quá trình quang hợp, trao đổi chất của đối tượng sản xuất (cây trồng) tác động
đến môi trường sinh thái, tác động này là tác động tích cực, nếu sản xuất nông
nghiệp phát triển sẽ tạo thảm cây xanh làm trong lành bầu không khí, tốt cho
môi trường sinh thái. Hướng thứ hai là sự tác động do sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật, thuốc trừ sâu, phân bón hóa học làm ảnh hưởng tiêu cực đến hệ động
vật, ảnh hưởng đến nguồn nước ngầm và chất đất.
+ Hướng tới phát triển hài hòa, hợp lý giữa nông nghiệp truyền thống với
nông nghiệp hiện đại và phát triển các ngành nghề, hoạt động chế biến nông sản
để tiêu thụ thuận lợi và đạt được thu nhập cao hơn: Sản xuất nghiệp có những đặc
điểm sinh học riêng, không thể điều chỉnh hoàn toàn như sản xuất công nghiệp
nhưng cần phải cải tiến theo nhu cầu của thị trường, theo xu thế phát triển của nền
nông nghiệp hiện đại là sản xuất nông nghiệp hàng hóa và tạo ra sản phẩm nông
nghiệp có chất lượng cao. Đồng thời, kết hợp các hoạt động sơ chế, chế biến nâng
cao giá trị sản phẩm làm ra, tăng thu nhập cho người nông dân.
1.2.2. Các kênh tiêu thụ nông sản hàng hóa
- Kênh trực tiếp: Nông dân sản xuất ra nông sản và bán cho người tiêu dùng
mà không qua một đơn vị trung gian nào. Người tiêu dùng bao gồm hộ gia đình,
các nhà hàng, quán ăn, các cơ quan, xí nghiệp, khu công nghiệp tổ chức bếp ăn tập
thể. Khối lượng nông sản tiêu thụ qua kênh này ít. Kênh tiêu thụ nông sản trực
tiếp được biểu diễn qua sơ đồ 1.1
Người
sản xuất

Người
tiêu dùng
Sơ đồ 1.1 – Sơ đồ kênh tiêu thụ trực tiếp
Nguồn: Võ Phước Tấn, 2003

Trong kênh tiêu thụ này, sản phẩm nông nghiệp không qua tác nghiệp chế

biến nên thường được tiêu dùng dưới dạng tươi sống (không thay đổi trạng thái


14

sản phẩm nông sản so với sản phẩm sau thu hoạch). Về phía người sản xuất nông
nghiệp, tiếp cận được tới người tiêu dùng cuối cùng nên có thể nắm bắt được nhu
cầu và thị hiếu của họ về sản phẩm làm ra.
- Kênh gián tiếp: Nông dân sản xuất ra nông sản hàng hóa không bán trực
tiếp cho người tiêu dùng, mà bán cho các trung gian. Các trung gian đó bao gồm
trung gian 1 cấp và trung gian 2 cấp:
+ Đối với 1 cấp trung gian: thường là những người buôn bán nhỏ, siêu thị
mua nông sản của nông dân rồi đem bán cho người tiêu dùng. Kênh tiêu thụ nông
sản gián tiếp 1 cấp trung gian được biểu thị qua sơ đồ 1.2:
Người
sản xuất

Người bán lẻ,
Siêu thị

Người
tiêu dùng

Người
sản xuất

Nhà sản xuất
công nghiệp

Người

tiêu dùng

Sơ đồ 1. 2 - Kênh tiêu thụ gián tiếp 1 cấp trung gian.
Nguồn: Võ Phước Tấn, 2003

Ở kênh tiêu thụ gián tiếp 1 cấp trung gian này, người sản xuất nông nghiệp
bán nông sản cho người tiêu dùng thông qua một khâu trung gian, giá bán sát với
giá tiêu dùng nên giá trị hàng hóa mà người tiêu dùng nhận được cao hơn các
trường hợp tiêu thụ qua nhiều khâu trung gian.
Đặc điểm của kênh tiêu thụ này thể hiện ở chỗ, sản phẩm nông sản được tiêu
thụ thông qua kênh trung gian là người bán lẻ hoặc siêu thị; người tiêu dùng tiếp
cận và mua sản phẩm thông qua tác nhân trung gian nên không biết được nguồn
gốc sản phẩm, nếu như tác nhân trung gian không ghi lại người sản xuất ra sản
phẩm mà họ tiêu thụ
Đối với trung gian là doanh nghiệp, nhà sản xuất công nghiệp, thì sản phẩm
đưa ra thị trường thường khác biệt nhiều so với với sản phẩm nhà sản xuất bán


15

cho doanh nghiệp chế biến. Ví dụ nhà sản xuất công nghiệp mua xoài trái, chế
biến thành xoài sấy mới bán cho người tiêu dùng (Sản phẩm sau chế biến của nhà
chế biến công nghiệp có thể tiêu thụ qua nhiều kênh, nhiều khâu trung gian nữa
nhưng đó là hoạt động tiêu thụ của nhà chế biến, đề tài không đề cập đến)
+ Đối với 2 cấp trung gian: Ngoài khâu trung gian là người bán lẻ, siêu thị,
doanh nghiệp chế biến như ở kênh tiêu thụ gián tiếp 1 cấp trung gian, còn có cấp
trung gian thứ hai đó là thương lái, chợ đầu mối. Thương lái, là các tổ chức, cá
nhân tập trung lượng hàng hóa từ nhà sản xuất và tiến hành thực hiện phân phối
những hàng hóa đó cho các nhà bán lẻ, các nhà sản xuất công nghiệp chế biến để
xuất khẩu hoặc tiêu thụ trong nước; Chợ đầu mối, là nơi tập trung hàng hóa từ các

nhà sản xuất, sau đó bán lại cho những người buôn bán nhỏ. Kênh tiêu thụ gián
tiếp 2 cấp trung gian được biểu thị qua sơ đồ 1.3.
Người
sản xuất

Thương lái

Người
bán lẻ

Người
tiêu dùng

Người
sản xuất

Chợ đầu mối

Người
bán lẻ

Người
tiêu dùng

Sơ đồ 1.3 - Kênh tiêu thụ gián tiếp 2 cấp trung gian
Nguồn: Võ Phước Tấn, 2003

Ở kênh tiêu thụ gián tiếp 2 cấp trung gian, người sản xuất bán sản phẩm cho
thương lái hoặc chợ đầu mối, thương lái phân phối lại cho những người bán lẻ, sau
đó người bán lẻ bán cho người tiêu dùng. Như vậy người tiêu dùng mua sản phẩm

phải thông qua 2 tầng nấc trung gian, người tiêu dùng phải bỏ ra khoản chi phí cao
hơn để mua sản phẩm.
Sự khác nhau giữa trung gian là thương lái và trung gian là chợ đầu mối là:
Thương lái đến tận nơi sản xuất để mua sản phẩm, còn ở chợ đầu mối, người sản
xuất đem sản phẩm đến đó để bán.


16

1.2.3. Khái niệm về liên kết của nông dân trong sản xuất tiêu thụ nông sản
hàng hóa
1.2.3.1. Khái niệm chung về liên kết
Liên kết là việc thực hiện mối liên hệ khách quan giữa các chủ thể nhằm thực
hiện mối quan hệ phân công và hợp tác lao động để đạt tới lợi ích chung. Điều
kiện hình thành và phát triển liên kết là các bên tham gia liên kết có nhu cầu liên
kết, tự nguyện tham gia; bình đẳng, dân chủ trong hưởng lợi và chia sẻ rủi ro.
Liên kết bao gồm: Liên kết ngang, là mối liên kết giữa các tác nhân ở cùng
một mắc xích trong sản xuất một ngành hàng; Liên kết dọc, là mối liên kết giữa
các tác nhân ở các mắt xích liên tiếp khác nhau trong sản xuất của một ngành hàng
nhằm quản trị các giai đoạn sản xuất khác nhau bền vững, tạo ra và phân phối giá
trị gia tăng hợp lý giữa các tác nhân trong ngành hàng.
1.2.3.2. Khái niệm về liên kết của nông dân trong sản xuất tiêu thụ nông sản
hàng hóa
Liên kết của nông dân trong sản xuất, tiêu thụ nông sản là sự kết hợp của
những người nông dân với nhau hoặc giữa nông dân với các doanh nghiệp, các tổ
chức sản xuất kinh doanh trong quá trình sản xuất, tiêu thụ nông sản hàng hóa.
Trong đó:
- Liên kết giữa những người nông dân với nhau:
Ngày nay sản xuất nông nghiệp không còn phù hợp với tình trạng sản xuất
phân tán, nhỏ lẻ mà là sản xuất theo hướng tập trung, hiện đại, tạo ra sản phẩm

nông nghiệp hàng hóa phù hợp thị hiếu người tiêu dùng và đáp ứng nhu cầu thị
trường. Do đó, từng hộ cá thể với diện tích sản xuất nhỏ, tập quán, kỹ thuật canh
tác khác nhau phải liên kết lại mới đáp ứng và bắt kịp sự phát triển của sản xuất
nông nghiệp hàng hóa cũng như các yêu cầu khắc khe của thị trường. Sự liên kết
đó sẽ tạo ra vùng chuyên canh có diện tích lớn, tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, độ
đồng đều cao hơn.


17

Như vậy, mối liên kết giữa những người nông dân với nhau là mối liên kết
ngang, làm tăng quy mô sản xuất, được hình thành và phát triển trong các loại
hình tổ chức sản xuất nông nghiệp như: HTX, THT, CLB, LHCLB. Trong mối
liên kết này, các chủ thể tham gia liên kết cùng nhau thực hiện một hoặc tất cả các
khâu trong sản xuất, tiêu thụ nông sản.
- Liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp:

Hiện nay, sản phẩm nông nghiệp không còn đơn giản chỉ là sản phẩm sản
xuất ra bán ngay tới người tiêu dùng, mà có nhiều loại sản phẩm phải được chế
biến và bảo quản thông qua các công ty chế biến nông sản, thực phẩm, làm đa
dạng về mẫu mã, công dụng của sản phẩm. Liên kết giữa người sản xuất nông
nghiệp với nhà chế biến trong ngành hàng nông sản là mối liên kết dọc. Mối liên
kết dọc được khái quát như sau: người sản xuất - doanh nghiệp thu mua, chế biến người bán buôn (xuất khẩu) - người bán lẻ - người tiêu dùng cuối cùng. Mối liên
kết này cũng có thể là những hợp đồng kinh tế giữa một bên mua và bên bán.
Nhiều trường hợp còn có thể được ứng trước giống, vốn, được hỗ trợ về kỹ thuật
sản xuất cho nông dân từ phía các doanh nghiệp. Một số hợp đồng cũng có thể chỉ
là những cam kết tiêu thụ nông sản đúng chủng loại, giá cả và thời gian quy định.
Mối liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân là một mắt xích quan trọng
trong chuỗi liên kết dọc của ngành hàng nông sản, trong đó mối liên kết chính và
quan trọng nhất là liên kết giữa doanh nghiệp chế biến và người sản xuất

nguyên liệu. Mối liên kết này nhằm kết nối hai quá trình sản xuất khác nhau phối
hợp tạo ra và phân phối giá trị gia tăng trong ngành hàng nông sản.
1.2.4. Vai trò của liên kết nông dân trong sản xuất, tiêu thụ nông sản hàng
hóa
- Nâng cao tiếng nói của nông dân trên thị trường: Khi nông dân liên kết
tạo thành vùng sản xuất có sản phẩm với số lượng lớn, đồng đều, chất lượng cao,
người nông dân có nhiều lựa chọn trong việc bán sản phẩm với giá cao hơn, nên


18

người nông dân có quyền đưa ra những điều kiện, những yêu cầu thuận lợi hơn
cho người nông dân, có quyền quyết định giá bán sản phẩm.
- Giảm chi phí sản xuất cá lẻ của từng hộ nông dân: Nếu như mỗi hộ tự đi
mua vật tư nông nghiệp, không có hợp đồng mua bán đảm bảo chất lượng và chi
phí vận chuyển cao, thì khi nông dân liên kết lại trong một tổ chức, tổ chức đó sẽ
tập hợp nhu cầu của các thành viên, tìm nguồn cung cấp có uy tín, ký hợp đồng
mua với số lượng lớn với giá bán sỉ, giảm chi phí vận chuyển. Sau đó phân phối
lại cho từng hộ để mỗi hộ sử dụng trên đồng ruộng của mình. Như vậy sẽ làm
giảm chi phí sản xuất của mỗi hộ.
- Có cơ hội hội cùng nhau tạo nguồn hàng nông sản lớn, độ đồng đều và
chất lượng cao: Các hộ nông dân liên kết cùng sản xuất một loại sản phẩm, với
cùng một quy trình kỹ thuật, tạo ra sản phẩm nông nghiệp hàng hóa nhiều về khối
lượng, đồng nhất về chất lượng.
- Giúp nông dân giảm thiểu rủi ro từ tác động của thiên tai, thị trường,
dịch bệnh: Các hộ nông dân liên kết áp dụng cùng quy trình kỹ thuật, canh tác,
các hoạt động phòng trừ sâu bệnh được thực hiện đồng loạt tại các hộ trong vùng
liên kết, nên khả năng phòng chống dịch bệnh cao, khi xảy ra diễn biến bất lợi về
thời tiết sẽ giảm thiểu được những thiệt hại. Đồng thời, nông dân sản xuất thông
qua liên kết sẽ tạo ra hàng hóa chất lượng cao, khi có biến động về nhu cầu thị

trường thì hàng hóa của họ sẽ có ưu thế hơn trong tiêu thụ, điều đó giúp nông dân
giảm thiểu rủi ro do thị thị trường gây ra.
- Giúp nông dân hoạt động động có tổ chức, giảm thiểu tự phát: Tâm lý
tiểu nông, sản xuất tự phát dựa vào kinh nghiệm, mạnh ai nấy làm không còn phù
hợp với bối cảnh, xu hướng hiện nay. Do đó, liên kết lại với nhau các thành viên
sẽ cùng sản xuất một loại sản phẩm với cùng một quy trình kỹ thuật, mỗi thành
viên phải chịu trách nhiệm sản xuất đúng theo yêu cầu, thỏa thuận thì việc tiêu thụ
trở nên dễ dàng và hiệu quả cao hơn. Sự thay đổi trong sản xuất - tiêu thụ đều phải


19

do tập thể bàn bạc, thống nhất, việc bàn bạc và quyết định tập thể sẽ hạn chế được
sai sót, rủi ro.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến liên kết của nông dân trong sản xuất, tiêu
thụ nông sản hàng hóa
1.2.5.1. Nhóm nhân tố chủ quan từ phía nông dân
- Nhận thức của nông dân về vai trò, ý nghĩa của liên kết trong sản xuất, tiêu
thụ nông sản hàng hóa:
Do bị ảnh hưởng của sự tan rã phong trào HTX kiểu cũ trước đây (tư liệu
sản xuất đưa vào HTX, kết quả sản xuất tập trung vào HTX, chỉ chia lại cho xã
viên theo số ngày công đã tham gia) nên một bộ phận người nông dân e ngại liên
kết trong mô hình tổ chức HTX, không chủ động, tích cực, tiên phong trong việc
liên kết với nhau để cùng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp của mình,
người nông dân chưa nhìn thấy hết được lợi ích của sự liên kết trong sản xuất, tiêu
thụ sản phẩm nông nghiệp. Chính vì vậy mà việc tuyên truyền, phổ biến các chính
sách khuyến khích phát triển kinh tế tập thể, sự vận động, tác động từ nhiều mặt
để nông dân thấy được hiệu quả và sự cần thiết của liên kết và tự nguyện tham gia
liên kết vô cùng khó khăn và cần thiết.
- Năng lực của nông dân trong hình thành, phát triển liên kết trong sản xuất,

tiêu thụ nông sản hàng hóa:
Từ việc người nông dân không chủ động, tích cực trong việc liên kết với
nhau để cùng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp của mình, nên khi liên kết
dưới một hình thức nào đó, dường như không phát huy được hết khả năng quy tụ,
tập hợp nông dân và điều hành hoạt động không mang lại hiệu quả cao.
Hơn nữa, những người nông dân đa phần chỉ quen với việc cầm cày, cầm
cuốc, nên khi tham gia vào các loại hình tổ chức liên kết, đứng trong vai trò là Ban
Chủ nhiệm, Ban Quản trị, việc lập phương án kinh doanh, thực hiện quá trình kinh


20

doanh, thực hiện các giao dịch kinh tế chắc chắn gặp những hạn chế về trình độ,
về sự nhạy bén, về các mối quan hệ . . .
1.2.5.2. Nhóm nhân tố khách quan
- Mức độ cạnh tranh trong tiêu thụ nông sản hàng hóa:
Mức độ cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị trường tác động đến
nhu cầu hình thành sự liên kết của nông dân. Với những sản phẩm nông nghiệp
mà thị trường đang có nhu cầu lớn, cung vượt cầu thì sự liên kết của nông dân để
tiêu thụ hầu như không có, không những nông dân sản xuất bao nhiêu bán hết bấy
nhiêu, không bị ép giá mà còn xảy ra tình trạng tranh mua giữa các thương lái.
Chẳng hạn như hiện nay sản phẩm bắp được nông dân trên địa bàn huyện sản xuất
nhiều (diện tích gieo trồng 12.000 ha/năm), sản lượng lớn (trên 80.000 tấn/năm)
nhưng sản phẩm làm ra đều được các công ty, nhà máy chế biến lương thực thực
phẩm mua tại ruộng sau khi hái, tách hạt bằng máy. Do đó, việc liên kết của nông
dân sản xuất bắp chỉ là sự liên kết trong sản xuất (có 23 câu lạc bộ sản xuất bắp).
- Tính chất sử dụng nông sản làm ra:
Sản phẩm nông nghiệp có những loại có thể thu hoạch đúng vụ hoặc muộn
hơn vài ngày mà không làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Hơn nữa, sau
khi thu hoạch có thể bán ngay hoặc trữ lại, thời gian trữ có thể tính bằng năm như

hạt tiêu, hạt điều, cà phê, các loại đậu . . . nhưng có những loại đến thời điểm thu
hoạch phải thu hoạch ngay, nếu sớm hoặc chậm một vài ngày sẽ ảnh hưởng đến
chất lượng sản phẩm (trái cây sẽ bị chín quá, rụng, hư hỏng; rau sẽ bị già, cứng;
hoa sẽ bị tàn . . .) và sau khi thu hoạch phải tiêu thụ ngay nếu không sản phẩm sẽ
bị héo úa, giảm chất lượng. Chính vì vậy, tùy vào tính chất sử dụng sản phẩm mà
nhu cầu liên kết của nông dân cũng khác nhau. Đối với những loại sản phẩm có
tính chất tươi sống thì nhu cầu liên kết lớn hơn.
- Pháp luật và chính sách hỗ trợ của nhà nước:


21

Chính sách, pháp luật, sự hỗ trợ của nhà nước có tác động lớn đến sự hình
thành mối liên kết của người nông dân. Khi một chính sách được ban hành để hỗ
trợ cho một tổ chức phát triển. Những hộ dân riêng lẻ muốn được hưởng chính
sách đó thì họ sẽ liên kết lại với nhau. Hơn nữa, sự hỗ trợ đó càng lớn, chính sách
càng hấp dẫn thì động lực tạo sự liên kết giữa các hộ lại thành một tổ chức càng
cao.
- Các tác nhân thương lái, doanh nghiệp trong tiêu thụ nông sản:
Các doanh nghiệp, thương lái mua nông sản của dân thường sẽ đến những
khu vực có nhiều nông dân cùng sản xuất một sản phẩm để có số lượng lớn, giảm
thời gian, chi phí đi thu gom và chỉ muốn đàm phán với một người. Chính vì vậy,
các doanh nghiệp chỉ muốn liên hệ trực tiếp với người đứng đầu các tổ chức sản
xuất của nông dân để thỏa thuận, hợp đồng mua sản phẩm nông nghiệp. Do đó, sự
xuất hiện của các doanh nghiệp, thương lái sẽ làm cho nhu cầu gắn kết của nông
dân lớn hơn.
1.2.6. Các hình thức liên kết của nông dân trong sản xuất, tiêu thụ nông sản
hàng hóa
1.2.6.1. Phân loại theo chủ thể tham gia liên kết
- Liên kết giữa nông dân với nông dân trong sản xuất, tiêu thụ nông sản.

Mối liên kết này hình thành giữa những người nông dân với nhau và hình
thành nên các tổ chức như HTX, THT, CLB, LHCLB trong sản xuất, trong tiêu
thụ và trong sản xuất - tiêu thụ.
+ Liên kết trong sản xuất: Là sự liên kết diễn ra trong các khâu như cùng
nhau tập huấn kỹ thuật, cùng mua vật tư nông nghiệp, cùng nhau thuê, mua máy
móc thiết bị nông nghiệp, thống nhất chọn loại cây trồng, giống cây trồng, thời
gian xuống giống; quy trình chăm sóc cây trồng.


22

+ Liên kết trong tiêu thụ: Là sự liên kết diễn ra trong các khâu lựa chọn đối
tác tiêu thụ, thống nhất giá bán, phương thức bán, thời gian thu hoạch, thống nhất
sản lượng cung cấp của mỗi thành viên vào từng thời điểm.
+ Liên kết trong sản xuất - tiêu thụ: Là sự liên kết diễn ra trong các hoạt động
từ sản xuất, đến tiêu thụ.
- Liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp trong sản xuất, tiêu thụ nông sản.
Có các hình thức như:
+ Liên kết trong sản xuất và tiêu thụ: Doanh nghiệp ứng trước vốn, vật tư, hỗ
trợ kỹ thuật, công nghệ cho nông dân sản xuất. Đến khi thu hoạch nông dân bán
nông sản cho doanh nghiệp đã đầu tư ứng trước với giá đã nêu trong hợp đồng.
+ Liên kết trong tiêu thụ: Doanh nghiệp không ứng trước vốn, vật tư, hỗ trợ
kỹ thuật, công nghệ cho nông dân sản xuất, mà chỉ mua nông sản của nông dân
thông qua các hợp đồng tiêu thụ với giá đã định trước.
1.2.6.2. Phân theo tính tổ chức của liên kết
- Liên kết không hình thành tổ chức: Liên kết diễn ra một lần hoặc thường
xuyên nhưng không hình thành tổ chức, không hình thành các quy chế chặt chẽ về
trách nhiệm, quyền hạn của các bên tham gia liên kết. Liên kết của nông dân
không hình thành tổ chức đó chính là những thỏa thuận của một nhóm nông dân,
đa số họ là họ hàng của nhau.

- Liên kết có hình thành tổ chức: Bao gồm liên kết hình thành tổ chức có tư
cách pháp nhân và hình thành tổ chức không có tư cách pháp nhân. Hình thức liên
kết này chặt chẽ và có tính ổn định lâu dài hơn so với liên kết không hình thành tổ
chức. Liên kết của nông dân có hình thành tổ chức bao gồm: HTX, THT, CLB,
Liên hiệp CLB và những trường hợp liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp có
đầu tư máy móc thiết bị cho nông dân. Đối với các hình thức liên kết này thường
có những ràng buộc chặt chẽ, quy định trách nhiệm, quyền hạn cụ thể của các bên
tham gia liên kết.


23

1.2.7. Nội dung liên kết
- Liên kết sử dụng đất đai: Liên kết sử dụng đất diễn ra ở trường hợp các hộ
nông dân liên kết có hình thành nên một tổ chức, tổ chức này được Nhà nước giao
đất, đất được giao là tài sản chung của tổ chức đó, được các hộ liên kết sử dụng
phù hợp với mục đích của tổ chức.
- Liên kết về vốn: Các bên tham gia liên kết góp vốn, góp tài sản để hình
thành tài sản chung, đóng góp chi phí phục vụ sự vận hành của hoạt động liên kết.
Ngoài ra, liên kết về vốn còn diễn ra khi tổ chức vay vốn sản xuất kinh doanh
hoặc doanh nghiệp đầu tư ứng trước vốn, máy móc thiết bị cho nông dân sản xuất.
- Liên kết về ứng dụng khoa học công nghệ: Liên kết ứng dụng khoa học
công nghệ diễn ra trong các trường hợp như: Các hộ nông dân liên kết cùng thực
hiện một dự án chuyển giao khoa học công nghệ do các Sở ngành của tỉnh chủ trì,
thực hiện nghiên cứu, ứng dụng trên diện tích sản xuất của các hộ dân liên kết;
Hoặc các hộ dân liên kết kiến nghị cơ quan chức năng tổ chức các buổi tập huấn
về kỹ thuật sản xuất, bảo vệ thực vật trên diện tích đang sản xuất của họ.
- Liên kết về tiêu thụ: Các hộ nông dân liên kết cùng chọn một phương thức
tiêu thụ (tiêu thụ phân tán, tiêu thụ hàng đổi hàng hay tập trung chợ đầu mối), một
kênh tiêu thụ (trực tiếp hay gián tiếp, gián tiếp 1 cấp trung gian hay 2 cấp trung

gian) phù hợp với điều kiện về sản lượng, chất lượng hàng hóa của tổ chức.
- Liên kết về cung ứng đầu vào cho sản xuất nông nghiệp: Các hộ nông dân
liên kết cử ra một người tổng hợp nhu cầu về nguyên liệu đầu vào của từng hộ
dân, người đại diện có trách nhiệm tìm kiếm nguồn cung cấp có uy tín, chất lượng
để hợp đồng mua, phân phối lại cho từng hộ tự sử dụng. Sau đó, người đại diện
mua có trách nhiệm gom tiền trả cho đơn vị đã cung cấp.
1.2.8. Kinh nghiệm phát triển các hình thức liên kết của nông dân trong sản
xuất, tiêu thụ nông sản hàng hóa trên thế giới và ở Việt Nam


24

1.2.8.1. Kinh nghiệm phát triển các hình thức liên kết của nông dân ở một số
nước: Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản
- Kinh nghiệm phát triển các hình thức liên kết sản xuất, tiêu thụ của nông
dân ở Thái Lan 5:
Thái Lan là một đất nước sản xuất nông nghiệp đóng vai trò quan trọng,
trong những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp được tổ chức theo các hình
thức liên kết chặt chẽ giữa nông dân với doanh nghiệp chế biến và giữa nông
dân với nông dân.
Liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp: Hình thức liên kết này không
hình thành tổ chức, mà là một hệ thống phối hợp theo chiều dọc, nơi các công
ty mua sản phẩm nông nghiệp từ nhiều nhà sản xuất nhỏ rồi qua quá trình chế
biến, đóng gói và đưa sản phẩm ra thị trường. Mô hình liên kết này khá phổ
biến tại Thái Lan như sản xuất chăn nuôi và chế biến sản phẩm thịt gia cầm,
sản phẩm rau, và mía đường, sản phẩm ngành thuỷ sản. Tập đoàn CP Groups
cũng áp dụng hình thức liên kết sản xuất chăn nuôi heo, gia cầm với các hộ
sản xuất nhỏ. Các hộ nuôi heo, gia cầm được đầu tư về trang thiết bị chăn
nuôi, được cung cấp con giống, thức ăn và thuốc thú y. Người nông dân đã
nâng cao được chất lượng sản phẩm theo một quy trình nghiêm ngặt được

cung cấp bởi công ty CP. Sau đó, khi sản phẩm đạt tiêu chuẩn về quy cách,
trọng lượng, doanh nghiệp thu mua lại sản phẩm, thanh toán tiền cho nông
dân theo hiệu suất chăn nuôi và theo giá thị trường, các liên kết này được ký
hợp đồng bằng văn bản và quy định rất chặt chẽ. Ngoài ra, còn có mô hình
liên kết sản xuất theo hợp đồng liên quan đến việc sản xuất theo mùa, giữa
nông dân và cá nhân, các nhà doanh nghiệp hoặc các công ty nhỏ. Hình thức
này thường được dùng cho các loại cây trồng như rau tươi hoặc hoa quả nhiệt
Đề tài của Ths. Nguyễn Trọng Khương năm 2010 và Đề tài của TS. Võ Phước Tấn năm
2003
5


×