VĂN HÓA KINH DOANH
CHỦ ĐỀ: ĐỊNH VỊ VĂN HÓA KINH DOANH TRONG CHIẾN LƯỢC KINH
DOANH CỦA DOANH NGHIỆP. TRƯỜNG HỢP FPT.
A. Mở đầu
B. Nội dung
Chương I: Khái quát văn hóa kinh doanh và chiến lược kinh doanh
của doanh nghiệp.
1. Chiến lược kinh doanh của doanh nhiệp
2. Văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp
3. Định vị văn hóa kinh doanh trong chiến lược kinh doanh.
Chương II: FPT
1. Chiến lược kinh doanh của FPT
2. Văn hóa kinh doanh trong chiến lược kinh doanh của FPT
MỞ ĐẦU
“Ngày nay không chỉ các nhà kinh tế mà các nhà văn hóa cũng đều thống
nhất cho rằng, văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
kinh tế, kinh doanh. Nếu văn hóa là nền tảng tinh thần đảm bảo sự phát triển
bền vững của xã hội thì văn hóa kinh doanh chính là nền tảng tinh thần, là
linh hồn cho hoạt động kinh doanh của một số quốc gia. Trong thời đại toàn
cầu hóa sôi động hiện nay, xây dựng một nền văn hóa kinh doanh với bản
sắc tiêng của mình sẽ góp phần đưa nền kinh tế các nước hội nhập vào đời
sống kinh tế, chính trị toàn cầu. văn hóa kinh doanh hiện nay đã trờ thành
một yếu tố quan trọng và ngày càng trở nên quan trọng đối với không chỉ
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mà còn cả đối với quyết định của
người tiêu dùng. Văn hóa kinh doanh tự nó là một nhu cầu của văn minh thị
trường và là đòi hỏi của phát triển. xây dựng văn hóa kinh doanh vừa là mục
tiêu vừa là thách thức lớn đối với hầu hết các doanh nghiệp, doanh nhân Việt
Nam trong xu hướng phát triển gia nhập WTO và toàn cầu hóa hiện nay. Xây
dựng một nền văn hóa kinh doanh Việt Nam tiên tiến chính la nội dung, biện
pháp quan trọng hàng đầu để xây dựng, củng cố lại nội lực, tạo tư thế mới
làm tiền đề và điểm tựa cho việc hội nhập của mỗi doanh nghiệp.”
-
Trích dẫn phần mở đầu cuốn “ Văn hóa kinh doanh – PGS.TS. Dương Thị
Liễu”.
Tại sao văn hóa kinh doanh là gì? Và tại sao nó lại quan trọng tới thế nhất là
trong thời kỳ kinh tế thị trường và toàn cầu hóa? Và nó liệu có phải là một đối
tượng quan trọng trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp hay không?
Tất cả sẽ được sáng tỏ trong phần trình bày dưới đây….
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VĂN HÓA KINH DOANH VÀ CHIẾN LƯỢC KINH
DOANH CỦA DOANH NGHIỆP.
1. Chiến lược kinh doanh của doanh nhiệp
a. Khái niệm chiến lược kinh doanh
Chiến lược kinh doanh là phương hướng hoạt động của doanh nghiệp,
nó quy định loại sản phẩm hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp đảm nhận,
quy mô kinh doanh, các nguồn lực sản xuất, khả năng sinh lợi cũng
như triển vọng phát triển của doanh nghiệp.
b. Chiến lược cấp doanh nghiệp:
Liên quan đến toàn bộ mục tiêu và quy mô tổng thể của doanh nghiệp
để đáp ứng được những kỳ vọng của các cổ đông. Đây là một cấp độ
quan trọng bởi nó chịu ảnh hưởng lớn từ các nhà đầu tư trong doanh
nghiệp và đồng thời nó cũng đóng vai trò trong việc định hướng quá
trình ra quyết định chiến lược có tầm ảnh hưởng lên toàn bộ doanh
nghiệp. Chiến lược thường được trình bày rõ ràng trong “tuyên ngôn về
sứ mệnh” của doanh nghiệp đó.
2. Văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp.
a. Khái niệm về văn hóa và văn hóa kinh doanh
Khái niệm về văn hóa
Ở phương Tây, văn hoá-culture (trong tiếng Anh, Pháp) hay kultur (tiếng Đức)
… đều xuất xứ từ chữ Latinh cultus có nghĩa là khai hoang, trồng trọt, trông
nom cây lương thực; nói ngắn gọn là sự vun trồng. Sau đó từ cultus được mở
rộng nghĩa, dùng trong lĩnh vực xã hội chỉ sự vun trồng, giáo dục, đào tạo và
phát triển mọi khả năng của con người.
Ở phương Đông, trong tiếng Hán cổ, từ văn hoá bao hàm ý nghĩa: văn là vẻ
đẹp của nhân tính, cái đẹp của tri thức, trí tuệ con người có thể đạt được
bằng sự tu dưỡng của bản thân và cách thức cai trị đúng đắn của nhà cầm
quyền. Còn chữ hoá trong văn hoá là việc đem cái văn (cái đẹp, cái tốt, cái
đúng) để cảm hoá, giáo dục và hiện thực hoá trong thực tiễn đời sống. Vậy
văn hoá chính là nhân hoá hay nhân văn hoá. Đường lối văn trị hay đức trị
của Khổng Tử là từ quan điểm cơ bản này về văn hóa (văn hóa là văn trị giáo
hoá, là giáo dục, cảm hoá bằng điển chương, lễ nhạc, không dùng hình phạt
tàn bạo và sự cưỡng bức).
Như vậy, văn hoá trong từ nguyên sơ của cả Phương Đông và Phương Tây
đều có một nghĩa chung căn bản là sự giáo hoá, vun trồng nhân cách con
người (bao gồm cá nhân, cộng đồng và xã hội loài người), cũng có nghĩa là
làm cho con người và cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.
Theo phạm vi nghiên cứu rộng nhất, văn hoá là tổng thể nói chung những giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.
Con người là một bộ phận của tự nhiên nhưng khác với các sinh vật khác, con
người có một khoảng trời riêng, một thiên nhiên thứ hai do con người tạo ra
bằng lao động và tri thức - đó chính là văn hoá.
Khái niệm về văn hóa kinh doanh
Từ hai khái niệm văn hoá và kinh doanh ta đi đến khái niệm văn hoá kinh
doanh là gì?
Văn hoá trong kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hoá vào hoạt động
kinh doanh của chủ thể, là cái văn hoá mà các chủ thể kinh doanh tạo ra
trong quá trình kinh doanh, hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định
và đặc thù của họ.
Việc sử dụng các nhân tố văn hoá vào hoạt động kinh doanh sẽ đem lạij cho
kinh doanh và chủ thể kinh doanh một sử mạng cao cả. Đó là sứ mệnh phát
triển con người, đem lại sự giàu có, hạnh phúc cho mọi người, sự phồn vinh
và vững mạnh của đất nước, sự vẻ vang của dân tộc. Nhận thức được sứ
mệnh ấy con người sẽ hay say lao động, không ngại khó khăn gian khổ, thậm
chí hy sinh cả lợi ích riêng của mình đóng góp vào lợi ích chung vì xã hội. Do
đó, văn hoá trong kinh doanh là bộ phận cấu thành của nền văn hoá dân tộc,
phản ánh trình độ của con người trong lĩnh vực kinh doanh. Bản chất của văn
hoá trong kinh doanh đó là làm cho cái lợi gắn chặt chẽ với cái đúng cái tốt,
cái đẹp. Cái lợi đó tuân theo cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Ngược lại cái đúng, cái
tốt, cái đẹp là cơ sở bền vững cho hoạt động sinh ra cái lợi. Văn hoá kinh
doanh cuả các nhà kinh doanh, của doanh nghiệp được nhận biết qua hai
phương diện chính.
Một là: các nhân tố văn hoá (hệ giá trị, triết lý sống, tâm lý) được vận dụng
vào quá trình kinh doanh để tạo ra các sản phẩm hàng hoá về dịch vụ phù
hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng có văn hoá. Đó chính là kiểu kinh
doanh có văn hoá, kiểu kinh doanh phù hợp với nét đẹp của văn hoá dân tộc.
Hai là: cái giá trị, sản phẩm văn hoá như hệ giá trị, triết lý, tập tục riêng,
nghệ thuật kinhdoanh...mà chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình hoạt
động và làm nghề kinh doanh của họ, có tác dụng cổ vũ biểu dương đối với
kiểu kinh doanh có văn hoá mà họ đang theo đuổi. Đó chính là lối sống có
văn hoá của các chủ thể kinh doanh.
Đề cao cái lợi của hoạt động kinh doanh gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái
đẹp, nhằm thoả mãn có chất lượng nhu cầu và thị hiếu của đời sống xã hội,
mỗi xã hội cần định hình ra thành các truyền thống văn hoá kinh doanh trong
nền văn hoá chung của dân tộc.
Văn hóa kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hóa vào hoạt động kinh
doanh, là cái mà các chủ thể kinh doanh áp dụng hoặc tạo ra trong quá trình
hình thành nên những nền tảng có tính ổn định và đặc thù trong hoạt động kinh
doanh của họ. Văn hóa kinh doanh là tất cả các giá trị tinh thần có được của
một doanh nghiệp trong suốt quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp ấy. Văn hóa kinh doanh liên kết con người nội bộ với nhau, liên
kết doanh nghiệp với xã hội bằng các giá trị nhân văn, đặt con người vào vị trí
trung tâm và quyết định sự cạnh tranh thắng lợi và phát triển bền vững. Văn
hóa kinh doanh suy cho cùng là cốt lõi của nền kinh tế tri thức, xã hội và nhân
văn.
Văn hóa kinh doanh là một hệ thống các giá trị, các chuẩn mực, các quan niệm
và hành vi do chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh, được thể
hiện trong cách ứng xử củ họ với xã hội, tự nhiên ở một cộng đồng hay một khu
vực.
3. Vai trò của văn hóa kinh doanh trong chiến lược kinh doanh
Dưới ảnh hưởng của mỗi nền văn hóa mà nhân cách, đạo đức, niềm tin, thái
độ, hệ thống các giá trị… Ở mỗi con người, mỗi doanh nghiệp, mỗi tổ chức
được hình thành và phát triển. Do đó, phong cách cùng phương pháp quản trị
ở mỗi chủ thể kinh doanh nói riêng sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những nền
văn hóa mà họ thuộc về. Vì thế văn hóa kinh doanh có vai trò rất quan trọng
đối với các chủ thể kinh doanh.
•
Văn hóa kinh doanh là phương thức phát triển sản xuất kinh doanh
bền vững
•
Văn hóa kinh doanh là nguồn lực phát triển kinh doanh
•
Văn hóa kinh doanh là điều kiện đẩy mạnh kinh doanh quốc tế
CHƯƠNG II: FPT
1. Chiến lược phát triển của FPT
FPT tiên phong góp phần hình thành và nâng cao vị thế của ngành CNTT Việt
Nam trên toàn cầu
•
Bước những bước đi đầu tiên với 13 thành viên (1988)
Năm 1986, Đại hội Đảng VI khởi xướng Chính sách Đổi Mới, cho phép những
mô hình kinh tế mới hoạt động hiệu quả, đồng thời khuyến khích sự năng
động, sáng tạo của một thế hệ mới - thế hệ Doanh nhân Việt Nam. Rất nhiều
công ty có đóng góp quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam hôm nay, trong đó
có FPT, là con đẻ của Chính sách này. Tháng 6/1986, trong quá trình làm việc
tại Viện Cơ học, trực thuộc Viện Khoa học Việt Nam, ông Trương Gia Bình
quyết định thành lập Nhóm Trao đổi Nhiệt và Chất với mong muốn “kiếm
được nhiều tiền nuôi nhau để tiếp tục làm khoa học”. Mùa hè năm 1988, để
triển khai Hợp đồng Cung cấp máy tính cho Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô,
ông Trương Gia Bình quyết tâm thành lập một công ty trực thuộc một cơ
quan nhà nước cấp bộ hoặc ngang bộ, có chức năng kinh doanh, xuất nhập
khẩu và chuyển giao công nghệ. Ông Trương Gia Bình đã xúc tiến ngay việc
quan trọng nhất là chiêu mộ nhân tài. Khát vọng vươn lên của ông đã thuyết
phục được nhiều tài năng với những cá tính khác nhau. Có thể nói, ông
Trương Gia Bình đã tập hợp được những tài năng xuất chúng nhất trong thế
hệ mình. Ngày 13/9/1988, Viện trưởng Viên Nghiên cứu Công nghệ Quốc gia
đã ký quyết định thành lập Công ty Công nghệ Thực phẩm (tên gọi đầu tiên
của FPT) và giao cho ông Trương Gia Bình làm Giám đốc. Một công ty mới ra
đời, không vốn liếng, không tài sản, không tiền mặt…, chỉ có 13 nhà khoa
học trẻ tuổi, đầy hoài bão, tin tưởng vào bàn tay và trí óc của mình, dám
đương đầu với mọi thách thức, quyết làm nên nghiệp lớn.
•
Lựa chọn con đường tin học (1990)
Hợp đồng cung cấp máy tính cho Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô năm 1989
đặt nền móng cho hướng kinh doanh tin học của FPT. Tháng 10/1990, công ty
đổi tên thành Công ty Phát triển và Đầu tư Công nghệ (tên viết tắt là FPT).
Hợp đồng phần mềm thương mại đầu tiên của FPT được ký vào cuối năm
1990. Đó là hệ thống đặt vé giữ chỗ cho Phòng vé của Hàng không Việt Nam.
Sau ngành hàng không, FPT lần lượt tham gia vào các dự án tin học hóa hầu
hết các bộ ngành trọng điểm của Việt Nam như ngành ngân hàng, tài chính
công, viễn thông, điện lực…
•
Bước chân vào lĩnh vực phân phối với mục tiêu mang sản phẩm
công ghệ mới vào Việt Nam (1994)
FPT tham gia vào hoạt động cung cấp máy tí nh ngay từ những ngày đầu
thập niên 90 của thế kỷ XX và nhanh chóng trở thành một trong những nhà
cung cấp lớn trên thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, hầu hết các giao dịch đều
nhỏ lẻ và phải thực hiện qua một bên thứ ba do chính sách cấm vận của Mỹ.
“FPT phải làm ăn lớn, giao dịch trực tiếp với các hãng sản xuất lớn như IBM,
Compaq, HP…, phải nhập khẩu số lượng lớn rồi phân phối lại cho các công ty
tin học trong nước.” Đặt rõ quyết tâm đó nên khi Mỹ bãi bỏ chính sách cấm
vận năm 1994, một loạt hãng máy tính vào Việt Nam, FPT đã nhanh chóng
tiếp cận và thuyết phục họ lựa chọn FPT là đại lý chính thức tại Việt Nam.
IBM, một trong những công ty Mỹ đầu tiên mở văn phòng đại diện tại Việt
Nam, công bố FPT trở thành đối tác Việt Nam đầu tiên của mình và ngay sau
đó là Compaq, HP…, hợp tác chính thức với FPT đã mở ra lĩnh vực phân phối
sản phẩm công nghệ chuyên nghiệp của FPT. Hiện nay, FPT đã trở thành nhà
phân phối của trên 30 hãng công nghệ lớn và giữ vị trí nhà phân phối số 1 tại
Việt Nam với mạng lưới 1.500 đại lý phân phối tại 63/63 tỉnh thành.
•
Tham gia vào lĩnh vực internet tạo bước phát triển đột phá cho
lĩnh vực này của Việt Nam (1997)
Năm 1996, FPT đưa vào hoạt động mạng cộng đồng có tên là Trí tuệ Việt
Nam (TTVN) với hơn 10.000 thành viên. Tuy chưa kết nối được ra nước ngoài,
TTVN đã mang đến cho thanh niên Việt Nam một môi trường mới đầy hứng
khởi. Năm 1997, Việt Nam kết nối hạ tầng với mạng Internet toàn cầu và FPT
được lựa chọn là nhà cung cấp thiết bị, đồng thời là Nhà cung cấp kết nối
(ISP). Là ISP duy nhất không thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông, FPT
đã là chất xúc tác để Internet Việt Nam phát triển như vũ bão. Dựa trên
những kinh nghiệm thu được khi điều hành mạng TTVN, FPT đã góp phần to
lớn đưa Việt nam thành một trong những nước có hạ tầng truy nhập internet
tốt nhất thế giới. Hiên nay, FPT là một trong ba nhà cung cấp dịch vụ viễn
thông – internet hàng đầu Việt Nam với hạ tầng internet phủ rộng tới 59/63
tỉnh thành.
•
Tiến ra thị trường nước ngoài với hướng đi chiến lược là xuất
khẩu phần mềm (1999)
Khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và các biến động kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn 1997 – 1998 đã đặt các công ty chuyên kinh doanh thiết bị,
sản phẩm nhập khẩu như FPT vào tình thế bất lợi. Bên cạnh đó, sau 10 năm
thành lập, FPT đã trở thành công ty tin học lớn nhất Việt Nam. FPT có thể đi
vào con đường suy thoái nếu tự hài lòng với vị trí số 1 Việt Nam và không có
những thách thức mới. Thách thức mới đó là Toàn cầu hóa. FPT sẽ vượt qua
biên giới địa lý quốc gia, vươn ra thế giới như các công ty toàn cầu khác. FPT
sẽ xuất khẩu phần mềm. Hội nghị Diên hồng FPT năm 1998 đã hoạch định
chiến lược cho 10 năm tới, lấy xuất khẩu phần mềm làm mũi nhọn và quyết
thắp sáng tên tuổi Việt Nam trên bản đồ trí tuệ thế giới. Hơn 15 năm sau, FPT
đã trở thành công ty xuất khẩu phần mềm số 1 Việt Nam cả về quy mô nhân
lực, doanh số và thuộc danh sách 100 Nhà cung cấp Dịch vụ Ủy thác toàn
cầu (Top 100 Global Outsourcing) do IAOP đánh giá cùng với sự hiện diện tại
19 quốc gia trên toàn cầu.
Khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và các biến động kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn 1997 – 1998 đã đặt các công ty chuyên kinh doanh thiết bị,
sản phẩm nhập khẩu như FPT vào tình thế bất lợi. Bên cạnh đó, sau 10 năm
thành lập, FPT đã trở thành công ty tin học lớn nhất Việt Nam. FPT có thể đi
vào con đường suy thoái nếu tự hài lòng với vị trí số 1 Việt Nam và không có
những thách thức mới. Thách thức mới đó là Toàn cầu hóa. FPT sẽ vượt qua
biên giới địa lý quốc gia, vươn ra thế giới như các công ty toàn cầu khác. FPT
sẽ xuất khẩu phần mềm. Hội nghị Diên hồng FPT năm 1998 đã hoạch định
chiến lược cho 10 năm tới, lấy xuất khẩu phần mềm làm mũi nhọn và quyết
thắp sáng tên tuổi Việt Nam trên bản đồ trí tuệ thế giới. Hơn 15 năm sau, FPT
đã trở thành công ty xuất khẩu phần mềm số 1 Việt Nam cả về quy mô nhân
lực, doanh số và thuộc danh sách 100 Nhà cung cấp Dịch vụ Ủy thác toàn
cầu (Top 100 Global Outsourcing) do IAOP đánh giá cùng với sự hiện diện tại
19 quốc gia trên toàn cầu.
•
Nhận chứng chỉ ISO 9001 đặt nền móng cho hệ thống quản trị toàn
diện FPT (2000)
Mục tiêu xuất khẩu phần mềm đặt ra cho FPT yêu cầu phải tuân thủ quy trình
chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế. Năm 2000, FPT đã trở thành công ty tin
học đầu tiên của Đông Nam Á được cấp chứng nhận ISO 9001:1994. Năm
2004, FPT là công ty Việt Nam đầu tiên nhận chứng chỉ CMM 5 (Capability
Maturity Model) - mức cao nhất đánh giá năng lực quy trình sản xuất trong
một tổ chức phát triển phần mềm - do Viện Công nghệ phần mềm Mỹ (SEI)
cấp. Năm 2005, FPT xây dựng hệ thống quản trị toàn diện của FPT và là công
ty duy nhất đăng ký bảo hộ hệ thống này. Năm 2012, FPT áp dụng công cụ
Thẻ điểm cân bằng trong quản lý chiến lược. Có thể nói, FPT luôn là đơn vị
tiên phong sử dụng những công cụ tiên tiến nhất trong quản trị. Đến nay, FPT
có hầu hết các chứng chỉ cần thiết cho mọi lĩnh vực hoạt động, kinh doanh
của mình.
•
Thành lập trường đại học FPT(2006)
Mở trường đại học đào tạo gắn liền với thực tiễn và nhu cầu nhân lực
của đất nước Năm 1999, FPT bước chân vào lĩnh vực xuất khẩu phần mềm.
Bài toán khó đặt ra không chỉ là tiếp cận thị trường mà còn là vấn đề nhân
lực. Để giải bài toán về nhân lực cho xuất khẩu phần mềm, FPT đã quyết định
liên kết với Aptech, Tập đoàn Giáo dục và Đào tạo CNTT hàng đầu thế giới,
thành lập 02 trung tâm Đào tạo Lập trình viên quốc tế FPT Aptech đầu tiên
tại Hà Nội và Tp.HCM. Hàng chục nghìn lập trình viên được cung cấp cho thị
trường nhân lực nhưng vẫn là con số nhỏ bé so với nhu cầu nhân lực CNTT,
trong khi số sinh viên tốt nghiệp đại học về tin học thiếu về số lượng và kém
về chất lượng, đặc biệt là ngoại ngữ. Năm 2003, FPT đặt quyết tâm thành lập
một trường đại học nhằm giải quyết bài toán nhân lực cho chính mình cũng
như cho ngành CNTT Việt Nam. Tháng 09/2006, Đại học FPT ra đời và cũng là
trường đại học đầu tiên của doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động. Đại
học FPT đang chậm rãi nhưng chắc chắn chứng minh những luận điểm của
mình bằng thực tiễn 98% sinh viên có việc làm trong vòng 06 tháng sau khi
tốt nghiệp. Sinh viên được đào tạo vững về chuyên môn, thành thạo ngoại
ngữ, khỏe mạnh về thể lực, vững vàng về tinh thần, đặc biệt là những trải
nghiệm phong phú của kỳ thực tập đã giúp sinh viên tất cả các hệ của Đại
học được nhiều doanh nghiệp chào đón ngay trước khi tốt nghiệp. Hiện, ĐH
FPT đang đào tạo khoảng 17.000 sinh viên, học viên ở tất cả các khối gồm:
Phổ thông, Cao đẳng, Đại học, Sau đại học, Liên kết quốc tế, Phát triển sinh
viên quốc tế.
Niêm yết trên thị trường chứng khoán Ngày 13/12/2006, cổ phiếu FPT
chính thức tham gia giao dịch tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP HCM
(nay là Sở giao dịch Chứng khoán TP HCM - HOSE) với 60.810.230 cổ phiếu
mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu. FPT là doanh nghiệp đầu tiên trong lĩnh vực
CNTT niêm yết và ngay lập tức trở thành cổ phiếu lớn (bluechip) trên thị
trường chứng khoán. Trong ngày đầu tiên chào sàn, cổ phiếu của FPT được
giao dịch với giá 400.000 đồng/cổ phiếu và là một trong những công ty niêm
yết có giá trị thị trường cao nhất cho đến hiện nay. Hiện nay, cổ phiếu FPT
vẫn duy trì khối lượng giao dịch và thanh khoản ổn định, cổ tức được duy trì ở
mức cao. Với việc ngày càng nâng cao công tác quản trị theo chuẩn mực
quốc tế, minh bạch trong các hoạt động của công ty, FPT tiếp tục giành được
thiện cảm và đánh giá cao từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Năm 2014,
FPT được bình chọn là 1 trong 5 Doanh nghiệp niêm yết có hoạt động Quan
hệ Nhà đầu tư (IR) tốt nhất do Vietstock tổ chức.
•
Đầu tư và mở rộng chuỗi bán lẻ FPT và thương mại điện tử
(2012)
Tháng 2/2012, FPT quyết định đầu tư mở rộng chuỗi bán lẻ FPT với mục tiêu
đạt 150 cửa hàng vào năm 2014. Các cửa hàng thuộc chuỗi bán lẻ sẽ chuyên
doanh sản phẩm công nghệ, là điểm cung ứng nhiều loại sản phẩm dịch vụ
của toàn FPT. Hệ thống này cũng được coi như một hạ tầng để FPT tiếp cận
sâu rộng đến khách hàng trong chiến lược công dân số mà tập đoàn hướng
tới. Tính đến hết năm 2014, chuỗi bán lẻ FPT Shop đã có mặt ở 63 tỉnh thành
Việt Nam với 163 cửa hàng. Ra mắt vào tháng 3 năm 2012, với mô hình
B2B2C (business-to-business-to-consumer), Sendo.vn của FPT là sàn thương
mại điện tử đầu tiên kết hợp với các nhà cung cấp logistic và ngân hàng để
mang lại cho khách hàng trải nghiệm giao dịch đảm bảo trọn gói. Năm 2014,
FPT hoàn tất việc mua lại 123mua.vn, một trong những trang thương mại
điện tử hàng đầu Việt Nam. Thương vụ này là một phần quan trọng trong
chiến lược phát triển của Sendo.vn trong giai đoạn tiếp theo. FPT đặt mục
tiêu đưa Sendo.vn thành trang thương mại điện tử có nhiều giao dịch nhất
thông qua việc cung cấp các dịch vụ có chất lượng vượt trội với mô hình mua
bán đảm bảo.
•
Tiến hành thương vụ M&A đầu tiên trong lĩnh vực CNTT của
Việt Nam tại thị trường nước ngoài(2014)
Tháng 6/2014, FPT hoàn tất thương vụ M&A đầu tiên thông qua việc mua
công ty RWE IT Slovakia, đơn vị thành viên của RWE, tập đoàn năng lượng
hàng đầu châu Âu. Đây là thương vụ mua bán - sáp nhập (M&A) đầu tiên tại
thị trường nước ngoài của FPT nói riêng và trong ngành công nghệ thông tin
Việt Nam nói chung. Thương vụ này mang về cho FPT bản hợp đồng nhiều
chục triệu USD với RWE và bổ sung thêm một lĩnh vực đặc thù mới là hạ tầng
công ích (utilities) trong danh mục các lĩnh vực có khả năng cung ứng dịch vụ
phần mềm của FPT. Ngoài ra, thương vụ cũng mở ra một mô hình kinh doanh
mới “bestshore”. Điều này có nghĩa là FPT có thể cùng lúc sử dụng cả nguồn
lực trong nước (offshore) và tại nước ngoài (nearshore) để cung cấp dịch vụ
một cách hiệu quả nhất cho khách hàng (bestshore). Thương vụ này cũng
khẳng định sự sẵn sàng của FPT trong các dự án quy mô và đẳng cấp trên
sân chơi toàn cầu.
2. Văn hóa kinh doanh trong chiến lược kinh doanh của FPT
Văn hóa FPT được gói gọn trong 6 chữ ‘’ Tôn đổi đồng – Chí gương sáng ‘’
“TÔN ĐỔI ĐỒNG” nghĩa là
“TÔN TRỌNG CÁ NHÂN - TINH THẦN ĐỔI MỚI - TINH THẦN ĐỒNG
ĐỘI”
là những giá trị mà tất cả người FPT đều chia sẻ ở FPT.
TÔN TRỌNG là Tôn trọng cá nhân, bao gồm: Nói
thẳng, Lắng Nghe và Bao dung. Ở FPT, cấp dưới có thể nói thẳng với cấp
trên, không phân biệt vị trí cao thấp, quan hệ thân sơ. Chúng tôi chấp nhận
mọi người như họ vốn có, cả mặt mạnh, mặt yếu, cả điểm tốt và chưa hoàn
thiện, đồng thời,ttạo điều kiện tối đa để các thành viên được là chính mình,
được thực hiện những hoài bão của mình
ĐỔI MỚI - là Tinh thần đổi mới, bao gồm:Học hành,
Sáng tạo và STCo (là sự hài hước, hóm hỉnh đặc trưng của người FPT). Chúng
tôi không ngừng học hỏi từ khách hàng, đối tác và từ chính những đồng
nghiệp để tránh suy nghĩ theo lối mòn, nỗ lực dẫn đầu về công nghệ mới, sản
phẩm mới, phương thức quản trị/kinh doanh mới.
ĐỒNG ĐỘI - là Tinh thần đồng đội, bao
gồm:Đồng tâm, Tập thể và Chân tình. Ở FPT, mọi thành viên đều được quan
tâm, giúp đỡ, sẻ chia và cùng đồng tâm hướng đến một mục tiêu chung “vì
sự thành công của khách hàng và sự phát triển trường tồn của công ty”.
“CHÍ GƯƠNG SÁNG” nghĩa là
“CHÍ CÔNG - GƯƠNG MẪU - SÁNG SUỐT”
là những giá trị cần có của lãnh đạo FPT
CHÍ CÔNG - là nền tảng quan trọng nhất để lãnh
đạo xây dựng niềm tin trong nhân viên và để nhân viên làm việc hết mình
thay vì xu nịnh lãnh đạo.
GƯƠNG MẪU - là người thể hiện rõ nét nhất về Tinh thần FPT, về giá trị của
ba chữ 'Tôn Đổi Đồng'
SÁNG SUỐT - là tầm nhìn xa và tính quyết đoán
.
Văn hóa được xem là một phần không thể thiếu kiến tạo nên bộ Gen của
người
FPT,
là Tinh thần FPT, là sức mạnh thúc đẩy chúng tôi không ngừng nỗ lực, sáng
tạo
vì
lợi ích chung của cộng đồng, khách hàng.
C. KẾT LUẬN
Như vậy chúng ta có thể thấy. Văn hóa kinh doanh trong doanh nghiệp nói
riêng và văn hóa kinh doanh nói chung có tầm quan trọng sống còn đối với
một doanh nghiệp, một tổ chức.
Tuy bài viết đã tham khảo cũng như tìm hiểu nhiều nguồn tài liệu. Song do
nhiều lý do cá nhân cũng như khách quan nên vẫn còn nhiều thiếu sót. Mong
nhận được sự từ thầy những lời khuyên chân thành.