Tải bản đầy đủ (.doc) (181 trang)

lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.9 MB, 181 trang )

PHẦN I
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT CHIẾM HỮU NÔ LỆ

Chương 1
NHÀ NƯỚC PHƯƠNG ĐÔNG THỜI KỲ CỔ ĐẠI

1. Quá trình hình thành, phát triển và suy vong của nhà nước phương Đông cổ đại
1.1 Cơ sở hình thành nhà nước
1.1.1 Điều kiện tự nhiên
Về vị trí địa lý: Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc hoàn toàn tách biệt
nhau, những giữa chúng có những điểm chung cơ bản về điều kiện tự nhiên như sau:
Một là, các quốc gia này đều nằm trên lưu vực các con sông lớn như sông Nile (Ai
Cập), sông Tigris và sông Euphrates (Lưỡng Hà), sông Hằng và sông Ấn (Ấn Độ), sông
Hoàng Hà và sông Trường Giang (Trung Quốc).
Hai là, khí hậu nhiệt đới: mưa nhiều, độ ẩm cao.
Ba là, có địa hình phức tạp và khép kín.
Ai Cập ở Đông Bắc châu Phi, với địa hình hầu như biệt lập với thế giới bên ngoài
bởi bốn phía biên giới của Ai Cập là biển, rừng rậm và sa mạc. Người Ai Cập cổ đại chỉ
có thể qua lại vùng Tây Á bằng eo đất Xinai rất hẹp ở phía Đông Bắc.
Ấn Độ ở Nam Á và được ví như một tiểu lục địa vì bị ngăn cách với phần còn lại
bởi dãy núi Hymalaya cao nhất thế giới.
Trung Quốc ở phía Đông châu Á, bị ngăn cách với phần còn lại bởi sa mạc Nội –
Ngoại Mông.
1


Lưỡng Hà, trong bốn quốc gia, là có địa tương đối mở, nhưng cũng bao bọc nó là
sa mạc và thảo nguyên mênh mông.
Những đặc điểm về điều kiện tự nhiên trên, trong thời kỳ cổ đại, chúng có nhiều
ảnh hưởng đến nền kinh tế - xã hội của các quốc gia ở đây. Những ảnh hưởng này có tác
động rất lớn đối với quá trình ra đời của nhà nước ở đây.


Một là, với những đồng bằng rộng lớn, không ngừng được bồi đắp phù sa màu mỡ
bởi các con sông lớn, cùng với khí hậu nhiệt đới đã thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp tưới
tiêu phát triển từ rất sớm.
Hai là, để sản xuất nông nghiệp trên diện rộng và tránh thiên tai, lũ lụt do các con
sông tạo ra nên việc xây dựng các công trình thủy lợi được chú trọng từ rất sớm, trở
thành nhu cầu cơ bản trong đời sống xã hội của cư dân phương Đông cổ đại.
Ba là, địa hình khép kín phức tạp làm cho việc sinh sống ở các đồng bằng dọc theo
các con sông lớn rất thuận lợi, còn ở những nơi khác là vô cùng khó khăn nên từ rất sớm
cư dân sớm tập trung sinh sống ở các khu vực đồng bằng. Hệ quả là từ việc tranh giành
nguồn đất, nguồn nước để tồn tại và mở rộng thế lực nên từ rất sớm nhu cầu tổ chức
chiến tranh đã hình thành và cũng trở thành nhu cầu cơ bản đối với dân cư phương Đông
cổ đại.

2


Ghi chú: Ai Cập nằm ở Đông Bắc châu Phi, phía Đông: giáp biển Hồng Hải; phía
Tây: giáp vùng sa mạc Liby nóng bỏng, khô cằn; phía Đông Bắc: có vùng đất nhỏ hẹp là
eo đất Xinai là cửa ngỏ để Ai Cập tiếp xúc với Tây Á.

3


Ghi chú: Lưỡng Hà là vùng đất nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrate, phía Bắc và
phía Đông giáp dãy núi Acmenia và cao nguyên Iran; phía Tây giáp thảo nguyên Syrie và
sa mạc Arabi; phía Nam là vịnh Pecxich.

4



Ghi chú: Ấn Độ cổ đại chủ yếu bao gồm phần đất Ấn Độ hiện đại, Pakistan, Nepal và
Bangladesh. Nhìn tổng quát Ấn Độ là một bán đảo nằm ở phía Nam châu Á, phía Đông
Bắc là dãy núi Himalaya, phía Tây Bắc là dãy núi Indu kush, phía Tây Nam là Biển Arập,
phía Đông Nam là Vịnh Bengal.

5


Ghi chú: Nhìn tổng quát, Trung Quốc là quốc gia ở phía Đông châu Á. Khi mới thành
lập, đó là một vùng đất nhỏ hẹp thuộc lưu vực sông Hoàng Hà. Sau đó, phát triển
xuống phía Nam đến lưu vực sông Trường Giang. Đến cuối thời kỳ cổ đại, khoảng
6


thế kỷ III TCN, phía Bắc là vùng đất toạ lạc Vạn Lý Trường Thành ngày nay, phía
Nam là một dãy đất dọc theo hữu ngạn sông Trường Giang, phía Tây là phần Đông
Nam của tỉnh Cam Túc ngày nay và phía Đông là dãy đất ven biển Thái Bình Dương.
1.1.2 Những thay đổi kinh tế - xã hội dẫn đến hình thành nhà nước
 Điều kiện kinh tế
Vào khoảng thiên niên kỷ thứ IV TCN, công cụ lao động bằng đồng xuất hiện.
Hoạt động sản xuất với công cụ lao động bằng đồng đã sớm giúp cư dân phương Đông có
cuộc sống định canh, định cư trên các đồng bằng phì nhiêu, màu mỡ. Từ đó, xã hội
phương Đông bắt đầu có sự phân công lao động. Vì nền kinh tế chủ đạo ở phương đông
là nông nghiệp nên sự công lao động không rõ ràng và tách bạch như ở phương Tây. Tuy
nhiên, nó cũng đã làm cho năng suất lao động tăng và sản phẩm dư thừa bắt đầu xuất
hiện. Tư liệu sản xuất chủ yếu là ruộng đất ở phương Đông tồn tại phổ biến dưới chế độ
công hữu do hoạt động sản xuất nông nghiệp hầu như hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện
tự nhiên (khí hậu, lịch trình của các con sông). Vì thế, chế độ tư hữu đã xuất hiện nhưng
chậm chạp và chủ yếu là tư liệu sinh hoạt.
 Điều kiện xã hội

Khi kinh tế phát triển các tiểu gia đình trong đại gia đình thị tộc có xu hướng thoát
ly khỏi công xã thị tộc để sinh sống riêng. Lúc này, quan hệ huyết thống không còn đủ
sức để ràng buộc các cá nhân chung sống với nhau nên công xã thị tộc tan rã. Thay thế
các công xã thị tộc là công xã láng giềng mà ở phương Đông đa phần là các công xã nông
thôn - là đơn vị xã hội tồn tại lâu đời và có nhiều ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế, xã hội,
chính trị ở phương Đông.
Mặt khác, khi công xã thị tộc tan rã cũng là lúc chế độ tư hữu xuất hiện. Đó là quá
trình mà thiểu số chức sắc trong xã hội nguyên thủy như: tộc trưởng, tù trưởng, thủ lĩnh
liên minh bộ lạc chiếm được nhiều tài sản làm của cải riêng. Họ dựa vào sức mạnh, ưu
thế của mình để cướp bóc, chiếm đoạt tài sản, ruộng đất của các thành viên trong bộ lạc
của mình. Đồng thời, họ chỉ huy tiến hành chiến tranh cướp tài sản của các bộ lạc khác,
biến dân cư của những bộ lạc chiến bại thành nô lệ nên họ càng ngày càng giàu có và họ
7


trở thành quý tộc thị tộc. Còn đại đa số dân cư trở thành nông dân công xã giữ được một
ít tài sản. Tuy nhiên, sự phân hóa giai cấp do tác động của điều kiện kinh tế nông nghiệp
và chế độ công hữu về ruộng đất nên diễn ra chậm chạp và mâu thuẫn giai cấp chưa thật
sâu sắc.
Theo học thuyết của Mác – Lê nin về nguồn gốc nhà nước, khi mâu thuẫn giai cấp
trong xã hội trở nên gay gắt, không thể tự điều hoà được thì giai cấp mạnh hơn sẽ thành
lập một tổ chức để đàn áp sự đối kháng của các giai tầng khác, đồng thời quản lý xã hội
theo một khuôn khổ nhất định, phù hợp với ý chí của họ để đảm bảo duy trì sự thống trị
về mặt giai cấp. Tổ chức đó gọi là nhà nước.
Trong khi đó, mặc dù, ở các quốc gia phương Đông cổ đại, mâu thuẫn giai cấp
chưa đến mức gay gắt và sâu sắc, nhưng nhà nước vẫn xuất hiện và xuất hiện rất sớm.
Nguyên nhân là chịu sự tác động và thúc đẩy của nhu cầu trị thủy, thủy lợi và chiến tranh.
Tóm lại, quá trình trên thể hiện nét đặc thù của phương Đông cổ đại. Bởi vì, ngoài
sự phân hóa giai cấp vận động theo quy luật chung, quá trình hình thành nhà nước ở vùng
này còn bị ảnh hưởng bởi hoạt động trị thủy và chiến tranh. Tuy nhiên, hai yếu tố này

đóng vai trò thúc đẩy nhanh tiến trình hình thành nhà nước, còn nguyên nhân chính dẫn
đến sự xuất hiện nhà nước vẫn là sự phân hóa giai cấp.
1.2 Lịch sử hình thành, phát triển và suy vong
1.2.1 Ai Cập
Lịch sử cổ đại của Ai Cập trãi qua 4 thời kỳ gồm: Tảo kỳ vương quốc, Cổ vương
quốc, Trung vương quốc, Tân vương quốc. Về mặt thời gian là vào khoảng cuối thiên
niên kỷ thứ IV TCN đến năm 225 TCN khi Ai Cập bị đế quốc Ba Tư thôn tính.
1.2.2 Lưỡng Hà
Lịch sử cổ đại của Lưỡng Hà là quá trình thay thế thống trị giữa các tộc người Xu
– me, người Xê – Mít, người Amôrít… Về thời gian, từ đầu thiên niên kỷ thứ III TCN khi
ở Lưỡng Hà xuất hiện các quốc gia thành thị (Ua, Lagash…) đến năm 538 Lưỡng Hà bị
8


Ba Tư xâm chiếm. Trong đó, thời gian từ thế kỷ XIX – XVIII TCN, thời kỳ Vương quốc
cổ Babylon là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất.
1.2.3 Ấn Độ
Đầu thiên niên kỷ III TCN đến giữa thiên niên kỷ thứ II TCN, ở Ấn Độ đã tồn tại
nền văn minh Harappa và Môhenjo – Daro ở lưu vực sông Ấn. Lịch sử cổ đại của Ấn Độ
kéo dài từ đó cho đến thế kỷ IV SCN với sự xuất hiện của vương triều Gupta là bước
ngoặc đánh dấu sự xuất hiện chế độ phong kiến ở Ấn Độ. Trong đó, có hai vương triều
thể hiện sự hưng thịnh và thống nhất của Ấn Độ cổ đại là vương triều Magada (thế kỷ VI
TCN) và vương triều Morya (cuối thế kỷ IV TCN).
1.2.4 Trung Quốc
Lịch sử cổ đại của Trung Quốc trãi qua 3 triều đại: Hạ, Thương, Chu. Triều Hạ,
năm 2140 TCN, Khải là con của Hạ Vũ tuy không được cộng đồng bầu cử nhưng vẫn kế
vị của cha, mở đầu cho chế độ cha truyền con nối, nhà nước đầu tiên của Trung Quốc
xuất hiện. Năm 1711 TCN, nhà Thương thay thế nhà Hạ. Vị vua cuối cùng của nhà
Thương là Trụ Vương thực hiện chính sách cai trị tàn bạo nên bị nhà Chu lật đổ. Nhà Chu
chia làm hai thời kỳ: Tây Chu (1066 – 770 TCN) và Đông Chu (769 – 256 TCN). Tây

Chu là thời kỳ thịnh trị của nhà Chu, Đông Chu là giai đoạn suy yếu và lụi tàn. Thời kỳ
Đông Chu gồm Xuân Thu và Chiến Quốc, là giai đoạn các chư hầu xưng bá, chiến tranh
thôn tính lẫn nhau. Năm 256 TCN, nhà Chu bị nhà Tần lật đổ. Năm 221 TCN, nhà Tần
thống nhất Trung Quốc, mở đầu thời kỳ phong kiến của Trung Quốc.
2. Chế độ xã hội phương Đông cổ đại
Vấn đề này chủ yếu đề cập đến sự phân tầng trong xã hội phương Đông cổ đại và
sự tương tác của các giai tầng đó. Nghiên cứu chế độ xã hội phương Đông cổ đại với
mục đích hiểu rõ hơn bản chất nhà nước và pháp luật của các quốc gia phương Đông cổ
đại.
2.1 Kết cấu giai cấp

9


Trong xã hội lúc này hình thành 3 giai tầng chính, đó là chủ nô, nô lệ và nông dân
công xã.
 Giai cấp chủ nô
Gồm có: quý tộc thị tộc (vua, quan lại); quý tộc tăng lữ và những người giàu có
khác. Họ đồng thời là giai cấp thống trị trong xã hội, nắm giữ nhiều ruộng đất, của cải
trong cả nước; đồng thời có nhiều quyền lợi chính trị.
 Giai cấp nô lệ
Nguồn chủ yếu của nô lệ gồm: tù binh chiến tranh, nông dân công xã bị phá sản và
con của nô lệ.
Nô lệ không có quyền lợi về kinh tế, chính trị, thậm chí bị xem là đồ vật hay công
cụ lao động, thuộc quyền sở hữu của chủ nô (chủ nô có quyền bán, chuyển nhượng, trao
tặng hoặc giết nô lệ của mình). Toàn bộ sản phẩm lao động do họ làm ra đều thuộc quyền
sở hữu của chủ nô.
Nô lệ trong xã hội phương Đông cổ đại mang nặng tính gia trưởng vì:
Một là, số lượng nô lệ không chiếm đa số trong xã hội;
Hai là, lực lượng lao động chủ yếu trong xã hội không phải là nô lệ mà là nông

dân công xã, nô lệ chủ yếu làm công việc hầu hạ, phục dịch trong nhà chủ nô;
Ba là, mâu thuẫn đối kháng giai cấp trong xã hội không phải là mâu thuẫn giữa
chủ nô và nô lệ mà lại là mâu thuẫn giữa chủ nô và nông dân công xã.
 Nông dân công xã
Nông dân chiếm đa số và là lực lượng lao động chủ yếu của xã hội. Sống trong các
công xã nông thôn. Phần lớn họ là những người nghèo, ít ruộng đất phải nhận ruộng đất
của nhà nước từ các công xã nông thôn để cày cấy và đóng thuế cho nhà nước hoặc thuê
ruộng của các chủ nô và nộp tiền thuê đất hay hoa lợi thu hoạch được.

10


Họ được quyền làm người nhưng là đối tượng bóc lột chủ yếu của giai cấp chủ
nô. Ngoài ra, họ còn phải cùng với nô lệ lao động khổ sai để xây dựng các công trình cho
nhà nước.
Bên cạnh đó, còn có tầng lớp thợ thủ công, thương nhân, chiếm thiểu số trong dân
cư. Thành phần của họ khá phức tạp nhưng nhìn chung họ là những người nghèo, chịu sự
bóc lột của giai cấp chủ nô.
Như vậy, trong xã hội phương Đông cổ đại kết cấu giai cấp đã hoàn chỉnh. Giai
cấp thống trị bao gồm chủ nô như vua, quan lại, tăng lữ, người giàu có. Giai cấp bị trị bao
gồm nô lệ, nông dân công xã, thợ thủ công và thương nhân.
2.2 Quan hệ giai cấp
Quan hệ giai cấp giữa giai cấp thống trị và toàn thể các giai tầng bị trị trong xã hội
phương Đông cổ đại là mâu thuẫn đối kháng. Cụ thể là mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô
với nông dân công xã, nô lệ và thợ thủ công, thương nhân.
Đặc điểm của quan hệ giai cấp trong xã hội phương Đông cổ đại được thể hiện ở
một số khía cạnh chủ yếu sau:
Trước hết, tuy nội bộ giai cấp thống trị đa dạng về thành phần (quý tộc thị tộc, quý
tộc tăng lữ, những người giàu có khác) nhưng chúng thống nhất trước sự đấu tranh của
nhân dân lao động. Nghĩa là nội bộ giai cấp thống trị không có sự cạnh tranh, đối kháng

với nhau, mà là sự thống nhất chặt chẽ và hỗ trợ nhau để duy trì lợi ích thống trị về mặt
giai cấp.
Thứ hai, mặc dù được xác định là chế độ chiếm hữu nô lệ nhưng với tính chất gia
trưởng cho nên quan hệ giữa chủ nô và nô lệ không đóng vai trò là mâu thuẫn giai cấp
chủ đạo trong xã hội phương Đông cổ đại.
Thứ ba, mâu thuẫn chủ đạo là mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô và nông dân công
xã. Nguyên nhân xuất phát từ ngành kinh tế giữ vai trò chủ đạo là kinh tế nông nghiệp. Do
vậy, lực lượng nông dân công xã chiếm số lượng áp đảo trong xã hội và là lực lượng sản xuất
chính. Theo đó, giai cấp chủ nô muốn giàu có và duy trì địa vị thống trị trong xã hội không
11


cách nào khác hơn là bóc lột trực tiếp nông dân công xã. Vì thế, mâu thuẫn giữa hai giai cấp
này trở thành mâu thuẫn cơ bản trong xã hội phương Đông cổ đại.

2.3 Chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ cổ đại
Bên cạnh sự phân hoá xã hội thành giai cấp, xã hội phương Đông còn phân biệt
dân cư theo đẳng cấp. Chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ là chế độ đẳng cấp điển hình ở phương
Đông cổ đại và cả trong lịch sử thế giới cổ đại. Chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ cổ đại được hình
thành từ Rig Veda. Về mặt thời gian, vào khoảng 1000 TCN, chế độ dẳng cấp này bắt đầu
xuất hiện rõ nét, được gọi là chế độ Vacna, trong tiếng Phạn gọi là “màu sắc, thực chất”.
Truyền thuyết cho rằng các đẳng cấp khác nhau trong xã hội hình thành từ các bộ
phận trên cơ thể của thần Brahma vị thần tối cao, có 4 đẳng cấp:

 Đẳng cấp Bà La Môn
Gồm tăng lữ Bà La Môn còn gọi là Brahman, là đẳng cấp cao quý nhất, được sinh
ra từ miệng thần Brhama, đọc kinh, giảng đạo, không phải lao động sản xuất ra của cải
vật chất. Đẳng cấp này thâu tóm quyền lực về văn hoá và tôn giáo, một số tham gia vào công
việc triều chính như làm cố vấn . . .


 Đẳng cấp Ksatria
Đẳng cấp Ksatria, theo Rig Veda, được sinh ra từ tay của thần Brahma. Họ họp thành
tập đoàn quý tộc quân sự – hành chính, nắm quân đội và chính quyền. Đó là vua, quan lại và
binh sĩ;

 Đẳng cấp Vaishya
Gồm những người làm nông nghiệp, buôn bán và thợ thủ công, sinh ra từ đùi của
thần Brhama. Họ có nghĩa vụ sản xuất để nuôi sống 2 đẳng cấp trên. Họ thuộc tầng lớp
bình dân, có một số giàu có lên. Họ tuy không có những đặc quyền trong xã hội, phải nộp
thuế, phục vụ lớp người bóc lột thuộc hai tầng lớp trên, song họ vẫn có thân phận tự do.

 Đẳng cấp Shudra
Là những người cùng khổ nhất trong xã hội, là con cháu của các bộ lạc bại trận,
không có tư liệu sản xuất và ở ngoài công xã nhưng không phải là nô lệ, nô lệ không được
xếp vào đẳng cấp. Đẳng cấp này được sinh ra từ bàn chân của thần Brahma. Họ làm những

12


công việc nặng nhọc nhất, nhưng không được pháp luật bảo hộ, không được tham gia vào các
hoạt động tôn giáo. Nếu một Shudra nghe trộm tụng kinh thì sẽ bị đổ thiếc nung chảy vào tai.

Sự phân biệt đẳng cấp ở Ấn Độ rất khắc nghiệt , kéo theo sự phân biệt đối xử sâu sắc
trong xã hội:
Người ở đẳng cấp dưới có nghĩa vụ phải tôn kính người ở đẳng cấp trên. Kinh tôn
giáo Bà La Môn từng ghi rõ: “Một người Bàlamôn dưới 10 tuổi cũng có thể được coi là cha
của một kẻ ở đẳng cấp dưới, dù cho kẻ ấy đã 100 tuổi”.
Kết hôn phải cùng đẳng cấp, người đàn ông ở đẳng cấp cao hơn có quyền lấy người
phụ nữ ở đẳng cấp dưới làm vợ. Nếu người đàn ông ở đẳng cấp dưới dám lấy một phụ nữ ở
đẳng cấp cao trên làm vợ thì con của họ được xếp vào hạng “tiện dân”. Thân phận “tiện dân”

vô cùng thê thảm, họ bị đặt ra ngoài vòng xã hội và không được tiếp xúc với con người.
Chế độ đẳng cấp Vacna ảnh hưởng sâu sắc đến tổ chức quản lý nhà nước và quy định
pháp lý ở Ấn Độ cổ đại.

3. Tổ chức bộ máy nhà nước
3.1 Mô hình tổ chức bộ máy nhà nước
3.1.1 Các cơ quan nhà nước ở trung ương
 Vua
Là người đứng đầu nhà nước, có quyền lực tối cao. Mọi mệnh lệnh của vua có giá
trị thi hành như pháp luật. Vua có quyền quyết định mọi vấn đề quan trọng của quốc gia,
quyết định bổ nhiệm, cách chức, trừng phạt bất cứ ai, có thẩm quyền xét xử cao nhất và là
chỉ huy quân sự cao nhất. Bên cạnh đó, vua được thần thánh hoá, được xem là con hoặc
đại diện hoặc chính là hiện thân của thần linh.
 Quan đầu triều:
Là người thân tín nhất của nhà vua, nắm giữ các công việc quan trọng trong triều.
 Hệ thống các cơ quan giúp việc:
Gồm một số quan lại cao cấp. Tùy từng nơi, từng thời kỳ mà có sự phân công
nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng hay không.
3.1.2 Bộ máy nhà nước ở địa phương

13


Quản lý nhà nước ở địa phương thường dựa vào công xã nông thôn. Người có
quyền quản lý là người của chính địa phương đó (vương công, tù trưởng…). Quyền lực
của họ như một vị vua ở địa phương, quyết định những vấn đề ở địa phương. Do đó, khi
chính quyền trung ương suy yếu, họ là những thế lực phản loạn, nổi dậy chống lại chính
quyền trung ương, thành lập nhà nước riêng, tạo nên trạng thái cát cứ phân quyền. Sau
mỗi lần cát cứ như thế, chính quyền trung ương thực hiện nhiều biện pháp để quản lý chặt
chẽ hơn địa phương.

3.2 Tổ chức bộ máy nhà nước ở từng quốc gia
3.2.1 Ai Cập
 Ở trung ương
- Vua:
Ở Ai Cập, vua được gọi là Pharaông, có quyền lực vô hạn.
Về kinh tế, Pharaông là chủ sở hữu tối cao đối với ruộng đất trong cả nước. Hầu
như không phân biệt tài sản của nhà nước và tài sản của vua.
Về chính trị, Pharaông có quyền lực tuyệt đối, là người đứng đầu bộ máy nhà
nước, nắm giữ và kiểm soát cả hệ thống quan lại ở trung ương và địa phương. Vua còn là
người chỉ huy quân đội tối cao.
Về tư tưởng, Pharaông được thần thánh hoá, được xem là “vị thần vĩ đại”, “vị thần
cao quý”.
- Quan đầu triều:
Quan đầu triều ở Ai Cập gọi là Vidia (Vizir). Quyền lực của Vidia chỉ sau
Pharaông, thường là con của Pharaông. Vidia là người giúp vua cai quản bộ máy quan lại,
nắm hầu hết những công việc quan trọng của nhà nước. Tuy nhiên, đôi khi Vidia nắm
không hết các quyền hạn đó bởi vì còn có nhiều quan lại khác cũng thường là người trong
hoàng tộc.
- Hệ thống cơ quan giúp việc:
Quan phụ trách tài chính và coi sóc kho tàng, giữ quốc khố; lo việc trưng thu thuế
má, giữ sổ địa bạ…

14


Quan phụ trách về kinh tế – xã hội; trông nom công tác sản xuất, đắp đường xá, đê
điều, xây dựng các công trình.
Quan lại phụ trách xét xử: Cơ quan chuyên môn xét xử bao gồm 6 viện, đứng đầu
là viên chưởng lý. Ngoài ra còn có một số người trong tầng lớp tăng lữ cũng làm quan tư
pháp và các nhân viên lập hồ sơ bản án.

Quan lại về quân đội chăm lo việc binh bị. Viên tổng chỉ huy là họ hàng của nhà
vua. Các sĩ quan cao cấp đều trực thuộc vua và độc lập với cơ quan dân sự.
 Ở địa phương
Đơn vị hành chính của Ai Cập được chia thành các Châu (Nôm). Đứng đầu là
Châu trưởng. Châu trưởng vừa là tăng lữ tối cao, thẩm phán và là người chỉ huy quân sự
cao nhất ở địa phương. Châu trưởng chịu sự bổ nhiệm, giám sát và cách chức của nhà
Vua. Đồng thời, để ngăn ngừa tình trạng phân quyền cát cứ do các Châu trưởng có quá
nhiều quyền hành, Vua thường cử quan lại ở trung ương giám sát công việc của Châu
trưởng hoặc điều động họ từ châu này sang châu khác.
3.2.2 Lưỡng Hà
 Ở trung ương
- Vua:
Thời kỳ trị vì của người Sumer, đứng đầu mỗi nhà nước là Patêsi (cũng có nơi gọi
là Lugalơ – người chủ). Ban đầu Patêsi là do Hội đồng dân biểu đại diện cho quý tộc thị
tộc bầu ra, nhưng về sau thì cha truyền con nối. Patêsi không chỉ là vị thủ lĩnh tôn giáo tối
cao mà còn là đại diện của thần dân trước thần thánh, đồng thời là người chỉ huy quân
đội, quản lý kinh tế, coi sóc các công trình thuỷ lợi và là chủ sở hữu tối cao đối với mọi
đất đai của quốc gia.
Trong các thời kỳ lịch sử, Vương quốc cổ Babilon (1894-1595 TCN) là thời kỳ
phát triển rực rỡ nhất của Lưỡng Hà, trong đó triều đại của Vua Hammurapi là hưng thịnh
nhất Babilon. Thời kỳ này, Vua không chỉ xem mình là đại diện cho các thần thánh mà
cho rằng mình chính là hiện thân của thần thánh, có quyền quyết định mọi vấn đề quan
trọng của đất nước.
- Quan đầu triều:
15


Trong thời kỳ người Sumer thống trị Lưỡng Hà thì Nubanda là người đứng đầu hệ
thống quan lại dưới các Patêsi, trông coi hoạt động kinh tế, kho tàng và thuỷ lợi.
Thời kỳ trị vì của Vua Hamurapi, ông chia vương quốc thành hai khu hành chính:

vùng Accat và Bắc Sumer và vùng Nam Xume. Đứng đầu mỗi khu vực hành chính này là
một viên Tổng đốc do Vua trực tiếp bổ nhiệm. Đứng đầu Vùng Accat và bắc Xume gọi là
Xucalu, vùng Nam Sumer gọi là Xinidinnama. Hai viên Tổng đốc vừa là quan lại cao
nhất của nhà vua, giúp nhà vua cai trị hai khu vực hành chính này, cũng vừa là quan lại
đứng đầu địa phương.
- Hệ thống cơ quan giúp việc:
Cũng tương tự như Ai Cập bộ máy quan lại cao cấp chưa được chuyên môn hoá
trong từng lĩnh vực mà phụ trách những công việc cụ thể: thu thuế, các hoạt động thương
mại, quân sự, kho tàng, xây dựng các công trình công cộng . .
 Ở địa phương
Triều đại của Vua Hammurapi, như đã đề cập, hai viên Tổng đốc ở hai khu vực
hành chính vừa là quan lại cao cấp nhất của nhà vua cũng vừa là người đứng đầu địa
phương. Họ giúp cho nhà vua trực tiếp cai quản hai khu vực hành chính này từ quản lý
kinh tế, thu thuế, xây dựng và chỉ huy quan đội và huy động dân chúng thực hiện các
nghĩa vụ lao dịch cho nhà nước.
Ở cơ sở, công xã nông thôn tồn tại bền vững và phổ biến ở Lưỡng Hà từ thời kỳ
thống trị của người Sumer đến Tân Babilon. Quản lý các công xã này là các Hội đồng
công xã. Thời kỳ trị vì của mình, vua Hammurapi muốn tránh sự lạm quyền của địa
phương nên người đứng đầu Hội đồng công xã không phải là người địa phương đó mà do
Hammurapi cử quan lại về cai trị.
Bên cạnh đó, trong tổ chức bộ máy nhà nước, thời kỳ của Vua Hammurapi cơ
quan xét xử và quân đội rất phát triển. Các cơ quan xét xử chuyên trách đã được thành
lập. Ở trung ương, vua là người có quyền xét xử tối cao, ở địa phương, hội đồng xét xử
gồm các bô lão trong vùng. Các tăng lữ cũng tham gia xét xử, nhưng chỉ đối với những
vụ mà họ làm lễ tuyên thệ cho các nhân chứng. Quân đội của Babilon là quân đội thường
trực, được tổ chức chính quy và hùng hậu, có tổ chức và kỷ luật nghiêm minh. Nếu binh
16


sĩ nào không thực hiện lệnh điều động nhập ngũ của vua thì sẽ bị tử hình. Các tướng lĩnh

và quân sĩ đều được cấp ruộng đất để sinh sống. Tuy nhiên, họ chỉ được quyền canh tác
trên phần đất đó mà không có quyền sở hữu thật sự mảnh đất ấy.
3.2.3 Ấn Độ
 Ở trung ương
Trong các thời kỳ phát triển, vương triều Morya có tổ chức bộ máy nhà nước rất
phát triển và hoàn thiện hơn so với các vương triều trước đó.
- Vua:
Ở Ấn Độ cổ đại, vua cũng có quyền lực tối thượng như vua của các quốc gia Ai
Cập, Lưỡng Hà hay Trung Quốc cổ đại. Sự thần thánh hoá nhà vua được thể hiện ngay
trong một bộ luật rất nổi tiếng của Ấn Độ là Manu.
- Quan đầu triều:
Người đứng đầu Hội đồng thượng thư gọi là Đại tư tế (Durohita) có vai trò như tể
tướng, đây chỉ là cách gọi chứ không phải là tăng lữ Bà La Môn.
- Hệ thống cơ quan giúp việc:
Hệ thống quan lại chia làm 3 hội đồng :
Hội đồng thượng thư : Đứng đầu là Đại tư tế, tiếp đó là 2 Thượng thư Ngân khố và
Thuế vụ rồi đến các thượng thư khác. Mỗi thượng thư phụ trách một số ngành, thông qua
các Sở ở địa phương để quản lý: Sở phụ trách về đo lường, thương mại, vàng và kim khí
quý, nông nghiệp, tàu xe… kể cả Sở phụ trách ca kỹ.
Hội đồng ngự tiền: gồm những quý tộc có thế lực. Hội đồng này có nhiệm vụ kiến
nghị những việc lớn cho vua nhưng chỉ với tư cách tư vấn chứ không có quyền quyết
định.
Cơ quan giám sát: Cơ quan này do vua lập ra và trực tiếp lãnh đạo. Trong đó, có
một số đóng tại chỗ, một số đi thám thính các nơi, xem xét hành vi của các quan lại và
nhân viên của nhà nước.
 Ở địa phương
Toàn bộ lãnh thổ được chia thành 1 đặc khu kinh đô và 4 tỉnh, mỗi nơi do một
hoàng thân đứng đầu có địa vị như Phó vương.
17



Đặc khu kinh đô gồm Hội đồng quản trị có 30 chức quan, chia thành 6 ban (mỗi
ban có 5 uỷ viên) phụ trách 6 mặt khác nhau: thủ công, ngoại vụ, hộ tịch, thương mại,
thuế vụ và giám sát việc cung cấp sản phẩm.
Dưới tỉnh là huyện, dưới huyện là làng, làng được tổ chức theo từng cấp: cấp 10
làng, 20 làng . . . 1000 làng. Cấp 10 làng trở lên mới hình thành đơn vị hành chính. Các
viên chức địa phương được hưởng một phần thuế, hoặc tô.
3.2.4 Trung Quốc
 Ở Trung ương
- Vua:
Ở Trung Quốc, vua còn gọi là Đế (thời Hạ – Thương), Vương hay Thiên Tử (thời
Chu). Vua tự thần thánh hoá bản thân là con trời, thay trời trị vì thế gian.
- Quan đầu triều:
Thời Hạ, Thương: dưới vua là quan Vu Sử giúp vua quản lý triều đình.
Thời Tây Chu: chức quan Thái sư trong Tam công có quyền lớn nhất, giúp vua
quản lý công việc chung của triều đình
- Hệ thống cơ quan giúp việc:
Thời Hạ, Thương:
Thời kỳ này bộ máy quan lại còn sơ sài chỉ mới có một số chức vụ quản lý các
công việc như:
Mục chính : quản lý sản xuất, nông nghiệp và chăn nuôi.
Xa chính

: quản lý xe

Bảo chính : quản lý việc dâng thức ăn cho vua
Thời Tây Chu: Bộ máy quan lại đã đi vào quy củ
Tam công: Vua thiết lập Tam công để giúp vua quản lý triều đình. Tam công bao
gồm 3 chức quan lớn theo thứ tự từ cao đến thấp: Thái sư, Thái phó, Thái bảo. Tam cô:
Thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo. Cả Tam công và Tam cô đều là tư vấn cho thiên tử.

Lục Khanh: Thiên quan chủng tế: Đứng đầu lục quan, tổng lý quốc chính, còn gọi
là trị quan; Địa quan tư đồ: Phụ trách dân chính, giáo dục, còn gọi là giáo quan; Xuân
quan tông bá: Phụ trách tế tự lễ nhạc, còn gọi là lễ quan; Hạ quan tư mã: Phụ trách quân
18


sự, chinh phạt, còn gọi là chinh quan; Thu quan tư khấu: Phụ trách hình pháp, còn gọi là
hình quan; Đông quan tư không: Phụ trách kiến thiết, xây dựng.
Thái sử liêu: Tả sử ghi chép lời nói của vua; Hữu sử ghi chép lại những sự kiện
lớn của quốc gia.
 Ở địa phương
Cấp hành chính trực tiếp dưới trung ương vào thời Hạ, Thương bao gồm các vùng
thuộc địa bàn của những bộ lạc trong liên minh bộ lạc trước đây. Viên quan đứng đầu vốn
là Tù trưởng hoặc con cháu của họ.
Thời Tây Chu, do chính sách ban thưởng nên có thêm 1 cấp địa phương cao nhất
là các nước chư hầu. Bộ máy chính quyền của chư hầu là hình ảnh thu nhỏ của chính
quyền trung ương của thiên tử nhà Chu.
3.3 Nhận xét về bộ máy nhà nước phương Đông cổ đại
- Về hình thức chính thể là hình thức quân chủ tuyệt đối.
- Bộ máy nhà nước còn rất sơ khai và đơn giản. Chức vụ và quan chế chưa rõ ràng.
Các cơ quan nhà nước ở địa phương chỉ là sự mô phỏng và sao chép trung ương.
- Tổ chức bộ máy nhà nước chủ yếu dựa vào quan hệ huyết thống.
- Bộ máy nhà nước chịu ảnh hưởng tàn dư của chế độ thị tộc, những tín ngưỡng
tôn giáo và lễ giáo truyền thống.
 CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đến quá trình hình thành nhà nước
phương Đông cổ đại.
2. Phân tích tính chất gia trưởng của chế độ nô lệ ở các quốc gia chiếm hữu nô lệ
phương Đông cổ đại.
3. Chứng minh nhà nước chiếm hữu nô lệ ở phương Đông cổ đại được tổ chức theo hình

thức chính thể quân chủ tuyệt đối.
4. Các nhận định sau đây đúng hay sai? Vì sao?
a. Yếu tố chiến tranh là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự hình thành nhà nước ở
các quốc gia phương Đông cổ đại.
19


b. Nô lệ là đối tượng bóc lột chủ yếu của giai cấp thống trị trong xã hội chiếm hữu
nô lệ phương Đông cổ đại.
c. Tổ chức bộ máy nhà nước phương Đông cổ đại có sự kết hợp giữa vương quyền
và thần quyền.
---o0o---

Chương 2

PHÁP LUẬT PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI
20


1. Pháp luật của các quốc gia phương Đông cổ đại
Do hiện nay chưa có các nguồn sử liệu đáng kể về pháp luật của Ai Cập cổ đại,
nên phần này giới thiệu Bộ luật Hammurapi của Lưỡng Hà, Bộ luật Manu của Ấn Độ,
pháp luật các triều đại Hạ, Thương, Tây Chu và tư tưởng chính trị xã hội ảnh hưởng đến
pháp luật thời kỳ Chiến quốc của Trung Quốc cổ đại.
1.1 Bộ luật Hammurapi của Lưỡng Hà
1.1.1 Đặc điểm của Bộ luật Hammurapi
 Nguồn của bộ luật: gồm có 3 nguồn chủ yếu sau:
Kế thừa những tiền lệ và tập quán của người Sumer trong xã hội trước đó (chủ
nhân trước đó của quốc gia này);
Ví dụ: kế thừa Bộ luật Lipitistar của Nip-pua có trước Bộ luật Hammurapi khoảng

200 năm, Bộ luật của dân thành Esơ-nu-me giữa thế kỷ XX TCN
Những quyết định (mệnh lệnh, chiếu chỉ) của vua Hammurapi;
Những quyết định của toà án các cấp.
Với những nguồn trên cho thấy Bộ luật Hammurapi đã có sự hệ thống hoá rất cao
nhất là công tác pháp điển hoá pháp luật.
 Cơ cấu của Bộ luật
Bộ luật có 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Phần mở đầu và phần kết luận: Khẳng định rằng đất nước Babilon là một vương
quốc do các thần linh tạo ra. Và chính các thần linh này đã trao đất nước cho Hammurapi
thống trị để làm cho đất nước giàu có, nhân dân no đủ. Ngoài ra, Hammurapi tự ca ngợi
công lao của mình đối với đất nước. Riêng ở phần kết luận Hammurapi tuyên bố thần
linh sẽ nguyền rủa và trừng phạt tất cả những ai xem thường và không thi hành theo
những quy định của bộ luật này.
Phần nội dung: Có 282 điều luật – đây là phần chủ yếu của bộ luật.
 Về phạm vi điều chỉnh

21


Bộ luật Hammurapi có phạm vi điều chỉnh rộng đối với những quan hệ xã hội thời
Babilon cổ. Đồng thời, qua phần nội dung, cho thấy tuy bộ luật chưa phân định chia
thành những ngành luật như hiện nay, nhưng tác giả đã có ý thức sắp xếp các điều khoản
thành từng nhóm riêng theo từng loại quan hệ trong xã hội lúc bấy giờ.
1.1.2 Nội dung cơ bản
 Các quy định về hợp đồng
- Hợp đồng mua bán:
Xác định điều kiện có hiệu lực của hợp đồng (Đ7; Đ108): Tài sản mua bán phải
đảm bảo đúng giá trị sử dụng của nó; Người bán phải là chủ thực sự của tài sản; Khi tiến
hành hợp đồng phải có người làm chứng. Nếu các bên vi phạm điều kiện có hiệu lực thì
hợp đồng không có giá trị, người vi phạm sẽ bị trừng phạt bằng những chế tài mang tính

chất hình sự.
Người bán nếu bị người làm chứng tố cáo là đồ vật của người khác, sẽ bị xử tử
hình. Ngược lại, chủ đồ vật không chỉ được người làm chứng nhận biết đồ vật bị mất là
đồ vật của mình thì cũng bị tử hình, vì luật cho rằng đó là tội vu khống.
- Hợp đồng vay tài sản:
Hợp đồng vay tài sản là loại hợp đồng được quy định nhiều nhất trong Bộ luật
Hammurapi. Loại hợp đồng này được quy định khá chi tiết về đối tượng của hợp đồng
vay, mức lãi suất và phương thức trả nợ vay.
Về đối tượng của hợp đồng vay: vay thóc hoặc vay bạc.
Về mức lãi suất vay (Điều 89, Điều 91): vay thóc mức lãi suất là 1/5 giá trị hợp
đồng và vay tiền với mức lãi suất là 1/3 – 2/3 giá trị hợp đồng. Ngoài ra, bộ luật còn quy
định trách nhiệm của người cho vay nếu lấy lãi suất cao hơn mức quy định.
Về phương thức trả nợ vay: Nếu vay thóc hoặc vay bạc khi đến thời hạn mà không
có thóc hoặc bạc để trả thì có thể thay thế thóc bằng bạc và ngược lại (Điều 90), còn có
thể dùng vừng để trả nợ (Điều 51). Nhưng không được dùng chà là để trả nợ (Điều 66).
Về phương thức bảo đảm thực hiện hợp đồng: Vay thóc có thể dùng ruộng hoặc
vườn để làm vật bảo đảm (Điều 49). Đặc biệt, bộ luật quy định dùng thân thể con người
22


làm vật bảo đảm hợp đồng: Nếu vay tiền hoặc vay thóc mà mắc nợ thì chủ nợ có thể giữ
người thân hoặc nô lệ của người mắc nợ làm con tin (Điều 114, Điều 115, Điều 116).
Ngoài ra, để trừ nợ người mắc nợ có thể bán nô lệ để trừ nợ, nếu không có nô lệ thì phải
bán vợ, con hoặc bán mình làm nô lệ (Điều 117, Điều 118, Điều 119).
- Hợp đồng lĩnh canh ruộng đất:
Về mức thu tô: Điều 46 quy định mức thu tô đối với từng loại lĩnh canh (vườn là
2/3 sản phẩm làm ra và ruộng là 1/3 – 1/2 sản phẩm). Trách nhiệm của người lĩnh canh
trong từng trường hợp không chuyên cần canh tác (Điều 42, Điều 42, Điều 44, Điều 45).
Mức bồi thường thiệt hại đối với người lĩnh canh nếu làm thiệt hại hoa màu trên ruộng
người bên cạnh (Điều 53, Điều 54, Điều 55, Điều 56).

- Hợp đồng gửi giữ (Điều 104 - 107, Điều 121, Điều 122):
Quy định khi gửi giữ phải có người làm chứng. Mức thù lao gửi giữ. Trách nhiệm của
người nhận giữ tài sản mà không trao nó lại cho người gửi.
 Các quy định về hôn nhân gia đình
Về thủ tục kết hôn: Bộ luật quy định kết hôn phải có giấy tờ (Điều 128).
Về quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng: Bộ luật quy định công khai sự bất bình
đẳng trong quan hệ vợ chồng, trong đó đề cao vai trò và bảo vệ quyền lợi của ng ười
chồng. Người vợ bị xem là tài sản của người chồng (Điều 141, Điều 143, Điều 144).
Quyền ly hôn của người phụ nữ bị hạn chế rất nhiều, có 3 điều kiện để người phụ nữ có
thể tuyên bố ly hôn: chồng có quan hệ ngoại tình; chồng bỏ nhà ra đi; chồng vu cáo vợ
ngoại tình (Điều 137, Điều 138, Điều 149).
Tuy nhiên trong một số trường hợp, luật cũng bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ
(Điều 148, Điều 142). Ngoài ra, luật còn bảo vệ một số giá trị đạo đức trong xã hội (Điều
129, Điều 130, Điều 153, Điều 155).
 Quy định thừa kế
Về hình thức thừa kế: thừa kế theo luật và theo di chúc.
23


Căn cứ để chia thừa kế là cái chết của người cha, vì phụ nữ không có quyền sở
hữu tài sản nên khi người mẹ chết quan hệ thừa kế không xuất hiện, trừ trường hợp khi
người chồng chết để lại một phần tài sản cho vợ sau đó người này để lại cho đứa con mà
mình yêu thương.
Có sự phân biệt trong việc hưởng thừa kế giữa con trai, con gái và con của nữ nô
lệ nếu được cha của nó là dân tự do thừa nhận (Điều 165, Điều 66, Điều 170, Điều 172).
Ngoài ra, luật còn quy định điều kiện để tước quyền thừa kế (Điều 169).
 Những quy định về hình phạt và tội phạm:
Quy định các tội phạm liên quan đến việc xâm phạm quyền sở hữu (Điều 6, Điều
8), chế độ nô lệ (Điều 15, Điều 16, Điều 226), nhân phẩm, danh dự, tính mạng, sức khoẻ
của con người (Điều 196, Điều 197, Điều 198, Điều 199).

Do ảnh hưởng bởi những phong tục tập quán thời công xã nguyên thủy nên Bộ
luật quan niệm hình phạt là sự trừng trị tội lỗi, mang tính chất trả thù ngang bằng nhau
(đồng thái phục thù).
Tuy nhiên, do Bộ luật cũng thừa nhận sự phân biệt đẳng cấp (Điều 205), giai cấp
nên nguyên tắc đồng thái phục thù được áp dụng một cách tương đối. Hình phạt tiền cũng
đã được áp dụng (Điều 198, Điều 199), mức tiền phạt tùy vào địa vị xã hội của các đương
sự. Các hình phạt thường rất dã man như: chặt tay, chân, thiêu, dìm xuống nước, đóng
cọc…
 Quy định tố tụng
Việc xét xử phải được tiến hành công khai. Trong quá trình xét xử, cơ quan tư
pháp rất coi trọng giá trị chứng cứ (Điều 3, Điều 4), không phân biệt chứng cứ thuộc
đẳng cấp nào. Đồng thời luật còn quy định trách nhiệm của người xét xử, trong trường
hợp xét xử không đúng.
1.2 Bộ luật Manu của Ấn Độ cổ đại
1.2.1 Đặc điểm
24


Bộ luật Manu là Bộ luật hoàn chỉnh nhất trong tất cả các luật lệ cổ ở Ấn độ cổ đại,
được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ II – I TCN bởi các giáo sĩ Bà La Môn. Thực chất,
nó là những luật lệ, những tập quán pháp của giai cấp thống trị được các giáo sĩ Bà La
Môn tập hợp lại dưới dạng trường ca, được trình bày dưới dạng câu song vần.
Về cơ cấu: Bộ luật gồm 2685 điều, chia thành 12 chương.
Về nội dung: Bộ luật không chỉ là chứa đựng những quy phạm pháp luật để điều
chỉnh các quan hệ xã hội mà còn quy định về những vấn đề khác như chính trị, tôn giáo,
quan niệm về thế giới và vũ trụ. Nhưng xét trên phương diện pháp lý, chúng ta có thể
phân bộ luật Manu thành những chế định cụ thể.
1.2.2 Nội dung cơ bản
 Quy định về quyền sở hữu
Đối với ruộng đất, thừa nhận ba hình thức sở hữu ruộng đất đó là sở hữu của nhà

vua, của công xã nông thôn và của tư nhân. Đối với đất đai thuộc quyền sở hữu của tư
nhân thì được quyền mua bán nhưng phải chịu sự giám sát của nhà nước (nếu người bán
động sản nhận được số tiền nhiều hơn giá quy định thì nhà nước sẽ thu hồi số tiền dư đó).
Đối với những tài sản khác, nhà nước chỉ thừa nhận quyền sở hữu khi có chứng cứ cụ thể
chỉ rõ nguồn gốc của nó (mua bán, thừa kế, ban thưởng).
 Quy định về hợp đồng
Quy định điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Đề cập nhiều đến hợp đồng vay
mượn, cầm cố. Quy định mức lãi tối đa phải trả mỗi tháng, mức lãi suất này tùy thuộc
theo từng đẳng cấp trong xã hội. Sử dụng thân thể con nợ làm vật bảo đảm hợp đồng.
Quy định điều kiện có hiệu lực của hợp đồng: Một hợp đồng không có hiệu lực khi
hợp đồng đó ký kết với người điên, người già yếu, người say rượu, người chưa đến tuổi
thành niên, hoặc phải ký do áp lực hoặc sự lừa dối (Điều 163, Điều 165, Điều 168). Hợp
đồng phải bảo đảm tính công khai. Tất cả các hợp đồng ký kết bí mật đều là bất hợp
pháp.
25


×