Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên khoa tài chính ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.64 KB, 23 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay kinh tế Việt Nam đang theo nền kinh tế thị trường, một nền kinh tế có sự
cạnh tranh gay gắt khốc liệt. Tham gia hội nhập nền kinh tế thế giới, Việt Nam có nhiều
cơ hội và thách thức trong vấn đề hội nhập. Đây là cơ hội đưa nước ta tiếp cận với nền
kinh tế hiện đại đang phát triển, tiếp cận với nền khoa học tri thức của nhân loại ngày
càng nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Bên cạnh đó không ít những khó
khăn buộc chúng ta phải đối mặt: nền kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu, đời sống người dân
nhiều khó khăn thiếu thốn, trình độ đào tạo nhân lực còn kém. Để khắc phục một số
khiếm khuyết còn thiếu sót, Việt Nam cần có một đội ngũ những con người hoat động
tích cực năng động sáng tạo. Do vậy có thể nói giáo dục là quốc sách hàng đầu của các
quốc gia nói chung và của Việt Nam nói riêng. Giáo dục gắn liền với tương lai và sự
phát triển của đất nước. Mục tiêu phát triển của Việt Nam đến năm 2020 là cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu nói trên cần
huy động và sử dụng một cách hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước đặc biệt là nguồn
lực của con người càng được xem trọng hơn. Điều đó cũng đòi hỏi một lực lượng trí
thức trẻ có chuyên môn và năng lực làm việc cao. Và sinh viên cũng không ngừng nỗ
lực học tập trau dồi vốn kiến thức để có thể chủ động trong việc lựa chọn nghề nghiệp
và hướng đi phù hợp cho bản thân sau khi tốt nghiệp góp phần xây dựng đất nước lớn
mạnh. Trong đó giáo dục đại học là nơi đào tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao cho
đất nước. Đại học luôn là môi trường bồi dưỡng, sáng tạo và chuyển giao những thành
tựu khoa học công nghệ mới nhất, là đầu tàu trong việc tạo ra nguồn lao động chất
lượng cao phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.
Như chúng ta đã biết, môi trường học tập trong đại học đòi hỏi phải có sự tự giác
nỗ lực cá nhân rất lớn, đặc biệt là hình thức đào tạo theo tín chỉ. Tuy nhiên nhiều sinh
viên hiện nay vẫn không đạt được kết quả mong muốn mặc dù có sự chăm chỉ nhưng có
thể là vì phương pháp học tập của họ chưa thực sự đúng đắn. Thực tế khác cho thấy sinh
viên đại học sau khi ra trường muốn tìm được một việc làm đúng chuyên ngành, ổn định
thì rất khó với tấm bằng trung bình và cơ hội cao hơn khi họ có tấm bằng cao hơn. Với
những người đang ngồi trên ghế nhà trường nói chung và sinh viên nói riêng thì kết quả
học tập đạt được sau mỗi kỳ học rất quan trọng. Kết quả mỗi kỳ sẽ quyết định xem sinh


viên có bị buộc thôi học hay không, xếp loại học lực gì và tấm bằng mà họ đạt được sau
khi kết thúc chương trình đào tạo học tập của nhà trường. Kết quả học tập là chỉ tiêu


quan trọng để tuyển công nhân viên cho các tổ chức và doanh nghiệp. Đặc biệt các tổ
chức nhà nước, doanh nghiệp tư nhân có quy mô càng lớn, uy tín càng cao thì yêu cầu
kết quả học tập của ứng viên càng cao. Đứng trước thực tế đó chúng tôi đã chọn đề tài:
“Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên khoa Tài chính
Ngân hàng” để có thể đưa ra cái nhìn khách quan cho sinh viên về các yểu tố ảnh hưởng
đến kết quả học tập của chính họ. Từ đó đưa ra các kết luận, giải pháp thích hợp nhằm
cải thiện và nâng cao kết quả học tập của sinh viên đại học nói chung và sinh viên khoa
Tài chính Ngân hàng nói riêng. Đồng thời có những đề xuất với nhà trường có nhiều
chính sách phù hợp, kịp thời tạo điều kiện cho sinh viên đạt được kết quả tốt nhất
2. Đối tượng nghiên cứu
Kết quả học tập, các yếu tố ảnh hưởng và tác động của nó đến kết quả học tập của
sinh viên khoa Tài Chính Ngân hàng, trường đại học Thương mại
3. Mục tiêu nghiên cứu
a, Mục tiêu tổng quát
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên khoa Tài Chính
Ngân hàng(TCNH), định hướng phương pháp học tập và đề xuất các giải pháp thích hợp
nâng cao chất lượng học tập của sinh viên.
b, Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá thực trạng và kết quả học tập của sinh viên khoa TCNH hiện nay
- Tìm hiểu nguyên nhân và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh
viên khoa TCNH.
- Đề xuất giải pháp thích hợp nâng cao hiệu quả, kết quả học tập của sinh viên khoa
TCNH
4. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian:
Sinh viên khoa Tài chính Ngân hàng, khóa 49, 50, 51 của trường Đại học Thương Mại

-Thời gian: Từ ngày 25/9/2016 đến ngày 26/10/2016


5. Phương pháp nghiên cứu
- Chọn mẫu điều tra: Chọn ngẫu nhiên 31 sinh viên thuộc khoa Tài chính Ngân hàng của
trường Đại học Thương Mại (khóa 49, 50, 51)
- Thu thập thông tin dữ liệu:
+ Sơ cấp: Từ sinh viên khoa TCNH trường ĐH Thương Mại (khóa 49, 50, 51)
+ Thứ cấp: Một số tài liệu trên mạng Internet, một số trên sách báo,...
-Phương pháp xử lý các thông tin: Trên máy tính cá nhân bằng các phần mềm hỗ trợ
như Word, Excel,...
6. Công trình nghiên cứu
a. Một số nghiên cứu ở nước ngoài
Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên là một trong
những vấn đề được quan tâm nghiên cứu từ rất sớm ở phương Tây. Từ những năm nửa
đầu của thế kỷ XX và cho đến nay một số nhà nghiên cứu phương Tây đã có nhiều công
trình.
Một nghiên cứu tại Tây Ban Nha “Personal, family and academic factors affecting
low achievement in secondary school” của Antonia Lozano Diaz (2003) đã chỉ ra ảnh
hưởng của các yếu tố đến kết quả học tập của học sinh. Đó là trình độ học vấn của cha
mẹ, giới tính, động lực học tập, mối quan hệ giữa các học sinh và với những người
khác. Bằng phân tích hồi quy và kiểm định ANOVA nghiên cứu kết luận: Môi trường và
động lực học tập có ảnh hưởng đến kết quả học tập còn trình độ học vấn của người mẹ
thì không.
Tác giả Getinet Haile và Nguyễn Ngọc Anh (2008) trong đề tài “các yếu tố ảnh
hưởng đến kết quả học tập ở Hoa Kỳ, phân tích hồi quy điểm phân vị cho điểm kiểm
tra”. Các tác giả đã khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tâp của sinh viên ở
các môn toán, đọc và khoa học ở Hoa Kỳ đặc biệt chú trọng tới các ảnh hưởng khác
nhau có thể có của các yếu tố chủng tộc, hoàn cảnh gia đình với sự phân phối điểm kiểm
tra của sinh viên. Từ đó tác giả đưa ra hai kết luận quan trọng: Thứ nhất, kiểm tra các

môn toán, đọc và khoa học giữa các nhóm dân tộc là khác nhau giữa các điểm phân vị


có điều kiện của các điểm số được đo lường. Thứ hai, ảnh hưởng của các yếu tố thuộc
về hoàn cảnh gia đình như học vấn của cha mẹ, nghề nghiệp của cha cũng khác nhau.
b. Một số nghiên cứu trong nước
Có một số tác giả đã tiếp nối các nghiên cứu trên thế giới nghiên cứu về các yếu tố
ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên nhưng nó vẫn còn là những vấn đề khá mới
mẻ.
Trong các nghiên cứu của tác giả Huỳnh Quang Minh (2010) “Các yếu tố tác động
đến kết quả học tập của sinh viên chính quy trường ĐH Nông Lâm thành phố HCM”.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Mai Trang, Nguyễn Đình Thọ, Mai Lê Thúy Vân (2008) về
“Các yếu tố chính tác động vào kiến thức thu nhận của sinh viên khối ngành kinh tế”,
luận văn thạc sĩ của Võ Thị Tâm (2010) “Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của
sinh viên chính quy ĐH Kinh tế TPHCM”; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thùy Trang
(2010) “khảo sát mối quan hệ giữa thói quen học tập và quan niệm học tập với kết quả
học tập của sinh viên đại học Khoa học Tự Nhiên, ĐH Quốc Gia Thành phố Hồ Chí
Minh” đã khảo sát và phân tích một số yếu tố có tác động đến kết quả học tập của sinh
viên.
Các nghiên cứu trên tập trung nghiên cứu mức độ tác động khác nhau của các yếu
tố đến kết quả học tập của sinh viên. Nghiên cứu của tác giả Huỳnh Quang Minh cho
thấy mức độ tham khảo tài liệu, thời gian học ở lớp, thời gian tự học, điểm bình quân
giai đoạn đầu, điểm thi tuyển sinh có tác động đến kết quả học tập của sinh viên. Còn
nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Đình Thọ cho thấy động cơ của sinh viên tác động
mạnh vào kiến thức thu nhận của họ, năng lực giảng viên tác động rất cao vào động cơ
học tập và kiến thức thu nhận của sinh viên. Võ Thị Tâm nghiên cứu sâu bốn biến tác
động là: động cơ học tập, phương pháp học tập, tính kiên định học tập, ấn tượng trường
học và cạnh tranh trong học tập ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên. Tác giả
Nguyễn Thùy Trang lại khảo sát mối quan hệ thói quen học tập và quan niệm học tập
với kết quả học tập của sinh viên. Các nghiên cứu trên đóng góp đáng kể về lý luận và

thực tiễn trong nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở nước ta.
Tác giả Mai Thị Quỳnh Lan và Nguyễn Qúy Thanh trong nghiên cứu “tiếp cận lý
thuyết về mối quan hệ giữa học vị giảng viên và kết quả học tập của sinh viên” đã
chứng minh và đưa ra những kết luận có ý nghĩa khoa học. Theo tác giả các phẩm chất


năng lực của thầy có ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên. Từ việc phân tích chi
tiết các yếu tố từ giảng viên, thực nghiệm qua điều tra phân tích thống kê bằng bảng hỏi
đối với sinh viên Đại học Quốc Gia Hà Nội, tác giả khẳng định các yếu tố thuộc về
giảng viên như: khả năng dạy học nói chung và 22 trí thông minh, kiến thức chuyên
ngành, kiến thức về dạy và học, kinh nghiệm của giảng viên, các hành vi và thực hành
của giảng viên có mối tương quan cao về kết quả học tập của sinh viên.
Tác giả Nguyễn Công Thanh (2009) với “nghiên cứu phong cách học của sinh viên
trường ĐH Khoa học Xã Hội Nhân Văn và trường ĐH Khoa học Tự Nhiên” đề tài đã
cho thấy có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình học tập của sinh viên. Mỗi sinh viên
do môi trường văn hóa xã hội khác nhau nên hình thành những thói quen, cách suy nghĩ,
các năng lực nhận thức khác nhau từ đó có phong cách học khác nhau. Qua nghiên cứu
điều tra khảo sát, tác giả kết luận điểm phong cách có quan hệ tuyến tính với điểm học
lực trung bình các môn học và nó giải thích cho khoảng 3 – 14% sự biến thiên điểm
thành tích học tập của những sinh viên được nghiên cứu. Nhóm sinh viên có điểm
phong cách học cao cũng là các sinh viên có điểm học lực trung bình các môn cao ở các
học kỳ.


I.

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu đã tổng quan các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước liên

quan đến đề tài, đồng thời giới thiệu các mô hình xác định các yếu tố ảnh hưởng đến
KQHT và một số khái niệm về KQHT. Trên cơ sở đó xấy dựng mô hình nghiên cứu của
đề tài.
Mô hình nghiên cứu được thể hiện như sau:

Động lực học tập

Thời gian tự học

Kết quả học tập
Phương pháp học tập

Phương pháp giảng dạy

Điều kiện cơ sở vật chất

Hình 1.1 Mô hình nghiên cứu của đề tài

-


II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1.
Phương pháp tiếp cận nghiên cứu
2.1.1. Tổng thể
- Là sinh viên hệ chính quy khóa 49, 50, 51

khoa TCNH trường Đại học

Thương mại.

2.1.2. Công cụ thu thập dữ liệu
- Là biểu mẫu do nhóm 9 thiết kế để hỏi, sau đó các bạn sinh viên trả lời và
cung cấp số liệu.
2.1.3. Biến số độc lập
- Là các yếu tố ảnh hưởng tới KQHT của sinh viên, gồm các biến số thuộc về
sinh viên (động lực học, phương pháp học, thời gian dành cho việc tự học)
và các biến số thuộc về nhà trường (phương pháp giảng dạy của giáo viên,
điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường).
2.1.4. Biến phụ thuộc
- Là KQHT của sinh viên.
2.1.5 Quy trình nghiên cứu

Cơ sở lý thuyết

Xây dựng bảng hỏi

Nghiên cứu sơ bộ

Nghiên cứu chính
thức
Sơ đồ 2.1 Quy trình nghiên cứu


2.1.6

Cách thức chọn mẫu

2.1.6.1. Chọn mẫu cho nghiên cứu sơ bộ
Phát phiếu ngẫu nhiên cho 30 bạn sinh viên để đánh giá độ tin cậy của phiếu trao
đổi ý kiến trước khi đưa vào viên cứu chính thức.

2.1.6.2.

Chọn mẫu cho nghiên cứu chính thức

Số lượng mẫu cho nghiên cứu chính thức là chọn ngẫu nhiên 31 sinh viên có kết
quả học tập (giỏi, khá, trung bình, yếu)
Nội dung được phỏng vấn thể hiện ở bảng hỏi. Phiếu tập trung khai thác những yếu
tố ảnh hưởng tới KQHT của sinh viên.
2.2.

Thang đo

Có 7 khái niệm được sử dụng trong nghiên cứu này, đó là: động lực học tập, thời
gian cho việc tự học, điều kiện cơ sở vật chất của trường, kết quả học tập, có máy
tính cá nhân.
Tất cả thang đo được xây dựng theo thang do Likert 5 mức, tương ứng với 5 điểm.
III. KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI KQHT
3.1 Thực trạng tình hình học tập của sinh viên khoa TCNH
Thông tin về mẫu điều tra sinh viên
Theo dữ liệu điều tra thực tế 31 sinh viên khoa TCNH, trường Đại học Thương
mại. Trong đó có 29 sinh viên khóa 50, 1 sinh viên khóa 49 và 1 sinh viên khóa 51.
Bảng 1. Thông kê chi tiết mẫu điều tra
Khóa
Số lượng
%

Khóa 49
1
3.2


Khóa 50
29
93.6

Khóa 51
1
3.2

Tổng
31
100

KQHT của sinh viên khoa TCNH khóa 49, 50, 51tính đến hết học kỳ II năm học
2015-2016


Bảng 2
Kết quả học tập
Giỏi
Khá
Trung bình
Kém
Tổng cộng

Số lượng sinh viên
2
15
13
1
31


Tỷ lệ %
6.9
48.4
41.9
2.8
100

Qua điều tra cho thức KQHT của sinh viên khoa TCNH chưa thực sự cao, ở mức
“giỏi” thì chỉ có 2 bạn (chiếm 6.9%). Đa số học lực của các bạn đều ở mức “Khá”
chiếm 48.4%và “Trung bình” chiếm 41.9%, và đáng buồn hơn là vẫn tồn tại bạn có
học lực ở mức kém.
KQHT của các bạn bị tác động bởi nhiều yếu tố, bao gồm yếu tố chủ quan (ý thức
học tập, phương pháp học của sinh viên) và yếu tố khách quan (phương pháp giảng
dạy của giáo viên, điều kiện cơ sở vật chất của trường, của bản thân sinh viên). Có
thể các bạn chăm học nhưng do không có phương pháp học, học nhiều nhưng
không có hiệu quả. Hoặc một số yếu tố do trong quá trình làm bài kiểm tra, bài thi,
các bạn làm bài không cẩn thận dẫn đến sai, ôn thi không trúng “tủ”, từ đó kéo theo
KQHT của bạn sẽ thấp.
Để thấy được mức độ hài lòng về KQHT của các bạn, nhóm đã khảo sát đánh giá
về mức độ hài lòng về KQHT của sinh viên, được thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 3
Bạn có hài lòng với KQHT hiện tại của mình không?
Rất hài lòng
Hài lòng
Chưa thực sự hài lòng, cần cố gắng nhiều hơn
Không hài lòng

% số SV đánh giá
3.4

3.1
38.7
54.8

Qua bảng khảo sát, có tới hơn một nửa số sinh viên của khoa chưa không hài lòng
với kết quả hiện tại của mình (chiếm 54.8%). Có 38.7% số sinh viên được hỏi chưa
thực sự hài lòng với KQHT hiện tại, cần phải cố gắng nhiều hơn nữa.
3.2.1 Ý thức học tập


Ngày nay sự khác biệt sự khác biệt của giáo dục đại học và giáo dục phổ thông
rất quan trọng. Nếu giáo dục phổ thông là học sinh học ỏ thầy cô giáo và trên
lớp nhiều thì ở giáo dục đại học các sinh viên đôi khi phải tự tìm tài liệu và tự
học là chính nên chỉ có thời gian tự học nâng cao ý thức học tập của bản thân
thì mới có thế cải thiện được kết quả học tập.
Đa số sinh viên có rất nhiều thời gian rảnh rỗi. Nếu không biết phân bổ thời
gian một cách hợp lý thì thời gian rảnh rỗi sẽ không làm được việc gì cả, cũng
không dành được thời gian cho việc học, mà học ở đại học thì thời gian tự học
và ý thức học tập nó quyết định đến kết quả học tập của sinh viên là chủ yếu.
Tham gia các hoạt động xã hôị, vui chơi, giải trí, học thêm, học trên tivi, báo,
đài... cũng là một hình thức tự học rất tốt vừa giúp nâng cao học vấn, vừa giúp
tăng khả năng giao tiếp. Vì vậy, tham gia các hoạt động xã hội, vui chơi, giải trí,
học thêm ...rất bổ ích và hiệu quả.
3.2.1.1

Ý thức học và cách thức phát huy tư duy tích cực của sinh viên.

Để hiểu sinh viên thế nào để chiếm lĩnh tri thức một cách có hiệu quả thì ta phải
tìm hiểu ý thưc học tập cũng như cách thức học của họ. Liệu ý thức học tập đó
có gíup sinh viên lĩnh hội tri thức một cách tối ưu hay không?

3.2.1.2

Sinh viên tích cực lập kế hoạch học tập, phân bổ môn học.

Khoa học tâm lý học sư phạm cho rằng người học cần biết lập kế hoạch học tập
riêng của bản thân mình. Đây là một việc làm quan trọng có ảnh hưởng lớn tới
hiệu suất và chất lượng công việc, đòi hỏi người thực hiện phải có nghị lực cao.
Đề ra được kế hoạch đã khó , thực hiện đúng theo kế hoạch đó càng khó hơn.
Tuy nhiên, nếu chúng ta có thía độ, quan điểm học tập đúng đắn rút kinh
nghiệm để tiếp thu ngày một thời gian giống nhau thì chẳng bao lâu sẽ trở thành
thói quen cứ đến thời gian ấy là tiến hành học chứ không làm việc khác.
Việc lập kế hoạch học tập, phân bổ môn học không chỉ đơn thuần là việc lập
thời gian biểu mà cần bao gồm cả những hành vi có liên quan đến công tác
chuẩn bị để học tập và tiếp thu nội dung của từng môn học như: tìm hiểu về
mục tiêu của môn học trước khi môn học bắt đầu, suy nghĩ về việc áp dụng
phương pháp học phù hợp với từng môn học, chuẩn bị bài trước khi đến lớp,
sưu tầm sách học và các tài liệu cần thiết.


Phân bổ các môn học

Số lượng sinh viên làm
khảo sát
1.không quan tâm đến
17
việc này
2.chỉ học các môn cảm
21
thấy hứng thú
3.học đều tất cả các môn

28
4.tập trung vào các môn
chuyên nghành và ngoại
34
ngữ

Tỷ lệ (%)
17
21
28
34

Theo kết quả nghiên cứu của sinh viên học khoa tài chính ngân hàng cho thấy: sinh
viên không quan tâm đến việc này chiếm 17%, chỉ học các môn cảm thấy hứng thú
chiếm 21%, học đều tất cả các môn 28%, và tập trung vào các môn học chuyên
nghành và ngoại ngữ chiếm 34%

Qua số liệu thu được có thể thấy sinh viên khoa tài chính ngân hàng phân bổ môn
học của mình còn chưa hợp lý như vẫn còn nhiều sinh viên vẫn chưa ý thức được
vấn đề học tập của bản thân, không có kế hoạch cụ thể cho việ học tập, còn mải
chơi không quan tâm đến việc học tập.
3.2.1.3. sinh viên dành thời gian tự học


Tự học có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình học đại học của sinh viên.
Tự học nhằm phát huy tính tự giác học và nghiên cứu. Việc tự học đối với sinh
viên có vai trò hết sức quan trọng vì qua đó góp phần giúp sinh viên rèn luyện
khả năng tư duy và sáng tạo của cá nhân.

Qua số liệu thu được cho thấy sinh viên khoa tài chính ngân hàng. Học 1 mình và

chỉ ôn tập trước khi thi 1-2 tuần (34%) đây là con số không nhỏ, việc đầu tư để ôn
tập và thi không được quan tâm đến đối với nhóm sinh viên này,học chỉ ôn tập
trong khoảng thời gian quá ngắn ngủi như vậy thì lượng kiến thức ôn tập sẽ không
được nhiều và dẫn đến kết quả học tập không được cao.
-Khi cảm thấy hứng thú thì học và chỉ học trên giáo trình, đề cương chiếm (28%).
Sinh viên vẫn còn hoc theo kiểu thụ động và tùy vào cảm hứng học tập của mình
chứ không phải là học theo một lịch trình,tần suất cụ thể, họ còn chưa tham khảo
thêm những kiến thức bên ngoài giáo trình, sách chuyên môn để bổ sung trong quá
trình học
- Kết hợp vừa học vừa chơi, thường xuyên nghiên cứu (32%) sẽ giúp sinh viên
phát triển kỹ năng cá nhân, tìm hiểu, khám phá, quan sát một cách chân thựcsss


- Thường xuyên tổ chức học nhóm và ôn luyện áp dụng chiếm 6%. Điều này cho
thấy khả năng tổ chức làm việc nhóm của sinh viên còn yếu kém, đôi khi còn đùn
đẩy cho nhau, chưa phát huy hết tính tự giác trong học tập
3.2.1.3

Ý thức học tâp ở trên lớp.

Sự tương tác giữa thầy và trò và giữa sinh viên với nhau là điều kiện cần thiết
để học sâu. Bằng nhưng tương tác có tổ chức, sinh viên sẽ học cách tự phát biểu
như thế nào và biết cách lắng nghe, tiếp thu ý kiến của người khác, đồng thời
vẫn thể hiện sự độc lập của mình.
3.2.1.4

Hăng hái phát biếu xây dựng bài.

Một trong những dâu hiệu rất dễ nhận thấy sinh viên có tích cự học tập hay
không chính là ở việc sinh viên có hăng hái xây dựng bài trong giờ học hay

không. Nó thể hiện sự say mê, thiết tha và chủ động tham gia vào quá trình
khám phá tri thức, đồng thời thể hiện sự tương tác giữa sinh viên và giảng viên.
Thảo luận, học nhóm
Theo như nghiên cứu của sinh viên tài chính ngân hàng thì sinh viên tổ chức
học nhóm và ôn luyện áp dụng kiến thức xác thực tế chỉ chiếm 6,5% một con số
quá thấp. Hiện tại, hầu hết các trường đại học giảng dậy theo tín chỉ, đại học
thương mại cũng đang đào tạo theo tín chỉ. Cách đào tạo theo tín chỉ chỉ đòi hỏi
bản thân sinh viên tự học và tìm tài liệu phục vụ cho môn học là chính còn
giảng viên chỉ định hướng cách học, cung cấp một số tài liệu mà các thầy cô có
cho sinh viên.

3.2.1.5

Làm việc theo nhóm là một phần bổ sung quan trọng cho các bài giảng . Các
môn học bây giờ ngày càng có xu hướng tham gia thỏa luận nhóm nhiều hơn. Càng
là sinh viên khối ngành kinh tế thì tham gia học nhóm là một hoạt động cần thiết và
sẽ đem lại nhiều bổ ích cho việc học tập.
Thông qua việc học nhóm, sinh viên có thể tự đánh giá được thực sự của bản thân
mình đã có và chưa có gì? Cái gì mình tốt thì chia sẻ cho mọi người còn cái gì
mình thiếu sót có thể học hỏi các thành viên trong nhóm. Cũng nhờ hoạt động và
học tập theo nhóm, mỗi sinh viên có thể rèn thêm cho bản thân khả năng đứng nói
trước mọi người và phát triển thêm nhiều mối quan hệ bạn bè.


3.2.1.6

Muốn việc học theo nhóm có hiệu quả thì:
+ sinh viên cần tự nâng cao ý thức học tập.
+ các nhóm tham gia hoạt động nhóm cần nghiêm túc, làm việc có hiệu quả.
+ sôi nổi bàn luận, đưa ra chính kiến của mình và phải có tính dân chủ.

+ giảng viên cần có những biện pháp quản lý hoạt động của cả nhóm để
đánh giá đúng kết quả của cả nhóm tham gia hoạt động ai là người nhiệt
tình, chăm chỉ tìm hiểu thông tin, số liệu giúp bài thỏa luận tốt và đúng hơn
a là người thiếu ý thức không tham gia vào bài thảo luận của nhóm. Giảng
viên có những nhận xét sau mối buổi thảo luận.
Đòi hỏi giáo viên giải thích cặn kẽ những vấn đề giáo viên trình bày và
tranh luận với giảng viên khi có quan điểm khác với quan điểm giáo viên
đưa ra.

Chúng ta thường rất khó chịu khi thực hiện một thủ tục mà chúng ta không
hiểu. Chúng ta cần được “giải thích”. Nếu không có giải thích cặn kẽ, một số
người học có thể thiếu tự tin nagy cả khi họ đúng. Học mà không hiểu quả là
học nông. Nhưng điều đáng buồn là hiện nay chúng ta đang thiên về cách dạy
và cách học như thế.
Hiện nay, có không ít giáo viên bỏ qua việc giải thích vì cho rằng việc đó là
“hiển nhiên” rồi. Đối với nhiều môn học, đặc biết là những môn có thực hành,
giáo viên hướng dẫn sinh viên các bước để làm nhưng không giải thích chút nào
vì sap lại cần có các bước đó, vì sao phải làm như vậy hoặc mõi bước phải đạt
được chính xác yêu cầu gì. Lẽ ra như vậy, sinh viên cần tích cực đòi hỏi giáo
viên phải giải thích cặn kẽ.
Điều này có thế được giải thích theo quan điểm giáo dục truyền thống đã và vẫn
còn tồn tại ở nước ta là giảng viên giảng bài để truyền đạt kiến thức, nói và
chúng minh những gì mà họ nghĩ là sinh viên cần biết. Trong nhiều năm, với rất
nhiều thầy giáo, khi họ giảng bài, nếu lớp yên lặng thì họ cho là một dấu hieeun
tốt chứng tỏ rằng sinh viên đang chăm chú và việc xinh viên phản đối ý kiến
của thầy giáo được coi là một hành vi khó chấp nhận. Sinh viên thường chưa
tích cực học tập, quen học theo lối thụ động và lười tư duy. Đôi khi người ta
thấy sinh viên im lặng có thể do họ thấy tẻ nhạt hoặc nghĩ về một điều khác,
người ta cũng không nghĩ rằng những ý kiến đóng góp của sinh viên có thể hiện
quan tâm, hứng thú với một chủ đề do giảng viên đặt ra.





Ưu điểm

Phương pháp học: Môi trường học tập, làm việc theo nhóm tạo điều kiện cho sinh
viên trao đổi thông tin và suy nghĩ của mình với nhóm từ đó đưa ra những thảo
luận và nhận xét mang tính khách quan và khoa học hơn.
- Cơ sở vật chất: Trường hiện nay được đầu tư tốt về cơ sở vật chất như phòng học,
trang thiết bị, máy móc hỗ trợ học tập; hệ thống thư viện với nguồn tài liệu tham
khảo phong phú, dồi dào, wifi miễn phí ở thư viện là cơ sở thuận lợi ban đầu để
sinh viên có được môi trường học tập tốt, cập nhật thông tin trong và ngoài nước
phục vụ cho học tập và nghiên cứu.
- Giảng viên: Sinh viên có cơ hội không những được giảng dạy với những giảng
viên lớn tuổi giàu kinh nghiệm giảng dạy và nghiên cứu thực tiễn mà còn được
truyền đạt bời những giảng viên trẻ, tâm huyết với nghề, được đào tạo ở các nước
tiên tiến, truyền tải kịp thời những bài học và kinh nghiệm tiên tiến trên thế giới.
Bên cạnh đó, cách dạy học chủ động, đòi hỏi sự tương tác hai chiều của các giảng
viên hiện nay tạo điều kiện cho sinh viên phát huy được những ý kiến, suy nghĩ
của bản thân, khơi dậy tính sáng tạo và ham học hỏi, năng động trong nghiên cứu
của sinh viên.
• Nhược điểm
-

-

Ý thức học tập: Khi sinh viên sống xa nhà, thì không còn lo lắng về giờ giới
nghiêm, không phải bận tâm tìm lý do để đi chơi cùng bạn bè, không phải nghe
những lời phàn nàn khi lỡ “ nướng” tới trưa... Nhưng cũng chính vì sự tự do đó mà

sinh viên trì hoãn, bỏ bê việc học tập. Lịch học không hợp lý: Sinh viên thường đi
học nhiều môn học để bổ sung kiến thức cũng như kỹ năng, tuy nhiên họ chưa biết
phân bổ thời gian hợp lý, dẫn đến việc chán nản khi đi học và lo sợ khi đến mùa
thi.

-

Phương pháp học tập không đúng: Không có động lực học, không có hứng thú với
môn học, không có mục tiêu học tập rõ ràng nên sinh viên thường nghỉ học, đợi
đến lúc điểm danh mới vào lớp hoặc đi học nhưng đầu óc không tập trung. Đến
thời gian thi cử hầu như sinh viên chỉ dành thời gian một tuần trước khi thi để dành
cho việc ôn luyện (38,7%) thì với kiến thức nhiều và rộng vậy thì sinh viên khó có
thể nắm bắt được hết kiến thức dẫn đến kết qủa không được như mong muốn. Hay
như việc học theo cảm hứng, kết hợp vừa học vừa chơi và chỉ học trong giáo trình,
slide (29%) thì kết quả học tập cũng không cao được. Hầu hết sinh viên đều chưa
cảm thấy hài lòng với kết quả học tập của mình và cần cố gắng hơn nữa (38,7%),


đổi mới phương pháp và ý thưc học tập của mình
-

Cơ sở vật chất: Các thiết bị phục vụ cho việc học ở giảng đường (giảng đường nhà
V) nhìn chung khá đầy đủ, tuy nhiên, hệ thống máy chiếu còn hơi kém, các bạn
ngồi phía cuối lớp sẽ không thể nhìn rõ được, trong khi GV giảng dạy lại giảng
nhanh, coskhi chưa kịp nhìn rõ đã chuyển sang nội dung khác dẫn tới sinh viên
không theo kịp và nản. Hệ thống quạt điện chưa được tốt. Vào mùa hè, quạt chạy
rất chậm, lớp học lại đông nên rất ngột ngạt và nóng nực, buộc các sinh viên không
được ngồi duwois quạt lại lấy vở ra quạt, không tập trung được việc học.

-


Giảng viên: Với mức khảo sát chiếm 48,4% sinh viên cho rằng cách giảng dạy của
giảng viên tập trung quá nhiều vào lý thuyết nên dẫn đến khó hiểu và nhàm chán.
Vậy nên để tránh tình trạng nhàm chán khó tiếp thu của sinh viên thì giảng viên
nên đưa thêm nhiều tình huống thực tiễn, kết hợp lý thuyết liên hệ thực tiễn để sinh
viên dễ tiếp thu kiến thức hơn.

-

Vấn đề làm thêm: rất nhiều bạn sinh viên ngay từ năm nhất đã quyết định đi làm
thêm để có thêm thu nhập, gánh bớt khoản tiền bố mẹ gửi cho mình hàng tháng.
Đó cũng là việc tốt, nhưng có nhiều bạn ham làm, dẫn đến gián đoạn việc học.
3.3 Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới KQHT
3.3.1 Ý thức học tập

Ý thức học tập: Đa số sinh viên đều ý thức được việc học của mình sau này ra
trường để có một công việc ổn định ( với mức khảo sát chiếm 87,1%) và mục tiêu
kết quả học trong trường hầu như đều mong muốn đạt loại khá trở lên (83,9%).
3.2.3

Phương pháp học tập

Phương pháp học tập có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của học sinh, sinh
viên nói chung cũng như sinh viên khoa Tài chính- Ngân hàng trường Đại học
Thương mại nói riêng, đặc biệt là vấn đề tự học. Bởi ngày nay, sự khác biệt giữa
giáo dục phổ thông và giáo dục đại học rấtquan trọng. Nếu giáo dục phổ thông là
học sinh học ở thầy cô giáo và trên lớp nhiều thì ở giáo dục Đại học các sinh viên
đôi khi phải tự tìm tài liệu và tự học là chính nên chỉ có thời gian tự học sinh viên
mới có thể nâng cao và cải thiện kết quả học tập.



Đa số sinh viên có rất nhiều thời gian rảnh rỗi. Nếu không biết phân bổ thời gian
một cách hợp lý thì thời gian rỗi sẽ không làm được việc gì cả, cũng không dành
được thời gian cho việc học mà học ở Đại học thì thời gian tự học quyết định đến
kết quả học tập của sinh viên.
Để tìm hiểu về vấn đề đó, nhóm 9 đã khảo sát 30 bạn sinh viên về thời gian tự học
mà các bạn đã dành ra. Kết quả điều tra cho thấy:
Bảng 4:
Chỉ tiêu
Học 1 mình và chỉ ôn thi trước 1-2 tuần
Khi cảm thấy hứng thú thì học và chỉ học
trên giáo trình, slide
Kết hợp vừa học, vừa chơi, thường xuyên
nghiên cứu thêm các sách tham khảo
Thường xuyên tổ chức học nhóm và ôn
luyện áp dụng kiến thức vào thực tế
Tổng

-

Số lượng
12
8

Tỷ lệ phần trăm( %)
38,7
25,8

9


29

2

6,5

31

100

38,7% sinh viên học 1 mình và chỉ ôn tập trước khi thi 1-2 tuần, chiếm tỷ lệ
cao nhất.
25,8% sinh viên kết hợp vừa học vừa chơi, thường xuyên nghiên cứu them
các sách tham khảo.
29% sinh viên cho biết rằng khi cảm thấy hứng thú thì học và chỉ học trên
giáo trình, đề cương.
6,5% sinh viên tổ chức học nhóm, ôn luyện, áp dụng kiến thức với thực tế,
chiếm tỷ lệ thấp nhất
Như vậy qua khảo sát chúng ta thấy rằng, hầu hết sinh viên không có
phương pháp học tập, hay phương pháp học tập không khoa học. Điều này
ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập. Vì vậy, chúng ta cần tìm ra các giải
pháp để nâng cao chất lượng của học tập của sinh viên nói chung và của bản
than nói riêng.
3.2.4

Phương pháp giảng dạy của giáo viên


Giảng viên là người vô cùng quan trọng trong suốt quá trình học tập của sinh viên.
Họ là người mang tri thức và dẫn dắt người học tiếp cận tri thức. Việc xây dựng

hình ảnh và mối quan hệ giao tiếp sư phạm của giáo viên đóng vai trò quan trọng
trong việc xây dựng nhận thức cho người học. Đội ngũ giảng viên là người trung
gian giữa kiến thức và sinh viên, chuyển tải những bài học cho sinh viên, dìu dặt
sinh viên từng bước ứng dụng kiến thức vào thực tế. Để truyền đạt hữu hiệu đến
sinh viên, ngoài những kỹ năng sư phạm, người thầy cần phải có kiến thức chuyên
ngành để có thể khai triển lý thuyết và ý tưởng từ nội dung giáo trình.
Đội ngũ giảng viên khoa Tài chính ngân hàng của trường ĐH Thương Mại có tổng
số 33 cán bộ trong đó: 1 Giáo sư, 2 Phó giáo sư, 9 Tiến sỹ, 44 Thạc sỹ, 1 Đại học
và 5 giảng viên chính. Đều là người có kỹ năng và chuyên môn cao, đáp ứng được
yêu cầu cũng như có đủ khả năng truyền đạt kiến thức cho sinh viên.
Khi nhóm đặt câu hỏi “Bạn cảm thấy cách giảng dạy của thầy cô có dễ hiểu và
truyền cảm hứng cho sinh viên học tập?”
1

Cách giảng dạy tập trung nhiều lý thuyết thật khó hiểu và nhàm chán

2

Thầy cô có những yêu cầu quá khắt khe so với khả năng nghiên cứu của
sinh viên

3

Bài giảng dễ hiểu, thầy cô giảng dạy tích cực

4

Thầy cô luôn tạo cho sinh viên những bài học bổ ích và thú vị

Để nghiên cứu về sự ảnh hưởng của giáo viên giảng viên với kết quả học tập của

sinh viên đã thu được kết quả từ tổng 32 sinh viên khoa Tài chính ngân hàng như
sau:
Bảng 5:
Giảng viên
Qúa tập trung vào lý thuyết
Yêu cầu quá khắt khe
Thầy cô tích cực, bài giảng dễ hiểu
Bài học áp dụng thực tiễn, có ích và thú vị

Số lượng sinh viên làm
khảo sát
15
2
11
4

Tỷ lệ
(%)
48,4 %
6,5 %
35,5 %
12,9%


- Đứng nhất về số lượng sinh viên lựa chọn là 48,4% sinh viên cho rằng giáo viên
giảng dạy quá tập trung vào lý thuyết nên rất khó hiểu và nhàm chán
- Chiếm số phiếu lớn thứ 2 là 35,5% sinh viên cho rằng bài giảng dễ hiểu, thầy cô
giảng dạy tích cực
- Tiếp theo và 12,9 % sinh viên cho rằng thầy cô luôn tạo cho sinh viên những bài
học bổ ích và thú vị

- Cuối cùng có 6,5 % sinh viên cho rằng thầy cô yêu cầu quá nghiêm khắc so với
khả năng của sinh viên

Qua số liệu thu được có thể thấy sinh viên khoa Tài chính Ngân hàng có nhận xét
về giáo viên giảng dạy chủ yếu là quá tập trung vào lý thuyết nên dễ gây nhàm
chán và khó hiểu tuy nhiên bên cạnh đó cũng có rất nhiều giảng viên tạo được cho
sinh viên niềm hứng khởi học tập, bài giảng dễ hiểu nhờ phần nào sự nhiệt huyết
của giảng viên.
Giảng viên cần cung cấp đầy đủ các nguồn tài liệu học tập chính thức, cũng như
các nguồn tài liệu có liên quan cho sinh viên. Đây là điều kiện để sinh viên có thể
dễ dàng tiếp thu đầy đủ các kiến thức của môn học, bên cạnh việc lắng nghe trên
lớp, sinh viên có thể tự học tại nhà dễ hơn. − Giảng viên cần quan tâm đến sinh
viên của mình nhiều hơn, tạo điều kiện cho sinh viên hiểu rõ nội dụng học phần
bằng cách làm thêm nhiều bài tập thực tế, bài tập nhóm và các ví dụ cụ thể, sinh
động để tránh tình trạng sinh viên chỉ chú tâm vào điểm số mà không quan tâm đến
kiến thức. Người thầy với phương pháp giảng dạy nhiệt tình, đạo đưc cũng như tác
phong sư phạm mẫu mực, thái độ tận tình, chỉ bảo, vui vẻ, lấy người học làm trung
tâm,…là một trong những yếu tố góp phần tăng cao kết quả cũng như ý thức học
tập của sinh viên. Chính giảng viên sẽ là người định hướng giúp sinh viên nắm
được kiến thức nền tảng, có lý tưởng, định hướng đúng đắn mục đích học tập và
khích lệ giúp nâng cao ý thức học tập của sinh viên. Từ đó mới có thể thúc đẩy kết
quả học tập của sinh viên trong khoa được tốt hơn.
3.2.5

Điều kiện cơ sở vật chất


Điều kiện cơ sở vật chất ở các trường đại học cũng tác động đến việc học tập
của sinh viên cũng như ảnh hưởng đế kết quả học tập của họ.nó tác động nhiều
hay ít và như thế nào,nhóm đã điều tra 31 bạn sinh viên của trường đại học

Thương Mại,cụ thể là khoa Tài chính –Ngân hàng với các vấn đề về cơ sở vật
chất của nhà trường như:máy chiếu trên phòng học,hệ thống quạt đèn ở các
phòng học,tài liệu tham khảo,máy tính cá nhân….

Bảng 6: Mức độ ảnh hưởng cụ thể như sau:
Đáp ứng ĐKCSVC
Rất tốt
(%)
0
0
0

Máy chiếu
Quạt
Tài liệu trên thư viện

Tốt
(%)
9.7
7.1
12.9

Mức độ
Trung bình
(%)
51.6
61.3
74.2

Kém

(%)
38.7
18.7
12.9

Quá kém
(%)
0
12.9
0

Với yếu tố tài liệu, nhóm quy về các mức độ tương ứng:
Rất tốt = rất nhiều, tốt = nhiều, kém = cót ít tài liệu, quá kém= có quá ít tài liệu
Khi nhóm đặt câu hỏi “smartphone hoặc laptop có ảnh hưởng đến kết quả học
tập hay không?”
1. Ảnh hưởng rất nhiều
2. Ảnh hưởng nhiều
3. Trung bình
4. Ít ảnh hưởng
5. Không ảnh hưởng

Qua bảng khảo sát, nhóm thu được kết quả ở bảng 7:
Điện thoại/laptop
có ảnh hưởng tới
KQHT hay không?

Rất nhiều
(%)
9.7


Nhiều
(%)
48.4

Mức độ
Trung bình
Ít ảnh
(%)
hưởng (%)
19.4
16.1

Không ảnh
hưởng
6.4


Qua việc điều tra và dựa vào các bảng trên, thì điều kiện vật chất cũng có ảnh
hưởng đến việc học của sinh viên hay cụ thể là kết quả học tập của sinh viên, đa số
đều được sinh viên đánh giá ở mức độ trung bình, vì thế nên tạo điều kiện để phát
triển hơn nữa cơ sở vật chất để giúp sinh viên cải thiện được kết quả học tập.

KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu đã đáp ứng được mục đích nghiên cứu, đã xác nhận được các
yếu tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố này đến KQHT của sinh


viên gồm: ý thức học tập, động lực học tập, thời gian tự học, phương pháp học tập,
phương pháp giảng dạy của GV, điều kiện cơ sở vật chất.
-


Ý thức học tập: Đa số sinh viên đều ý thức được việc học của mình sau này ra
trường để có một công việc ổn định ( với mức khảo sát chiếm 87,1%) và mục tiêu
kết quả học trong trường hầu như đều mong muốn đạt loại khá trở lên (83,9%).

-

Sinh viên dành thời gian cho việc tự học ở nhà khá ít: học từ 1-2h chiếm 32,3%,
học từ 2-3h chiếm ít hơn 16,1%. Nhưng số liệu này chỉ là khảo sát trên 31 bạn sinh
viên khoa TCNH nên chỉ đúng mang tính tương đối. Xong cũng khá nhiều bạn
không có ý thức cho việc tự học ở nhà, đi học về là vứt cặp sách ở một chỗ rồi hôm
sau lại mang cặp đi chứ không hề có ý thức xem trước hay chuẩn bị bài trước ở
nhà. Hay việc quá hăng say sử dụng các thiết bị như di đông, laptop để dành thời
gian lên Facebook, xem phim cũng làm tốn nhiều thời gian và ảnh hưởng đến kết
quả học tập sau này (48,4%).

-

Cơ sở vật chất: Các thiết bị phục vụ cho việc học ở giảng đường (giảng đường nhà
V) tuy đầy đủ nhưng sinh viên chỉ đánh giá ở mức trung bình như máy chiếu, số
sinh viên đánh giá ở mức trung bình chiếm quá nửa 51,6 %  có thể thấy máy
chiếu chưa đủ độ sáng mờ, làm ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức của sinh
viên. Hệ thống quạt điện cũng chỉ được đánh giá ở mức trung bình chiếm 61,3% 
vào mùa hè nóng nực, hệ thống quạt đã cũ nên yếu không đủ độ mát khiến cho sinh
viên nóng lực mệt mỏi, quá trình tiếp thu kiến thức cũng trở nên khó khăn. Hơn
nữa quạt cũ nên độ an toàn cũng thấp khi quạt có thể rơi xuống sinh viên bất cứ lúc
nào, ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng sức khỏe của sinh viên.
Giảng viên: Với mức khảo sát chiếm 48,4% sinh viên cho rằng cách giảng dạy của
giảng viên tập trung quá nhiều vào lý thuyết nên dẫn đến khó hiểu và nhàm chán.


-


KHUYẾN NGHỊ
KQHT của sinh viên đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình học tập của
sinh viên, nếu không đạt tới mức điểm nhà trường quy định, không tích lũy đủ số
tín chỉ thì sinh viên sẽ không thể tốt nghiệp ra trường được. Nghiên cứu này tập
trung tìm hiểu ảnh hưởng của yếu tố nhà trường và bản thân sinh viên với KQHT.
Từ kết quả nghiên cứu, nhóm xin đưa ra một số khuyến nghị:






Về phía nhà trường: Tăng cường công tác tư vấn tuyển sinh để sinh viên
giúp SV hiểu và lựa chọn ngành học phù hợp với bản thân, tạo động lực giúp
SV yêu ngành, yêu nghề. Đồng thời tạo cho SV có phương pháp học hiệu
quả, định hướng tuyên truyền ý thức tự học cho SV ngay từ khi bước chân
vào cổng trường đại học như tổ chức hội thảo về phương pháp học tập hiệu
quả, hội thảo về nâng cao năng lực học tập cho SV. Bên cạnh đó nhà trường
cần quan tâm đến việc đổi mới phương pháp dạy học theo năng lực của SV,
tổ chức các cuộc hội thảo, tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học cho
đội ngũ GV trường.
Về phía giảng viên: GV cần hạn chế phương pháp giảng dạy theo kiểu độc
thoại một chiều, giảng viên cần tạo dựng cho SV phương pháp học tập khoa
học, hiệu quả như cần đề ra mục tiêu học tập, hướng dẫn SV xây dựng kế
hoạch học tập. Thông qua nội dung bài học GV cần giúp SV hiểu được vấn
đề về ngành học của mình tạo thêm động lực cho SV yêu ngành nghề hơn,
tạo cho sự hứng thú, say mê học tập. Tránh tình trạng SV nhàm chán, GV

nên đưa thêm nhiều tình huống thực tiễn, kết hợp lý thuyết liên hệ thực tiễn
để SV dễ tiếp thu kiến thức hơn.
Về phía sinh viên: SV phải xác định sự thành công chủ yếu là do bản thân tự
nỗ lực là chính, SV phải tự lựa chọn ngành nghề của mình theo sở thích và
phù hợp với năng lực của bản thân, đồng thời SV tự xây dựng cho mình
phương pháp học tập hiệu quả. Cụ thể, cần lập kế hoạch cho từng môn học,
tìm hiểu kỹ mục tiêu, yêu cầu đạt được của môn học, tìm ra phương pháp
học tập phù hợp với từng môn học, biết cách tóm tắt bài sau mỗi buổi học,
làm nhiều bài tập và tham khảo tài liệu, biết cách phân bổ thời gian học tập
một cách hiệu quả.



×